MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT 3
1. Khái niệm 3
1.1 Định nghĩa 3
2. Các chỉ số đo lường lạm phát 5
2.1 Chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index) 6
2.2 Chỉ số giảm phát GDP ( Gross Domestic Product deflactor) 6
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát 9
3.1 Lạm phát do chính sách 9
3.2 Lạm phát do cầu (demand-pull inflaction) 9
3.3 Lạm phát do cung (cost-push inflation) 9
3.4 Lạm phát do quán tính (inertial inflation) 10
4. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế 10
4.1 Ảnh hướng tích cực 10
4.2 Ảnh hưởng tiêu cực 11
4.2.1 Đối với lạm phát có thể dự kiến được 11
4.2.2 Đối với lạm phát không thể dự kiến được 13
5. Các giải pháp kiềm chế lạm phát 13
PHẦN II THỰC TIỄN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 15
1. Sơ bộ kinh tế Việt Nam từ trước đến nay 15
1.1 Bối cảnh chung của nền kinh tế 15
1.2 Nhận diện tình hình lạm phát 19
2. Thực trạng kinh tế 2008 và 3 tháng đầu năm 2009 22
2.1 Nhìn lại tình hình kinh tế 2008 22
2.1.1 Bối cảnh chung 22
2.2.2 Về tình hình lạm phá: 26
2.2 Sơ bộ tình hình lạm phát 4 tháng đầu năm 2009 30
3. Nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam 33
3.1 Tác động từ kinh tế thế giới 33
3.1.1 Mỹ 33
3.1.2 EU 36
3.1.3 Nhật Bản 37
3.1.4 Trung Quốc 37
3.2 Từ nội bộ nền kinh tế 38
3.2.1 Lạm phát tiền tệ 38
3.2.2 Lạm phát cầu kéo 40
3.2.3 Lạm phát chi phí đầy 41
4. Đề xuất giải pháp 41
4.1 Chính sách tài chính-tiền tệ 42
4.2 Điều chỉnh tăng trưởng kinh tế 43
4.3 Hạn chế tăng chi phí 43
KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
48 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4644 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lạm phát - Từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị giảm sút, không rơi vào tình trạng thắt lưng buộc bụng, ở khía cạnh nào đấy thì mức độ tiêu dùng cho nhu cầu gia đình tăng lên.
Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng và có biểu hiện tăng mạnh ở ngành lương thực, chưa có dấu hiệu đáng kể cho thấy nền kinh tế chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng ở Mỹ.
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm
so với tháng 12 năm trước.
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Hiện tượng lạm phát ở VN có tất cả những dấu hiệu của lạm phát ở các nước chậm tiến hay đang phát triển, đã được nhiều chuyên gia và các tổ chức quốc tế đề cập đến và cảnh báo khá nhiều từ hơn một năm nay. Nguy cơ lạm phát bùng nổ khi Chính phủ cũng như doanh nghiệp chạy theo chỉ tiêu và hào quang của tốc độ phát triển kinh tế. Chính phủ trong những năm gần đây thúc đẩy doanh nghiệp chạy nước rút để đạt nhiều chỉ tiêu kinh tế, năm sau cao hơn năm trước. Cố gắng này làm giảm sự chú ý tới khả năng chịu đựng và phát triển của doanh nghiệp, sự mất cân bằng cung cầu tiền tệ trong thị trường và ảnh hưởng của nền kinh tế dựa trên tiêu thụ và nhập khẩu của đại bộ phận doanh nghiệp và người dân.
Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI)
Nguồn: IMF, International Financial Statistics
Trong hình 1 cho thấy, từ năm 2004 đến 2007, lạm phát ở VN đã cao hơn các nước láng giềng ngoại trừ Indonesia, một quốc gia đang đối mặt với những vấn đề kinh tế, chính trị nghiêm trọng, năm 2004 CPI là 9.5%, 2005 là 8.4%, năm 2006 là 6.6%. Hiện nay, VN là nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất trong các nước Đông á. Năm 2007, lạm phát của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007. Nguy cơ tỷ lệ lạm phát tiếp tục ở mức cao trong năm 2008 là rất rõ ràng khi chỉ riêng hai tháng đầu năm, tỷ lệ này đã ở mức 5,94% so với 2007.
2. Thực trạng kinh tế 2008 và 3 tháng đầu năm 2009:
2.1 Nhìn lại tình hình kinh tế 2008:
2.1.1 Bối cảnh chung:
Năm 2008 đã để lại nhiều bài học chính sách sâu sắc. Hội nhập sâu rộng đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng đồng hành với những rủi ro bất ổn kinh tế có thể gia tăng. Việc quyết định mục tiêu chính sách và phản ứng chính sách kịp thời phải dựa trên việc bám sát, cập nhật thông tin cũng như những dự báo, cảnh báo có phân tích. Hiệu lực, hiệu quả của chính sách còn phụ thuộc sự phối hợp các bộ, cơ quan cũng như mối quan hệ thông tin minh bạch, có tính giải trình cao giữa nhà nước với thị trường, công chúng. Cần sự hỗ trợ đối với người nghèo, nhóm đối tượng xã hội dễ bị tổn thương và cả ý chí chính trị vượt qua các nhóm lợi ích. Lựa chọn mục tiêu chính sách và cách thức thực thi hiệu lực và hiệu quả vẫn luôn có giá trị, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái lan rộng toàn cầu.
Ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam 2008 đối mặt với rất nhiều khó khăn. 10 sự kiện nổi bật có thể được tóm tắt như sau:
Lạm phát chạm ngưỡng 20%, Chính phủ giảm mục tiêu tăng trưởng.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 tăng gần 4%, nâng CPI 5 tháng đầu năm lên mức cao nhất trong vòng 12 năm qua, đạt 15,96%. Lạm phát tăng cao, Quốc hội đã nhất trí hạ chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8,5 - 9% xuống còn 7%. .
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 6,23%, GDP bình quân đầu người lần đầu tiên vượt mốc 1.000 USD, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 65 tỷ USD, cao nhất trong 10 năm qua.
Lạm phát được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao. Giá tiêu dùng tháng 12/2008 so với tháng 12/2007 tăng 19,89% và giá tiêu dùng bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 22,97%. Nhìn lại năm qua, giá tiêu dùng diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu cùng các năm trước.
Nhật tạm ngừng cấp mới ODA cho Việt Nam.
Cuộc điều tra về vụ tham nhũng xảy ra tại Dự án đại lộ Đông - Tây (PCI) có thêm những bằng chứng mới là nguyên nhân khiến Nhật Bản quyết định tạm ngừng cấp mới các dự án ODA cho Việt Nam với tổng giá trị lên đến 65,3 tỷ Yên (700 triệu USD) đối với các dự án hạ tầng giao thông và thoát nước.
Dự án đại lộ Đông - Tây bắt đầu từ năm 2001, là một trong những dự án lớn từ vốn ODA của Nhật Bản, nhưng mới phát hiện ra tiêu cực trong năm 2008 này.
