Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, với bao biến đổi thăng trầm đã đúc kết lại thành một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc. Trong đó, không thể không nhắc đến lễ hội - một nét sinh hoạt văn hóa dân gian. Đây cũng là thành tố quan trọng góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng trong thống nhất của dân tộc Việt Nam. Lễ hội không chỉ là loại hình văn hóa dân gian mà còn là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn có vai trò quan trọng, là vật hút của ngành du lịch. Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước đã và đang vận dụng nguồn tài nguyên nhân văn này đưa vào hoạt động du lịch, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển và nâng các lễ hội lên tầm cao mới. Theo thống kê năm 2004 của Cục Văn hóa Thông tin cơ sở và Bộ Văn hóa Thông tin, cả nước có 8902 lễ hội lớn nhỏ và được phân bố rộng khắp. Ở địa phương nào cũng có lễ hội đặc trưng tiêu biểu của mình. Nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hoá, Thọ Xuân là vùng đất “địa linh nhân kiệt” có vị thế chiến lược trọng yếu trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước tỉnh Thanh nói riêng, cả nước nói chung. Nơi đây không chỉ sản sinh ra những con người kiệt suất cho dân tộc như: Lê Hoàn, Lê Lợi, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, mà còn là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa độc đáo, điển hình là các lễ hội truyền thống của địa phương gắn liền với các vị vua của dân tộc và văn nghệ dân gian của con người, mảnh đất nơi đây. Tuy nhiên, việc tổ chức lễ hội ở đây mới chỉ dừng lại ở quy mô là những lễ hội dân gian mang ý nghĩa văn hóa thuần túy, mà chưa có sự mở rộng hoạt động của các lễ hội thành vật hút của ngành du lịch, hay có cũng chỉ làm một cách hời hợt. Bên cạnh đó, vẫn chưa có sự kết hợp giữa các lễ hội nơi đây với những tài nguyên du lịch khác của địa phương để phát triển mạnh mẽ hoạt động du lịch. Hay nói cách khác, việc sử dụng tài nguyên văn hóa - lễ hội đưa vào khai thác trong du lịch của huyện Thọ Xuân còn hạn chế, chưa thực sự được chú trọng. Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn đề tài “Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương”, làm báo cáo khóa luận tốt nghiệp ra trường của mình, nhằm góp công sức nhỏ bé của mình vào việc giới thiệu, bảo tồn và khai thác những giá trị văn hóa của lễ hội để phát triển du lịch của địa phương. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nhiều người từ lâu đã biết đến Thọ Xuân với những vị anh hùng của dân tộc như Lê Lợi, Lê Hoàn, với những di tích Lam Kinh, đền thờ Lê Hoàn, hay những trò diễn xướng dân gian xưa kia dùng để tiến vua, và gắn liền là hệ thống lễ hội đặc sắc và phong phú. Tuy nhiên, chúng ta chủ yếu mới chỉ có những bài viết nghiên cứu đơn lẻ từng lễ hội mà vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu tổng quát về các lễ hội và đưa ra những định hướng phát triển du lịch cụ thể cho các lễ hội của huyện. Trong “Non nước Việt Nam”, tác giả Vũ Thế Bình có đề cập đến Lễ hội Lam Kinh ở Thanh Hóa và vẫn chưa đi sâu nghiên cứu xem hoạt động du lịch của lễ hội như thế nào và cũng chưa có sự liên hệ với các lễ hội khác để xây dựng nên hệ thống lễ hội phục vụ du lịch trên địa bàn huyện Thọ Xuân. Về các lễ hội ở huyện Thọ Xuân cũng có khá nhiều bài viết của các cá nhân, cơ quan văn hóa đăng trên các trang báo điện tử nhưng hết sức sơ lược, ngắn gọn như: Lễ hội Lê Hoàn có các bài viết như: Đỗ Phương Thảo với “Lễ hội Lê Hoàn và huyền thoại về ông vua trọng nông” (kinhtenongthon.com.vn); tác giả hoabovai với “Lễ hội Lê Hoàn - âm vang tiếng gọi cội nguồn” (tuoitrethanhhoa.com); hay “Lễ Hội Lê Hoàn ở Thanh Hoá” (slpc.wordpress.com); Viết về lễ hội Lam Kinh có: Đỗ Như Chung với Lễ hội Lam Kinh từ lễ hội cung đình đến lễ hội dân gian”; Thiên