Trở lại hiện tại với tình trạng tiến thoái lưỡng nan mà các cơ quan hoạch định chính
sách ở Ấn Độ đang đối mặt - đó là hoặc thực hiện biện pháp giảm lạm phát nhưng lại
ảnh hưởng quá trình khôi phục kinh tế; hoặc tiếp tục theo đuổi tăng trưởng kinh tế
nhưng làm gia tăng áp lực kỳ vọng lạm phát. Bằng chứng thực nghiệm của nghiên cứu
này cho thấy có độ trệ đáng kể cấu thành nên kỳ vọng lạm phát ở Ấn Độ, khá tương
đồng với kết quả thực nghiệm ở nước khác. Trong phạm vi này, những kinh nghiệm
gần đây về mức lạm phát tăng cao ở một số sản phẩm chủ yếu, đặc biệt là giá thực
phẩm có thể dễ dàng tác động mạnh vào dự đoán lạm phát trong tương lai của dân
chúng và khó có thể thay đổi. Điều này cần được xem xét cùng với kết quả thực
nghiệm và cho thấy rằng một phần ba các biến lạm phát trong tương lai cũng như quá
khứ - được giải thích bởi giá thực phẩm trong chỉ số giá chung của những mặt hàng
chủ yếu. Hơn nữa, những cú sốc giá thực phẩm ở cấp độ tổng thể sẽ rất lâu mới có thể
quay trở về trạng thái cũ. Do đó theo quan điểm của chúng tôi, tranh luận về vấn đề
nguyên nhân lạm phát của những người theo chủ nghĩa trọng cung và xem nhẹ vai trò
của chính sách tiền tệ sẽ bị áp đảo do sự xuất hiện rõ ràng của nguy cơ lạm phát kỳ
vọng đang khiến cho tình hình lạm phát ở Ấn Độ ngày càng phức tạp và tăng nhanh
hơn. Tại Ấn Độ, chính sách tiền tệ được điểu hành theo cách truyền thống là neo lạm
phát kỳ vọng quanh mức 5%. Điều này được phản ánh rõ ràng thông qua phản ứng của
thị trường tài chính đối với chỉ số WPI công bố hàng tuần. Thật vậy, trong những tuần
gần đây kể từ cuối tháng 9 năm 2009, dễ nhận thấy rằng chỉ số lạm phát WPI đã hạ
xuống nhờ niềm tin bền vững của thị trường vào việc duy trì chính sách tiền tệ nhằm
mục tiêu chống lạm phát, khiến lãi suất của các tài sản ngắn hạn xuống thấp hơn lãi
suất RBI, kể cả tín phiếu Kho bạc 91 ngày.
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lạm phát kỳ vọng và Chính sách tiền tệ ở Ấn Độ: Khám phá thực nghiệm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là khoảng 32% vào ngày 13/3/2010. Lạm phát được
đánh giá dựa trên nhóm chỉ số CPIs đã tăng từ tháng 6/2008, chủ yếu là do sự gia tăng
trong giá cả thực phẩm, giá nhiên liệu và dịch vụ, và ghi nhận ở mức khoảng 16,2 -
17,6% trong suốt tháng 1/2010. Chỉ số giá tiêu dùng ở khu vực nông thôn (CPI –
Rural) ngày càng tăng với một tốc độ nhanh hơn so với các chỉ số khác. Sự phản ứng
của chính sách cho thấy các mặt tích cực cho nguồn cung:loại bỏ các hạn chế như giới
hạn lượng dự trữ để tạo điều kiện tư nhân mua bán trong mùa thu hoạch; hạn chế tiêu
dùng số lượng lớn đường nhằm để đảm bảo nguồn dự trữ và đẩy mạng cung ứng hàng
hóa thông qua hệ thống phân phối công; loại bỏ thuế nhập khẩu gạo, lúa mì và đường
thô; miễn thuế nhập khẩu đường tinh luyện bởi các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp
tư nhân được chỉ định. Có mối quan ngại tại Ấn Độ rằng lạm phát cao tồn tại kéo dài
có thể dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy và gia tăng mức độ lạm phát kỳ vọng.
Đồ thị 2: Biến động WPI và lạm phát CPI
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 7
Rõ ràng, RBI đang cho thấy sự lúng túng với việc lạm phát bắt đầu tích lũy tăng trở
lại. Vào tháng 4/2009, báo cáo thường niên về chính sách tiền tệ của RBI trong giai
đoạn 2009 – 2010 đã xác định lạm phát WPI xoay quanh mức 4% vào cuối tháng
3/2010. Bản cập nhật sau đó về Chính sách tiền tệ được phát hành tháng 7/2009 chú ý
rằng sự tiêu cực của chỉ số lạm phát WPI là do bởi những tác động cơ bản về mặt
thống kê và nó không cho thấy sự sụt giảm tương ứng trong lạm phát kỳ vọng.Theo đó,
kế hoạch lạm phát WPI đã được nâng lên mức 5%. Trong bản báo cáo về chính sách
tiền tệ số tháng 10/2009, RBI đã xác định rằng những tác động cơ sở, mà đã dẫn tới sự
tiêu cực của chỉ số lạm phát WPI trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 8/2009, sẽ có
những ảnh hưởng theo chiều ngược lại theo hướng gia tăng lên bởi giá lương thực cao.
Những khảo sát về lạm phát kỳ vọng hàng quý của RBI đối với hộ gia đình chỉ ra rằng
phần lớn các đối tượng khảo sát mong đợi lạm phát sẽ tiếp tục tăng trong 3 tháng tới
cũng như qua năm kế tiếp. Theo đó, mốc kế hoạch cho lạm phát WPI cuối tháng 3 năm
2010 được đặt ra là 6,5% “ với độ nghiêng dốc lên” cũng đồng nghĩa với “rủi ro gia
tăng rõ ràng hơn”. Đứng trên quan điều hành, chính sách tiền tệ bắt đầu sẵn sàng “phản
ứng nhanh chóng và hiệu quả thông qua những điều chỉnh chính sách để hướng đến
mục tiêu ổn định lạm phát kỳ vọng” (RBI, tháng 10/2009). Trong bản cập nhật theo
quý số tháng 1/2010, RBI chỉ ra rằng lạm phát tăng đã trở thành sự thật và thừa nhận
những dấu hiệu cho thấy sức ép lên nhu cầu, cùng lúc đó RBI nâng mức kế hoạch lạm
phát WPI cuối tháng 3/2010 lên 8,5%. Gần đây, vào ngày 19/3/2010 RBI chỉ ra rằng
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 8
sức ép của lạm phát đã tăng cao vượt ra khỏi giới hạn kế hoạch, đang phản ánh vào sự
đắt đỏ của giá cả lương thực, sự gia tăng giá cả hàng hóa phi lương thực, gia tăng trong
hiệu suất sử dụng và tăng giá cả hàng hóa và năng lượng, “tăng cường sức ép lên nhà
cung cấp dịch vụ/sản phẩm mà khi đó hình thành nên vòng xoáy lạm phát phổ biến”.
Dấu vết của lạm phát kỳ vọng: quy định của luật chơi
Ở Ấn Độ, sự đa dạng quá mức các chỉ báo giá cả và những thiếu sót của nó, và đặc
biệt, sự bất bình được nêu lên bởi RBI về những chỉ báo này đã đặt ra một vấn đề cấp
bách gắn liền với việc hướng đến một nhóm chỉ tiêu phản ánh được lạm phát dưới góc
nhìn của con người và ở đó nó có thể được sử dụng chủ đạo trong việc dự báo. Tuy
nhiên, nói có vẻ dễ hơn làm. Ở điểm bắt đầu, nỗ lực này đã vấp phải những cản trở rất
lớn. Một phương pháp đo lường chuẩn mực về lạm phát kỳ vọng không tồn tại có sẵn
ở Ấn Độ. Chưa có một cuộc khảo sát nào về lạm phát kỳ vọng được thực hiện trong
phạm vi cộng đồng. Từ tháng 12/2005, RBI đã thực hiện một những cuộc điều tra lạm
phát kỳ vọng hàng quý đối với các hộ gia đình để phục vụ công tác quản lý nội bộ.