Ngược lại với việc Nhật tạm ngừng cấp mới ODA cho Việt Nam, trong năm 2008, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng kỷ lục với hơn 64 tỷ USD (tăng gấp 3 lần so với năm 2007, gấp hơn hai lần so với con số của hai năm 2006 và 2007 cộng lại).
Con số này đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực, nâng tổng vốn FDI vào Việt Nam tiến gần đến con số 150 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt trên 11 tỷ USD.
Lãi suất ngân hàng tăng cao chưa từng có.
Năm 2008 ghi nhận những biến động chưa từng có của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt, trong 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra rất nhiều biện pháp can thiệp hành chính đối với hệ thống ngân hàng thương mại.
Đã có lúc lãi suất ngân hàng lên mức đỉnh 24 - 25%/năm, lãi suất huy động cũng đạt đỉnh 20%/năm. Nhiều ngân hàng thương mại cho vay cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng, cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%).
Từ cuối tháng 7 đến nay, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHNN với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào, lãi suất cho vay tối đa về còn 12,75%/năm và lãi suất huy động rút về quanh mốc 8%/năm.
Giá xăng dầu vận hành theo cơ chế thị trường.
Kể từ ngày 16/9, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được tự quyền quyết định giá bán lẻ đối với mặt hàng xăng dầu; tính chung cho cả năm, giá xăng trong nước đã 2 lần tăng và 10 lần giảm.
Vào hồi tháng 7, giá dầu thế giới lên tới 147 USD/thùng đã khiến giá xăng trong nước tăng lên mức kỷ lục 19.000 đồng/lít, thuế nhập khẩu mặt hàng này còn 0% (trước đó tăng từ 13.000 đồng/lít năm 2007 lên 14.500 đồng/lít vào tháng 2/2008).
Về sau này, giá dầu thế giới giảm dần và hiện còn dưới 40 USD/thùng. Giá xăng do đó trong nước được điều chỉnh giảm theo, còn 11.000 đồng/lít, thuế nhập khẩu tăng lên kịch trần 40%.
Công bố gói 1 tỷ USD kích cầu đầu tư.
Vào cuối năm 2008, kinh tế đất nước có dấu hiệu rơi vào giảm phát, hàng nghìn doanh nghiệp đối mặt khó khăn, sức mua của người dân chững lại, Chính phủ đã công bố gói kích cầu 1 tỷ USD (khoảng dưới 1,2% GDP).
Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, 17.000 tỷ đồng kích cầu này được tập trung vào những lĩnh vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất của cuộc khủng hoảng tài chính. Công nhân, học sinh, sinh viên, ký túc xá, trường học, nhà ở dành cho công nhân, sân bay, cầu đường sẽ là những đối tượng, lĩnh vực chính được rót vốn từ gói kích cầu này.
Gói kích cầu 1 tỷ USD cũng sẽ dùng để hỗ trợ 4% lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Dự tính, khi gói kích cầu có hiệu lực thực hiện sẽ có khoảng 420.000 tỷ đồng vốn vay ưu đãi cung cấp cho nền kinh tế; tương tự, nếu hỗ trợ lãi suất 4% cho các doanh nghiệp, nguồn vốn cần huy động có thể lên đến 400.000 tỷ đồng.
Lần đầu tiên chỉ số giá chứng khoán giảm gần 70% trong một năm.
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã trải qua những diễn biến xấu nhất trong suốt hơn 8 năm đi vào hoạt động. Chỉ số giá chứng khoán của cả hai sàn giảm mạnh, đặc biệt, HaSTC -Index có thời điểm xuống dưới mức 100 điểm (ngày 27/11).
So với thời điểm đầu năm 2008, HaSTC-Index và Vn-Index giảm tương ứng 67,2% và 66,9%. Trước đó, vào năm 2003, chỉ số chứng khoán từng giảm xuống mức thấp nhất 139 điểm nhưng mức giảm của Vn-Index trong năm này thấp hơn nhiều so với năm 2008.
Việc huy động vốn qua TTCK giảm tới 75 - 80% và cả 3 kênh: phát hành tăng vốn của doanh nghiệp, cổ phần hóa, phát hành trái phiếu đều sụt giảm mạnh so với năm trước; tính thanh khoản - khối lượng giao dịch giảm khoảng 70% so với năm trước…
Thị trường bất động sản đóng băng.
Sau một thời gian dài phát triển quá nóng, thị trường bất động sản đóng băng và trải qua đợt sụt giảm về giá nhanh chóng. Chỉ chưa đầy 3 tháng (bắt đầu từ tháng 4/2008), sau khi Bộ Xây dựng dự kiến đánh thuế lũy tiến vào nhà đất và các ngân hàng áp dụng chính sách thắt chặt tín dụng, giá nhiều phân khúc bất động sản đã tuột dốc không phanh.
Sự suy giảm nhanh nhất là ở các phân khúc nhà ở, đặc biệt là nhà cao cấp, với mức giảm từ 20 - 40%, thậm chí có nơi lên đến 60 - 70% (nhà biệt thự).
Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là do chính sách thắt chặt tín dụng bất động sản của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát. Tuy giá giảm, nhưng so với thu nhập đầu người, giá bất động sản tại Hà Nội, TPHCM vẫn quá đắt đỏ.
Bão giá gạo bùng lên vào giữa năm.
Chưa bao giờ kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều tin đồn thất thiệt như năm nay, đặc biệt là tin đồn “ảo” gây nên “cơn sốt” giá gạo thật tại TPHCM, Hà Nội và các địa phương lân cận.
Những thông tin về thị trường gạo thế giới dự báo giá sẽ tăng cao và có nguy cơ thiếu đói ở một số quốc gia, giới đầu cơ lợi dụng găm hàng tạo hiện tượng khan hàng ... gây tâm lý lo lắng, khiến người dân đua nhau đi tích trữ lúa, gạo.
Sau cơn sốt giá này, thị trường gạo lại rơi vào tình trạng ứ đọng một lượng hàng hóa lớn vào những tháng giữa và cuối năm 2008, gây thiệt hại cho người nông dân. Sự kiện này được nhìn nhận như là một bất cập trong việc điều tiết thị trường lúa gạo, cảnh báo về năng lực dự báo giá các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Các tập đoàn kinh tế chịu nhiều chỉ trích.
Đầu tư tràn lan ra ngoài ngành,vào những ngành nhiều rủi ro của các tập đoàn kinh tế với tổng mức huy động vốn quá lớn là nguyên do khiến Bộ Tài chính trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác. Theo đó, các tập đoàn, doanh nghiệp Nhà nước đầu tư ra ngành ngoài không được vượt quá 30% tổng vốn.
Đặc biệt, việc Tập đoàn Điện lực (EVN) xin trích thưởng hơn 1.000 tỷ đồng, sau khi vừa đề nghị tăng giá điện lên 20% và trả lại 13 dự án điện cũng đã nhận nhiều lời chỉ trích của dư luận.
Thiên tai gây hại nặng nề đến nền kinh tế.
