Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách chủ trương đúng đắn để phát triển giáo dục. Vì vậy cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình dạy học ngày càng được nâng cao và đáp ứng ngày càng đầy đủ cho nhiều lớp, trường ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, đối với môn học giáo dục công dân, Bộ Giáo dục và đào tạo chưa thực sự đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật. Hơn nữa còn thiếu sự đồng bộ giữa nông thôn và thành thị. Môn giáo dục công dân là một môn khoa học xã hội mang tính thực tiễn cao, vì vậy đòi hỏi có cơ sở vật chất đầy đủ. Nhưng trong thực tế các giáo viên giảng dạy môn GDCD chưa được trang bị đầy đủ những thiết bị dạy học. Đặc biệt là SGK. SGK là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiếp nhận tri thức của học sinh. SGK GDCD là tài liệu cụ thể hóa chương trình qua một hệ thống các bài học. Đối với học sinh, SGK GDCD không chỉ có chức năng cung cấp những kiến thức, chuẩn mực và cần thiết mà còn góp phần hướng dẫn phương pháp học tập, củng cố kiến thức đã học, tạo điều kiện hình thành và phát triển nhân cách, kỹ năng cho học sinh. Đối với giáo viên, SGK GDCD là tài liệu để thể hiện khối lượng và mức độ nội dung kiến thức cần giảng dạy. Hiên nay, SGK đã có sự điều chỉnh, cải cách cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2808 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ CƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Ngày nay thế giới đang bước vào một thời kỳ chuyển tiếp mạnh mẽ hơn, đó là sự chuyển tiếp từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp. Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, tri thức khoa học và thông tin trở thành bộ phận cấu thành quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất, đồng thời đóng vai trò quyết định đối với nền sản xuất vật chất trên quy mô toàn cầu. Nền kinh tế thế giới đang biến động mạnh mẽ trong cả cơ cấu, chức năng lẫn phương thức hoạt động và sự phát triển của nó ngày càng phụ thuộc chủ yếu vào nhân tố tri thức – trí tuệ. Sự biến đổi ngày càng mạnh mẽ đang tạo dựng một bước ngoặt lịch sử đánh dấu kỷ nguyên hình thành nền kinh tế mới – kinh tế tri thức.
Đất nước ta đang trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện như vậy, kinh tế tri thức trở thành yếu tố quan trọng, là lực lượng sản xuất trực tiếp, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước, là người làm chủ tri thức, bên cạnh hiểu biết về tình hình chính trị thì cũng cần có sự hiểu biết về lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là sự phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay. Bởi không ai khác, chính họ là nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế tri thức. Tuy nhiên sự hiểu biết về nền kinh tế tri thức trong một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ còn rất hạn chế. Vì vậy, việc nâng cao trình độ hiểu biết của thế hệ trẻ về nền kinh tế tri thức trở thành việc làm hết sức cần thiết.
Hiện nay, ở các trường THPT, trong chương trình SGK vấn đề về kinh tế tri thức cũng đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đề cập đến. Phần kinh tế tri thức trong SGK có ý nghĩa rất quan trọng đối với học sinh THPT. Nó giúp các em có những hiểu biết đúng đắn về kinh tế tri thức, thấy được trách nhiệm của bản thân đối với sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay việc dạy và học về nội dung kinh tế tri thức ở các trường THPT còn một số bất cập. Nội dung chương trình còn hạn hẹp, chưa ổn định; thiếu tài liệu hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học; thiếu các tài liệu tham khảo, đội ngũ giáo viên chưa được bồi dưỡng, dẫn đến tình trạng chưa truyền thụ hết kiến thức cần thiết cho học sinh, làm cho học sinh nhận thức mơ hồ về nền kinh tế tri thức.
Hiện nay, SGK GDCD lớp 11 đã được điều chỉnh, bổ sung theo hướng cải cách SGK. Mặc dù đã có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn một số bất cập ảnh hưởng đến chất lượng dậy và học về kinh tế tri thức.
Vì vậy, trong quá trình thực tập ở trường THPT và khảo sát thực tế, tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT hiện nay”, với mong muốn góp một phần công sức nhỏ của mình vào việc nâng cao việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT.
Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn để kinh tế tri thức đã được nhiều tác giả nghiên cứu và đã có nhiều bài viết được đăng trên nhiều sách báo, tạp chí.. Tiêu biểu có những đề tài sau đây:
GS.VS Đặng Hữu ( chủ biên ): Phát triển kinh tế tri thức – rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001.
GS.TS Ngô Qúy Tùng: Kinh tế tri thức - xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội, năm 2001.
GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền; PGS.TS Đào Duy Huân; TS. Lương Minh Cừ: Hướng đến nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, năm 2005.
Tần Ngôn Trước: Thời đại kinh tế tri thức. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2000.
Những vấn đề trên đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề khác nhau về nền kinh tế tri thức. Nhưng tôi nhận thấy cho đến nay chưa có ai nghiên cứu về “ Kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT hiện nay”. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn góp phần công sức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở trường THPT hiện nay.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung
Mục đích cụ thể
Khái quát lý luận về kinh tế tri thức
Khảo sát thực trạng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay.
Tìm các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trương THPT hiện nay.
Thiết kế bài giảng về bài học có nội dung đề cập tới kinh tế tri thức.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Chủ yếu nghiên cứu việc triển khai dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc dạy va học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian:
Nghiên cứu việc triển khai dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Bao gồm các trường sau:
Trường THPT Chuyên Quốc học
Trường THPT Hai Bà Trưng
Trường THPT Thuận An
Trường THPT Phong Điền
Về thời gian:
Nghiên cứu việc triển khai dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức trong thời gian từ ngày 14/02/2011 đến ngày 2/04/2011.
Về nội dung
Nghiên cứu lý luận chung về kinh tế tri thức
Nghiên cứu việc dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu.
Khảo sát thực tế kết hợp với phỏng vấn điều tra
Phương pháp phân tích tổng hợp
Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Góp phần đổi mới việc giảng dạy về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT
Cung cấp tài liệu tham khảo cho các giáo viên dạy môn GDCD ở các trường THPT hiện nay.
Góp phần nâng cao nhận thức cho học sinh về vấn đề phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay.
Những đóng góp về khoa học của đề tài
Về mặt lý luận: Cung cấp những vấn đề lý luận về kinh tế tri thức phù hợp với chương trình giảng dạy THPT và đối tượng học sinh THPT.
Về mặt thực tiễn: Góp phần đổi mới nội dung và phương pháp tiếp cận về vấn đề kinh tế tri thức gắn với học sinh THPT; nâng cao chất lượng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay; cung cấp tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, kiến nghị và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận về kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT hiện nay.
Chương 2: Thực trạng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay.
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ VIỆC DẠY VÀ HỌC VẤN ĐỀ NÀY Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
Cơ sở lý luận về kinh tế tri thức
Khái niệm tri thức và kinh tế tri thức.
Để hiểu kinh tế tri thức là gì? Trước hết cần hiểu tri thức được quan niệm như thế nào?. Theo quan niệm truyền thống, được ghi trong Từ điển Tiếng Việt, tri thức là “ những điều hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội”. Trong thực tế hiện nay trên thế giới có nhiều quan niệm về tri thức, nhưng tựu trung lại có thể hiểu tri thức như sau “ Tri thức là tập hợp những hiểu biết có được thông qua học tập, nghiên cứu hoặc hoạt động thực tiễn được hệ thống hóa. Tri thức có giá trị phổ biến. Tùy theo đối tượng, tri thức được tiếp cận bằng những phương pháp nhất định, và được xây dựng trên những mối quan hệ khách quan kiểm nghiệm được” ( dòng 5, trang 189. Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện nay). Tri thức hình thành với yêu cầu phát triển sản xuất và chinh phục tự nhiên. Tri thức phát triển cùng với khoa học và công nghệ, cùng với các phương thức sản xuất, cùng với các giai đoạn văn minh nối tiếp của xã hội loài người và từng bước trở thành nhân tố quan trọng nhất bên cạnh lao động và tài nguyên.
