Ở 2 nghiệm thức VI,VII (cố địn h não thùy 2mg/kg) khi đó lượng LRH sử dụng ở
mức 75µg/kg đã cho kết quả sinh sản khá tốt, tỷ lệ cá đẻ đạt >96% , tỷ lệ thụ tinh
và tỷ lệ nở trê > 85%. Nhưng khi tăng lượng LRH lên 100µg thì kết quả đạt được
thật hoàn hảo khi tỷ lệ cá đẻ trên 99% và tỷ lệ nở tr ên 90%. Rõ ràng ở liều lượng
kết hợp như nghiệm thức V,VI đã mang lại hiệu quả tốt.
38 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6043 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kỹ thuật sản xuất giống cá trê vàng lai ( clarias macrocephalus x c. gariepinus ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng
của cá tăng nhanh hơn (Đoàn Khắc Độ,2008).
Cá trê Phi có tốc độ lớn nhanh, 6 tháng đạt bình quân 1kg/con, cơ thể to sản lượng
cao. Thân thường dài 35-50cm, nặng 250-2500g, có con 2 tuổi lớn nhất đạt 4,3kg,
thân dài 63cm. Cá đẻ trong năm 3 tháng tuổi có thể đạt thương phẩm. Thịt mềm,
đang được nuôi nhiều ở châu Phi, Hà Lan, CH Czech, ở Trung Quốc nuôi đạt 20-
40kg/m2 (Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến, 2000).
Theo Đoàn Khắc Độ (2008) thì cá trê vàng lai tăng trọng rất nhanh, nếu nuôi với
mật độ thích hợp cùng với chế độ cho ăn và chăm sóc tốt thì sau 3-4 tháng nuôi, cá
sẽ đạt trọng lượng trung bình từ 150-200g/con.
Cá trê sống được trong môi trường nước hơi phèn và trong điều kiện nước hơi lợ
(độ mặn < 5%0). Cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH khoảng 5.5-8.0
( Bạch Thị Quỳnh Mai, 2004). Nhờ có cơ quan hô hấp phụ nên cá có thể chịu
5
đựng môi trường khắc nghiệt có nhiệt độ từ 11-39oC, pH từ 3.5-10.5, hàm lượng
oxy hòa tan thấp (1-2mg/l) (Đoàn Khắc Độ,2008).
1.4. Đặc điểm sinh sản:
Sinh sản là đặc tính rất quan trọng đối với tất cả các loài vật nhằm tái sản xuất và
bảo vệ loài. Tuổi và kích thước thành thục của cá là đặc điểm thích nghi với điều
kiện sinh sản (Mai Đình Yên,1979). Mỗi loài cá đều có tuổi thành thục sinh dục
riêng và có thể thay đổi theo những điều kiện cụ thể. Tuổi thành thục của cá có thể
thay đổi khi môi trường sống thay đổi. Thông thường những loài cá sống ở vĩ độ
thấp có nhiệt độ trung bình năm cao thì tuổi thành thục thấp hơn so với các cá
cùng loài nhưng sống ở vĩ độ cao nhiệt độ thấp. Đồng thời những nơi có đầy đủ
dinh dưỡng cá thành thục sinh dục nhanh hơn, khối lượng cá lớn hơn và hệ số
thành thục cao hơn ( Nguyễn Văn Kiểm, 2005). Trong cùng vùng địa lý những
loài có kích thước lớn sẽ có tuổi thành thục cao hơn những loài có kích thước nhỏ
(Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Cá trê vàng thành thục sinh dục lần đầu tiên khi đươc 8 tháng tuổi, mùa vụ sinh
sản tập trung từ tháng 5-7 và đẻ trứng dính (Phạm Minh Thành,2005). Thân cá dài
37cm có 35.770 trứng, thân cá dài 19cm có 10.640 trứng (Ngô Trọng Lư và Lê
Đăng Khuyến, 2000).
Cá trê vàng không thể tự sinh sản, phải tiêm kích dục tố để kích thích sự sinh sản
của chúng. Cá trê vàng đẻ trứng tương đối nhiều, trung bình 30.000-50.000
trứng/1kg cá cái (Đoàn Khắc Độ,2008).
Cũng giống như các loài cá khác, cá trê Phi thành thục sinh dục và sinh sản theo
mùa mưa. Quá trình thành thục sinh dục chịu ảnh hưởng của sự thay đổi nhiệt độ
và chu kỳ chiếu sáng hàng năm và cuối cùng là đẻ trứng do sự gia tăng mực nước
theo lượng mưa (Gertjan de Graaf and Hans Janssen, 1996)
Đối với cá trê Phi, sinh sản kéo dài từ tháng 4-10, sinh sản tập trung từ tháng 5-8,
sau tháng 10 cá ít sinh sản. Giới hạn nhiệt độ nước cho quá trình sinh sản từ 20-
36oC, cá trê Phi được nuôi vỗ tích cực và có nước chảy kích thích thì chu kỳ đẻ
trứng rút ngắn xuống còn từ 15-20 ngày, mỗi năm cá có thể tham gia sinh sản 8-
11 lần (Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến, 2000).
Trong tự nhiên cá trê chọn nơi có bống tối ở các thủy vực nước nông thuộc sông
hồ, các con suối để làm tổ và đẻ trứng (Gertjan de Graaf and Hans Janssen, 1996).
2. Kỹ thuật nuôi vỗ:
Nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất cá giống.
Chất lượng đàn cá sinh sản có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất vì tỉ lệ cá
thành thục, số lượng trứng thu được, chất lượng cá bột, có liên quan chặt chẽ đến
kỹ thuật nuôi vỗ (Nguyễn Văn Kiểm,2007). Trong quá trình nuôi vỗ, không những
cho cá ăn đầy đủ cả về chất lẫn về lượng, chăm sóc quản lý tốt mà còn phải tạo
6
một môi trường nhân tạo gần giống với môi trường sống của cá ngoài tự nhiên.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004) các yếu tố bên ngoài tạo nên môi trường cho sự
phát triển của tuyến sinh dục.
Sự thành thục và khả năng sinh sản của cá bố mẹ là kết quả tác động của nhiều yếu
tố thuộc về sinh học và sinh lý. Đáng chú ý hơn là những đặc trưng sinh học cơ
bản của đối tượng và sự đòi hỏi về môi trường chất lượng nước phù hợp để tạo
điều kiện tối ưu cho cá trong quá trình nuôi vỗ. Từ đó đáp ứng mục đích của việc
nuôi vỗ cá sinh sản là có được tỉ lệ cá thành thục, hệ số thành thục, chất lượng sản
phẩm sinh dục cao, đáp ứng được yêu cầu sinh sản phục vụ sản xuất theo số lượng
và mùa vụ (Phạm Minh Thành, 2005).
Theo Nguyễn Chung (2006) cá bố mẹ thành thục là những cá có tuyến sinh dục
phát triển đầy đủ, sẵn sang chuyển ngay sang tình trạng sinh sản ngay khi gặp điều
kiện thích hợp hoặc bằng biện pháp sinh lý.
2.1. Ao nuôi vỗ:
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì cá trê có khả năng thích ứng rất cao nên ao
nuôi vỗ không đòi hỏi các điều kiện kỹ thuật một cách nghiêm ngặt. Qua thực tế
sản xuất tại ĐBSCL ao nuôi vỗ có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm mét
vuông cá vẫn thành thục tốt.
Yêu cầu về diện tích và độ sâu của ao khác nhau tùy loài. Việc bố trí ao cá bố mẹ
trên nguyên tắc những loài cá có nguồn gốc từ sông thì thích hợp với ao có diện
tích lớn, độ sâu cao, những loài cá có xuất xú từ đồng ruộng thì không cần độ sâu
cao (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Ao nuôi vỗ cá trê cần phải có bờ chắc chắn, không được rò rỉ, có lỗ mọi, đặc biệt
là ở cửa cống (Dương Nhựt Long,2003). Người ta thường nuôi vỗ cá bố mẹ trong
ao có diện tích nhỏ từ 100-200m2, độ sâu mực nước từ 1-1,2m. Ao phải có cống
cấp thoát nước dễ dàng. Nhiệt độ thích hợp từ 28-30oC, độ pH từ 6.5-8, hàm lượng
oxy hòa tan khoảng 2-3mg/l (Đoàn Khắc Độ, 2008)
Việc giảm bùn và chất hữu cơ đáy ao là cần thiết ở những ao cũ, nhất là những ao
trong vụ nuôi trước có mầm bệnh. Thông thường chỉ để lại lớp bùn đáy ao dày
không quá 20cm (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Cần xử lý ao kỹ trước khi thả cá bố mẹ, tát cạn ao, bắt hết cá tạp và địch hại, tu bổ
lại bờ ao, sang lấp hang, lỗ mọi. Rải vôi bột xuống đáy ao và bờ ao để diệt trừ
mầm bệnh, liều lượng sử dụng 7-10kg/100m2.Phơi nắng đáy ao từ 1-2 ngày. Đối
với những nơi đất có nhiều phèn thì không nên phơi đáy ao nứt nẻ, sẽ dẫn đến xì
phèn. Sau đó dẫn nước vào ao rồi tháo nước ra để lọc ao. Khi ao đã sạch thì cấp
nước vào cho đạt yêu cầu. Lưu ý là nước dẫn vào ao phải qua một lưới chắn để
không cho cá dữ, các loại địch hại và rác rưởi vào ao. Đến đây thì ao đã sẵn sàng
để thả cá bố mẹ.