Cuộc điều tra bao gồm 4.000 hộ gia đình được sử dụng để lấy mẫu, trải dài qua 12
thành phố ở 4 vùng của đất nước. Thiết kế khảo sát có mục đích và các hộ gia đình
được lựa chọn để đạt được tính đại diện tốt theo vùng địa lý và giới tính. Khảo sát đạt
được kết quả (i) những phản hồi chất lượng với những thay đổi giá cả (giá cả chung
được phản ánh tốt thông qua giá cả của một số nhóm hàng đặc biệt) trong 3 tháng tiếp
theo và năm kế tiếp và (ii) phản hồi mang tính định lượng tại thời điểm hiện tại, tỷ lệ
lạm phát cho 3 tháng kế tiếp và một năm sau. Một Ủy Ban Tư vấn Kỹ thuật cho cuộc
khảo sát (TACS) đã được thiết lập trong suốt năm 2007 để kiểm tra sự tồn tại và khả
năng tin cậy đối với số liệu của cuộc khảo sát. Những phân tích của nó đã phát hiện ra
rằng mẫu nghiên cứu về tiêu thụ thay đổi qua các thành phố. Điều này cũng phản ánh
thông qua sự giao động giữa các thành phố lớn gần nhau trong những chỉ tiêu lo lường
giá cả có sẵn. Khoảng trống/biến động giữa các thành phố được giải quyết bằng
phương thức thay đổi mẫu theo hướng co hẹp khoảng từ 20 đến 30 điểm nhưng gia
tăng chuỗi thời gian, điều này chỉ ra rằng những đối tượng khảo sát có sự kết nối hơn
trong nhận thức về lạm phát hiện tại so với lạm phát kỳ vọng trong tương lai gần.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 9
Dựa trên những phát hiện này, một nhóm trong nước đã khuyến khích kết quả của
cuộc khảo sát nên được công bố ra công chúng với sự kì vọng vào một sự cải cách
trong vấn đề minh bạch chính sách tiền tệ (RBI, tháng 9/2009). Tuy nhiên nó sẽ phải
mất một khoản thời gian để chuỗi dữ liệu được đầy đủ cho các phân tích dựa trên kết
quả này là có ý nghĩa. Điều này đặt ra vấn đế cho những nhà dự báo chuyên nghiệp
của RBI về việc xây dựng những nghiên cứu và cập nhật thường xuyên theo sự vận
động nền kinh tế – mở rộng cho những đối tượng Ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương
mại, sàn giao dịch chứng khoán, tổ chức môi giới quốc tế, cơ quan giáo dục chọn lọc,
cơ quan sếp hạng tín dụng, công ty chứng khoán, công ty quản lý tài sản…Những dự
báo mang tính định kì từng quý về biến số kinh tế vĩ mô quan trọng bao gồm lạm phát
là dựa trên WPI và CPI cho công nhân lĩnh vực công nghiệp đã được suy luận ra, cũng
như xác suất kết quả có thể xảy ra. Một số điểm nổi bật của cuộc khảo sát đã đưa ra
trong báo cáo quý của RBI nhưng một lần nữa không cho thấy chuỗi tự nhiên phù hợp
mà chỉ đưa ra những kết quả phân tích. Một nhận định tổng quan được thực hiện bởi
một nhóm thuộc RBI là mặc dù cuộc khảo sát là mới và dữ liệu chỉ thu thập trong
khoản thời gian ngắn, nhưng những dự báo về GDP thì sát với kết quả thực hơn những
dự báo trong lạm phát. Cuộc khảo sát sẽ cho ra những đánh giá tốt nếu có thể tiến hành
với chuỗi thời gian dài hơn. Hơn thế nữa, lạm phát kỳ vọng được tham khảo trên cơ sở
trái phiếu thả nổi theo lạm phát hoặc từ hoạt động bảo hiểm là không hữu ích. Theo
hiểu biết của chúng tôi, chỉ có duy nhất một loại trái phiếu chỉ số vốn được phát hành,
mà giá trị khoản vốn đầu tư được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát, là không chịu sự ảnh
hưởng lớn từ những yếu tố thị trường khác.
III. Phương pháp luận
Lạm phát kỳ vọng từ lâu đã đóng vai trò trung tâm trong việc phân tích các chính sách
tiền tệ và phân tích hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong thông điệp từ Tổng thống
Milton Friedman đối với Hiệp hội Kinh tế Mỹ năm 1968. Vấn đề kỳ vọng tác động
như thế nào và đặc điểm của chúng là gì, cách đo lường , mức độ phản ứng tức thời đối
với những thay đổi chính sách; đây là một số vấn đề trong nhiều vấn đề được tranh
luận gay gắt trong thời gian qua. Trong số những vấn đề này, có những bất đồng và
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 10
điều này đã thúc đẩy việc mở rộng nghiên cứu những kỹ thuật và phương pháp thu
thập và xử lý thông tin (Mankiw, Reis and Wolfers, 2003). Tuy nhiên, trong số đó thì
khía cạnh được đa số đồng ý chính là: trong khi lạm phát tác động đến sức mua thì lạm
phát kỳ vọng tác động đến hành vi của dân chúng và chính điều này sẽ tác động đến sự
phát triển dài hạn của nền kinh tế. Chính vì thế, ngày nay, mục tiêu của chính sách tiền
tệ nhằm kiểm soát lạm phát kỳ vọng. Neo lạm phát kỳ vọng là bước đầu tiên để tiến
hành kiểm soát lạm phát và tối thiểu hóa chi phí đầu ra của việc giảm lạm phát , đặc
biệt khi có sự tồn tại của những cú sốc ngược lớn.
Thật không may là không thể biết một cách chính xác kỳ vọng lạm phát của dân
chúng, những người khác nhau có những cách hiểu khác nhau về lạm phát. Điều quan
trọng nhất chính là kỳ vọng về những vấn đề tác động trực tiếp đến giá và lương đối
với nhân công hay các công ty,… Tuy nhiên, thông qua việc khái quát hóa chi phí, có
ba cách tiếp cận để ước tính làm phát kỳ vọng – (1) chỉ số lạm phát trái phiếu chính
phủ cho biết lạm phát kỳ vọng là sự khác biệt giữa lãi suất của một trái phiếu thông
thường và trái phiếu có điều chỉnh theo chỉ số lạm phát với cùng một kỳ hạn thanh
toán; (2) hoán đổi lạm phát cung cấp một công cụ phòng ngừa rủi ro lạm phát và được
thể hiện qua phí bảo hiểm; (3) và những bảng khảo sát đo mức kỳ vọng lạm phát thông
qua việc hỏi ý kiến của dân chúng, đặc biệt khi họ nhận thức được những cách thức mà
thị trường tài chính phát tín hiệu lạm phát. Mỗi biện pháp có những thiếu sót của riêng
nó và điều này chứng minh là có những trở ngại nghiêm trọng cho phân tích thực
nghiệm. Chỉ số thị trường có thể phản ánh rủi ro và những nhân tố khác của thị trường
ngoài nhân tố lạm phát kỳ vọng. Ngay cả chỉ số kinh tế trực tiếp như dữ liệu quyết toán
tiền lương có thể phản ánh không chỉ lạm phát kỳ vọng mà còn những nhân tố như
năng suất và khả năng chi trả. Những đo lường bằng khảo sát nhạy cảm với các cách
thức đo lường liên quan đến lạm phát – CPI, WPI và hạt nhân lạm phát… Các cuộc
khảo sát nói chúng không chỉ định những chỉ số cụ thể vì thế kết quả của chúng phải
được giải thích một cách thận trọng. Một số bài nghiên cứu còn chỉ ra rằng bảng khảo
sát đưa ra những kết quả có tính biến động cao (Blanchflower và các cộng sự, 2009).
Vì vậy, chìa khóa để thiết lập chính sách tiền tệ trong tương lai là cách thức đo lường
lạm phát kỳ vọng. Trong trường hợp không có các cách thức thông thường thay thế thì
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 11
cách tiếp cận thứ hai là sự hình thành của lạm phát kỳ vọng với giả định hợp lý liên
quan đến nhân tố hành vi.