Mọi sản phẩm do con người tạo ra ở mọi giai đoạn phát triển đều là kết quả của sự tác động giữa tri thức với tài nguyên vật chất. Sản phẩm có hàm lượng tri thức càng cao thì tác dụng càng lớn. Tri thức là sản phẩm của lao động, nó không phải là vật chất, nhưng luôn tồn tại dưới cái vỏ vật chất ( giá đựng ). Tri thức (dưới dạng sản phẩm) khi đem sử dụng đòi hỏi phải có cả một quá trình học hỏi và nghiên cứu. Tri thức là một trong các yếu tố quan trọng nhất của sản xuất và đời sống xã hội, là động lực của tăng năng suất và tăng trưởng kinh tế. Vai trò của thông tin, công nghệ và giáo dục đào tạo đối với năng lực của nền kinh tế ngày nay trở nên đặc biệt quan trọng. Thuật ngữ “ kinh tế tri thức” là xuất phát từ việc thừa nhận vị trí của tri thức và công nghệ trong các nền kinh tế phát triển nhất.
Thuật ngữ “ kinh tế tri thức” được sử dụng từ đầu những năm 1990 và ngày càng được sử dụng rộng rãi. Kinh tế tri thức xuất hiện từ sự nhận thức về vai trò của tri thức và công nghệ trong tăng trưởng kinh tế. Những năm gần đây trong nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế và trong nhiều văn bản chiến lược phát triển của các quốc gia, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế thị trường. Chẳng hạn:
“ Kinh tế thông tin – Information economy” ( nói lên động lực chủ yếu của kinh tế là thông tin – tri thức sự học tập suốt đời của con người ).
“ Kinh tế dựa vào tri thức – Knowledge bass economy” – “ Kinh tế dẫn dắt bởi tri thức – Knowledge driven economy”, “ Kinh tế tri thức – Knowledge economy” ( nói lên vai trò quyết định của tri thức và công nghệ đối với phát triển kinh tế ).
“ Kinh tế mới – New economy” nhấn mạnh sự phân biệt với các nền kinh tế đã và đang tồn tại trong lịch sử loài người.
Trong số các tên gọi trên, kinh tế tri thức là tên gọi thường dùng nhất. Vậy nền kinh tế tri thức là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD ) năm 1996 đã đưa ra định nghĩa “Kinh tế tri thức là những nền kinh tế dựa trực tiếp vào sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin”. Nhưng cũng có nhiều định nghĩa khác nói lên vai trò quyết định của tri thức đối với phát triển kinh tế, ví dụ ở Anh, người ta gọi nền kinh tế dẫn dắt bởi tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra và khai thác tri thức giữ vai trò nổi bật nhất trong việc tạo ra của cải (Bộ Công nghiệp và Thương mại Anh, 1998).
Định nghĩa của OECD dẫn đến một sự hiểu lầm là phát triển kinh tế tri thức có nghĩa là phát triển các ngành kinh tế dựa nhiều vào tri thức, tức là các ngành kinh tế công nghệ cao. Do vậy đã có một số nước quá tập trung chú trọng vào phát triển công nghệ cao mà không quan tâm đầy đủ đến phát triển và ứng dụng tri thức vào tất cả các lĩnh vực kinh tế.
Năm 2000, OECD và APEC ( Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương) đã điều chỉnh lại: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế. Định nghĩa này muốn nhấn mạnh việc sử dụng tri thức trong tất cả các lĩnh vực kinh tế.
Với định nghĩa trên, có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động và toàn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc tăng lên vô cùng lớn.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học công nghệ. Đó có thể là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao (như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...); nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng khoa học công nghệ cao.
Nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển là nhờ năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo ra tri thức mới và vận dụng tri thức, biến tri thức thành của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển con người và phát triển xã hội. Sáng tạo là điều kiện cần nhưng chưa đủ; phải có năng lực đổi mới, tức là năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn thúc đẩy sự đổi mới và phát triển; và trong đổi mới cũng cần yếu tố sáng tạo. Sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nguồn gốc của nền kinh tế tri thức ngày nay.