7
2.2. Mùa vụ nuôi vỗ:
Cơ sở của việc xác định mùa vụ nuôi vỗ, được căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó
mùa vụ sinh sản tự nhiên của đối tượng là quan trọng nhất. Cá có thời gian sinh
sản nhất định trong năm nhằm đảm bảo sự tồn tại, sinh trưởng phát triển của trứng,
phôi, ấu trùng và con non dưới tác động của các yếu tố môi trường.
Các yếu tố sinh thái sinh sản trong tự nhiên có biến đổi có quy luật theo mùa. Đó
là nguyên nhân hình thành đặc điểm sinh học sinh sản theo mùa của cá (Phạm
Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Theo Phạm Minh Thành (2005) thì hầu hết các loài cá nuôi ở khu vực ĐBSCL đều
bắt đầu nuôi vỗ vào tháng 10,11. Do vậy nên mùa vụ nuôi vỗ cá bố mẹ để sản xuất
giống cá trê vàng lai thường bắt đầu từ tháng 11 âm lịch hàng năm (Đoàn Khắc
Độ,2008). Theo Bạch Thị Quỳnh Mai (2004) mùa vụ sản xuất giống nhân tạo cá
trê vàng lai bắt đầu từ tháng 2 âm lịch, khi cá trê vàng (Clarias macrocephalus)
bắt đầu mang trứng và kéo dài đến hết tháng 9 âm lịch.
2.3. Mật độ thả nuôi cá bố mẹ
Mật độ cá thả là chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả nuôi. Có rất
nhiều vấn đề chi phối mật độ cá bố mẹ được thả nuôi. Trong số đó, giữ vai trò chủ
đạo là hàm lượng oxy hòa tan (đối với những loài cá không có cơ quan hô hấp
phụ),là khả năng và mức độ tiếp nhận oxy trong môi trường nước và môi trường
không khí (đối với những loài có cơ quan hô hấp phụ). Vấn để thứ hai cũng rất
quan trọng là khả năng loại bỏ sản phẩm thải của cá và thức ăn thừa, vấn đề này
đặc biết quan trọng với cá bố mẹ được nuôi trong ao nước tĩnh (Phạm Minh Thành
và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Mật độ thả nuôi cá bố mẹ cũng là chỉ tiêu kỹ thuật quan trọng ảnh hưởng rất lớn
đến khả năng thành thục và sinh sản của cá bố mẹ. Do nước ao không (hoặc rất ít)
xáo trộn và ít được lưu thông nên mật độ cá thả tính trên đơn vị diện tích (m2).
Trên cơ sở khả năng thích ứng của cá bố mẹ với điều kiện môi trường khác nhau
mà xác định mật độ (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Để sản xuất giống cá trê vàng lai, bắt buộc phải chọn cá bố là cá trê Phi đực và cá
mẹ là cá trê vàng Việt Nam. Người ta thường nuôi cá bố và cá mẹ trong hai ao
riêng biệt.
Chọn cá trê Phi đực từ 7 tháng tuổi trở lên, trọng lượng trung bình từ 0.5-
0.7kg/con. Cá phải khỏe mạnh không bị bệnh, dị tật, nhanh nhẹn. Nuôi trong một
ao riêng mật độ từ 1.5-2kg/m2 (Đoàn Khắc Độ,2008).
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì cá trê vàng cái dùng để nuôi vỗ phải là cá có
đủ 12 tháng tuổi, trọng lượng trung bình từ 150-200g/con. Mật độ thả từ 0.5-
0.8kg/m2.
8
2.4. Thức ăn trong quá trình nuôi vỗ:
Thức ăn không chỉ là nguồn vật chất cho sinh trưởng, năng lượng cho sự trao đổi
chất mà còn là nguyên liệu cho sự phát triển của noãn hoàng, tinh sào. Khi môi
trường thiếu thức ăn sự thành thục của cá bị ảnh hưởng xấu như: hệ số thành thục,
tỷ lệ thành thục thấp, đặc biệt mức độ phát triển không đồng đều của noãn bào
cũng như khả năng rối loạn thành thục của cá tăng lên mặc dù các điều kiện sống
của môi trường thuận lợi (Nguyễn Văn Kiểm, 2004). Những cá trong thời kỳ tạo
noãn hoàng nếu bị đói trong thời gian dài thì buồng trứng có thể thoái hóa và tiêu
biến. Chế độ dinh dưỡng tốt có thể làm cho cá phát dục, thành thục và sinh sản
sớm ( Nguyễn Tường Anh, 1999).
Có hai loại thức ăn cho cá đó là thức ăn tự chế biến và thức ăn viên công nghiệp.
Thức ăn tự chế biến thì chi phí rẻ nhưng hàm lượng dinh dưỡng không ổn định,
khó bảo quản. Thức ăn công nghiệp thì có hàm lượng dinh dưỡng, dễ cho ăn, dễ
bảo quản nhưng giá thành đắt. Hầu hết người nuôi cá trê đều sử dụng thức ăn chế
biến để giảm bớt chi phí.
Theo Đoàn Khắc Độ (2008) đề nghị công thức tự chế thức ăn là: cám gạo (75%),
bột cá (24%), premix khoáng và vitamin (1%). Tất cả được trộn đều nấu chin để
nguội vò thành viên và để xuống sàn cho cá ăn. Ngoài ra cũng nên cho cá ăn them
các loại phụ phẩm như: đầu tôm, ruột sò, ruột gà, ruột vịt, cá phân xay
nhuyễn…Thức ăn viên công nghiệp chọn loại có hàm lượng đạm từ 20-22%.
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì thành phần thức ăn phải có hàm lượng đạm cao
vì thế lượng bột cá chiếm 30-40%, cám gạo 40%, bột đậu nành 20-30%. Ngoài ra
có thể sử dụng thêm cá phế phẩm lò mổ, nhà máy chế biến thủy sản, cá tạp xay
nhuyễn 1 lần/tuần.
2.5. Chăm sóc và quản lý ao nuôi vỗ
Trong quá trình nuôi vỗ cá trê mỗi ngày cho cá ăn hai lần, khẩu phần ăn đối với
thức ăn tự chế là 5-8% trọng lượng cá trong ao, đối với thức ăn công nghiệp là 2-
3% ( Đoàn Khắc Độ, 2008).
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì cá trê rất háu ăn và thời gian tiêu hóa thức ăn
khá nhanh vì thế nên cho cá ăn nhiều lần trong ngày. Lượng thức ăn hàng ngày là
1.5-3% trọng lượng cá nuôi. Theo Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến (2000) khẩu
phần cho ăn là 5-10%, 1-2 tuần thì bổ sung thức ăn tươi sống một lần.
Cần xác định được mức ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Chỉ
cho cá ăn với lượng vừa đủ, không nên cho quá nhiều thức ăn vào ao, cá ăn không
hết lượng thức ăn thừa sẽ là ô nhiễm nước. Nên định kỳ thay nước ao để cải thiện
môi trường nước, giúp hạn chế bệnh cho cá. Mỗi lần thay khoảng 20-30% lượng
nước ao.
Cá trê là loài có tính thích ứng cao và rộng đối với môi trường sống, hơn nữa cá có
cơ quan hô hấp phụ là “hoa khế” nên khả năng chống chịu tốt với sự khắc nghiệt
9
của môi trường sống. Do vậy trong quá trình nuôi vỗ cá bố mẹ, không đòi hỏi thật
khắt khe về các thông số kỹ thuật về thủy lý, thủy hóa. Theo Ngô Trọng Lư và Lê
Đăng Khuyến (2000) cá có thể sống trong các giới hạn sau:
Nhiệt độ nước: 14-38.5oC
Độ pH từ : 4.2-8
Độ muối dưới 6.2%o
Hàm lượng oxy: >0.5mg/l
Nguồn nước: không bị nhiễm độc, nhiễm phèn.
3. Kỹ thuật sinh sản:
3.1. Phân biệt đực cái và chọn cá bố mẹ thành thục
Hầu hết các loài cá có thể phân biệt đực cái khi đã thành thục nhờ những dấu hiệu
sinh dục phụ. Nhưng cũng có một số loài có thể phân biệt được đực cái ngay từ
khi cá chưa thành thục. Những dấu hiệu sinh dục phục này có thể tồn tại đến suốt
đời nhưng cũng có thể biến mất khi mùa sinh sản kết thúc (Nguyễn Văn Kiểm,
2007).