Đo lường lạm phát kỳ vọng tại Ấn Độ: Một cách tiếp cận thực tế
Đối với vấn đề này, một quy trình gồm hai giai đoạn được áp dụng để đo lường các
yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát kỳ vọng tại Ấn Độ. Đầu tiên, chúng tôi dựa vào hàng
loạt các lý thuyết để tiến hành tính toán lạm phát kỳ vọng dựa trên mô hình ước lượng
không chệch về lạm phát kỳ vọng và sau đó mở rộng cách tiếp cận theo hướng thực tế
để thu thập chuỗi dữ liệu theo thời gian của lạm phát kỳ vọng. Cách tiếp cận này dựa
trên 2 giả định: (1) hành vi hợp lý; (2) tất cả các thông tin đều được phản ánh dưới
những thay đổi trong giá cả, nhưng về bản chất thì cung tiền luôn biến động trong ngắn
hạn. Để thực hiện điều này, chỉ số giá được lấy từ dữ liệu WPI tháng, với các loại hàng
hóa có tính ổn định cao. Dữ liệu thống kê từ tháng 4 năm 1997 đến tháng 12 năm
2008, trùng với thời kỳ Ấn Độ bắt đầu nhận các thành quả từ công cuộc cải cách kinh
tế Ấn Độ, thực hiện tự do hóa bên ngoài, đồng thời tích cực chuyển đổi thị trường
trong nước theo hướng nới lỏng kiểm soát, bỏ dần các quy định. Thời kỳ này cũng
đánh dấu một sự thay đổi từ cơ chế điều hành chính sách tiền tệ chỉ căn cứ vào mở
rộng cung tiền, sang điều hành dựa theo các chỉ số, giảm bớt quy định kiểm soát, xem
xét cả thông tin trên thị trường tài chính và các yếu tố như sản lượng, chính sách tài
khóa, cán cân thanh toán cho việc hoạch định chính sách. Các nghiên cứu trước đây đã
chỉ ra rằng xây dựng các mô hình về lạm phát trong giai đoạn này rất phức tạp do biến
động giá của một số mặt hàng chủ yếu, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ giữa các
ngành chủ lực với các ngành khác trong nền kinh tế. Hơn nữa, sự phát triển của M1
còn bao hàm thông tin về lạm phát trong thời gian tới, khi mà chỉ số output gap – thể
hiện sự chênh lệch giữa GDP tiềm năng và GDP thực tế - không thể sử dụng được để
đánh giá (theo Callen and Chang, 1999). Chúng tôi cũng gặp vấn đề tương tự trong quá
trình thu thập dữ liệu, đó là sự không phù hợp về thông tin liên quan ở các tần suất
khác nhau (như dữ liệu hàng tháng so với dữ liệu hàng quý/hàng năm trong các nghiên
cứu trước đó).
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 12
Các đồ thị minh họa trong phần sau, có dữ liệu lạm phát tháng theo mô hình ARMA –
tự hồi quy trung bình trượt, bao gồm dữ liệu quá khứ (thành phần AR), dữ liệu hiện tại,
và các giá trị nhiễu trắng được làm trượt (thành phần MA)…, sai số dự báo trong quá
khứ, hiện tại. Tính mùa vụ trong mô hình AR và MA được khử bằng kỹ thuật toán
X12, và được xác nhận bằng các kiểm định khác, sẽ được trình bày ở phần sau. Như đã
biết, ARMA đưa ra mô hình hồi quy đơn biến, đồng thời tính toán độ lệch của chuỗi
dữ liệu với kỳ vọng toán của nó, đặc biệt là với những dữ liệu có tính ổn định. Những
đặc trưng của mô hình ARMA khiến nó được lựa chọn trong quá trình tìm kiếm một
phương án phù hợp nhất. Chúng tôi không tuân theo các phương pháp chuẩn dùng để
đo lường lạm phát kỳ vọng, mà dự báo theo mô hình ước lượng không chệch để kết
quả là đáng tin cậy, thực sự thể hiện mức kỳ vọng hợp lý vào tương lai của dân chúng.
Trên thực tế, có những khó khăn trong việc nhận dạng mô hình, đó là việc mô hình
chưa được ghi nhận trong bất kỳ lý thuyết hay công thức nào trước đó. Hơn nữa,
ARMA có thể dự đoán thiếu chính xác tại điểm ngoặt (turning point). Dù vậy, mô hình
ARMA được minh chứng minh là có thể dùng để dự báo lạm phát trong ngắn hạn khá
tốt, tốt hơn so với mô hình cấu trúc, cũng là yếu tố quan trọng khi xem xét chọn lựa
mô hình trong Bài nghiên cứu này (xem Stockton và Glassman, 1987; Litterman, 1986;
Meyler et al, 1998).
Với dữ liệu theo tháng, công thức phù hợp nhất để tính lạm phát là:
(1) t t ]
Trong đó p, q, m và n tương ứng là bậc của AR, MA, SAR và SMA, và SAR và SMA
đại diện cho tính thời vụ đã được giải thích ở phần trên. Sử dụng công thức (1), dữ liệu
không chệch của dự báo lạm phát đại diện cho mức lạm phát kỳ vọng. Điều này được
thực hiện bằng cách tạo ra một chuỗi tĩnh theo hiệp phương sai.
Chúng tôi ý thức được rằng cách tiếp cận dựa trên mô hình lạm phát kỳ vọng sẽ mở ra
một làn sóng chỉ trích rằng chúng được dựa báo từ mô hình lạm phát thực tế. Như đã
đề cập ở trên, đây là một cách tiếp cận thực tế tốt thứ hai mà chúng ta đang phải áp
dụng trong trường hợp không có một biện pháp tiêu chuẩn nào cho lạm phát kỳ vọng,
nhưng được RBI xem xét để neo lạm phát kỳ vọng trong điều hành chính sách tiền tệ,
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 13
thực hiện chính sách tiền tệ. Hơn nữa, nó đã có từ tiền lệ truyền thống trong lý thuyết
(xem Meyler, Keeny và Quin, 1998; McCulloch và Stec, 2000; Junita, 2001). Tương
tự, để so sánh và kiểm tra kết quả của mình, chúng tôi lấy lạm phát kỳ vọng từ các báo
cáo khảo sát của Concensus Economics đối với các tổ chức tài chính như ngân hàng,
quản lý quỹ và các công ty tài chính (được xem như mức đồng thuận kỳ vọng). Các
báo cáo không hệ thống và thống nhất các mẫu khác nhau theo tháng. Hơn nữa, các
báo cáo này được đưa ra bởi một chủ thể riêng biệt, do đó, dữ liệu đại diện duy nhất
cho một tháng cụ thể được tính trung bình của dữ liệu của các dự báo từ trước đó.
Các yếu tố ảnh hưởng lạm phát kỳ vọng
Sau khi thu thập được chuỗi số liệu liên quan đến lạm phát kỳ vọng cho giai đoạn
nghiên cứu, bước tiếp theo chính là đánh giá sự hình thành những yếu tố kỳ vọng này
và vai trò quan trọng của lạm phát kỳ vọng trong việc hình thành quá trình lạm phát.