Tổng thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, rét mướt mà các vùng miền trên cả nước phải chịu trong năm 2008 lên tới hơn 13,3 nghìn tỷ đồng, hàng trăm người thiệt mạng. Tính riêng đợt mưa lũ lịch sử kỷ lục kéo dài từ 30/10 - 7/11 tại các tỉnh phía Bắc, thiên tai đã gây thiệt hại hơn 6.300 tỷ đồng, trong đó Hà Nội chiếm tới 3.000 tỷ đồng.
Cũng trong đợt mưa lũ lịch sử, Hà Nội bị cô lập giữa mênh mông biển nước, lần đầu tiên các doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả khoản tiền bảo hiểm cho xe ô tô ngập nước lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.
Mặc dù chịu thiệt hại nặng nề từ thiên tai, kết thúc năm 2008, tổng sản lượng lương thực của cả nước vẫn tăng 2,7 triệu tấn, đạt 38,6 triệu tấn; xuất khẩu hơn 4,6 triệu tấn gạo.
2.2.2 Về tình hình lạm phát:
Lạm phát đã trở thành tâm điểm của điều hành chính sách vĩ mô khi giá cả các mặt hàng lên tới mức đỉnh điểm.
Nền kinh tế đang từ mức phát triển quá nóng rồi đột ngột phải hãm phanh, lo ngại lạm phát vừa được đẩy lùi đã phải đối phó với khả năng giảm phát khi cuối năm nền kinh tế thế giới đồng loạt rơi vào suy thoái.
GDP của Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã không thể về đích. Cả năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là 6,23%, chỉ số lạm phát ở mức 19,9%.
Trước đó, ngày 22/4, Chính phủ tuyên bố điều chỉnh GDP năm 2008 từ mức 8,5% - 9% xuống 7%.
Già nửa đầu năm 2008, lạm phát là vấn đề số 1 của chính sách kinh tế. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng liên tục leo thang từ tháng 2, đạt đỉnh điểm vào tháng 5 (tăng 3,19%).
Biểu đồ tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 (%)
Số liệu: Tổng cục thống kê
Thời kỳ này đồng USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối.
Giá dầu thô tháng từ mức 89,4 USD thùng vào tháng 12/2007 lên 135 USD đến 147 USD/ thùng, giá phôi thép tăng khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu sợ giá có thể tăng lên tiếp.
Nhập siêu trở thành vấn đề nghiêm trọng. Nhập siêu của 5 tháng/2008 đã trên 14,4 tỉ USD, cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007 (năm 2007 nhập siêu là 14,12 tỉ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu).
Mức tăng của CPI vào tháng 5 cũng đạt mức đỉnh điểm của năm.
Chính phủ phải nới biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% vào ngày 10/03/2008 và từ 1% lên 2% vào ngày 27/06/2008, tận dụng sự trượt giá VND so USD thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu.
Số liệu : Tổng cục hải quan
Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006.
Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 12% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 5% GDP.
Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006.
Đà tăng trưởng đó khiến lượng tiền đồng trong nền kinh tế tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, gia tăng áp lực lạm phát.
Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006.
Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so với năm 2006.
Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP.
Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỉ USD (năm 2006) lên 21,6 tỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng lớn nội tệ ra thị trường.
Chính phủ đã thực hiện cắt giảm đầu tư công, hạn chế tín dụng bằng việc buộc NHTM phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, khống chế dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế năm 2008 xuống 30%.
Đến chỉ số giá tiêu dùng tăng trưởng âm, xuất khẩu sụt giảm và gói kích cầu 6 tỷ USD
Xuất khẩu và nhập khẩu liên tục sụt giảm từ tháng 7/2008
(Số liệu Tổng cục hải quan)
Trong vòng bảy tháng, sau khi ban hành tám nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, giúp hạ nhiệt nền kinh tế vào 17/4/2008. Ngày 11/12/2008, Chính phủ ban hành 9 chính sách thuế nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế.
Như giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giãn thời gian nộp thuê thu nhập doanh nghiệp, tạm hoàn 90% thuế GTGT đầu vào dù chưa có chứng từ thanh toán, tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu một số mặt hàng nhằm ổn định đầu vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu.
Trước đó, ngân hàng nhà nước đã liên tục có các động thái giảm lãi suất cơ bản kéo trần lãi suất cho vay xuống, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn để sản xuất kinh doanh.
Đến ngày 22/12, lãi suất cơ bản hạ xuống còn 8,5% về gần bằng mức đầu năm là 8,25%, sau khi lên cao nhất ở mức 14% năm.
Đồng thời hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất cho vay tái chiết khấu, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc,… để hỗ trợ vốn cho ngân hàng.
Số liệu: Ngân hàng Nhà nước
Các nước lần lượt công bố các gói kích cầu hỗ trợ nền kinh tế. Mỹ 3/10/2008 thông qua kế hoạch gói 700 tỷ USD để cứu ngành ngân hàng. Châu Âu kế hoạch 267 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế (ngày 12/12/2008), Trung Quốc, kế hoạch 586 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế.
Không nằm ngoài dòng chảy kinh tế thế giới, ngày 24/12/2008, trong buổi họp báo của Văn phòng Chính phủ, nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ đề ra là “ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng 6,5%, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội”.
Chính phủ dự định triển khai gói kích cầu 6 tỷ USD, trong đó 1 tỷ USD dùng để hỗ trợ lãi suất cho vay của các ngân hàng với mức 4%.
Còn lại là chính sách dùng để hoãn, giảm thuế cho doanh nghiệp.
2.2 Sơ bộ tình hình lạm phát 4 tháng đầu năm 2009:
Tính chung hai tháng đầu năm 2009, CPI đã tăng 1,49% và mức tăng trung bình so với 2 tháng đầu năm 2008 là 16,13%.
Tăng giá mạnh nhất là nhóm hàng thực phẩm và dịch vụ ăn uống (1,67%). Trong đó, thực phẩm tăng tới 1,72%, lương thực tăng 0,82%, dịch vụ ăn uống ngoài gia đình đã tăng giá 2,63%.
Nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng tăng giá 1,59%. Nhóm hàng đồ uống và thuốc lá chỉ tăng giá 0,8%, may mặc và giày dép tăng giá 0,44%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng giá 0,7%. Các hàng hóa khác tăng giá 2,01%.
Trong khi đó, nhóm hàng phương tiện đi lại và bưu điện giảm giá 0,05%.
Tháng 2-2009 cũng chứng kiến việc lần đầu tiên sau nhiều năm, giá rau xanh không tăng sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán ở các đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và TPHCM. Điều này cũng cho thấy sự khác biệt trong diễn biến thị trường tết năm nay so với các năm trước.
Cũng theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong tháng 2-2009, giá vàng tăng 5,74% và tỷ giá đô la Mỹ tăng 0,91%.
Ba tháng cuối cùng của năm 2008, CPI đã ở mức âm. CPI tháng 1-2009 ở mức 0,32%. Theo quy luật, CPI tháng đầu tiên trong năm thường tăng cao hơn những tháng trước đó do thói quen tiêu dùng nhiều vào dịp tết âm lịch.