Theo Nguyễn Tường Anh (2004) thì tất cả các loài cá trê hiện có ở nước ta, cơ
quan sinh dục ngoài của con đực và con cái có sự khác biệt về hình thái tương đối
rõ ràng. Phần cuối của ống niệu sinh dục của cá đực phía ngoài thân giống như gai
nhọn. Ở cá cái lỗ sinh dục hình tròn.
Theo Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến (2000), cá trê cái có mấu sinh dục ngắn
và tròn, phần nhô ra phía sau rất nhỏ, thường có màu đỏ nhạt. Lỗ niệu ở phía sau
gai sinh dục. Con đực có mấu dài hình tam giác phía đầu mấu nhọn và nhỏ, phần
nhô ra phía sau rất dài, thường có màu trắng hay màu vàng nhạt, mùa sinh sản có
màu đỏ nhạt, lỗ tiết niệu ở cuối.
Thông thường cá sẽ thành thục và đủ khả năng sinh sản sau 3-4 tháng nuôi vỗ. Khi
cá đã thành thục ta dễ dàng phân biệt được cá đực cá cái dựa vào hình dạng bên
ngoài. Cá đực có gai sinh dục nhọn. Cá cái do mang trứng nên bụng hơi lớn, lỗ
sinh dục có màu hồng nhạt (Đoàn Khắc Độ, 2008). Cá đực thành thục tốt có gai
sinh dục phát triển nổi bật, có tập tính hung hăng. Mỗi khi chạm vào cá đực quẫy
mạnh và nhiều hơn cá khác. Cá cái thành thục tốt có bụng to, mỏng mềm, phần
ngoài lỗ sinh dục hơi cương, có thể tiết ra trứng khi nặng nhẹ ở vùng bụng gần lỗ
sinh dục ( Nguyễn Tường Anh, 2004).
Nếu chưa thành thạo xác định mức độ thành thục của cá cái, người ta có thể lấy
mẫu trứng để khảo sát. Cá cái đã thành thục tốt phải có những hạt trứng đạt kích
thước tới hạn, rời, các mao mạch trên nang trứng nhỏ hoặc không còn thấy được
và quan trọng nhất là có trên 60% hạt trứng đã lệch tâm, tức là nhân noãn bào
không còn nằm ở giữa nữa ( Nguyễn Tường Anh, 2004). Theo Đoàn Khắc Độ
10
(2008) trứng cá trê vàng thành thục có kích cỡ đồng đều, màu vàng nâu, đường
kính khoảng 1-1.2mm. Trứng có tính dính, có thể bám vào bất kì vật thể nào.
3.2. Kích thích cá sinh sản:
Trong sản xuất cá giống để kích thích cá đẻ đồng loạt, tỷ lệ cá đẻ cao nhằm thu
được số lượng trứng lớn thì việc tiêm hormone kích thích cá sinh sản là cần thiết
(Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Khi kích thích cá sinh sản chúng ta có nhiều phương pháp khác nhau, tiêm kích
dục tố với liều lượng và chủng loại khác nhau. Tuy nhiên việc tiêm kích dục tố
dựa vào điều kiện cụ thể như: chất lượng và hoạt tính của từng loại kích dục tố,
tình trạng thành thục của cá bố mẹ, nhiệt độ nước (Phạm Phú Hùng, 2007 được
trích bởi Trần Quang Minh, 2008).
Có nhiều loại hormone có khả năng kích thích sinh sản cá, nhưng 3 loại hormone
sử dụng rộng rãi phổ biến hiện nay: LRH-A (kết hợp với Domperidone), não thùy,
HCG (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008). Mỗi loại kích dục tố có
chỉ định về liều lượng sử dụng khác nhau. Cần phải tiêm đúng liều lượng mới đem
lại kết quả sinh sản tốt nhất (Đoàn Khắc Độ, 2008).
Theo Đoàn Khắc Độ (2008) thì loài và liều lượng hormone tiêm cho cá như sau:
Não thùy thể: đối với cá cái, liều lượng từ 10-12mg/kg cá. Liều cho cá đực bằng
1/2-1/3 liều cho cá cái.
HCG: Đối với cá cái liều lượng từ 5000-6000 UI/kg cá.Liều dùng cho cá đực bằng
1/3 liều dùng cho cá cái.
LRH-A + DOM: 80-100µg cộng với 4-5mg DOM cho 1 kg cá cái. Liều dùng cho
cá đực bằng 1/3 liều cá cái.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2007) thì có thể dùng một trong hai loại kích thích tố
sau: não thùy họ cá chép 3-4mg/1kg cá cái, hoặc HCG 2000-2500UI/kg cá cái. Cá
đực tiêm 1/2-1/3 liều cho cá cái.
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì dùng HCG kích thích cá sinh sản với liều từ
4000-6000UI/kg cá cái. Có thể dùng riêng hoắc phối hợp với não thùy họ cá chép.
Nhưng cho dù là sử dụng loại thuốc nào cũng vậy điều quan trọng là chúng ta phải
chọn lựa được cá bố mẹ thành thục tốt và thời điểm kích thích sinh sản phải phù
hợp với mùa vụ sinh sản tự nhiên của cá, có như vậy mới đạt được hiệu quả cao
nhất trong quá trình sản xuất.
Để kích thích cá sinh sản tốt nhất, người ta thường tiêm hai liều: liều sơ bộ và liều
quyết định. Lượng thuốc cho liều sơ bộ bằng 1/3 tổng liều lượng sử dụng, 2/3 còn
lại tiêm cho liều quyết định. Giữa lần tiêm liều sơ bộ và liều quyết định phải cách
nhau từ 7-8 giờ. (Đoàn Khắc Độ, 2008). Theo Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến
(2000) thì thời gian hiệu ứng của thuốc phụ thuộc vào nhiệt độ, nhiệt độ càng
11
xuống thấp thời gian hiệu ứng càng kéo dài ra, thông thường trứng rụng sau khi
tiêm liều quyết định từ 10-15 giờ ở nhiệt độ 27-31oC.
Vị trí tiêm tốt nhất là cơ lưng phía trước, trên đường bên, dưới vây lưng của cá.
Thể tích dung dịch thuốc mỗi lần tiêm không quá 1ml (Ngô Trọng Lư và Lê Đăng
Khuyến, 2000).
Sauk hi tiêm xong giữ cá trong các dụng cụ thau nhựa, bể xi măng…Mực nước
vừa ngập thân cá và đậy kín cẩn thận tránh cá nhảy ra ngoài.
3.3. Thụ tinh nhân tạo:
Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2008), thụ tinh nhân tạo là con
người chủ động cho trứng và tinh trùng (tinh dịch) tiếp xúc để tiến hành thụ tinh.
Hình thức này thường thu được tỷ lệ thụ tinh cao do xác suất gặp gỡ của tinh trùng
và trứng cao.
Quá trình thụ tinh nhân tạo được thực hiện theo trình tự: lấy trứng cá cái - mỗ lấy
tinh dịch cá đực - cho trứng thụ tinh - ấp trứng.
Sau khi tiêm cá 16-18 giờ tùy theo nhiệt độ của nước có thể kiểm tra mức độ rụng
trứng của cá để định giờ vuốt trứng. Khi kiểm tra thấy trứng rụng nên chờ 30-45
phút sau (chờ trứng rụng đồng loạt) thì vuốt trứng. Trứng được vuốt vào dụng cụ
khô sạch (Nguyễn Văn Kiểm, 2007).
Đối với cá trê, không thể thu tinh dịch của cá đực bằng phương pháp vuốt bụng
hoặc dùng bơm tiêm, mà phải mổ mới lấy được tinh dịch (Đoàn Khắc Độ, 2008).
Mỗi cá đực thành thục tốt có thể thụ tinh cho 3-5 cá cái. Bắt cá đực mổ lấy hai
buông tinh cắt nhỏ nghiềm trong cối sứ, thêm nước muối sinh lý (3-5ml tùy theo
lượng trứng vuốt ra), đổ dung dịch này vào trứng, đảo đều 1-2 phút để thụ tinh.Sau
đó trộn trứng với dung dịch thụ tinh đã chuẩn bị trước (4g NaCl + 3g Urea + 1l
nước cất) khoảng 30-40 phút, sau đó đem trứng đi ấp (Nguyễn Văn Kiểm, 2007).
Theo Đoàn Khắc Độ (2008) thì cho thụ tinh theo cách đổ tinh dịch đã nghiền vào
chậu chứa trứng, cho thêm nước sạch vào (300ml/ 1l trứng), sau đó dùng lông
cánh gia cầm khuấy đều từ 2-3 phút. Chắt bỏ nước trong chậu trứng ra và thêm
nước sạch vào, tiếp tục khuấy tiếp để rửa sạch trứng, sau đó lại đổ nước ra. Thực
hiện khoảng 2 lần, khi trứng đã sạch thì đưa vào ấp.
Chuẩn bị bể ấp bằng xi măng, composite, bể lót bằng bạt nilon. Diện tích bể từ 1-
20m2, mực nước sâu khoảng 20-30cm. Nhiệt độ nước phải ổn định từ 28-30oC, pH
dao động từ 6.5-7.5. Nước phải trong sạch, không bị nhiễm mặn hay phèn. Bể phải
có sục khí để luân chuyển nước và cung cấp oxy, đảm bảo hàm lượng oxy trước và
sau khi nở khoảng 5-6mg/l (Dương Nhựt Long, 2003).