Vai trò của tri thức đối với phát triển kinh tế - xã hội
Thế kỷ XX sắp đi qua, nền kinh tế vất chất dựa chủ yếu trên cơ sở sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất chế biến, phân phối sử dụng sản phẩm vật chất làm nền tảng, đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, trong đó việc sản xuất, truyền tải, sử dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế. Từ nay các giá trị kinh tế lớn nhất được làm ra không phải trong khu vực trực tiếp sản xuất của cải vật chất mà trong khu vực khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Vai trò của tài nguyên thiên nhiên và của cải vật chất sẵn có ngày càng giảm so với tiềm năng trí tuệ, tinh thần, văn hóa. Tri thức trở thành sức mạnh to lớn cải tạo kinh tế, biến đổi xã hội.Hiện nay, chúng ta đang vượt qua thời đại văn minh công nghiệp, tiến vào thời đại văn minh kinh tế tri thức. Ở thời đại này, động lực thúc đẩy sự phát triển nền sản xuất xã hội không còn là lượng tiền vốn (tư bản), cũng không phải là sức mạnh của lao động giản dơn, mà là tri thức. Tri thức tồn tại trong bộ óc con người, vai trò tự chủ của con người là tiền đề để con người phát huy đầy đủ tri thức. Chỉ có sự hợp tác rộng rãi với mọi người, năng lực của bản thân con người hiện đại mới được phát triển đầy đủ, mới có thể nâng cao hiệu quả sản xuất theo cấp số nhân.
Toffler, nhà tương lai học người Mỹ trong cuốn sách Sự chuyển dịch quyền lực cho rằng: ...“tri thức thay cho tư bản, ngoài việc thay thế vật chất, vận tải và năng lượng ra, nó còn có thể tiết kiệm thời gian. Ở góc độ lý thuyết, tri thức là nguồn tài sản lấy không hết, dùng không cạn, là vật thay thế cuối cùng, đã trở thành nguồn tài nguyên cuối cùng của của cải. Tri thức là nhân tố tăng trưởng kinh tế then chốt trong thế kỷ XXI”.( trang 17, dòng 3- Thời đại kinh tế tri thức).
Tri thức thường được phân ra thành mấy loại:
Biết cái gì ( know – what) nói về sự nhận biết các sự kiện, các vật thể, các hiện tượng...; ở đây tri thức rất gần gũi với thông tin, khối lượng tri thức có thể đo bằng bite. Trong một số lĩnh vực các chuyên gia phải có rất nhiều cái biết này mới có thể làm tròn nhiệm vụ;
Biết tại sao (know – why) thường để chỉ tri thức khoa học, hiểu biết về bản chất tự nhiên. Tri thức này là cơ sở cho những tiến bộ công nghệ, đổi mới các sản phẩm trong phần lớn các ngành công nghiệp; tạo ra các tri thức này thường là từ các cơ quan nghiên cứu và các trường đại học;
Biết thế nào (know – how) là để chỉ kỹ năng hoặc năng lực làm một việc gì. Đây là loại tri thức đặc trưng cho năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Người ta thường lập một mạng lưới công nghiệp để các doanh nghiệp có thể chia sẻ và tổ hợp các yếu tố của loại tri thức này;
Biết ai (know – who) là cái biết quan trọng nhất. “Biết ai” bao gồm thông tin về ai biết cái gì, ai biết làm thế nào, làm những gì. Đó cũng là tri thức về quan hệ xã hội, về tổ chức tập hợp lực lượng, về cách tiếp cận với các chuyên gia và sử dụng hiệu quả nhất tri thức của họ...Đối với người quản lý và các tổ chức, tri thức này là hàng đầu để đổi mới ngày càng nhanh.
Có hai dạng tri thức: Tri thức tiềm ẩn và tri thức mã hóa.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin, tri thức mã hóa tăng nhanh, tri thức tiềm ẩn của con người phát triển qua tiếp thu tri thức mã hóa (học tập) và qua hoạt động thực tiễn. Năng lực lựa chọn thông tin, xử lý và giải mã thông tin, cũng như học tập những kỷ năng mới, bỏ đi những kỷ năng cũ là rất cần thiết. Chỉ có thông qua học tập mới có thể tích lũy tri thức tiềm ẩn cần thiết để tri thức mã hóa trên các công nghệ thông ton đem lại lợi ích nhiều nhất.
Nền kinh tế tri thức coi việc phổ cập và sử dụng tri thức và thông tin là rất quan trọng, ngang với sự tạo ra chúng.