Mặc dù CPI tháng 2-2009 tăng nhưng mức tăng cũng thấp hơn so với các năm trước. Điều này chứng tỏ dù CPI có tăng song xu hướng giảm phát vẫn đang tiếp diễn. Các biện pháp kích cầu chưa có ảnh hưởng rõ nét.
Theo số liệu của cơ quan thống kê công bố ngày 19/3, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2009 tại Hà Nội đã giảm 0,07%, trong khi lại tăng nhẹ 0,03% tại Tp.HCM.
Như vậy, sau khi tăng cao trong tháng 2/2009 ở cả hai đầu đất nước (Tp.HCM tăng 1,31% và Hà Nội tăng thấp hơn chút ít, suýt soát 1%), CPI chỉ khẽ “rung rinh” trong tháng 3 này.
Ở những góc độ đối chiếu khác, nếu so với tháng 12/2008, chỉ số giá tháng này tại Hà Nội đã tăng 1,22%; so với cùng kỳ năm trước đã tăng 12,34%. Với Tp.HCM, các so sánh tương ứng cho kết quả là 1,38% và 11,67%.
Việc chỉ số giá tăng thấp trong tháng Ba có một phần nguyên nhân từ việc CPI tháng Hai đã tăng quá cao. Sau tháng Tết với lực cầu hàng hóa tăng mạnh, tháng này sức cầu đã giảm đáng kể, lại được cộng hưởng từ việc một bộ phận người dân bắt đầu thắt chặt chi tiêu, đã kéo giá hàng hóa ổn định trở lại.
Theo các chuyên gia thống kê, có một số điểm đáng chú ý từ những chỉ số giá công bố sớm của tháng Ba này.
Thứ nhất, sự thay đổi của CPI ở biên độ thấp sau một tháng Tết tăng khá cao cho thấy diễn biến giá đã đi theo tính chu kỳ của các năm kinh tế tăng trưởng ổn định.
Thứ hai, cán cân hàng - tiền đang có sự cân bằng nhất định, chưa có dấu hiệu nào cho thấy biểu hiện của suy thoái giá cả, một chỉ báo về tình trạng thiểu phát và giảm phát đang đi vào giai đoạn diễn tiến nghiêm trọng.
Thứ ba, diễn biến chỉ số giá như hiện nay có lợi cho việc ổn định tâm lý người dân, có lợi cho việc huy động vốn của hệ thống ngân hàng, cũng như tạo điều kiện để giảm lãi suất cho vay trên thị trường. Tỷ lệ thành công của các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ cũng sẽ cao hơn.
Nhìn trên tổng thể chỉ số giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, cũng giống như chỉ số chung của Hà Nội và Tp.HCM, các nhóm đều ít có sự thay đổi so với tháng trước.
Với Hà Nội, có ba nhóm chỉ số giảm nhẹ là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,27%, trong đó lương thực tăng 0,02% nhưng thực phẩm giảm 0,71%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,01%; nhóm giao thông, bưu chính viễn thông giảm 0,36%. Các nhóm còn lại đều tăng nhưng mức độ không lớn, trong khoảng từ 0,02 đến 0,5%.
Tp.HCM cũng có ba nhóm chỉ số giá giảm trong tháng này, nhưng thuộc vào những nhóm có quyền số thấp như giao thông, bưu chính viễn thông; văn hóa, giải trí và du lịch; và nhóm hàng hóa, dịch vụ khác. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,18%, trong đó lương thực tăng tới 4,66% nhưng thực phẩm lại giảm 1,43%. Những nhóm còn lại tăng từ 0,04 cho đến 0,82%.
Chỉ số giá tháng 3/2009 đang được Tổng cục Thống kê đưa vào tính toán và dự kiến sẽ được chính thức công bố vào đầu tuần sau. Với diễn biến này, nhiều khả năng CPI tháng này sẽ âm.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2009 đã tăng nhẹ 0,35% so với tháng trước đó, khiến việc CPI tháng 3/2009 giảm 0,17% đã không “kéo” thành xu hướng. Nếu so với tháng 12/2008, chỉ số giá tháng này chỉ tăng 1,68%. So với cùng kỳ năm ngoái, mức tăng của tháng này vẫn còn cao tới 9,23%, nhưng đây là lần đầu tiên trong năm nay, mức so sánh này về lại một con số.
Ở một tương quan khác, so sánh chỉ số giá tiêu dùng bình quân của 4 tháng đầu năm 2009 với kỳ tương ứng của năm 2008, mức tăng là 13,14%, đã giảm đi khá nhiều so với các tháng trước đó.
Do mức tăng không lớn nên gần như chỉ ảnh hưởng rất ít đến đời sống người dân. Nhưng việc chỉ số giá tăng trong thời điểm này có thể lại là tín hiệu đáng mừng hơn đáng lo, vì đây là một chỉ báo quan trọng, cho thấy xu thế nền kinh tế Việt Nam không đi vào giảm phát.
Hơn nữa, mức tăng rất nhẹ của chỉ số giá trong tháng Tư này là có tính quy luật. Trong những năm kinh tế ổn định, chỉ số giá tháng Tư luôn cao hơn tháng Ba. Vì vậy, có thể dự báo tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ sẽ tiếp tục tăng trong tháng này, một diễn biến quan trọng khi xét đến triển vọng tăng trưởng trong năm nay.
Liên quan đến xu thế của chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2009, hôm Thứ Hai đầu tuần, phát biểu tại Diễn đàn Đầu tư Việt Nam Toàn cầu, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho rằng chỉ số giá tiêu dùng năm nay sẽ chỉ tăng vào khoảng 6%, thấp xa so với mức tăng 19,89% của năm 2008.
Trở lại chỉ số giá tháng này, theo dõi diễn biến 10 nhóm hàng hóa dịch vụ thiết yếu, có thể thấy nhóm văn hóa, thể thao, giải trí vẫn như tháng trước, tiếp tục giảm 0,64%, các nhóm còn lại chỉ tăng từ 0,20% đến 0,48%.
Ở những nhóm hàng hóa, dịch vụ có mức tăng cao trong tháng này, đáng chú ý là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện đã tăng 0,48%. Nguyên nhân chủ yếu là do hai đợt tăng giá xăng dầu vào các ngày 2/4 và 11/4, với giá xăng A92 tăng tổng cộng 1.000 đồng lên 12.000 đồng/lít.
Tăng thấp hơn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, ở mức 0,43%. Nhưng nhóm này lại có quyền số đến trên 42%, vì vậy là nguyên nhân chính “đẩy” chỉ số giá tiêu dùng tháng này đi lên.
Trong nhóm, chỉ số giá lương thực tháng này chỉ tăng 0,03%; nhưng chỉ số của mặt hàng thực phẩm đã tăng tới 0,46%; và đáng lo ngại nhất là ăn uống ngoài gia đình đã tăng tới 0,83%.
3. Nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam:
3.1 Tác động từ kinh tế thế giới:
Kinh tế thế giới những năm vừa qua đã trải qua một giai đoạn bất ổn với nhiều thách thức. Nhiều nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, một số nước EU, kinh tế sẽ tăng trưởng âm. Các nền kinh tế mới nổi như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nga... sẽ không thể duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như trước. Lạm phát của Việt Nam tăng cao còn do sự ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Bởi vì hiện nay việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu trong xu hướng toàn cầu hoá, vì vậy khi các nền kinh tế lớn gặp trục trặc thì ảnh hưởng nhiều đến kinh tế Việt Nam
Các thị trường tác động chủ yếu đến thị trường Việt Nam:
3.1.1 Mỹ:
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đang diễn biến phức tạp, lan rộng tới nhiều nước và đã dẫn tới suy thoái kinh tế thế giới. Sự tác động này tới nền kinh tế Việt Nam được thể hiện qua một số yếu tố sau:
- Đối với thị trường tài chính
Mặc dù Việt Nam không chịu tác động trực tiếp, nhưng tác động gián tiếp cũng khá lớn. Tác động này được thể hiện thông qua việc các khoản nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn khi lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng. Đồng USD có thể giảm sút mạnh dẫn tới nhiều người dân có thể rút USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD, để gửi VND vào, làm cho cấu trúc tài sản ngân hàng gặp khó khăn. Tuy nhiên, vì mức độ và khả năng liên kết của các ngân hàng thương mại Việt Nam đối với hệ thống tài chính quốc tế còn hạn chế nên các ngân hàng Việt Nam sẽ ít chịu tác động trực tiếp.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có thể bị ảnh hưởng nhưng cũng không đáng kể do sự liên kết giữa thị trường Việt Nam với thế giới là không cao. Điều đáng lo ngại là việc phát hành và huy động vốn trên thị trường quốc tế là khó khăn và chi phí tăng cao. Việc huy động vốn gián tiếp vào thị trường chứng khoán trong thời gian tới cũng khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn.
- Đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Nền kinh tế Mỹ bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay. Điều này được thể hiện thông qua hai tác động: thứ nhất, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của Mỹ đối với Việt Nam (Việt Nam là một trong 37 nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Mỹ, trong đó có một số mặt hàng đứng thứ hạng cao hơn như: dệt may, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, đồ gỗ, thủy sản...) có xu hướng giảm sút. Bên cạnh đó, tỷ giá VND/USD bị tác động nhiều và cần được điều chỉnh linh hoạt do đồng Việt Nam được xác định giá gắn với đồng USD. Khi đồng USD giảm trên thị trường thế giới thì có thể dẫn tới lạm phát trong nước nếu đồng VND không lên giá và khi đó người tiêu dùng chịu giá cả tăng do nhập khẩu. Nhưng nếu tỷ giá VND/USD giảm (tức là VND lên giá so với USD) ở mức không phù hợp sẽ làm cho xuất khẩu vào Mỹ của các doanh nghiệp bị lỗ về tỷ giá. Trong khi để cạnh tranh bán hàng vào Mỹ, nhiều nước có mặt hàng tương đồng cũng đã giảm giá. Theo số liệu cập nhật của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong 2 tháng đầu năm 2008 đạt 1,96 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong số các nền kinh tế ở Đông Á có xuất khẩu lớn sang Hoa Kỳ. Chỉ có Ấn Độ là cũng đạt mức gia tăng ấn tượng ở con số 20%, còn Trung Quốc, Hàn Quốc và Malaysia đều có sự suy giảm rõ rệt về tốc độ tăng trưởng. Như vậy, đứng trước sự suy giảm về kinh tế ở Hoa Kỳ, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này vẫn tiếp tục đi lên một cách mạnh mẽ so với nhiều nền kinh tế khác trong khu vực.
Ngoại trừ sự suy giảm của cà phê và sự tăng chậm của máy móc thiết bị, các nhóm hàng xuất khẩu khác đều có tốc độ tăng trên hai chữ số. May mặc và đồ nội thất, hai nhóm hàng chủ lực, tăng tới 45% và 29%. Thủy sản, sau khi chững lại trong năm 2007, cũng tăng trở lại với tốc độ 24,5%.
Kết quả là kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Hoa Kỳ trong hai tháng đầu năm 2008 đã bằng gần 19% tổng kim ngạch của cả năm 2007.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
2006
2007
Tháng 1&2/2007
Tháng 1&2/2008
2007 so với 2006
2008 so với 2007
May mặc
3.152
4.292
559
812
36,2
47,3
Đồ gỗ nội thất
902
1.229
191
246
36,3
29,8
Da giầy
1.089
1.193
205
229
9,6
12,7
Dầu thô
956
697
123
141
-27,1
15,6
Thủy sản
651
692
102
127
6,3
25,5
Cà phê
240
340
80
71
41,7
-11,3
Hoa quả
154
201
20
33
30,5
66,0
Máy móc thiết bị điện
210
350
49
52
66,7
6,1
Máy móc thiết bị cơ khí
222
287
36
34
29,3
-5,6
Tổng kim ngạch xuất khẩu
8.463
10.541
1539
1958
24,6
34,2
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Với cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng toàn cầu như hiện nay, có thể nói hầu hết các doanh nghiệp Mỹ và châu Âu sẽ giảm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nên việc thu hút FDI ở hai thị trường này của Việt Nam đều bị tác động đáng kể. Hơn thế nữa, chi phí huy động vốn toàn cầu có thể ngày càng tăng do biên độ tín dụng gia tăng dẫn tới khả năng thu hút đầu tư bị hạn chế, tiêu dùng có thể giảm sút dẫn tới việc giải ngân FDI giảm do vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu là đầu tư cho vay.
Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hoặc âm. Việt Nam cũng không thoát khỏi yếu tố này. Trong khi lạm phát vẫn là một vấn đề tiềm ẩn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế Việt Nam năm 2009. Ngoài ra, tiền gửi ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước sẽ bị giảm lợi tức do nhiều nước nới lỏng tiền tệ để tránh lâm vào suy thoái sâu rộng; dòng ngoại hối sẽ suy giảm; nhiều hoạt động kinh tế nước ta cũng gặp khó khăn, đặc biệt các hợp đồng đã ký kết với đối tác nước ngoài có thể bị ngưng trệ và có thể các hợp đồng này sẽ không còn được ký kết.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng dẫn tới giá nhiều loại nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh giảm, đặc biệt là dầu thô. Giá dầu thế giới giảm đã ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách do xuất khẩu dầu thô bị giảm sút. Ngoài ra, nhiều loại nguyên liệu khác phục vụ cho hoạt động của nền kinh tế như sắt, thép, phân đạm, giấy, xi măng cũng gặp khó khăn và hiện tại thị trường tiêu thụ của các ngành này đang bị thu hẹp...
Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính này đã gây ra một số tác động tiêu cực nhưng nó cũng tạo ra cho Việt Nam một số cơ hội: việc thu hút vốn đầu tư có nhiều thuận lợi do dòng vốn trên thể giới sẽ tập trung vào những nước có môi trường kinh doanh và chính trị ổn định - Việt Nam hội tụ đủ cả hai yếu tố này. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu có thể tăng do nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều lợi thế so sánh như dệt may...; nhập khẩu có thể chọn lọc do nhiều nước trên thế giới phải bán các mặt hàng, công nghệ do kinh tế đi xuống.