3.4 Ấp trứng
Dùng giá thể là một vỉ lưới được nẹp bằng các thanh gỗ để nó căng ra. Cho vỉ
chìm trong bể ấp. Dùng lông gà quệt trứng và rải trứng thật đều để trứng bám hết
12
lên vỉ lưới (thao tác phải thật nhanh tay). Mật độ ấp từ 20.000-30.000 trứng/m2
(Dương Nhựt Long, 2003). Sau khoảng 22-26 giờ ấp thì trứng sẽ nở. Cá bột sẽ
chui qua mắt lưới và tập trung dưới đáy bể, thời gian này chúng sống bằng túi
noãn hoàng. Sau 45-48 giờ nở, túi noãn hoàng sẽ cạn kiệt dần và cá bột sẽ ăn thức
ăn từ bên ngoài.
Sau khi trứng nở được 3-4 giờ, lấy vỉ lưới ra khỏi bể để tránh trường hợp trứng
ung còn lại trên vỉ lưới bị phân hủy và làm ô nhiễm nước.
Ngoài phương pháp ấp trứng nêu trên Nguyễn Văn Kiểm (2007) cũng giới thiệu
phương pháp ấp trứng khử dính trong bình Weys. Khử dính dung dịch bằng Tanin
1.5% theo tỉ lệ 1:1 trong thời gian 3-4 giây, sau đó rửa bằng nước thường. Làm
như vậy cho đến khi hết dính. Khi ấp trứng bằng phương pháp này phải bố trí sục
khí hoặc cho nước chảy liên tục để tránh trứng chìm xuống đáy. Một bình Weys
thể tích 8 lít có thể ấp được 0.4-0.6kg trứng tương đương với 800.000 trứng. Khi
cá nở xong phải chuyển cá ra các bồn có diện tích lớn hơn
4. Kỹ thuật ương cá bột lên cá giống:
Khi cá bột tiêu thụ hết nguồn dinh dưỡng dự trữ (noãn hoàng) thì phải tiến hành
ương cá bột lên cá giống. Cá bột có thể được ương trong ao đất, trong bể xi măng
hoặc trong bể bạt. Trong mỗi trường hợp thì mật độ nuôi thả, thức ăn và cách
chăm sóc cũng có phần khác nhau. Việc ương nuôi nếu thực hiện đúng biện pháp
kỹ thuật thì sẽ cho ra con giống có chất lượng tốt.
4.1. Ương trong ao đất:
Theo Bạch Thị Quỳnh Mai (2004) thì để tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch cá
giống, cần phải chuẩn bị ao ương theo tiêu chuẩn như sau:
Ao có diện tích từ vài trăm đến 1000m2 là tốt nhất. Mực nước trong ao từ 1-1.2m.
Đáy ao phải dốc về phía bọng thoát nước.
Nên đào một cái hố tròn trước bọng thoát nước, đường kính khoảng 2-3m, sâu
khoảng 0.5m. Và từ 2 bờ ao, đào một cái rãnh ( rộng khoảng 1-1.5m, sâu khoảng
0.2 – 0.3m về phía hố tròn).
Phải xử lý ao thật kỹ trước khi thả cá bột. Tùy theo ao cũ, ao mới mà có cách xử lý
khác nhau. Đối với ao mới đào rải vôi bột đáy ao, bờ ao liều lượng sử dụng
khoảng 15kg/100m2. Ao cũ thì tát cạn, diệt tạp bằng dây thuốc cá liều từ 3-
5kg/1000m2, rải vôi với liều khoảng 30kg/100m2. Phơi nắng đáy ao từ 2-3 ngày.
Sau đó lấy nước vào ao và tiến hành gây màu cho nước bằng các loại phân hữu cơ
và vô cơ. Khoảng 2 ngày sau thì có thể thả cá bột.
Có thể ương cá bột trong ao với mật độ từ 250-400 con/m2 (Đoàn Khắc Độ, 2008),
theo Dương Nhựt Long (2003) thì mật độ ương có thể lên đến 1.000-2.000 con/m2.
Khi vận chuyển cá bột đến ao ương, phải ngâm bọc cá trong nước ao khoảng 10
phút để nhiệt độ nước ao cân bằng với nhiệt độ trong bọc cá, sau đó mới thả cá ra
13
từ từ để chúng quen dần với môi trường mới. Thời điểm thả cá bột tốt nhất là sáng
sớm hoặc chiều mát vì lúc này nhiệt độ nước tương đối mát mẻ cá ít bị sốc.
Trong 3 ngày đầu sau khi thả, cá ăn thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao. Cho cá ăn
thêm thức ăn tinh và tươi sống như: moina, lòng đỏ trứng luộc chin bóp nhuyễn, 1
trứng/10.000 cá bột, ngày cho ăn 3-4 lần (Dương Nhật Long, 2003).
Sau 4-5 ngày sử dụng trùng chỉ, thức ăn tổng hợp để thay thế dần dần lòng đỏ
trứng. Hai loại thức ăn này cho ăn xen kẻ mỗi ngày 2 lần. Đặc biệt với thức ăn chế
biến cần điều chỉnh lượng thức ăn sao cho khoảng 1-2 giờ thì cá ăn hết là được.
Thức ăn chế biến có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoăc thức ăn tự chế theo
công thức sau: bột cá (60%), bột đậu nành (10%), cám gạo (25%), bột mì (5%),
vitamin C và premix. Các thành phần trên được trộn đều và ép thành viên cho cá
ăn (Dương Nhật Long, 2003).
Để dễ kiểm soát và điều chỉnh lượng thức ăn cho cá cũng như đều, nên cho thức
ăn vào nhiều sàn rồi đặt ở bốn góc và giữa ao để cá ăn.
Hàng ngày phải thường xuyên theo dõi biểu hiện hoạt động, bơi lội bắt mồi của cá.
Khi thấy cá có biểu hiện bất thường thì phải tiến hành kiểm tra để kịp thời phát
hiện bệnh và điều trị sớm.
Phải định kỳ thay nước ao để cải thiện môi trường nước, giúp cá khỏe mạnh và
phát triển tốt. Ngoài ra cần phải có biện pháp phòng bệnh cho cá, cách đơn giản
được nhất là bổ sung thêm vitamin C, premix vào thức ăn hàng ngày (Đoàn Khắc
Độ, 2008).
Trong điều kiện môi trường ao nuôi thuận lợi, đầy đủ thức ăn thì sau 2 tuần cá đạt
kích cỡ 4-6 cm. Lúc này có thể thu hoạch cá giống.
4.2. Ương trong bể xi măng, bể bạt
Bể có diện tích từ 2-20m2, độ sâu mực nước khoảng 40-60 cm. Cần xử lý bể thật
kỹ trước khi thả cá, đối với bể mới xây cần ngâm bể từ 10-12 ngày mới sử dụng
được. Với bể cũ thì phải chà rửa sạch sẽ, tạt nước vôi đều trong bể và thành bể rồi
phơi nằng một ngày để diệt khuẩn. Sau đó bơm xả nước vài lần để làm sạch bể
(Đoàn Khắc Độ, 2008)
Đối với bạt thì chuẩn bị như sau, trên nền đất muốn làm bể ương, tiến hành đào
những cái bể nhỏ (kích cỡ khoảng 3x4, 4x6 hoặc 5x5m). Sang bằng rồi đổ cát vào
trải đều. Thiết kế một cái khung gôc với bốn cái cọc đóng chặt ở bốn góc bể để
làm sườn trải bạt. Dùng một tấm bạt dày, không bị lỗ mọt, kích cỡ vừa với khung.
Trải bạt vào khung và nẹp các thanh gỗ cho chắc chắn (Bạch Thị Quỳnh Mai,
2004).
Sau khi đã chuẩn bị xong thì tiến hành bơm nước vào bể. Mực nước trung bình 30-
40cm. Nguồn nước phải được lắng lọc,xử lý đối với nước sông và nước ao, nước
14
máy thì phải bơm vào bể trước 1 ngày giảm bớt Clo, nước giếng bơm vào bể trước
2 ngày.
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì có thể ương cá bột trong bể với mật độ 5.000-
10.000 con/m2. Sau đó san thưa ra các bể khác khi cá lớn. Theo Đoàn Khắc Độ
(2008) có thể ương với mật độ 2000-2500 con/m2. Khi vận chuyển cá bột đến bể
nên ngâm bọc cá vào nước bể khoảng 10 phút để nhiệt độ bên trong và bên ngoài
cân bằng với nhau, sau đó thả cá ra từ từ để chúng quen dần với môi trường mới.
Những con khỏe mạnh sẽ bơi dọc theo thành bể và tụ họp ở các góc bể. Những
con yếu sẽ nằm một chỗ, có thể dùng ống xi phông hút chúng ra, tránh chúng bị
chết hoặc nhiễm bệnh làm ô nhiễm nước và lây cho cả bể.