Sự thành đạt của các doanh nghiệp cũng như của các quốc gia ngày nay liên quan nhiều nhất với việc thu nhận và sử dụng có hiệu quả nhất tri thức.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
Những đặc trưng chủ yếu của ba trình độ kinh tế
T T
Các đặc trưng
I
Kinh tế sức người
II
Kinh tế tài nguyên
III
Kinh tế tri thức
1
Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học
Nhỏ
Lớn
Rất lớn
2
Tỷ lệ kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học trên GDP
Dưới 0,3%
1-2%
Trên 3%
3
Tỷ lệ đóng góp của KH & CN cho tăng trưởng kinh tế
Dưới 10%
Trên 40%
Trên 80%
4
Tầm quan trọng của giáo dục
Nhỏ
Lớn
Rất lớn
5
Tỷ lệ kinh phí dành cho giáo dục trên GDP
Dưới 1%
2-3%
6-8%
6
Bình quân trình độ văn hóa
Tỷ lệ mù chữ cao
Trung học
Trung học chuyên nghiệp
7
Kết cấu công nghệ:
Công nghệ thông tin
Công nghệ sinh học
Công nghệ năng lượng tái sinh và năng lượng mới
Công nghệ biển
Công nghệ sạch
Công nghệ vật liệu mới
Công nghệ không gian
Công nghệ mềm
-
-
-
-
-
-
-
-
3-5%
2%
2%
2%
1%
1%
-
-
Gần 15%
Gần 10%
Gần 10%
Gần 10%
Gần 5%
Gần 5%
Gần 5%
Gần 5%
8
Kết cấu sức lao động
Nông nghiệp
Công nghiệp
Công nghệ cao
Trên 50%
15-20%
-
10-20%
Trên 30%
10-15%
Dưới 10%
Dưới 20%
Trên 40%
9
Tuổi thọ
36
60-70
Trên 70
10
Tỷ lệ tăng dân số
Cao
Thấp
Rất thấp
11
Mức độ đô thị hóa
25%
70%
Thấp <70%
12
Vai trò của truyền thông
Không lớn
Lớn
Rất lớn
13
Trình độ tổ chức xã hội
Đơn giản
Phức tạp
Rất phức tạp
14
Mức độ toàn cầu hóa kinh tế thế giới
Thấp
Khá cao
Rất cao
Nguồn : Ngô Qúy Tùng. Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội thế lỷ XXI. NXB KHKT Bắc Kinh, 1998, tr.33.
Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế sức người là sức lao động cơ bắp của con người và tài nguyên thiên nhiên, là cơ sở chủ yếu tạo ra cuẩ cải vật chất đáp ứng nhu cầu của con người. Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tài nguyên , tuy đã có sự trrowj giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của con người và tài nguyên vẫn giữ vị trí trọng yếu. Tuy nhiên trong nền KTTT, tri thức con người chiếm vị trí ngày càng cao hơn.
Kinh tế tri thức có những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, tuy vốn và lao động vẫn là yếu tố cơ bản không thể thiếu.
Giá trị sản xuất được tạo ra nhiều nhất là từ tri thức; khi sử dụng nhiều công nghệ mới, tri thức quản lý mới, một hecta đất nông nghiệp có thể cho giá trị gấp nhiều lần mà chi phí vật chất không tăng, như thế giá trị gia tăng chủ yếu là do tri thức tạo ra; khi ngành cơ khí truyền thống chuyển lên tự động hóa, sử dụng công nghệ số,tự động hóa, quang điện tử... thì ngành đó trở thành ngành kinh tế tri thức. Trong các ngành kiến trúc, xây dựng, việc sử dụng công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa lý để thay thế cho việc khảo sát thủ công, sử dụng công nghệ mô phỏng, tự động hóa trong thiết kế, sử dụng vật liệu mới, các thiết bị tự động hóa trong thi công cũng tạo ra giá trị gia tăng cao, giảm tiêu hao vật liệu, giảm hàm lượng lao động cơ bắp, các ngành đó đi theo hướng kinh tế tri thức. Còn trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ phần mềm thì rõ ràng giá trị tạo ra chủ yếu là do tri thức, các chi phí vật chất không đáng kể, đó thực sự là những ngành kinh tế dựa vào tri thức.