Bên cạnh đó, việc giảm các loại nguyên vật liệu này tuy gây khó khăn cho nền kinh tế nhưng cũng tác động tích cực tới nền kinh tế như hạn chế lạm phát; xăng dầu giảm dẫn tới chi phí vận chuyển và giá của nhiều loại vật liệu xây dựng như sắt, thép, xi măng, cát, đá... cũng giảm, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản hồi phục sau một thời gian “đóng băng” một phần do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây nên.
3.1.2 EU:
Uỷ ban châu Âu (EC) nhận định tăng trưởng kinh tế của Liên minh châu Âu (EU) năm 2008 chậm lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng thị trường tài chính thời gian vừa qua, những biến động trên thị trường dầu mỏ, kinh tế Mỹ giảm tốc độ tăng trưởng và xu hướng tăng giá của đồng Euro so với USD – nhân tố làm giảm khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của EU. Cụ thể, mức tăng trưởng kinh tế của khu vực có 27 nước thành viên này dự báo sẽ đạt 2,4% trong năm 2008 và 2009, giảm so với 2,9% trong năm 2007. Dự báo khu vực đồng Euro đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế 2,2% trong năm 2008 (giảm so với 2,6% năm 2007), và sau đó tiếp tục giảm xuống 2,1% trong năm 2009. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, còn nhiều yếu tố thuận lợi để kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng vững: Nền tảng tài chính của châu Âu vẫn tương đối vững chắc; khả năng tiêu thụ nội khối, hiện được đánh giá là động lực chính cho tăng trưởng có thể sẽ tăng đều và bền vững. Trong giai đoạn 2007-2009, EU đặt mục tiêu sẽ tạo thêm khoảng 8 triệu việc làm.Nếu đạt được mục tiêu này,tỷ lệ thất nghiệp tại EU vào năm 2009 sẽ giảm xuống mức 6,6%.
3.1.3 Nhật Bản:
Dự báo trong năm 2008, đà phục hồi kinh tế của Nhật Bản sẽ tiếp tục được duy trì, với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự báo đạt 2%. Xu hướng tăng chi đầu tư xây dựng cơ bản sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Việc Nhật Bản có khả năng thắt chặt hơn nữa trên thị trường lao động sẽ giúp duy trì đà tăng trưởng sản lượng trong năm 2008 và 2009 và đẩy lạm phát lên mức tích cực. Tốc độ tăng sản lượng của Nhật Bản có thể trì trệ trong 6 tháng đầu năm 2008 do ảnh hưởng của sự sút giảm mạnh trong lĩnh vực xây dựng nhà đất mới và lương giảm.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản năm 2008 là 1,6% (giảm so với mức 2,1% của các dự báo trước đây). Trong khi đó, IMF dự báo tăng trưởng kinh tế Nhật Bản sẽ đạt 1,9%. Trong năm 2008, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) có thể phải giữ nguyên lãi suất vốn đang ở mức rất thấp (0,5%) cho đến năm 2009 nhằm đảm bảo xoá bỏ hoàn toàn tình trạng giảm phát và đối phó với việc nền kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm lại. Những rủi ro khác đối với kinh tế Nhật Bản là sự suy giảm của khu vực nhà đất kể từ khi quốc gia này đưa ra các tiêu chuẩn chống động đất chặt chẽ hơn và sự phụ thuộc của nền kinh tế vào nhu cầu bên ngoài. Thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản dự báo sẽ giảm trong thời gian tới, do giá dầu thô tăng lên mức cao kỷ lục sẽ làm tăng giá trị nhập khẩu.
3.1.4 Trung Quốc:
Có một nguyên nhân đáng chú ý là lạm phát tăng cao vượt mức kiểm soát trong nền kinh tế Việt Nam thời gian vừa qua là do chính sách tỉ giá. Đây là một đánh giá được đưa ra bởi các chuyên gia kinh tế cấp cao. Theo đó Việt Nam đã nhập khẩu lạm phát từ Trung Quốc thông qua tỉ giá hối đoái. Như nhiều người đã biết, Trung Quốc là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, và hiện nay thì cán cân thương mại thương mại giữa hai nước đang nghiêng về phía Trung Quốc.
Từ giữa năm 2005 trở về trước, tỉ giá NDT/USD gần như cố định nên hoạt động giao thương hầu như không tác động nhiều đến tình hình kinh tế cũng như lạm phát ở nước ta. Tuy nhiên, từ giữa năm 2005 đến nay, đồng Nhân dân tệ đã lên giá hơn 10% so với đồng USD, và điều này đã tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam, khi phải thanh toán hàng nhập khẩu từ Trung Quốc với kim ngạch tăng mạnh qua từng năm bằng đồng nhân dân tệ. Trong khi đó hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thu về bằng USD. Do chính sách tỉ giá của Việt Nam gắn chặt với đồng USD và được duy trì gần như cố định (tiền đồng giảm giá trung bình mỗi năm vào khoảng 1% so với đồng USD) nên càng gây sức ép cho tình hình lạm phát trong nước.
3.2 Từ nội bộ nền kinh tế:
Tại Việt Nam, các nguyên nhân lạm phát đã được đề cập ở trên đều xuất hiện ở nền kinh tế với những trọng số khác nhau ở những thời kỳ khác nhau. Một cách cụ thể, có thể xem lạm phát ở Việt Nam là sự tích hợp từ nhiều nguyên nhân, tác động lẫn nhau làm cho lạm phát trở nên phức tạp và khó đối phó. Năm 2008 là năm các nguyên nhân đã tích tụ bấy lâu nay gặp cơn lốc lạm phát thế giới và trở nên bùng nổ lớn. Có thể chia nguyên nhân gây lạm phát ra thành ba nhóm cơ bản sau:
3.2.1 Lạm phát tiền tệ:
Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát.