Ba ngày đầu cho cá ăn moina để tập cho chúng bắt mồi, cho ăn 1-1,5 lon/ 20.000
cá bột/ngày. Từ ngày thứ 4 trở đi, cho cá ăn trùng chỉ 2lon/20.000 cá bột/ ngày.
Lượng trùng chỉ cho cá ăn sẽ tăng dần trong những giai đoạn tiếp theo. Thông
thường với 10.000 cá bột, ương nuôi đến khi đạt cỡ 4-5cm thì tiêu hao 100-110
lon trùng chỉ (Đoàn Khắc Độ, 2008)
Định kỳ thay nước bể để giữ cho nước trong sạch, giúp cá khỏe mạnh và phát triển
nhanh. Mỗi lần thay khoảng 20-30% lượng nước bể
Sau khi cá ăn xong, phải vớt hết thức ăn thừa ra, nhằm tránh gây ô nhiễm nước.
Thường xuyên dùng ống xi phông hút cặn bã và phân cá dưới đáy bể.
Với môi trường nuôi thích hợp, chế độ dinh dưỡng đầy đủ thì sau 16-18 ngày
ương cá đạt kích cỡ 4-6cm (lồng 7). Tỉ lệ sống thường đạt từ 60-85%. Lúc này có
thể thu hoạch cá giống.
15
Chương III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nuôi cá bố mẹ:
1.1. Điều kiện ao nuôi cá bố mẹ:
Đối với nghề nuôi cá nói chung và sản xuất giống thủy sản nói riêng, việc lựa chọn
địa điểm để đào hay xây dựng trại luôn gắn liền với nhu cầu hằng ngày là nguồn
nước. Tốt nhất là ao được liên hệ gần gũi với nguồn nước sông ( càng gần sông
càng tốt), vấn đề này đặc biệt quan trọng với ao nuôi cá bố mẹ, những loài có xuất
xứ từ sông (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Bên cạnh nguồn nước tốt phục vụ cho sản xuất thì cảnh quan của ao nuôi vỗ cũng
đóng một vai trò khá quan trọng, bờ ao và mặt ao thông thoáng sẽ giúp cho ao tiếp
nhận tốt nguồn ánh sang mặt trời làm gia tăng hàm lượng oxy hòa tan do quang
hợp, kích thích tuyến nội tiết hoạt động thúc đẩy sự thành thục của cá.
Cá bố mẹ được nuôi tại 3 ao có điều kiện như bảng 1.
Bảng 1: Điều kiện ao nuôi cá bố mẹ
Ao số Hình dạng Diện tích (m2) Độ sâu (m) Bùn đáy (m)
1 Chữ nhật 500 1.1 0.30
2 Chữ nhật 300 1.2 0.25
3 Chữ nhật 300 1.0 0.30
Mặt ao và bờ ao thoáng không có bèo cỏ hoặc cây cối che phủ. Ao được cấp nước
từ mương vườn và nước giêng. Trước khi thả cá, ao được tẩy dọn theo hình thức
tát cạn, bón vôi 100kg/m2, sau đó phơi nắng để tăng cường diệt tạp và diệt trừ
mầm bệnh.
1.2 Thả nuôi cá:
Ao dung nuôi cá bố mẹ chỉ thả 1 loài là cá trê vàng theo hình thức nuôi đơn. Việc
thả cá được bắt đầu và kết thúc trong tháng 11 năm 2008. Số lượng cá thả được
trình bày ở Bảng 2
16
Bảng 2: Thả cá bố mẹ vào ao nuôi
Số lượng Mật độ Ao số
Số con Số kg Con/m2 Kg/m2
1 3650 900 7.2 1.8
2 1930 480 6.4 1.6
3 1651 410 6.8 1.7
Cá bố mẹ được thả nuôi bao gồm những cá thể đã tham gia sinh sản năm 2008 đạt
kết quả tốt (chiếm 70% tổng số cá) và bổ sung them từ đàn cá hậu bị (đàn cá nuôi
thịt chiếm 30%). Cá bố mẹ có tiêu chuẩn ngoại hình tốt, cơ thể nguyên vẹn đồng
đều, khỏe mạnh không dị hình.
1.3 Chăm sóc và quản lý:
1.3.1 Chế độ cho ăn:
Tại cơ sở sản xuất sử dụng thức ăn nuôi cá bố mẹ hiệu UP 26% đạm. Thức ăn
dạng viên có kích thước 4mm. Hàng ngày cho ăn 1 lần vào 8h-9h sang. Khẩu phần
ăn thay đổi theo tháng nuôi. Cụ thể là:
Tháng 11 cho ăn 5% tổng trọng lượng cá trong ao
Tháng 12 cho ăn 4%
Tháng 1 trở đi 3%
Riêng cá đã sinh sản thì được nuôi riêng, cho ăn 5% tổng trọng lượng cá.
1.3.2. Quản lý ao cá:
Công việc quản lý cá chủ yếu là theo dõi hoạt động của cá. Hàng ngày theo dõi
cường độ ăn, dấu hiệu bệnh lý. Đồng thời định kỳ thay nước ao theo chế độ thủy
triều 2 lần/ tháng vào những kỳ con nước lớn ( nước rằm và nước ba mươi).
Lượng nước thay qua ống bọng chiếm 20-30% tổng lượng nước ao. Đàn cá bố mẹ
được chăm sóc quản lý như trên phát triển tốt, cá không có dấu hiệu bệnh lý.
17
2. Kích thích cá sinh sản
2.1. Lựa chọn cá thành thục:
- Đối với cá cái: bụng to, mềm đều, lỗ sinh dục có màu hồng. Khi vuốt bụng thì
chảy ra ít trứng, trứng phải có màu sắc đặc trưng vàng nâu, kích thước các hạt
trứng đồng đều, rời rạc, nhân đã lệch tâm (phân cực).
- Đối với cá đực: bụng thon, rắn chắc, gai sinh dục dài.
2.2. Kích dục tố sử dụng:
Tại cơ sở sản xuất chỉ sử dụng 1 loại kích thích tố là LRH kết hợp với DOM. Tuy
nhiên, trong quá trình thực tập chúng tôi có xin phép cơ sở cho sử dụng thêm HCG
cho việc bố trí thí nghiệm để so sánh vấn đề sử dụng kích thích tố cụ thể trong báo
cáo này. Các nghiệm thức như sau:
-HCG: sử dụng để kích thích sinh sản với các liều lượng 2000, 2500, 3000, 3500,
4000UI/1kg cá cái.
-LRH (có bổ sung 10mg DOM/kg cá cái): với các liều lượng 50, 75, 100, 125,150
µg/kg cá cái.
-Kết hợp não thùy với LRH theo các hàm lượng sau:
LRH (µg/kg) 50 50 50 50 50 50 75 100
Não thùy
(mg/kg)
0 1 2 3 4 5 2 2
- So sánh hiệu quả của 2 loại hormone là HCG và LRH
*HCG: 3000UI/1kg cá cái
*LRH: 100µg/1kg cá cái
- Tiêm vào cơ lưng của cá và tiêm 1 lần duy nhất.
2.3. Phương pháp thụ tinh cho cá:
Cá trê được thực hiện phương pháp thụ tinh nhân tạo. Cá đực được mổ lấy buồng
tinh, cắt nhỏ, nghiền nát trong cối sứ sau đó hòa vào dung dịch nước muối sinh lý.
Khi cá cái rụng trứng thì vuốt vào thau (đã được lau khô) dùng dung dịch nước
muối sinh lý có chứa tinh trùng trộn với trứng. Dùng long gà đảo điều chứng 1-2
18
phút. Sau đó gạn bỏ nước và khử dính cho trứng bằng Tanin 1%o. Rửa trứng bằng
nước sạch 2-3 lần rồi ấp trứng bằng bình Weys.
3. Ấp trứng:
Sauk hi khử dính, trứng được ấp bằng bình Weys có thể tích 30l. Lượng trứng ấp
không quá 2kg/bình. Trong quá trình ấp trứng, lượng nước thay được điều chỉnh
qua van, đảm bảo trứng được đảo đều, không bị lắng đọng.
4. Ương nuôi cá bột thành cá giống:
4.1. Điều kiện ao:
Quá trình ương cá được thực hiện tại nhà (Vĩnh Long). Điều kiện ao được trình
bày trong bảng sau:
Bảng 3: Điều kiện ao ương cá bột
Ao Hình dạng Diện tích (m2) Độ sâu (m) Bùn đáy (m)
1 Thang 7.000 1.7 0.18
2 Chữ nhật 5.000 1.5 0.22
3 Vuông 3.000 1.5 0.25
Mặt ao và bờ ao thoáng không có bèo cỏ hoặc cây cối che phủ. Ao được cấp nước
từ mương vườn và nước giêng. Trước khi thả cá, ao được tẩy dọn theo hình thức
tát cạn, bón vôi 100kg/m2, sau đó phơi nắng để tăng cường diệt tạp và diệt trừ
mầm bệnh.