Lam với “Lễ hội Lam Kinh mang đậm nét văn hoá thời Lê” (tin247.com); Lễ hội Xuân Phả cũng có những bài viết như: “Trò Xuân Phả những điệu múa mặt nạ dị kỳ” (viettems.com) của Huy Thông (2009); “Lễ hội Làng Xuân Phả” (2008), (thanhhoafc.net/forum/showthread.php?t=4700); “Phục dựng lễ hội Xuân Phả/Video” (viettems.com) của Bùi Quang Thắng (2010); Tuy nhiên, những bài viết này chỉ tiến hành mô tả khái quát lại các lễ hội, mà không đi sâu vào phân tích những ý nghĩa, vai trò của từng lễ hội, không đánh giá tiềm năng du lịch của từng lễ hội ở mỗi địa phương. Mặc dù vậy, đây cũng là những nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu và hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khi nhắc đến lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa người ta chỉ biết đến một số lễ hội mang tầm quốc gia như Lễ hội Lam Kinh mà không biết đến những lễ hội khác như: Lễ hội Lê Hoàn, lễ hội làng Xuân Phả, là những lễ hội cũng có nhiều giá trị đang được bảo tồn và có thể phát triển du lịch. Do đó, khóa luận hoàn thành là nguồn tài liệu góp phần giới thiệu rộng rãi với mọi người những giá trị văn hóa mà các lễ hội tại huyện Thọ Xuân hiện đang lưu truyền. Là người con của địa phương, việc tìm hiểu về đặc điểm và thực trạng hoạt động của các lễ hội tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa, giúp bản thân tác giả hiểu rõ hơn về các lễ hội truyền thống văn hóa trên mảnh đất quê hương mình. Đồng thời, với việc nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp nhằm: Tác động vào ý thức của người dân địa phương trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa; đưa lễ hội của địa phương trở thành tài nguyên phục vụ cho hoạt động du lịch, góp phần nâng cao thu nhập và hiệu quả kinh tế của huyện. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động du lịch và lễ hội, trên cơ sở đó đánh giá tác động của hoạt động du lịch đối với kinh tế - xã hội, văn hóa (lễ hội) và môi trường. Tìm hiểu về các lễ hội tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa, đồng thời đưa ra giải pháp, kiến nghị để lễ hội truyền thống của địa phương trở thành lễ hội phục vụ du lịch mà không làm mất đi tính linh thiêng của lễ hội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là một số lễ hội truyền thống tiêu biểu có thể phát triển để phục vụ hoạt động du lịch trên địa bàn huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tìm hiểu khái quát về đặc điểm địa lí, lịch sử, kinh tế - xã hội, văn hóa con người của huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa, qua đó hiểu được tác động của nó đối với lễ hội ở đây. Nghiên cứu một số lễ hội văn hóa tiêu biểu như: Lễ hội Lam Kinh, lễ hội Lê Hoàn, lễ hội làng Xuân Phả thuộc địa bàn huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa ở các mặt nội dung, hình thức từ khi các lễ hội này ra đời và phát triển đến nay. Ngoài ra, đề tài tìm hiểu thực trạng thu hút khách du lịch tại các lễ hội và phương thức khai thác các lễ hội này đưa vào hoạt động du lịch tại địa phương. Đồng thời đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch tại lễ hội ở huyện Thọ Xuân. 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu Để thực hiện khóa luận này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các nguồn tư liệu sau: - Tài liệu thành văn: Sách chuyên ngành, các công trình nghiên cứu, khóa luận tốt nghiệp, bài viết, sách báo, tạp chí, văn bản, - Tài liệu điền dã thu thập được thông qua việc đi thực tế các lễ hội tiêu biểu tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa và phỏng vấn các cán bộ văn hóa, những người cao tuổi tại địa phương. Đây là nguồn tài liệu quan trọng góp phần không nhỏ vào sự thành công của đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Khi thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp này, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, đó là: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp các tư liệu, thông tin liên quan đến đề tài giúp chủ thể khái quát hóa, mô hình hóa các vấn đề nghiên cứu đạt được mục tiêu đề ra. - Phương pháp thống kê: Các số liệu, tư liệu được sưu tầm ở nhiều nguồn khác nhau và thời gian dài ngắn cũng không giống nhau vì thế các tài liệu đó cần được thống kê lại và xử lý có hệ thống, phục vụ cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả cao. - Phương pháp khảo sát thực địa: Sử dụng phương pháp này để lấy được các số liệu, thông tin phục vụ cho việc trình bày luận cứ, đồng thời kiểm nghiệm độ chính xác, để kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục. Phương pháp này đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến độ chính xác của đề tài. - Phương pháp phỏng vấn: Đưa ra những câu hỏi đối thoại liên quan đến lễ hội của địa phương đối với những vị khách tham gia lễ hội, những người quản lý, cán bộ văn hóa, những người cao tuổi, người làm du lịch để thu thập thêm thông tin. - Phương pháp chuyên gia: Việc tranh thủ ý kiến của lãnh đạo, chính quyền, cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa lễ hội là những kinh nghiệm quý báu để vận dụng vào nghiên cứu. Công việc này rút ngắn quá trình điều tra phức tạp, đồng thời bổ sung cho phương pháp điều tra cộng đồng. 6. Đóng góp của đề tài 6.1. Về mặt khoa học Nghiên cứu lễ hội tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa góp phần xây dựng bức tranh tổng thể về lễ hội văn hóa tiêu biểu trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội (nhất là về du lịch) của địa phương. 6.2. Về mặt thực tiễn Đề tài hoàn thành sẽ góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh lễ hội của Thọ Xuân. Đồng thời để các cơ quan chính quyền địa phương quan tâm chú trọng phát triển du lịch ở các lễ hội hơn nữa. Bên cạnh đó, đề tài đưa ra những đề xuất định hướng trong việc bảo tồn giữ gìn và khai thác giá trị văn hóa để phát triển du lịch. Lễ hội ở huyện Thọ Xuân là mảng đề tài hiện nay còn ít người nghiên cứu, nên nguồn tài liệu vẫn chưa phong phú. Do đó, sau khi đề tài hoàn thành đây sẽ là nguồn tài liệu thành văn hữu ích cho những ai có nhu cầu nghiên cứu về mảng đề tài lễ hội ở các địa phương. 7. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo đề tài kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận chung Chương 2: Lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa Chương 3: Khai thác lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa vào việc phát triển du lịch địa phương TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Dương Văn An (2001), Ô châu cận lục, Nxb Thuận Hóa. [2] Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa. [3] Nguyễn Sơn Anh - Nguyễn Sơn Văn (2009), Lễ hội cầu phúc cầu lành ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin. [4] Toan Ánh (2005), Hội hè đình đám, quyển thượng, Nxb Trẻ. [5] Ban quản lý khu di tích Lam Kinh Thanh Hóa (2001), Di tích lịch sử Lam Kinh, Nxb Thanh Hóa. [6] Vũ Thế Bình (2005), Non nước Việt Nam, Nxb Hà Nội. [7] Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. [8] Đỗ Như Chung (2007), Lễ hội Lam Kinh từ lễ hội cung đình đến lễ hội dân gian, thanhhoatourism.com.vn/PrintPreview.aspx?ID=1145. [9] Ngô Thị Kim Doan (2003), Những lễ hội Việt Nam tiêu biểu, Nxb Văn hóa thông tin. [10] Lê Duy Dũng (2010), Trò Xuân Phả - một di sản văn hóa quý xứ Thanh, tuoitrethanhhoa.com/forum. [11] Nguyễn Văn Đính - Trần Minh Hòa (2004), Kinh tế du lịch, Nxb Lao động. [12] Thuận Hải (2006), Bản sắc văn hóa lễ hội, Nxb Giao thông vận tải. [13] Nguyễn Hồ Mai Hương (2010), Lễ hội Cầu Bông, khóa luận tốt nghiệp khoa Lịch Sử, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. [14] Vũ Ngọc Khánh (2008), Lễ hội Việt Nam, Nxb Thanh Niên. [15] Đinh