Có thể kể ra các nguyên nhân chính làm tăng lượng cung tiền như sau:
Thứ nhất, chi tiêu ngân sách ngày càng lớn. Chi tiêu ngân sách năm sau cao hơn năm trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều kiện hạ tầng như đường xá, cầu cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc phục hậu quả của thiên tai ... Trong đó có nhiều các vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài, tốn kém, hiệu quả thấp. Những khoản chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền mặt lớn ra thị trường. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế, Chính phủ đã có những kế hoạch chi tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội chi ngân sách trong nhiều năm trn 5% GDP (năm 2007 bội chi khoảng trên 56.000 tỷ đồng). Đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều cần thiết, nhưng đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, gây lãng phí lớn trong thời gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà ( đọc báo cáo kiểm toán nhà nước trong nhiều năm chúng ta thấy rất đau lòng về những con số lãng phí và thất thoát hàng ngàn tỷ đồng), trong khi đồng lương của nhân dân lao động, những người công chức nhà nước thì quá thấp so với thời giá, 30-40 năm làm việc trong cơ quan hành chính, giáo dục, y tế… nhiều người không thể mơ nổi một căn nhà. Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án, tổng dự án và thiết kế kỹ thuật quá chậm trễ, thủ tục rườm rà và phức tạp (ai cũng biết, ai cũng nói, nhưng ai sẽ chịu trách nhiệm vấn đề này? Bộ nào cũng hứa!). Việc chi tiêu thì không hiệu quả, tình trạng tham nhũng thì gia tăng đã hưởng đến niềm tin của công chúng vào cơ chế và bộ my điều hành của chúng ta. Đảng và Nhà nước ta đã thấy và đang điều chỉnh, như thành lập cơ quan chống tham nhũng, nhưng cần quyết liệt hơn. Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội ở VN trong vài năm gần đây bình quân hàng năm trên 40% GDP và hệ số ICOR là 4,7 (có nghĩa là VN hiện cần 4,7 đơn vị đầu tư để tạo ra một đơn vị tăng trưởng), hệ số ny là rất cao so với các nước khác trong khu vực. Tổng cầu tăng, nhưng tổng cung tăng hạn chế nên giá phải tăng.
Thứ hai, quản lý tiền mặt kém hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam có nhiều đơn vị như Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Công ty bảo hiểm, ... liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Lượng tiền cần có (D) để cân đối với hàng hoá không đồng nhất với lượng tiền mặt thực tế đang có trên thị trường. Lượng tiền này không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T) mà còn phụ thuộc vào vòng quay đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công thức: D = T . V.
Lượng tiền D cân đối với hàng cần phải được kiểm soát chặt và thường ổn định trong một thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu tăng D, các nhà quản lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng T. Vấn đề này rấ quan trọng cả đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô.
Song việc có nhiều thành viên tham gia vào cơ chế lưu hành tiền tệ như trên đã khiến cho công tác quản lý trở nên phức tạp và kém hiệu quả. Nhiều cơ sở ngân hàng, phi ngân hàng tham gia kinh doanh tiền tệ thường chỉ quan tâm tới lợi nhuận, tới vốn. Do vậy vòng quay tiền mặt ít được chú ý, khiến cho việc quản lý V càng khó khăn phức tạp hơn. Khi có nhu cầu tăng D, thay vì việc tìm giải pháp tăng vòng quay đồng tiền (V) lại tăng lượng cung tiền mặt vào lưu thông, làm cho lượng tiền mặt có trong lưu thông (T) thường xuyên tăng lên. Lượng tiền nhiều trong lưu thông khiến cho thu chi tiền mặt dễ dàng, xuất hiện toạ chi ở nhiều doanh nghiệp, vòng quay đồng tiền (V) thực tế đã tăng lên. Điều này khiến cho D càng lớn gây mất cân đối trầm trọng giữa tiền (D) và hàng, làm lạm phát gia tăng đột biến.
Thứ ba, ngoại tệ tăng mạnh. Năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng cao, kiều hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng tiền mặt trên thị trường tăng lên. Trong những năm qua, với những thành tựu phát triển kinh tế nổi bật cùng với chính sách thông thoáng, cởi mở, VN trở thành một điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài. Lượng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài vào VN liên tục ở mức cao thông qua kênh đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp,…. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong năm 2007 dự kiến khoảng 10 tỷ USD, đến cuối năm lên trên 20 tỷ USD (đã giải ngân 8 tỷ USD), đầu tư gián tiếp (khoảng 5 tỷ USD), ODA cũng tăng nhanh (4.45 tỷ USD năm 2006, năm 2007 là 5.42 tỷ USD, giải ngân 2 tỷ USD). Kiều hối tăng cao (kiều hối của trên 3 triệu người ở 94 quốc gia gửi về nước năm 2007 đạt 6 tỷ USD); Việt kiều về nước ăn Tết đông hơn tăng khoảng 30% , khách du lịch nước ngoài cũng tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007 (ngoại tệ mang vào khoảng 3 tỷ USD). Lượng tiền Ngân hàng Nhà nước tung vào để mua ngoại tệ (tăng tổng cầu) cũng rất lớn (khoảng 160.000 tỷ đồng) với tỷ giá khoảng 16.000 VND/USD để giữ giá USD không làm ảnh hưởng nhiều đến xuất khẩu (khoảng 10 tỷ USD đã được NHNNVN mua vào trong năm 2007). Điều rất tiếc, nếu chúng ta chủ động nâng giá VND và giảm giá USD theo quy luật cung cầu (cung tăng thì giá có khuynh hướng giảm, cầu tăng thì giá có khuynh hướng tăng) thì tình hình sẽ bớt căng thẳng như hiện nay. Nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài họ luôn vì mục tiêu lợi nhuận, nên khi có cơ hội thì họ sẳn sàng nhảy vào bán USD giá cao, mua trái phiếu, gởi ngân hàng lãi suất cao và sau đó bán trái phiếu lấy VND mua USD giá hạ… Năm 1997, khi USD mạnh, nhưng các nước Đông Nam á để tỷ giá cố định, nên đã bị đầu cơ tiền tệ lợi dụng và tàn phá kinh tế. Đồng USD mạnh hay yếu (như hiện nay) đều có cơ hội cho nhà đầu cơ tiền tệ chuyên nghiệp.
Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển mạnh trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền nhàn rỗi trong dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động thông qua vay ngân hàng, rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh doanh), từ các nhà đầu tư nước ngoài,....
Thứ năm, một nguyên nhân quan trọng khác là tâm lý hoang mang của người dân trước giá cả thị trường tăng cao, đồng tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn của mình, các nhà đầu tư cũng như dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại quý, đá quý khác thay vì dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một lượng tiền lớn được tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn.
Tất cả những nhân tố trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông (T) tăng lên quá nhiều, vượt xa lượng tiền mặt thực tế cần.
3.2.2 Lạm phát cầu kéo:
Lạm phát cầu kéo do tốc độ phát triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế. Nền kinh tế phát triển nóng khiến cho nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng có hạn, mất cân đối này làm giá cả tăng liên tục với tỷ lệ cao. Năm 2006, 2007, 2008 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng phát triển nóng, Chính phủ liên tục khuyến khích doanh nghiệp chạy đua để đạt chỉ tiêu tăng trưởng cao năm nay cao hơn năm trước. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá tải, công trình – dự án chậm tiến độ ...).
3.2.3 Lạm phát chi phí đầy:
Lạm phát chi phí đẩy do giá vật tư đầu vào tăng. Trong năm qua, nhiều loại nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, … Những loại chi phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát.
Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất nào trong nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than, khai thác đá, luyện cán thép... sắp tới là ngành điện.
Lạm phát chi phí đẩy mang tính toàn cầu song mức độ diễn ra ở mỗi nước có khác nhau. Những nền kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm sẽ không lạm phát, tăng giá dầu chỉ là yếu tố dẫn tới tăng giá trong nước. Đối với những nền kinh tế tăng trưởng nóng như Việt Nam, Trung Quốc, ấn Độ, giá dầu tăng đã thực sự đẩy lạm phát cao. Do vậy, việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh tế tăng trưởng nóng cũng bao hàm việc nhập cả những yếu tố lạm phát của các nền kinh tế đó.