4.2 Thả cá vào ao ương:
Sauk hi cá nở được 2 ngày, gần hết noãn hoàng, cá bơi lội nhanh nhẹn thì được
đem thả vào ao nuôi đã được tẩy dọn kỹ. Cá được thả vào buổi sáng từ 8h-9h với
mật độ 400 con/m2.
4.3. Chăm sóc, quản lý:
Việc chăm sóc, quản lý cá bột được thực hiện thông qua cho ăn, quản lý nước và
dịch bệnh.
Về cho ăn: thức ăn thích phù hợp nhất cho các trong tuần đầu sau khi thả là các
động vật phù du (moina), trùng chỉ nên ta gián tiếp tạo ra thức ăn tự nhiên trong ao
19
bằng cách gây màu trước lúc thả và bổ sung dinh dưỡng bằng trứng vịt, bột đậu
nành (20 trứng + 2kg bột đậu nành/1 triệu cá bột). Đến khi cá lên mặt (sau 7-10
ngày ương) ta tiến hành cho ăn bằng thức ăn viên công nghiệp UP hàm lượng đạm
30%, cho ăn theo nhu cầu.
Về quản lý ao: theo dõi chất lượng nước và dấu hiệu dịch bệnh một cách chăt chẽ
để có biện pháp xử lý kịp thời.
5. Phương pháp thu và phân tích mẫu:
5.1 Một số yếu tố môi trường:
Các yếu tố môi trường được xác định là nhiệt độ, oxy hòa tan, pH tại ao cá bố mẹ,
bình Weys và ao ương cá con.
-Nhiệt độ: đo bằng nhiệt kế thủy ngân. Tại ao cá bố mẹ và ao ương đo lúc 7h và
2h. Tại bình Weys định kỳ 5h đo 1 lần.
-Oxy: dùng test oxy. Định kỳ đo như nhiệt độ
-pH: dùng test pH. Định kỳ đo như nhiệt độ.
5.2. Sự thành thục của cá bố mẹ:
Tỷ lệ thành thục (%) = Số cá thành thục/Số cá quan sát x 100
Sự thành thục được phân chia theo tháng nuôi.
5.3. Tỷ lệ cá đẻ (%) = Số cá đẻ/ Tổng số cá tiêm thuốc x 100
5.4. Sức sinh sản (%) = Số trứng đẻ ra/1 kg cá cái.
5.5. Tỷ lệ thụ tinh (%) = số trứng thụ tinh/ số trứng quan sát x 100
5.6. Tỷ lệ nở (%) = số cá bột/ số trứng thụ tinh x 100
5.7. Tỷ lệ dị hình (%) = số cá dị hình/ số cá quan sát x 100
5.8. Thời gian tái thành thục (ngày) = khoảng cách giữa 2 lần cá có thể tham gia
sinh sản
5.9. Tốc độ sinh trưởng:
Định kỳ cân đo cá ương 15 ngày/lần. Mỗi lần cân đo ngẫu nhiên 30 cá thể. Tốc độ
sinh trưởng tính toán theo công thức
Độ tăng trưởng:
20
* Độ tăng trưởng về chiều dài theo ngày:
DLG= (L2-L1)/ ΔT
L1: chiều dài cá ở lần đo thứ nhất (cm)
L2: chiều dài cá ở lần đo thứ hai (cm)
ΔT: khoảng cách thời gian giữa 2 lần đo (ngày)
* Độ tăng trưởng về khối lượng theo ngày
DWG=(W2-W1)/ ΔT
W1: chiều dài cá ở lần đo thứ nhất (g)
W2: chiều dài cá ở lần đo thứ hai (g)
ΔT: khoảng cách thời gian giữa 2 lần đo (ngày)
5.10. Tỷ lệ sống:
Xác định theo công thức:
Tỷ lệ sống (%) = (Số cá sống sót/ Số cá bột thả) x 100
6. Phương pháp xử lý và đánh giá kết quả:
6.1. Phương pháp xử lý số liệu thu đươc:
Các kết quả được xử lý dựa trên phần mềm Excel
6.2. Đánh giá kết quả:
Kết quả được đánh giá qua các trị số trung bình cộng.
21
Chương IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Điều kiện môi trường ao nuôi vỗ cá bố mẹ:
Qua thời gian 6 tháng theo dõi và thu thập các chỉ tiêu môi trường nước tại ao nuôi
vỗ,mỗi ngày thu 2 lần vào 7h sang và 2h chiều, các giá trị trong bảng 1 là trung
bình cộng của các ngày trong tháng, giá trị của ngày la trung bình cộng kết quả đo
được sáng và chiều.
Bảng 4: Điều kiện môi trường ao nuôi vỗ cá bố mẹ
Tháng Nhiệt độ (oC) DO (mg/l) pH
11 28.5 ± 1.2 3.4 ± 0.7 6.4 ± 0.4
12 28.2 ± 1.1 3.2 ± 0.4 6.3 ± 0.3
1 28.6 ± 1.3 3.3 ± 0.5 6.1 ± 0.3
2 29.5 ± 1.5 3.1 ± 1.1 6.4 ± 0.5
3 30.3 ± 1.0 3.5 ± 0.9 6.2 ± 0.6
4 31.5 ± 1.4 3.6 ± 1.4 6.5 ± 0.8
Kết quả ở bảng 4 cho thấy các yếu tố môi trường thuận lợi cho sự thành thục của
cá trê bố mẹ.
2. Sự thành thục của cá bố mẹ:
Trong quá trình nuôi vỗ tại cơ sở sản xuất không định kỳ hàng tháng kiểm tra mức
độ thành thục của cá. Tuy nhiên, qua các đợt cho đẻ theo đơn đặt hàng của khách,
chúng tôi quan sát và đánh giá sơ bộ sự thành thục của cá theo tháng. Sự đánh giá
này có tính khái quát. Kết quả ghi nhận ở bảng 5.
22
Bảng 5: Tỷ lệ thành thục
Tỷ lệ thành thục (%) Tháng
Cá cái Cá đực
1 3.3 5.5
2 6.2 7.1
3 7.6 13.8
4 25.5 24.6
5 79.8 54.9
Qua bảng số liệu, có thể nhận thấy sự thành thục của cá tăng dần từ tháng 1 đến
tháng 5. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với những nghiên cứu từ trước và nó cũng
hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh thái sinh sản của cá trong tự nhiên.
Cuối tháng 10 là cuối vụ sản xuất của mùa trước, cá chuyển qua giai đoạn thoái
hóa, tái hấp thu dinh dưỡng (đối với những cá thể không kịp tham gia sinh sản) và
tích lũy lại vật chất chuẩn bị cho mùa sinh sản mới, cũng trong giai đoạn này
ngoài tự nhiên hiếm khi bắt được những cá thể mang trứng.Tuy nhiên hầu hết các
trại giống bắt đầu hoạt động sản xuất trở lại từ cuối tháng 2, nguồn cá phục vụ sản
xuất chủ yếu thu ngoài tự nhiên nhưng lúc này chất lượng cá trê vàng cái vẫn chưa
thực sự tốt, thể hiện rõ ràng thông qua tỷ lệ cá rụng trứng, tỷ lệ nở thấp, tỷ lệ dị
hình của cá bột cao hơn so với khi vào chính vụ sản xuất từ tháng 4 trở đi.
Bước sang tháng 4 (tháng thứ 6 của quá trình nuôi vỗ) lúc này tỷ lệ cá thành thục
tăng lên rõ rệt (25.5%), thời điểm này cũng rơi vào giai đoạn đầu mùa mưa của
năm. Mưa là tín hiệu bắt đầu mùa sinh sản cho tất cả các loài cá nước ngọt, mưa
thúc đẩy quá trình thành thục của cá diễn ra nhanh hơn, điều này cũng được khẳng
định khi tháng 5 tỷ lệ cá thành thục đã là 80%.
Tỷ lệ thành thục của cá qua các tháng cho thấy nó bị chi phối bởi các yếu tố môi
trường thời tiết và mang tính thời vụ. Ngoài ra quá trình thành thục của cá cũng bị
chi phối bởi: chất lượng cũng như khẩu phần thức ăn, mật độ, loại kích thích tố sử
dụng ở lần sinh sản trước đó.
Đối với thức ăn trong quá trình nuôi vỗ: sử dụng thức ăn công nghiệp hiệu UP
26% đạm trong suốt quá trình nuôi vỗ, việc sử dụng thức này đem lại nhiều thuận
lợi như: hạn chế được ô nhiễm môi trường nước, dễ dàng trong việc điều chỉnh
khẩu phần cho ăn và hơn nữa thức ăn viên có chất lượng ổn định với thành phần
dinh dưỡng cân đối sẵn. Khẩu phần cho ăn ở giai đoạn nuôi vỗ tích cực là 5% tổng
lượng cá trong ao, giai đoạn nuôi vỗ thành thục khoảng 3%. Khẩu phần cho ăn
trong quá trình nuôi vỗ các loại cá nói chung và cá trê nói riêng cần được xác định
23
hợp lý để có sự cân đối, phù hợp giữa tích lũy dinh dưỡng với sự chuyển hóa
thành thục. Khẩu phần ăn quá cao hoặc thấp đều ảnh hưởng không tốt đến đàn cá
nuôi vỗ, ảnh hưởng đến năng suất sinh sản cũng như chất lượng của sản phẩm sinh
dục.