Trong khi nền kinh tế công nghiệp dựa vào sự tổ chức sản xuất hàng loạt, quy chuẩn hóa, thì nền kinh tế tri thức được tổ chức trên cơ sở sản xuất linh hoạt hàng hóa và dịch vụ dựa vào công nghệ cao, đây cũng là kinh tế văn phòng. Nói như thế không có nghĩa là sự chế tạo hàng loạt là không quan trọng, cũng không phải là sản phẩm chế tạo hoặc thực phẩm ít đi; mà đó là do nhịp độ tăng năng suất trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp rất cao.
Trong nền KTTT các ngành công nghiệp và dịch vụ mới dựa vào công nghệ cao, dựa vào tri thức mới phát triển rất nhanh, đóng góp lớn cho tăng trưởng GDP; các ngành này là đầu tàu thúc đẩy đổi mới toàn bộ nền kinh tế. Các doanh nghiệp công nghệ cao, nhất là doanh nghiệp công nghệ thông tin, phát triển nhanh nhất, trở thành những doanh nghiệp đứng hàng đầu trong nền kinh tế toàn cầu, thay thế vị trí các doanh nghiệp dầu mỏ, ô tô trước đây.
Như vậy, nền kinh tế tri thức được đặc trưng trước hết bởi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức: đó là các ngành công nghiệp thông tin, công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ...
Thứ hai, sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất , tiêu biểu của nền sản xuất tương lai và chuyển giao công nghệ chiếm thị phần chủ yếu trên thị trường.
Các ngành KTTT đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Các doanh nghiệp đều tiến hành sản xuất công nghệ cao, thậm chí có nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ cao, có thể gọi là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hóa, không còn sự cách biệt, phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trrong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.
Nhờ sản xuất công nghệ cao trở thành phổ biến, thường xuyên của các doanh nghiệp nên đã làm cho nền kinh tế thường xuyên chuyển giao công nghệ, thường xuyên đổi mới công nghệ hiện đại, làm cho thị trường công nghệ phát triển nhanh lan tỏa toàn cầu và chiếm thị phần lớn trên thị trường, làm cho năng suất lao động ngày càng tăng, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng phong phú, chất lượng ngày càng cao, hàm lượng tri thức chiếm trong sản phẩm chiếm đại bộ phận và trở nên giàu có. Thí dụ như ở Mỹ có Microsoft của Bill Gates cũng chỉ mới hơn 20 năm sản xuất kinh doanh mà đã trở thành doanh nghiệp lớn nhất thế giới về công nghệ thông tin.
Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp là yếu tố rất quan trọng thúc đẩy phát triển nhanh sự ra đời các công nghệ mới. Đây là những vườn ươm công nghệ; ở đây có các điều kiện thuận lợi để nhất thể hóa quá trình nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất, nhờ đó các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ và đưa ra sản xuất.
Thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa...được thiết lập làm cho công việc sản xuất kinh doanh rất nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng cách bị xóa dần, ý nghĩa của vị trí địa lý giảm đi.
Vì nền sản xuất dựa vào công nghệ cao, tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng, thải ra ít phế thải, cho nên trong nền KTTT có thể thực hiện được sản xuất sạch, không gây ô nhiễm môi trường. KTTT có khả năng là nền kinh tế phát triển bền vững.
Thứ ba, xã hội tri thức là một xã hội thông tin – nhân tố tích cực cho sự phát triển con người toàn diện.
Trong KTTT, nhờ công nghệ thông tin phát triển ở đỉnh cao, mọi gia đình đều co
Sự cần thiết phải phát triển kinh tế tri thức ở nước ta
Thứ nhất, phát triển kinh tế tri thức ở nước ta la con đường tất yếu để đi lên chủ nghĩa xã hội, là phù hợp với đường lối, chính sách cơ bản của Đảng ta. Sự xuất hiện của kinh tế tri thức và xu thế phát triển tất yếu của nó đã trở thành một xu hướng lịch sử và một quy luật phát triển khách quan trên phạm vi quốc tế ngày nay. Vì vậy phủ nhận xu hướng đó là phủ nhận tính khách quan của lịch sử. Việt nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Nước ta không thể bỏ lỡ cơ hội này, bỏ qua xu thế khách quan của thời đại sẽ làm cho nước ta ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, ở nước ta, phát triển kinh tế tri thức là để đẩy nhanh và rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng đi, đường lối đã chọn để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, phát triển kinh tế tri thức là nắm bắt, vận dụng những tri thức mới, những thành quả mới về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, vận dụng kinh tế tri thức để tạo ra những bứt phá lớn, có ý nghĩa.