Nếu lạm phát kỳ vọng có một vai trò quan trọng trong việc dẫn đến lạm phát ở Ấn Độ,
thì việc neo kỳ vọng rất quan trọng đối với chính sách tiền tệ. Từ bằng chứng thực
nghiệm ở Ấn Độ (RBI, 2002; Kapur và Patra, 2003) và trong truyền thống của Celasun
et al (2004) và Gelos và Iriondo (2008), chúng tôi ước lượng một đường cong Phillip
theo thuyết Keynes mới dựa trên giả định: hành vi có lý trí của một bộ phận nền kinh,
giá cả cứng nhắc. Điều này liên quan đến việc ước lượng một phương trình rút gọn để
đánh giá vai trò của các nhân tố cơ bản và những thay đổi trong các nguyên nhân gây
ra lạm phát. Bài nghiên cứu đang tìm kiếm các thành phần của lạm phát kỳ vọng ở các
nền kinh tế đang phát triển, tập trung vào mức độ lòng tin (Minella et al,. 2003;
Celasun et al, 2004), hay gần đây là vào vai trò của kỳ vọng tài khóa (Celasun, Gelos,
và Prati, 2004a và 2004b). Ở Ấn Độ, dù chính sách tiền tệ không thiết lập các mục tiêu
về lạm phát rõ ràng, nhưng vẫn có một sự thừa nhận ngầm về mức chịu đựng của xã
hội đối với lạm phát. Mô hình đã đưa vào các đặc trưng riêng biệt của một quốc gia
như lạm phát quá khứ để đánh giá sự tồn tại về độ trễ, output gap – chênh lệch giữ
GDP thực và GDP tiềm năng trong đó sử dụng tổng cầu để đo lường, tốc độ tăng
trưởng trong chi tiêu thực của chính phủ như một thước đo về quan điểm tài khóa, lãi
suất thực được xem như quan điểm về chính sách tiền tệ, những thay đổi trong lãi suất
thực được xem là đại diện cho chi phí biên, và giá của thực phẩm và nhiên liệu dùng
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 14
để khám phá tác động của các cú sốc ngoại sinh đến những khu vực mà nền kinh tế Ấn
Độ thường phụ thuộc vào và những yếu tố mà có ảnh hưởng nhất định đến quá trình
hình thành lạm phát. Về mặt cơ bản, sự hiện diện mức chênh lệch GDP – output gap,
các biến quan điểm chính sách, và các đại diện cho chi phí biên và các cú sốc ngoại
sinh được xem như các biến điều kiện để xác định mức độ tồn tại của kỳ vọng lạm
phát.
Để tìm ra các thành phần và độ trễ cơ cấu - lag structure cơ bản - đặc trưng cho quá
trình hình thành lạm phát kỳ vọng, chúng tôi sử dụng phương pháp khái quát đến cụ
thể của Hendry (liên quan đến phương pháp của trường kinh tế Luân Đôn – phương
pháp LSE) phương pháp này bắt chước thuyết rút gọn – theory of reduction để có được
mô hình kinh tế lượng cuối cùng. Thuyết rút gọn và phương pháp khái quát đến cụ thể
là nền tảng của phương pháp LSE cung cấp bước thực hiện mang tính thực nghiệm cao
mà khi đó các mô hình kinh tế lượng kết hợp các hiện tượng thực tế lại để đo lường
(Chao, 2001; Campos et al, 2004). Ý tưởng của một mô hình khái quát đến cụ thể là
dựa vào tính trực giác. Thay vì áp đặt một cách gượng gạo độ trễ cơ cấu vào mô hình,
lag structure nên bắt đầu từ một mô hình thống kê tổng quát, từ đó cho thấy các đặc
trưng chủ yếu của tập dữ liệu cơ sở. Tiếp theo thực hiện các bước thử nghiệm thống kê
chuẩn để giảm tính phức tạp bằng cách loại trừ các biến không có ý nghĩa thống kê và
kiểm tra tính giá trị (căn cứ vững chắc) của sự rút gọn để đảm bảo tính phù hợp của mô
hình. Khi quá trình rút gọn được lặp lại, các hướng để rút gọn có thể được xem xét, và
việc này có thể dẫn đến các kết quả mô tả cuối cùng khác nhau. Encompassing – kiểm
định vòng biến - sau đó được sử dụng để kiểm tra chúng, thường là đan xen nhau, các
kết quả mô tả và chỉ những mô hình mà tồn tại bước kiểm định vòng biến mới được
giữ lại xem xét kỹ hơn. Nếu có nhiều hơn một mô hình tồn tại bước kiểm tra này, nó
có thể trở thành mô hình tổng quát mới và quy trình này được ứng dụng lại. Mô hình
khái quát đến cụ thể sẽ được nhìn nhận tốt hơn nếu kèm theo một số giả định liên
quan. Để minh họa, trong thử nghiệm Monte Carlo, phương pháp tiếp cận từ khái quát
đến cụ thể rất thành công trong việc tìm lại các kết quả mô tả của quá trình tạo và xử lý
dữ liệu (data generating process – DGP) với độ chính xác cao (Krolzig, 1999)
Vì vậy, phương trình ước lượng có dạng sau:
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 15
(2) c Qu c Qu
Trong đó M M M M là độ trễ của lạm phát; (y-y*) là chênh lệch GDP – out gap được định
nghĩa là GDP thực trừ đi GDP xu hướng (GDP tiềm năng) (xem phụ lục 1), g(EXPN)
là tốc độ tăng trưởng trong chi tiêu thực của chính phủ, g(REER) là sự thay đổi hàng
tháng theo từng năm của tỷ giá hối đoái thực tính theo % và πFL và πPL theo thứ tự là
phần trăm thay đổi trong giá của nhiên liệu và hàng hóa sơ cấp. Phần ký tự ở dưới biểu
thị tổng hợp các độ trễ khác nhau. Điều chỉnh theo mùa không được xem xét vì chúng
có thể thay đổi các đặc tính chuỗi thời gian của dữ liệu.
Việc chạy mô hình được thực hiện lặp đi lặp lại bằng cách sử dụng các dự báo được
rút ra từ các dự báo đồng nhất, như đã nêu trước đó. Cần chú ý rằng các biến thay thế
mà thể hiện quan điểm chính sách tiền tệ như real money gap – chênh lệch giữa cung
tiền thực và cung tiền mục tiêu, tăng trưởng cung tiền và thay đổi trong tỷ giá hối đoái
thực có thể được sử dụng nhưng không có ý nghĩa và vì vậy không được đề cập trong
nghiên cứu ở đây. Các kết quả ước lượng sẽ được thảo luận trong phần sau.
Về điểm này, một tranh luận ngoài lề về đường cong Phillips theo thuyết Keynesian
mới là sự liên kết giữa lạm phát kỳ vọng và chính sách tiền tệ có thể rất có ích. Trong
nhiều năm theo dõi các kết quả mô tả gốc về đường cong Phillips năm 1958, mẫu hình
chủ đạo này dần dần được sử dụng rộng rãi. Đó là khi ý tưởng này được ghi nhận như
là đại diện cho việc tạo thành các kỳ vọng một cách tối ưu, cho thấy sự am hiểu của họ
về nền kinh tế và thông tin có sẵn với họ - kỳ vọng có lý trí (Lucas, 1970) – một cách
nhìn đóng góp vào giả thuyết “kỳ vọng … về cơ bản như một sự dự báo dựa trên
những lý thuyết kinh tế học liên quan” (Muth, 1961). Trong kết quả thực nghiệm sau
đây, chúng đã làm bật ra rằng giá cả thay đổi rất chậm và khá cứng nhắc (Taylor,
1980); Rotemberg, 1982; Calvo, 1983) và thông tin bất hoàn hảo, bao gồm các hoạt
động của ngân hàng trung ương. Thậm chí Lucas đã chỉ ra rằng các kỳ vọng là lý do
hợp lý cho những hạn chế về thông tin. Đầu những năm 1980, có một lượng lớn các
nghiên cứu đã được thực hiện mà kết quả chung là sự thất bại của những giả thuyết về
kỳ vọng hợp lý để hình thành lạm phát kỳ vọng (Batchelor và Dua, 1987; Pacquet,
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 16
1992 và Blanchflower et al, 2009 cung cấp một bằng chứng về đánh giá này; Millet,
2007 đặt tên cho khái niệm kỳ vọng có lý trí nhưng thực tế đã bị thất bại: “thuyết phụ
thuộc có thể dễ gây nguy hiểm như chính các dữ liệu phụ thuộc”). Một giải thích phổ
biến cho vấn đề này là các đại diện như hộ gia đình và thậm chí là các doanh nghiệp đã
thiếu tinh tế để có được các kỳ vọng một cách lý trí. Sự hiện diện của chi phí thông tin
và sự bất cân xứng là một trong những nhân tố chính khác. Hầu hết các khảo sát đều
không đáp ứng được yêu cầu. Nhiều người trả lời rằng họ không có ý kiến gì về tỷ lệ
lạm phát trong tương lai là bao nhiêu. Ngoài ra, kỳ vọng chỉ được tìm thấy khi nhìn về
những sự kiện xảy ra trong quá khứ và tồn tại một thực tế là quan điểm của các cá
nhân về lạm phát hiện tại là một nhân tố ý nghĩa cao quyết định lạm phát kỳ vọng.