4. Đề xuất giải pháp:
Chính phủ đã thấy rõ được tác hại của lạm phát trên nền kinh tế còn non trẻ của VN, trên cuộc sống của người dân. Đây là lần thứ hai sau 12 năm nền kinh tế nước ta lạm phát tăng lên hai chữ số, tỷ lệ tăng trưởng GDP nhiều năm liên tục đã gây tâm lý chủ quan. Trước tình hình đó, Chính phủ cần phải đưa ra một gói giải pháp đồng bộ, hợp lý và kịp thời nhằm chặn đứng lạm phát, sớm đưa nền kinh tế phục hồi trở lại và tiếp tục phát triển trong những năm tiếp theo.
Một cách chi tiết, dựa vào bốn nhân tố: chính sách, cầu, cung và quán tính, các chính sách kiềm chế lạm phát có thể kể ra như sau:
4.1 Chính sách tài chính-tiền tệ:
Cần điều chỉnh một chính sách tài chính-tiền tệ năng động và hiệu quả, cụ thể là điều chỉnh lượng cung tiền phù hợp, điều chỉnh chính sách tài khoá, tích cực quản lý và tăng hiệu quả của chi ngân sách.
Những việc cần làm là giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông. Một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất vay nóng giữa các Ngân hàng, nới lỏng tỷ giá hối đoái... là rất cần thiết, tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ. Cần phải quản lý lượng cung tiền trong lưu thông chặt hơn nữa, chủ động tăng vòng quay của đồng tiền. Trước mắt là hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại nhằm hạn chế và kiểm soát lượng tiền tiếp tục được tung vào lưu thông. Ngân hàng Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra giám sát các ngân hàng thương mại, nhất là những ngân hàng thương mại lớn trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp tăng vòng quay đồng tiền, quản lý lượng cung tiền cho lưu thông. Nếu không quản lý và tăng vòng quay tiền tệ sẽ hoàn toàn bị động trong quản lý lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng tiền sẽ tăng lên nhiều gây ra những hậu quả xấu và dẫn tới lạm phát thường trực. Mặt khác phải xác định được lượng tiền thực có trong lưu thông (T), xây dựng chỉ tiêu vòng quay tiền, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu của toàn ngành. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước chủ động giảm lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy các ngân hàng thực hiện các giải pháp tăng vòng quay đồng tiền của mình. Như vậy lượng tiền sẽ được cung ứng trong giới hạn an toàn đối với nền kinh tế.
Tiếp đó, cần quản lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách. Cần xem xét lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu của Chính phủ, của các ban ngành. Tập trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên chuyển vào những năm sau. Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng việc hoàn thành các chương trình, các dự án đúng thời hạn để sớm phát huy tác dụng. Giảm chi phí trong các cơ quan khối công quyền, tích cực chống tiêu cực và lãng phí.
Các cơ quan chức năng cũng cần nghiên cứu điều chỉnh lãi suất ngân hàng năng động hơn. Có thể đảm bảo mức lãi suất bình quân cả năm 12%, song mức hiện tại có thể điều chỉnh cao hơn nhằm rút bớt lượng tiền mặt ra khỏi lưu thông. Tăng lãi suất tiết kiệm trong giai đoạn hiện tại tuy có ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán, tới tăng trưởng song trong hiện thời là hợp lý và tác động tích cực tới kiềm chế lạm phát.
Ngoài ra, cũng cần phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường. Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn; thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với một số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam như USD, EURO, Yên, Nhân dân tệ... đảm bảo tác động khách quan vào xuất nhập khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi tiêu không dùng tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngoài, cần tạo cơ chế để nhóm khách này có thể giam gia, nhất là đối với thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi tiền mặt. Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát. Trong trường hợp cấp bách hiện nay, không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu qua trung gian. Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trực tiếp cho dân. Bán trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người mua sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia. Có thể tổ chức thành những chiến dịch phân phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội tham gia.
4.2 Điều chỉnh tăng trưởng kinh tế:
Trước thực trạng nền kinh tế phát triển quá nóng, cần phải giảm tốc độ tăng trưởng, duy trì tốc độc tăng trưởng xoay quanh 8% là hợp lý. Cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư cả trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, chủ động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, có thể chuyển những dự án chưa cấp thiết xuống tiếp những năm sau nhằm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng.
Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá vật chất, tăng năng suất lao động hơn nữa, nhất là sản xuất vật tư, nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng nhằm tăng năng lực của nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng để thúc đẩy tiêu dùng nội địa.
Kiểm tra, xem xét các doanh nghiệp lớn đã cổ phần hoá, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư huy động từ thị trường chứng khoán. Hạn chế các doanh nghiệp loại này chuyển hướng kinh doanh từ sản xuất hàng hoá hiện hữu sang dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ.
4.3 Hạn chế tăng chi phí:
Giảm mức tăng chi phí phải thực hiện tiết kiệm trong sản xuất. Để làm được điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức, kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu. Một giải pháp giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện công nghệ, đổi mới công nghệ, cải tiến tố chức quản lý nhằm tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên, để thực hiện kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này, Việt Nam sẽ phải chấp nhận từ bỏ một số mục tiêu khác. Do đó, Nhà nước cần có sự tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác trên thế giới để có những quyết sách đúng đắn, kịp thời.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, kinh tế Việt Nam vừa trải qua một giai đoạn nhiều khó khăn, thử thách. Vấn đề lạm phát những năm vừa qua đã để lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm lớn, đòi hỏi nhân dân và Chính phủ phải có những biện pháp tích cực để đối phó. Lạm phát là hiện tượng của kinh tế thị trường mang tính khách quan, dù muốn hay không chúng ta cũng vẫn phải đón nhận. Chính vì vậy, cần phải bình tĩnh nhìn nhận tìm hiểu bản chất sự việc để có những phản ứng điều chỉnh. Tuy việc áp dụng các giải pháp kiềm chế lạm phát từ lý thuyết vào thực tiễn nền kinh tế là một vấn đề không dễ, nhưng bước đầu Chính phủ ta đã có những kết quả khả quan, có thể nhận thấy rõ ở tình hình kinh tế những tháng đầu năm 2009. Điều này tạo đà thuận lợi cho chúng ta tiếp tục có những chính sách hiệu quả trong công cuộc quản lý vĩ mô, đưa nền kinh tế ngày càng phát triển vững mạnh, hội nhập và phát triển cùng kinh tế thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Số liệu: Tổng cục thống kê Việt Nam
Wikipedia Tiếng Việt
Giáo trình kinh tế vĩ mô.
Đối mặt với lạm phát. Tác giả: Nhiều tác giả
Lạm phát ở Việt Nam. Lý thuyết và kiểm chứng thực nghiệm mô hình P_Star. Tác giả: Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bão
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lạm phát- từ lý thuyết đến thực tiễn ở việt nam.doc