Thứ tư, bằng sử dụng tri thức mới ( tri thức công nghệ, tri thức quản lý....) có thể chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành có giá trị gia tăng cao, nâng cao chất lượng hiệu quả, năng lực cạnh tranh nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng dài hạn, đảm bảo sự phát triển bền vững. Đồng thời, sử dụng tri thức mới để tạo ra nhiều việc làm, xóa đói giảm nghèo, giải quyết những nhu cầu cơ bản và cấp thiết của nhân dân, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ năm, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thực hiện đồng thời hai quá trình từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức. Hai qua trình đó lồng ghép vào nhau............
Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình dạy và học về vấn dề kinh tế tri thức ở trường THPT hiện nay.
Đặc điểm dạy học về kinh tế tri thức ở trường THPT.
Đặc điểm môn giáo dục công dân ở trường THPT
Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông chúng ta là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ. Đó là những công dân tương lai, những người lao động mới phát triển hài hòa trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, mỹ dục, thể dục, lao động; những người sẽ xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, sẽ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng tươi đẹp và hạnh phúc.
Để hình thành và phát triển những con người như vậy, nhà trường phổ thông phải có chương trình, nội dung giáo dục, giáo dục phù hợp với đất nước, con người Việt Nam, phù hợp với thời đại. Yêu cầu khách quan đó được quán triệt trong tất cả chương trình và nội dung học tập của toàn bộ các môn học trong nhà trường nói chung, trong trường phổ thông trung học nói riêng. Từ năm học 1990 – 1991 chúng ta đã xác định môn giáo dục công dân là môn khoa học xã hội trong trường phổ thông trung học. Cùng với các môn khoa học khác, môn giáo dục công dân góp phần hình thành và phát triển nhân cách, năng lực, phẩm chất cho học sinh phổ thông trung học. Khác với môn khoa học xã hội khác, môn giáo dục công dân hình thành phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức; nó gắn liền với đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Môn giáo dục công dân ở trường phổ thông trung học luôn luôn khái quát những thành tựu của các khoa học khác, của hoạt động vật chất và tinh thần của con người, sẽ luôn luôn được bổ sung những tri thức mới về triết học, về sự phát triển của xã hội và đời sống xã hội, về đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về đạo đức và pháo luật.
Kết cầu chương trình, nội dung của môn học bao giờ cũng theo một hệ thống tri thức xác định. Hệ thống đó vừa đảm bảo tri thức phổ thông cơ bản, hiện đại và hiện thực, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, với trình độ nhận thức của học sinh, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và con người Việt Nam, với xu thế phát triển của thế giới và thời đại. Những tri thức được xác định trong hệ thống đó mang tính pháp lệnh, buộc giáo viên phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Tri thức của môn giáo dục công dân gắn rất chặt với tình hình thực tế của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học tư duy, của đời sống xã hội, sự phát triển của thế giwois, của đất nước và con người Việt Nam. Thế giới khách quan ( tự nhiên, xã hội và tư duy ) luôn luôn vận động và biến đổi. Hàng ngày, hàng giờ trên Trái đất và trên đất nước ta có biết bao những biến động. Đó chính là những thực tế rất sinh động góp phần đắc lực vào việc làm sáng tỏ, minh chứng cho lý thuyết khoa học của bộ môn.
Đặc điểm dạy và học về kinh tế tri thức ở trường THPT
Yêu cầu về dạy và học vấn đề kinh tế tri thức ở trường THPT hiện nay
Đối với giáo viên
Thiết kế, tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với nội dung bài học, với đặc điểm và trình độ của học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường, địa phương.
Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng câu hỏi và bài tập liên quan đến bài học có nội dung nói về vấn đề kinh tế tri thức, hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình lĩnh hội tri thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng đã có của học sinh; tạo niềm vui, hứng khởi, thái độ tự tin trong học tập và nhu cầu, khả năng hành động trong cuộc sống, giúp các em phát triển tối đa năng lực của mình.
Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý, có hiệu quả, linh hoạt phù hợp với bài học, phù hợp với đặc điểm và trình độ nhận thức của học sinh, các điều kiện dạy học của lớp, trường, địa phương.