Có nhiều Mô hình nghiên cứu về thông tin không hoàn hảo và những tác động lên kỳ
vọng lạm phát. Những mô hình này nêu lên các nhân tố ảnh hưởng lạm phát và có thể
vận dụng vào giải thích một số sự kiện xảy ra (Xem thêm Kiley, 2009). Ảnh hưởng lớn
phải kể đến mô hình vể mối quan hệ giữa giá cả và thông tin không linh hoạt
(Woodford, 2008). Biểu diễn dưới dạng đường cong Phillips theo học thuyết Keynes
mới thì giá bằng cách nào đó dẫn đến hành vi ở tương lai, còn lạm phát hiện tại được
xác định bởi kỳ vọng lạm phát, nhu cầu hiện tại, nhu cầu dự kiến và chi phí cận biên.
Mô hình được ứng dụng rộng rãi trong phân tích chính sách tiền tệ - “the closet thing
there is to a standard specification” (tạm dịch “là mô hình sát với các tiêu chuẩn kỹ
thuật nhất") (McCallum, 1997). Những đóng góp gần đây đã đưa thêm bằng chứng ủng
hộ đường cong Phillips mới theo học thuyết Keynes (Nghiên cứu của Gail và Gertler
năm 1999; nghiên cứu Brissimis và Magginas, 2008) và một số nghiên cứu khác chỉ ra
quy tắc đặt giá dựa vào dữ liệu quá khứ dường như được ưu tiên hơn là dựa vào tương
lai (Rudd và Whelan, năm 2005 xem thêm trong phần nội dung bài nghiên cứu này).
IV. Kết quả ước lượng
Sử dụng dữ liệu ngẫu nhiên của mức lạm phát được dự báo trước làm đại diện cho lạm
phát kỳ vọng. Một đồ thị tương quan có dạng chu kỳ sóng với tần suất mùa vụ, tự
tương quan riêng phần giảm dần và cuối cùng hiện tượng tự tương quan giảm về 0 sau
mỗi pha. Nhìn vào bảng kết quả, ta thấy kiểm định thống kê Akaike và kiểm định
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 17
Schwarz-Bayesian bậc 1 đều cho kết quả phù hợp yêu cầu của mô hình ARMA (1,1).
Hơn nữa, theo dõi dữ liệu tháng, và quan sát bằng mắt thường cũng cho thấy những
biến động thời vụ một cách hệ thống, kể cả 2 tiêu chuẩn AR và MA trong bậc 12 khác
cũng phải bảo đảm (Box và Jenkin, 1970). Dữ liệu có nguồn gốc từ cơ sở dữ liệu của
IMF do CEIC cung cấp.
Bảng 1: Kết quả hồi quy phương trình lạm phát kỳ vọng
Kết quả ước lượng tuân theo các quy luật phân phối chuẩn (theo Bảng 1) và đồ thị biểu
diễn dữ liệu thực tế và mô phỏng (tương ứng với đường PI và FORECASTPI) với các
điểm ngoặt cũng được biểu diễn hợp lý theo mô hình này.
Đồ thị 3: Lạm phát thực tế và mô phỏng (PI)
Phương trình xác định lạm phát kỳ vọng theo tháng
πe = 0.006 + 0.91π t-1 - 0,22 π t-12 + 0,20 π t-13 + εt + 0.32ε t-2 - 0.85ε t-12 - 0.27ε t-14
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 18
Bảng 2: Thống kê mô tả hiệu quả mô hình.
Ngược lại, lạm phát kỳ vọng theo dự báo của các tổ chức tài chính báo cáo lên
Consensus Economics (ký hiệu là đường PIECONSENSUS trong Biểu đồ 4) theo đồ
thị dưới đây có dạng trung bình động và tạo thành một đường trung đạo đi qua các
điểm ngoặt của đường (PI). Để công bằng, các dự báo đại diện cho lạm phát kỳ vọng
phải lấy từ kết quả của trong các báo cáo về những khiếm khuyết trên thị trường tài
chính như các mẫu báo cáo bất bình đẳng, các phản ứng khác nhau đối với chính sách
tiền tệ dự kiến tùy thuộc vào vị trí trên đường cong lãi suất, thông tin bất cân xứng
đang thống trị thị trường tài chính Ấn Độ và đường trung bình gần đúng trong giai
đoạn dove và hawks, tiền được tạo ra trong giai đoạn giữa. Cùng lúc đó, với sự phát
triển của quá trình thu thập và xử lý dữ liệu, là điều kiện thuận lợi cho sự sinh sôi của
các thông tin về lạm phát kỳ vọng.
Đồ thị 4: Dự báo lạm phát của Consensus và lạm phát thực tế (tháng)
Bây giờ chúng ta chuyển sang câu hỏi quan trọng theo quan điểm chính sách: Những
yếu tố tác đông lạm phát kỳ vọng ở Ấn Độ?
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 19
Đặc trưng chuỗi thời gian các biến
Các nghiên cứu trước đây sử dụng dữ liệu lạm phát hàng tháng (hoặc hàng năm) để có
thể xử lý chuỗi xu hướngvà xu hướng có thể khác nhau theo thời gian (McCulloch và
cộng sự, 2000). Theo đó, không thể loại trừ khả năng lạm phát hàng tháng là chuỗi
không có tính dừng, ít nhất là chuỗi I (1), không thể rút ra quy luật. Cách giải quyết đối
với dữ liệu của mô hình là làm lệch pha dữ liệu. Tuy nhiên, có hai thiếu sót. Đầu tiên,
là tranh luận quanh việc duy trì dữ liệugốc hay một mẫu hạn chế chưa có kết luận cuối
cùng - sử dụng kiểm định Nghiệm đơn vị không thể phân biệt giữa dữ liệu gốc với gần
gốc. Thứ hai, sai phân sẽ không tránh được làm mất thông tin và nếu các giả định của
dữ liệu gốc là không đúng, lạm dụng sai phân có thể khiến ước lượng không hiệu quả.
Kiểm định ‘t’ theo Augmented Dickey-Fuller (ADF) và kiểm định Z của Philips-
Perron dưới dây cho thấy tất cả các biến, ngoại trừ những thay đổi trong tỷ giá thực
hiệu chỉnh (REER), đều đúng tại I(0). Mặc dù có sự mâu thuẫn liên quan đến tỷ giá
thực, chúng tôi vẫn đưa vào mô hình ước lượng theo quan điểm của kinh tế cũ hơn là
quan điểm gần đây.
Bảng 3: Kiểm định Roots và bậc tích phân
Các yếu tố quyết định lạm phát kỳ vọng
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu có hiệu quả và đã ghi nhận lạm phát kỳ vọng
khá hợp lý. Lạm phát trễ, sự thay đổi về giá của những mặt hàng thiết yếu và nhiên
liệu, chênh lệch sản lượng là những nhân tố chính trong lạm phát kỳ vọng, và theo sau
đó là lãi suất thực.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 20
Những ước tính này đã cho rằng tổng hệ số của lạm phát trước đây (cụ thể 1 tháng và
12 tháng) đóng góp 50% giải thích giá trị lạm phát kỳ vọng.
Thay đổi trong giá những mặt hàng thiết yếu gần bằng 1/3 lạm phát kỳ vọng, điều này
phản ánh tầm quan trọng của giá thực phẩm nói riêng cũng như dự đoán lạm phát trong
tương lai của người tiêu dùng. Sự thay đổi giá của thực phẩm và nhiên liệu chiếm 40%
sự thay đổi của lạm phát kỳ vọng. Cho ta thấy được sự quan trọng của những mặt hàng
này trong rổ hàng tiêu dung bình quân ở những khu dân cư lớn của Ấn Độ, những yếu
tố trong việc thiết lập giá cũng và vai trò tiềm năng của chúng trong sự ảnh hưởng liên
tục. Những vấn đề liên quan đến sự độc lập của giá cả thế giới, mức độ tăng giá, lạm
phát nhập khẩu tương ứng cho thấy mối quan hệ trong sự biến động quá khứ. Vai trò
kế tiếp của giá cả thực phẩm và nhiên liệu trong việc ảnh hưởng đến dự báo lạm phát
là sự tuân thủ theo cú sốc cung ngoai sinh ngay cả nhập khẩu và thị trường nội địa.