Mật độ nuôi vỗ là chỉ tiêu kỹ thuật quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
thành thục và sinh sản của cá bố mẹ. Mật độ nuôi vỗ ảnh hưởng đến khả năng trao
đổi oxy, khả năng loại bỏ sản phẩm thải cá và các thức ăn dư thừa, ngưỡng oxy
trong nước thấp và khả năng trao đổi khí trời kém diễn ra trong thời gian dài có
thể gây ức chế cho sự phát triển bình thường của buồng trứng thậm chí dẫn đến
suy thoái. Cá trê có cơ quan hô hấp phụ nên có thể nuôi với mật độ cao hơn so với
các loài cá không có cơ quan hô hấp phụ khác, Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn
Kiểm (2008) khuyến cáo mật độ nuôi vỗ cá trê là 1,5kg là thích hơp nên trong quá
trình thực hiện đề tài mật độ nuôi vỗ cũng dao động trong khoảng 1,5-2kg. Thực tế
theo dõi cho thấy với mật độ nuôi như trên cùng với thức ăn công nghiệp thì cá
thành thục tốt, sức tải của ao đối với chất thải cũng tốt, không xảy ra ô nhiễm.
Một nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình thành thục của cá nuôi
vỗ là loại hormone sử dụng ở lần sinh sản trước đó. Theo Nguyễn Tường Anh
(2004) thì có sự khác biệt về thời gian tái thành thục giữa nhóm sử dụng HCG ,
chế phẩm tuyến yên và LRH-A. Điều này được lý giải dựa trên chức năng sinh lý
của loại hormone được sử dụng, LRH-A gây phóng thích triệt để kích dục tố nội
sinh của tuyến yên (FSH & LH) dẫn đến sự suy kiệt của các tế bào tạo kích dục tố
của cá bố mẹ nên khi nuôi vỗ tái phát thì cá cái thành thục khó khăn hơn, cần thời
gian dài hơn và hệ số thành thục cũng thấp hơn so với khi sử dụng các hormone
steroid khác.
3. Ảnh hưởng của hormone tới sinh sản cá:
3.1. Ảnh hưởng của HCG tới sinh sản cá:
Sử dụng HCG để kích thích sinh sản thu được các kết quả trình bày trong bảng 6
24
Bảng 6: Ảnh hưởng của HCG (UI/kg) tới sinh sản cá
Nghiệm
thức
Tỷ lệ cá đẻ
(%)
Thời gian
hiệu ứng
(h)
Tỷ lệ thụ
tinh (%)
Tỷ lệ nở
(%)
Nhiệt độ
(oC)
I (2000) 52.5 13h50 63.7 80.1 28.5
II (2500) 61.3 13h43 64.1 81.3 28.5
III (3000) 94.4 13h35 75.6 82.4 28.5
IV (3500) 95.7 13h40 79.8 82.6 28.5
V (4000) 96.9 13h32 84.3 83.2 28.5
Qua bảng số liệu nhận thấy khi tăng liều HCG thì tỷ lệ cá sinh sản cũng tăng lên,
tuy nhiên giữa 3 nghiệm thức III, IV, V có sự sai khác nghiệm thức V cho tỷ lệ cá
sinh sản cao nhất nhưng sự sai khác này không rõ ràng lắm. Liều lượng hormone
sử dụng có thấp hơn so với các tác giả khác, Đoàn Khắc Độ (2008) 5000-
6000UI/kg, Dương Nhật Long (2003) 4000-6000UI/kg tuy nhiên kết quả đạt được
tương đối tốt từ 94-96%. Trong thực tế sản xuất các trại giống sử dụng liều lượng
dao động từ 2500-4000UI/kg đều cho kết quả sinh sản tốt và hạ thấp được giá
thành.
Về thời gian hiệu ứng, không có sự khác biệt thống kê giữa các nghiệm thức, thời
gian hiệu ứng bị chi phối nhiều bởi nhiệt độ môi trường nước chứa cá bộ mẹ, nhiệt
độ tăng lên trong giới hạn cho phép thì thời gian hiệu ứng giảm xuống và ngược
lại, tuy nhiên khi thực hiện thí nghiệm này nhiệt độ chỉ cho một giá trị 28,5 nên có
thể lý giải cho sự xấp xỉ của thời gian hiệu ứng giữa các nghiệm .
Về tỷ lệ thụ tinh, có sự chênh lệch rõ ràng giứa 2 nhóm I,II và III,IV,V. Sự chênh
lệch này được lí giải dựa trên liều lượng hormone tiêm, nghiêm I và II với liều
lượng 2000 và 2500UI chưa đủ để chuyển pha gây chín và rụng triệt để chính điều
này làm ảnh hưởng đến chất lượng trứng-tiền đề cho tỷ lệ thụ tinh thấp, chênh lệch
khoảng 10% so với các nghiệm còn lại. Cho nên với cùng nguồn bố mẹ, chất
lượng như nhau, tiến hành trong điều kiện môi trường như nhau thì liều lượng
hormone mang tính quyết định,qua thí nghiệm nhận thấy liều lượng HCG từ 3000-
4000UI cho kết quả sinh sản tốt nhất.
3.2. Ảnh hưởng của LRH:
Sử dụng LRH kích thích sinh sản cá, kết quả được trình bày trong bảng 7
25
Bảng 7: Ảnh hưởng của LRH (µg/kg) tới sinh sản cá
Nghiệm
thức
Tỷ lệ cá đẻ
(%)
Thời gian
hiệu ứng
(h)
Tỷ lệ thụ
tinh (%)
Tỷ lệ nở
(%)
Nhiệt độ
(oC)
I(50) 47% 13h10 62.2% 78.4% 29
II(75) 63% 13h2 74.2% 79.5% 29
III(100) 98.2% 12h55 84.8% 85% 29
IV(125) 97.8% 12h50 83.7% 84.7% 29
V(150) 97.1% 12h57 84.1% 83.8% 29
( Tất cả các nghiệm thức đều bổ sung 10mg DOM/kg cá cái)
Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2008) liều lượng LRH sử dụng để
sinh sản cá trê được khuyến cáo từ 50-70µg/kg (có bổ sung 10mg DOM) cho kết
quả sinh sản tốt. Tuy nhiên trong thí nghiệm này thì 2 nghiệm thức I&II nằm trong
khoảng khuyến cáo nhưng kết quả thu được không thực sự tốt. Thời gian hiệu ứng
và tỷ lệ nở đều xấp xỉ các nghiệm khác, riêng tỷ lệ cá đẻ và thụ tinh lại thấp. Các
nghiệm thức III,IV và V đều cho các trị số tương đương nhau nhưng nghiệm thức
III cho giá trị tối ưu nhất trong thí nghiệm này.
Sỡ dĩ có sự chênh lệch về liều lượng giữa thực tế thí nghiệm với khuyến cáo là do
ảnh hưởng của LRH từ lần sinh sản trước lên sự tái thành thục và sinh sản lần
tiếptheo ở cá trê. Đàn cá bố mẹ sử dụng trong quá trình làm luận văn này được
nuôi vỗ từ nguồn cá được kích thích sản ở mùa trước bằng LRH. Hiện tượng
“quen thuốc” này cũng xảy ra tương tự trên cá chép. Chính vì nguyên nhân này mà
hầu hết các trại giống đều loại thải đàn bố mẹ sau hai mùa sinh sản vì cá càng lớn
tuổi thời gian tái thành thục sẽ kéo dài hơn, đồng thời gia tăng liều lượng kích dục
tố sẽ làm tăng giá thành và ảnh hưởng tới năng suất.
3.3. Ảnh hưởng kết hợp não thùy và LRH:
Khi sử dụng kết hợp não thùy và LRH, kết quả thu được trình bày trong bảng 8
26
Bảng 8: Ảnh hưởng kết hợp não thùy và LRH tới sinh sản cá
Nghiệm thức
Não thùy
(mg/kg)
LRH
(µg/kg)
Tỷ lệ cá
đẻ (%)
Thời
gian hiệu
ứng (h)
Tỷ lệ thụ
tinh (%)
Tỷ lệ nở
(%)
Nhiệt độ
(oC)
0 50 17.6 14h10 42.1 48 28
1 50 18.2 14h12 53.2 52.4 28
2 50 60 14h 56.5 58.5 28
3 50 95.2 14h20 85.1 88.2 28
4 50 96.1 14h1 85.3 89.3 28
5 50 98 14h5 86.1 89.9 28
2 75 96.3 13h58 84.8 88.6 28
2 100 99.2 14h3 86.9 90.2 28
Ở nghiệm thức đầu tiên với liều lượng 50µm LRH không có sử dụng them não
thùy cho kết quả rất thấp: tỷ lệ cá đẻ (17.6%), tỷ lệ thụ tinh (42.1%), tỷ lệ nở
(48%). Kết quả này có thể lý giải là do liều lượng hormone sử dụng thấp, không
đủ để kích thích tuyến yên phóng thích đủ lượng FSH gây chín và rụng trứng dẫn
đến tỷ lệ cá đẻ thấp, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến sản phẩm sinh dục làm cho
tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ cá nở cũng thấp dưới 50%.