Đối với học sinh
Tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập để tự khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng và xây dựng thái độ hành vi đúng đắn.
Có ý thức xây dựng bài, mạnh dạn trình bày và bảo vệ quan điểm, ý kiến của bản thân trước thầy cô, bạn bè; tích cực thảo luận, tranh luận trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập, thực hành thí nghiệm, xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập phù hợp với khả năng và điều kiện, vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống một cách phù hợp, đúng đắn.
Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình dạy và học về vấn dề kinh tế tri thức ở trường THPT hiện nay
Cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên
Về cơ sở vật chất:
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách chủ trương đúng đắn để phát triển giáo dục. Vì vậy cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình dạy học ngày càng được nâng cao và đáp ứng ngày càng đầy đủ cho nhiều lớp, trường ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, đối với môn học giáo dục công dân, Bộ Giáo dục và đào tạo chưa thực sự đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật. Hơn nữa còn thiếu sự đồng bộ giữa nông thôn và thành thị. Môn giáo dục công dân là một môn khoa học xã hội mang tính thực tiễn cao, vì vậy đòi hỏi có cơ sở vật chất đầy đủ. Nhưng trong thực tế các giáo viên giảng dạy môn GDCD chưa được trang bị đầy đủ những thiết bị dạy học. Đặc biệt là SGK. SGK là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiếp nhận tri thức của học sinh. SGK GDCD là tài liệu cụ thể hóa chương trình qua một hệ thống các bài học. Đối với học sinh, SGK GDCD không chỉ có chức năng cung cấp những kiến thức, chuẩn mực và cần thiết mà còn góp phần hướng dẫn phương pháp học tập, củng cố kiến thức đã học, tạo điều kiện hình thành và phát triển nhân cách, kỹ năng cho học sinh. Đối với giáo viên, SGK GDCD là tài liệu để thể hiện khối lượng và mức độ nội dung kiến thức cần giảng dạy. Hiên nay, SGK đã có sự điều chỉnh, cải cách cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh
Về đội ngũ giáo viên
Nhờ sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, đội ngũ giáo viên THPT nói chung và đội ngũ giáo viên giảng dạy môn GDCD nói riêng ngày càng đông đảo về số lượng và chất lượng cũng ngày càng được nâng cao. Hầu hết giáo viên đạt trình độ chuẩn, được đào tạo vững vàng cả về chuyên môn lẫn nghiệp vụ. Giáo viên nhiệt huyết với nghề nghiệp, tận tâm, tận lực, thương yêu học sinh, có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt. Tuy nhiên, các cấp lãnh đạo vẫn chưa thực sự chú ý đến việc xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng nhanh quy mô vừa phải đảm bảo nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Một số giáo viên có kiến thức chưa sâu, tay nghề chưa thành thạo, chưa có sự đổi mới trong dạy học
Phương pháp dạy học
Học sinh
Kinh nghiệm dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở trường THPT.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC VỀ VẤN ĐỀ KINH TẾ TRI THỨC Ở CÁC TRƯỜNG THPT HIỆN NAY.
2.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.2 Tình hình dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay
2.2.1 Về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên
2.2.2 Về nội dung và phương pháp giảng dạy
2.2.3 Về tình hình học tật của họa sinh
2.3 Nhận xét chung
2.3.1 Về ưu điểm
2.3.2 Về nhược điểm
2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay
2.4 Những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng dạy học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay
2.4.1 Đối với giáo viên
2.4.2 Đối với học sinh
CHƯƠNG 3. NGỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC VỀ VẤN ĐỀ KINH TẾ TRI THỨC Ở CÁC TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
3.1 Quan điểm và mục tiêu giảng dạy vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay
3.1.1 Quan điểm
3.1.2 Mục tiêu
3.1.2.1 Về kiến thức
3.1.2.2 Về kỹ năng
3.1.2.3 Về thái độ
3.2 Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dậy và học về vấn đền kinh tế tri thức ở trường THPT hiện nay
3.2.1 Những giải pháp chiến lược
3.2.2 Những giải pháp tình thế
3.3 Thiết kế bài giảng mẫu
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tài liệu khóa luận.doc