Như dự định chênh lệch sản lượng với một tính hiệu tích cực và mang ý nghĩa đáng kể
đã chiếm 14% lạm phát kỳ vọng và chứng minh tác giả đã đúng khi sử dụng mô hình
mới của Keynesian giải thích việc dự đóan lạm phát ở Ấn Độ. Ở những quốc gia đang
phát triển, lạm phát bị chi phối bởi tăng cầu quá mức, địều này củng cố những tiên
đóan của tác giả về vai trò chính sách vĩ mô đến kỳ vọng ổn định. Những phát hiện cho
thấy chênh lệch sản lượng mang ý nghĩa thống kê, và cho thấy rằng ở một mức nào đó
tổng cầu sẽ chuyển thành lạm phát, điều này cho thấy tầm quan trọng của những chính
sách điều chỉnh đúng lúc.
Một yếu quan trọng đã được phát hiện trong quá trình nghiên cứu này đó là ảnh hưởng
của lãi suất thực đại diện cho cách thức điều hành chính sách tiền tệ. Trái ngược với
những nghiên cứu trước đây cho rằng tổng tiền chứa đựng những thông tin về lạm phát
trong tương lai, điều này đã được cải thiện sau cải cách tài chính (Callen và các cộng
sự, 1999), kinh nghiệm của tác giả cho thấy sử dụng cung tiền bao gồm tỷ lệ tăng
trưởng và chênh lệch mệnh giá đồng tiền không thể giải thích thỏa đáng. Mặt khác hệ
số của tỷ suất thực phù hợp vớt tác động của cuộc cải cách tài chính từ giữa thập niên
90. Những rào cản quy định được gỡ bỏ đối với tỳ suất và định hướng phát triển thị
trường đã cho thấy chính sách tiền tệ không độc lập và vai trò lớn trong việc xác định
lạm phát trong tương lai. Chính sách tiền tệ thay đổi kể từ cuối những năm 90 đã nhấn
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 21
mạnh vai trò của tổng tiền và mối liên hệ của các công cụ gián tiếp trong chính sách
tiền tệ dẫn đến tầm quan trọng kênh tỷ lệ liên quan đến kênh chất lượng trong việc ảnh
hưởng tỷ lệ lạm phát tương lai. Những ký hiệu phủ định trên hệ số của tỷ suất thực
chứng thực độ tin cậy có được từ chính sách tiền tệ trong việc thu hút lạm phát kỳ
vọng những năm gần đây. Sự tăng lên của tỷ lệ lãi suất là một tín hiệu cho thấy lạm
phát thấp trong thời gian sắp tới. Trong ngữ cảnh này, tầm quan trọng của tỷ suất thực
12 tháng qua và các hệ số thấp có liên quan đã cho thấy thời gian thực hiện chính sách
tiền tệ ảnh hưởng tới lạm phát kỳ vọng. Những kết quả này đã được minh chứng bằng
những dự đóan từ kỳ vọng đồng thuận mô hình mà mô hình này đã cho ra những hệ số
phủ định trên tỷ số lãi suất thực của độ lớn xác định gần.
Một vấn đề quan trọng trong bối cảnh của một nước đang phát triển là cần phải xem
xét tác động của chính sách tiền tệ đến tăng trưởng cùng với lạm phát, tạo ra sự ảnh
hưởng mạnh mẽ và lâu dài của chính sách tiền tệ đến sản lượng đã được ghi nhận trong
nghiên cứu của Blanchard, 1990. Trong khi đó, cách nghiên cứu thích hợp về vấn đề
này sẽ được ước tính trong một mô hình cấu trúc đầy đủ, chúng tôi dùng mô hình biến
tự hồi quy (với các biến tương tự) để đánh giá khả năng phản hồi các thay đổi đột xuất
của độ biến thiên sản lượng đầu ra và thay đổi của lạm phát kỳ vọng trong tỷ lệ lãi suất
thực tế.Chúng tôi thấy rằng lạm phát kỳ vọng giảm xuống liên tục dưới điều kiện ban
đầu trong khoảng thời gần một năm trong khi sự suy giảm trong độ biến thiên sản
lượng gần như là không đáng kể và xảy ra một cách yếu ớt trong khoảng giữa 8-12
tháng (Hình 5).
Đồ thị 5: Phản ứng đột xuất đối với thay đổi trong lãi suất thực
Phản ứng của lạm phát kỳ vọng Phản ứng của độ biến thiên sản lượng đầu ra
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 22
Tính đại diện cho các chi phí cận biên cũng được đưa vào ước tính quan trọng và thể
hiện giá trị âm. Một đánh giá cao trong tỷ giá hối đoái thực tế dự kiến sẽ thấp hơn áp
lực lạm phát và do đó làm giảm lạm phát kỳ vọng. Giá trị âm chỉ ra rằng các doanh
nghiệp xem các thay đổi trong REER (tỷ giá hối đoái hiệu dụng thực) là độ lệch tạm
thời từ một số khái niệm về đường cân bằng, và mong muốn nó trở lại như trạng thái
ban đầu. Theo dự kiến trong một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nhu cầu trong nước, các
hệ số về tỷ giá hối đoái thực là thấp, sẽ ảnh hưởng lan truyền ngầm và sau đó tác động
đến lạm phát trong nước, liên quan đến nền kinh tế của các nước trong thị trường kinh
tế mới nổi. Tuy nhiên, điều này nhằm lý giải rằng tỷ giá hối đoái được xem như là một
biến số trong các chức năng phản ứng chính sách tiền tệ, mặc dù với mức độ thấp hơn
so với các biến thảo luận trong các khoản trên đây.
Trái ngược với các nghiên cứu khác (Cerisola et al và Gelos et al), vai trò của chính
sách tài khóa trong việc hình thành lạm phát kỳ vọng là cận biên và có một dấu hiệu
tiêu cực rất đáng ngạc nhiên – một sự gia tăng trong chi tiêu thực tế sẽ làm giảm lạm
phát kỳ vọng. Điều này là khác thường cho một nước mà có chính sách thu chi ngân
sách đang khắc phục hậu quả của lạm phát. Vấn đề này đã được xem xét, tuy nhiên, để
phù hợp với đặc trưng phát triển cho thời kỳ này bài báo này đã được ra đời. Đầu tiên,
đây là khoảng thời gian mà pháp luật về trách nhiệm tài chính được ban hành và mục
tiêu chung đã đạt được thì một sự gia tăng trong chi tiêu có thể sẽ được bù đắp bởi sự
gia tăng tương ứng trong thuế hoặc các khoản thu khác và do đó thấp hơn lạm phát kỳ
vọng. Hơn nữa, trong thời gian này, sự minh bạch về tài chính cũng được kèm theo với
các hành động một cách thận trọng, và thậm chí sẵn sàng tấn công để kiểm soát chính
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 23
sách tiền tệ. Điều này là dấu hiệu phản ứng mạnh mẽ mong muốn của người dân đối
với chính sách tiền tệ là sẽ tăng chi tiêu tài chính phù hợp với tiến bộ độc lập từ sự
thống trị tài chính.
Chi tiết dự toán kết quả cho lạm phát kỳ vọng dựa trên mô hình và sự thỏa mãn kỳ
vọng được đưa ra trong Phụ lục 1. Khi mỗi biến gắn với độ trễ cao, đại diện có ý nghĩa
của mô hình có thể là tổng các hệ số cùng với kiểm tra các biến phụ thuộc. Những kết
quả này, được trình bày trong Bảng 4 và 5, cho thấy rằng tất cả biến có liên quan cùng
với độ trễ của chúng.
Bảng 4: Kiểm định các biến phụ thuộc trên cơ sở mô hình lạm phát kỳ vọng
Bảng 5: Kiểm định biến phụ thuộc Consensus Expectations
Đó có phải là phương trình kết hợp?