Ở nghiệm thức II có bổ sung them 1mg não thùy, các thông số này có tăng lên tuy
nhiên kết quả vẫn không tốt khi tỷ lệ cá đẻ chỉ đạt 18,2%. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ cá
nở có cải thiện đạt xấp xỉ 50%. Ở nghiệm thức III có bổ sung 2mg não thùy, tỷ lệ
cá đẻ có biến đổi rõ rệt, cao hơn nghiệm thức II đến 41%, hơn nữa tỷ lệ thụ tinh và
tỷ lệ nở cũng tăng lên.
Đến nghiệm thức III, IV, V lúc này kết quả đạt được khá tốt. Cả 3 nghiệm thức
này không có sự sai khác rõ ràng, đều xấp xỉ nhau, đều cho tỷ lệ cá đẻ >95%, tỷ lệ
thụ tinh và tỷ lệ nở đều >85%.
Qua bảng số liệu có thể thấy được rằng, với các điều kiện như nhau cố định LRH
ở mức 50µg/kg và tăng lượng não thùy kết hơp từ 0-5mg/kg thì kết quả sinh sản
của cá tăng lên. Tuy nhiên lượng não thùy từ 3-5mg/kg cho kết quá tương đương
nhau. Điều này hoàn toàn hợp lý vì bản chất của não thùy cá thành thục có chứa
FSH-tác nhân chính trong quá trình gây chính và rụng trứng, do đó khi 50µg LRH
27
không đủ tác dụng thì việc gia tăng lượng não thùy qua từng nghiệm thức đã cải
thiện đáng kể kết quả sinh sản.
Ở 2 nghiệm thức VI,VII (cố định não thùy 2mg/kg) khi đó lượng LRH sử dụng ở
mức 75µg/kg đã cho kết quả sinh sản khá tốt, tỷ lệ cá đẻ đạt >96%, tỷ lệ thụ tinh
và tỷ lệ nở trê > 85%. Nhưng khi tăng lượng LRH lên 100µg thì kết quả đạt được
thật hoàn hảo khi tỷ lệ cá đẻ trên 99% và tỷ lệ nở trên 90%. Rõ ràng ở liều lượng
kết hợp như nghiệm thức V,VI đã mang lại hiệu quả tốt.
3.4. Ảnh hưởng của loại hormon tới sinh sản cá:
Bảng 9: Ảnh hưởng của loại hormone tới sinh sản cá
Nghiệm thức Tỷ lệ cá đẻ (%) Thời gian hiệu
ứng (h)
Tỷ lệ thụ tinh
(%)
I
HCG(3000UI/kg)
95.7 13h12 29
II
LRH (100µ/kg)
95.4 13h10 29
( Chú ý: Nghiệm thức II có bổ sung 10mg não thùy)
Qua bảng số liệu cho thấy hai nghiệm thức này cho kết quả tương đương nhau.
Như vậy trong cùng điều kiện môi trường, cùng nguồn cá bố mẹ hai loại hormone
này có hiệu quả như nhau.
3.5. Ảnh hưởng của hormone đến tỷ lệ cá dị hình:
Qua thực tế sản xuất tại trại, chúng tôi đã theo dõi và đánh giá sự ảnh hưởng của
từng loại hormon đến tỷ lệ cá dị hình. Kết quả được trình bày trong bảng 10
Bảng 10: Ảnh hưởng của loại hormon đến tỷ lệ dị hình
Nghiệm thức Tỷ lệ dị hình (%)
HCG 1.2 ± 0.1
LRH+DOM 1 ± 0.2
LRH+não thùy 0.8 ± 0.09
Qua bảng kết quả thu được, nhìn chung tỷ lệ dị hình của các loại hormone không
có sự sai khác rõ rệt, dao động trong khoảng 5-6% và phụ thuộc nhiều vào chất
lượng cá bố mẹ.
28
4. Sinh trưởng của cá tại ao ương:
4.1. Tốc độ sinh trưởng của cá:
Kết quả thu được trình bày trong bảng 11:
Bảng 11: Tốc độ sinh trưởng của cá
Độ tăng tăng trưởng Ngày tuổi Chiều dài TB
(cm)
Khối lượng
TB (g)
Chiều dài
(cm/ngày)
Khối lượng
(g/ngày)
2 (cá bột) 0.67 ------------- ------------ ---------------
15 4.26 0.75 0.26 ---------------
30 9.15 5.14 0.093 0.125
Sau 30 ngày ương, cá trê lai giống có chiều dài 9.15cm, khối lượng 5.14g và có
Độ gia tăng về chiều dài theo ngày = 0.093, độ gia tăng về khối lượng theo ngày =
0.125.
4.2. Tỷ lệ sống:
Sau một tháng ương tiến hành thu cá giống đồng loạt trên 3 ao thả ương ban đầu
và kết quả trình bày trong bảng 11
Bảng 12: Tỷ lệ sống
Ao Tỷ lệ sống (%)
1 22.4
2 23.5
3 21.8
Nhìn chung tỷ lệ sống của cá bột dao động khoảng 20%, tỷ lệ sống này bị chi phối
bởi nhiều yếu tố khác nhau từ chất lượng cá bột ban đầu cho đến kỹ thuật chăm
sóc quản lý ao.
29
Chương V
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận:
Sau 5 tháng thực hiện đề tài “Kỹ thuật sản xuất giống cá trê vàng lai” chúng tôi có
một số kết luận sau:
5.1.1. Các yếu tố môi trường không ảnh hưởng nhiều đến quá trình nuôi cá bố mẹ,
ương cá con..
5.1.2 Khi dùng đơn độc HCG, LRH và DOM, hoặc kết hợp các loại kích thích tố
này với não thùy đều có tác dụng kích thích cá trê thành thục đẻ trứng. Tỷ lệ cá đẻ
đạt từ 52,5% đến 96,9% khi dùng HCG; 47% đến 97,1% khi dùng LRH + DOM;
17,6% đến 99,2% khi dùng LRH + não thùy.
5.1.3 Khi sử dụng kết hợp 2mg não thùy + 100µg LRH cho kết quả sinh sản tối ưu
nhất, đạt trên 99% tỷ lệ cá đẻ, tỷ lệ nở đạt trên 86% và tỷ lệ cá dị hình chỉ dao
động trong khoảng 5-6%.
5.1.4. Cá trê tái thành thục sau khoảng 35-40 ngày nuôi vỗ tái phát.
5.1.5. Cá trê bột được ương sau 30 ngày có: Độ gia tăng về chiều dài theo ngày =
0.093; độ gia tăng về khối lượng theo ngày = 0.125
Tỷ lệ sống dao động trong khoảng 20%.
5.2. Đề xuất:
Nghiên cứu bổ sung thêm một số chỉ tiêu thành thục của cá trê trong ao nuôi vỗ:
Hệ số thành thục, tỷ lệ thành thục.
30
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bạch Thị Quỳnh Mai, 2004. Kỹ thuật nuôi cá trê vàng lai. NXB Nông
Nghiệp. 42tr.
2. Đoàn Khắc Độ, 2008. Kỹ thuật nuôi cá trê vàng lai & trê vàng. NXB Đà
Nẵng. 71 tr.
3. Ngô Trọng Lư – Lê Đăng Khuyến, 2000. Kỹ thuật nuôi cá trê, lươn, giun
đất. NXB Nông Nghiệp. 99 tr.
4. Nguyễn Duy Khoát, 199. Kỹ thuật nuôi ba ba, ếch đồng, cá trê lai. NXB
Nông Nghiệp. 86 tr.
5. Nguyễn Tường Anh, 2004. Kỹ thuật sản xuất giống một số loài cá nuôi.
NXB Nông Ngiệp, 103 tr.
6. Dương Nhựt Long, 2003. Giáo trình kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt. Tủ
sách Đại học Cần Thơ.
7. Phạm Minh Thành, 2005. Giáo trình nuôi thủy sản đại cương. Tủ sách Đại
học Cần Thơ.
8. Nguyễn Văn Kiểm, 2007. Giáo trình kỹ thuật sản xuất giống cá nước ngọt.
Tủ sách Đại học Cần Thơ.
9. Phạm Minh Thành – Nguyễn Văn Kiểm, 2008. Cơ sở khoa học và biện
pháp sản xuất cá giống. Tủ sách Đại học Cần Thơ.
10. Gertjan de Graaf and Hans Janssen, 1996. Artificial Reproduction and Pond
Rearing of the African Catfish Clarias Gariepinus in Sub-Saharan Africa -
A Handbook
11. Southeast Asian Fisheries Development Center October, 1999. Seed
production of the native catfish Clarias macrocephalus (Gunther).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_hcp_quang_7463.pdf