Việc sử dụng các dữ liệu của Johannsen-Juselius, chúng tôi thấy rằng vectơ kết hợp
giữa biến tồn tại (AII) và tham chiếu đặc biệt của đường cong Phillips mới của
Keynes. Khi kiểm chứng thêm, chúng tôi kiểm tra những bất cập từ các phương trình
được tìm thấy trong Bảng A1 bằng quy trình hai bước của Engle-Granger và tìm thấy
các vấn đề sau như hình dưới đây.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 24
Bảng 6: Kết quả theo phương pháp Engle-Granger
(Giả thiết: phần dư trong phương trình ở bảng 4 có một gốc đơn vị)
V. Kết luận
Trở lại hiện tại với tình trạng tiến thoái lưỡng nan mà các cơ quan hoạch định chính
sách ở Ấn Độ đang đối mặt - đó là hoặc thực hiện biện pháp giảm lạm phát nhưng lại
ảnh hưởng quá trình khôi phục kinh tế; hoặc tiếp tục theo đuổi tăng trưởng kinh tế
nhưng làm gia tăng áp lực kỳ vọng lạm phát. Bằng chứng thực nghiệm của nghiên cứu
này cho thấy có độ trệ đáng kể cấu thành nên kỳ vọng lạm phát ở Ấn Độ, khá tương
đồng với kết quả thực nghiệm ở nước khác. Trong phạm vi này, những kinh nghiệm
gần đây về mức lạm phát tăng cao ở một số sản phẩm chủ yếu, đặc biệt là giá thực
phẩm có thể dễ dàng tác động mạnh vào dự đoán lạm phát trong tương lai của dân
chúng và khó có thể thay đổi. Điều này cần được xem xét cùng với kết quả thực
nghiệm và cho thấy rằng một phần ba các biến lạm phát trong tương lai cũng như quá
khứ - được giải thích bởi giá thực phẩm trong chỉ số giá chung của những mặt hàng
chủ yếu. Hơn nữa, những cú sốc giá thực phẩm ở cấp độ tổng thể sẽ rất lâu mới có thể
quay trở về trạng thái cũ. Do đó theo quan điểm của chúng tôi, tranh luận về vấn đề
nguyên nhân lạm phát của những người theo chủ nghĩa trọng cung và xem nhẹ vai trò
của chính sách tiền tệ sẽ bị áp đảo do sự xuất hiện rõ ràng của nguy cơ lạm phát kỳ
vọng đang khiến cho tình hình lạm phát ở Ấn Độ ngày càng phức tạp và tăng nhanh
hơn. Tại Ấn Độ, chính sách tiền tệ được điểu hành theo cách truyền thống là neo lạm
phát kỳ vọng quanh mức 5%. Điều này được phản ánh rõ ràng thông qua phản ứng của
thị trường tài chính đối với chỉ số WPI công bố hàng tuần. Thật vậy, trong những tuần
gần đây kể từ cuối tháng 9 năm 2009, dễ nhận thấy rằng chỉ số lạm phát WPI đã hạ
xuống nhờ niềm tin bền vững của thị trường vào việc duy trì chính sách tiền tệ nhằm
mục tiêu chống lạm phát, khiến lãi suất của các tài sản ngắn hạn xuống thấp hơn lãi
suất RBI, kể cả tín phiếu Kho bạc 91 ngày. Sự thành công trong việc ổn định lạm phát
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 25
kỳ vọng giai đoạn cuối 2006-2007 và nửa đầu 2008-2009, cùng với tác động bên ngoài
đã tạo động lực cho RBI đặt ra chỉ tiêu kỳ vọng dao động quanh mức 3% phù hợp với
chính sách kinh tế của Ấn Độ trong giai đoạn hội nhập. Đó là lý do mà kết quả đo
lường tính chắc chắn và mức độ tín nhiệm của chính sách tiền tệ trong việc đối phó với
lạm phát đã cho thấy có hiệu quả hơn so với biện pháp hạ nhiệt lạm phát một cách đột
ngột khi đối mặt với lạm phát sẽ khiến nền kinh tế khó khôi phục lại trạng thái cân
bằng toàn dụng.
Trong trường hợp, chính sách tiền tệ hạ mức neo lạm phát kỳ vọng trong biên độ nhất
định thì điều tiếp theo là mình cần phải làm gì để thực hiện điều đó. Phát hiện thực
nghiệm từ bài nghiên cứu này chỉ ra rằng: các tác động của lãi suất thực lên dự đoán
của người dân mạnh hơn hẳn các tác động của chính sách tài khóa và thậm chí mạnh
hơn cả những thay đổi trong tỷ giá hối đoái. Do đó, như đã đề cập trước đây, cùng với
sự gia tăng có hiệu chỉnh của chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ đối với cổ phiếu
cũng phải được điều chỉnh theo cho phù hợp và đảm bảo luôn đi trước đường cong lãi
suất để đảm bảo tính khả thi của chính sách thắt chặt thực.
Theo dự đoán của RBI (Ngân hàng dự trữ Ấn Độ) vào tháng 1 năm 2010, cuối tháng 3
năm 2010 lạm phát WPI (chỉ số giá bán buôn) là 8,5%, điều này cho thấy một sự tăng
tốc theo hướng dốc lên đang diễn ra. Một dự đoán khác thì cho rằng, mức dự đoán trên
của RBI chỉ là mức cơ bản và rủi ro của việc gia tăng này là rất cao. Mối quan hệ mật
thiết giữa giá bán sỉ những hàng hóa chính yếu và giá cả tiêu dùng là điều đáng lo ngại.
Tuy nhiên, sự gia tăng trong chính sách tỷ giá có khả năng không có hiệu quả trong
trạng thái nghịch lý hiện nay: sự dồi dào thanh khoản với khả năng hấp thụ thông qua
khả năng hấp thụ của RBI là trung bình 1.1 ngàn tỷ Rubees mỗi ngày, và những ảnh
hưởng gần đây trong hoạt động cán cân tiền mặt của Chính phủ, sự nới lỏng quy định
hạn chế giao dịch của các quỹ với RBI, đồng thời nới lỏng quy định đối với những tài
sản bằng ngoại tệ (mặc dù đề nghị chuyển từ dự trữ tiền sang giữ các tài sản nước
ngoài bị sự phản bác dữ dội). Do đó, định hướng điều hành chính sách là chuyển từ
việc hỗ trợ thanh khoản bằng cách cung cấp các tài sản thanh khoản cao từ bên ngoài
đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng toàn cầu, sang điều hành hệ thống thanh khoản
một cách tích cực hơn, kể cả thông qua tác động bằng yêu cầu dự trữ. Từ thực tế các
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 26
nước trên thế giới, ta có thể thấy có sự khác biệt của quy định về khả năng thanh khoản
trong điều hành chính sách tiền tệ, trước tiên là các quy định trong quá trình hoạt động,
sau đó RBI sẽ định kỳ kiểm tra, xem xét mỗi quý nhằm đảm bảo thực thi chính sách đã
được đưa ta.
Trong thời đại ngày nay, lạm phát kỳ vọng đóng một vai trò quan trọng trong việc
hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Ở một tầm nhận thức mới, lạm phát kỳ
vọng là thước đo mức độ đáng tin cậy trong cam kết của các nhà thực hiện chính sách
tiền tệ để đạt được mục tiêu đã định. Tác động của chính sách tiền tệ có thể gia tăng
nếu lạm phát kỳ vọng luôn được neo ở một mức cố định. Một sự gia tăng kỳ vọng liên
tục trong ngắn hạn có thể tạo nên rủi ro áp lực lạm phát tăng cao trong trung hạn. Do
đó, Ngân hàng Trung ương cần phải nắm được những yếu tố ảnh hưởng đế hiểu được
sự hình thành lạm phát kỳ vọng. Có một sự tin tưởng rằng thông tin bất hoàn hảo về
những dự định của ngân hàng Trung ương là một yếu tố khiến cho tác động của thông
tin về kỳ vọng lạm phát sẽ có độ trễ. Điều này thường được lặp đi lặp lại. Không hiểu
được chính xác kỳ vọng của người dân có thể khiến phản ứng của chính sách tiền tệ bị
chậm lại. Vì vậy, điều quan trọng là phải biết kết hợp giữa việc hoạch định chính sách
tiền tệ một cách nhanh nhạy, nhìn nhận chính xác điều mà người dân suy nghĩ. Và đó
cũng là vấn đề mà công trình nghiên cứu này đưa ra.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 27
PHỤ LỤC I: YẾU TỐ XÁC ĐỊNH KỲ VỌNG LẠM PHÁT
Bảng 7: Các biến trong mô hình xác định lạm phát kỳ vọng
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 28
Bảng 8: Các biến trong mô hình xác định lạm phát kỳ vọng theo Consensus
Expectations
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 29
PHỤ LỤC II: ĐỒNG LIÊN KẾT VETOR KỲ VỌNG LẠM PHÁT VÀ CÁC YẾU
TỐ QUYẾT ĐỊNH
Bảng 9: Kiểm định đồng liên kết vector LR theo Maximal Eigenvalue
Bảng 10: Kiểm định đồng liên kết vector LR theo Trace of Stochastic Matrix
Bảng 11: Ước lượng đồng liên kết vector theo Johansen Estimation
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 30
Tài liệu tham khảo
Batchelor, R., and P. Dua, 1987, “The Accuracy and Rationality of UK Inflation
Expectations,” Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 48, pp 99-120.
Baum, Christopher F., Mark E. Schaffer and Steven Stillman, 2003, “Instrumental
Variables and GMM: Estimation and Testing,” Working paper No. 545 (February),
Department of Economics, Boston College, Massuchusetts, USA.
Blanchard, Olivier J, 1990, “Why Does Money Affect Output? A Survey”, in Benjamin
Friedman and Frank Hahn (eds): Handbook of Monetary Economics Vol. 2,
Amsterdam: North Holland.
Blanchflower, David G., and Conall MacCoille, 2009, “the Formation of Inflation
Expectations: An Empirical Analysis for the UK,” National Bureau of Economic
Research (NBER) Working Paper No. 15388 (Cambridge, Massachusetts).
Brissimis, Sophocles N., and Nicholas S. Magginas, 2008, “Inflation Forecasts and the
New Keynesian Phillips Curve,” International Journal of Central Banking, Vol. 4
No. 2 (June), pp 1-21.
Campos, J. N.R. Ericsson and D.F. Hendry, 2004, General to Specific Modeling, Edward
Elgar.
Callen, Tim, and Dongkoo Chang, 1999, “Modeling and Forecasting Inflation in India,”
IMF Working Paper, WP/99/119 (September), International Monetary Fund,
Washington D.C.
Cerisola, M., and R. Gaston Gelos, 2005, “What Drives Inflation Expectations in Brazil?
An Empirical Analysis” IMF Working Paper, WP/05/109 (June), International
Monetary Fund, Washington D.C.
Celasun, O., R. Gaston Gelos, and Alessandro Prati, 2004a, “Obstacles to Disinflation:
What is the Role of Fiscal Expectations?”, Economic Policy, Vol. 19 (October), pp
441-81
----------, 2004b, “Would ‘Cold Turkey’ Work in Turkey?”, IMF Staff Papers, Vol. 51, No.
3, pp 493-509.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 31
Chao, Hsiang-Ke, 2001, “Professor Hendry’s Econometric Methodology Reconsidered:
Congruence and Structural Empiricism”, University of Amsterdam Working Paper.
Consensus Economics, various issues.
Gelos, G., and Fernanda Rossi Iriondo, 2008, “Inflation Process in Uruguay”, IMF
Occasional Papers No. 263, pp 7-16.
Juntilla, Juha, 2001, “Structural Breaks, ARIMA Model and Finnish Inflation Forecasts,”
International Journal of Forecasting, No. 17, pp 203-230.
Kapur, M. and M. D. Patra, 2000, “The Price of Low Inflation”, Reserve Bank of India
Occasional Papers, Volume 21, Nos.2 and 3, pp. 191-233.
Kiley, Michael T., 2009, “Inflation Expectations, Uncertainty, the Phillips Curve and
Monetary Policy,” Finance and Economics Discussion Series, No. 2009-15, Federal
Reserve Board, Washington D.C.
Krolzig, Hans-Martin and David Hendry, 1999: “Computer Automation of General-to-
Specific Model Selection Procedures”, University of Oxford Working Paper.
Lucas, Robert E. Jr., 1972, “Expectations and the Neutrality of Money,” Journal of
Economic Theory 4(2), pp 103-124
Mankiw, N. Gregory, Ricardo Reis and Justin Wolfers, 2003, “Disagreement about
Inflation Expectations,” NBER Working Paper No. 9796 (June), (Cambridge,
Massachusetts).
McCallum, Bennett, 1997, “Comment on ‘An Optimization-Based Econometric
Framework for the Evaluation of Monetary Policy,” NBER Macroeconomics
Annual 1997, pp 355-359
McCulloch, J. Huston, and Jeffrey A. Stec, 2000, “Generating Serially Uncorrelated
Forecasts of Inflation by Estimating the Order of Integration Directly,” Paper
presented at the 6th International Conference on Computing in Economics and
Finance, Barcelona, (July)
Meylar, Aidan, Geoff Kenny and Terry Quinn, 1998, “Forecasting Irish Inflation Using
ARIMA Models,” Munich Personal RePEs Archive (MPRA) Paper No 11359
(December).
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 32
Millet, Fabien Curto, 2007, “Inflation Exoectations, the Phillips Curve and Monetary
Policy,” Kiel Working Paper No. 1339 (June), Institut fur Weltwirtschaft an der
Universitat, Kiel, Germany.
Minella, A., Paulo Springer de Freitas, Ilan Goldfajn, and Marcelo Kfoury Muinhos, 2003,
“Inflation Targeting in Brazil: Constructing Credibility Under Exchange Rate
Volatility,” Journal of International Money and Finance, Vol. 22, pp 1015-40
Muth, John F., 1961, “Rational Expectations and the Theory of Price Movements,”
Econometrica 29(3), pp 315-335.
Pacquet, A., 1992, “Inflation Expectations and Rationality, Economic Letters 40, pp 303-
308.
Reserve Bank of India, 2002, Report on Currency and Finance, 2000-01, Mumbai, India.
----------------------Annual Policy Statements and Review of Monetary Policy, various
issues
--------------------, Macroeconomic and Monetary Developments, various issues
--------------------, 2009, Report of the Working Group on Surveys, RBI Bulletin
(September).
Roberts, J. M., 1995, “New Keynesian Economics and the Phillips Curve,” Journal of
Money, Credit and Banking 27 (4), pp 975-984.
Samuelson, Robert L., 2009, “Inflation, Deflation – or Both?”, Washington Post, June 8.
Stock, J., and Mark Watson, 2007, “Why has US Inflation Become Harder to
Forecast?”
Journal of Money, Credit and Banking, 39 (1), pp 3-33.
Subbarao, D., 2009a, “Impact of the Global Financial Crisis on India Collateral Damage
and Response”, Speech delivered at the Symposium on ‘The Global Economic
Crisis and Challenges for the Asian Economy in a Changing World’, Institute for
International Monetary Affairs, Tokyo, February 18.
-----------------------, 2009b, “India - Managing the Impact of the Global Financial Crisis”,
Speech delivered at the Confederation of Indian Industry's National Conference and
Annual Session, New Delhi, March 26.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 33
-----------------------, 2009c, “Emerging Market Concerns: An Indian Perspective,” Speech
at the G-30 International Banking Seminar, (October 5), Istanbul, Turkey.
-----------------------, 2008a, “The Global Financial Turmoil and Challenges for the Indian
Economy”, Speech at the Bankers' Club, Kolkata, India, December 10.
------------------------, 2008b, “Mitigating Spillovers and Contagion Lessons from the
Global Financial Crisis”, Speech at the RBI-BIS Seminar on ‘Mitigating Spillovers
and Contagion – Lessons from the Global Financial Crisis’, Hyderabad, India,
December 4.
Taylor, John B., 1980, “Aggregate Dynamics and Staggered Contracts,” Journal of
Political Economy 88(1), pp 1-23.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- microsoft_word_international_finance_essay_inflation_expectations_monetary_final_4184.pdf