Trung Kiên (2006), Một số vấn đề về du lịch Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [16] Lê Văn Kỳ (1997), Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng, Nxb Khoa học xã hội. [17] Hồ Hoàng Lan (1998), Lễ hội - một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. [18] Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục. [19] Thu Linh - Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa. [20] Tuấn Linh (2010), Thọ Xuân: Khi văn hóa trở thành động lực, baothanhhoa.vn/search. [21] Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. [22] Phạm Thị Mai (2010), Khu di tích Lam Kinh giá trị văn hóa - lịch sử và tiềm năng phát triển du lịch, khóa luận tốt nghiệp khoa Lịch Sử, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. [23] Nguyễn Văn Mạnh (2005), Quản trị kinh doanh lữ hành, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội. [24] Đổng Trọng Minh và Vương Lôi Đình (2001), Kinh tế du lịch và du lịch học, Nxb Trẻ. [25] Phạm Gia Minh (2011), Lễ hội thời nay đang được thả nổi, tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-02-23-le-hoi-thoi-nay-dang-duoc-tha-noi. [26] Phạm Lê Trọng Nghĩa (2010), “Mùa xuân cơ hội quảng bá du lịch văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 308. [27] Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học. [28] Phan Đăng Nhật (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. [29] Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2010), Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2007 - 2015 và định hướng đến 2020, www.itdr.org.vn/details_daqh-x-58.vdl. [30] Phạm Tấn - Phạm Tuấn - Hoàng Tuấn Phổ (2005), Địa chí huyện Thọ Xuân, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. [31] Trần Đức Thanh (1999), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. [32] Đỗ Phương Thảo (2007), Lễ hội Lê Hoàn và huyền thoại về ông vua trọng nông, kinhtenongthon.com.vn/Story/vanhoa/2007/4/3199.html. [33] Trương Thìn (2007), 101 điều cần biết về phong tục và tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Hà Nội. [34] Trần Văn Thông (2002), Tổng quan du lịch, Đại học dân lập Văn Lang. [35] Huy Thông (2009), Trò Xuân Phả những điệu múa mặt nạ dị kỳ, tintuc.xalo.vn/00-400578582/Tro_Xuan_Pha_nhung_dieu_mua_mat_na_di_ky. [36] Tổng cục Du lịch Việt Nam, Luật du lịch (2006), Nxb Chính trị Quốc gia. [37] Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh hóa - Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch (2008), Báo cáo “Tình hình thực hiện kế hoạch vốn năm 2008, đề nghị bổ sung vốn năm 2009 và kế hoạch vốn 2010”. [38] Cao Trung Vinh (2010), Phát triển lễ hội truyền thống - nhìn từ cộng đồng, viettems.com/index.php?option=com. [39] Lê Văn Viện (2008), Mười tám vị khai quốc công thần ở Lũng Nhai, Nxb Thanh Hóa. [40] Văn Viện (2009), Các vua và hoàng hậu táng ở Lam Kinh, Nxb Thanh Hóa. [41] Tài liệu điền dã, thực tế, phỏng vấn.

doc79 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5268 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
góp phần thay đổi bộ mặt của huyện như: Giao thông, thông tin liên lạc,… Trong đó, các khu di tích lịch sử, đình chùa, miếu, cổng làng,… trong vùng được quan tâm trùng tu, xây dựng và mở rộng quy mô để giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống của địa phương đồng thời là điều kiện phát triển du lịch. Đặc biệt, các khu di tích quan trọng trong huyện được được tỉnh phê duyệt các dự án trùng tu và cấp chi phí. Với mục đích đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch trên địa bàn huyện, thời gian qua Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Thọ Xuân đã tích cực phát động phong trào xây dựng nhà văn hóa, cổng làng, sân bãi thi đấu thể thao,... Trong 9 tháng năm 2008, huyện Thọ Xuân đã xây dựng mới được 3 cổng làng, 4 nhà văn hóa. Phong trào văn nghệ, thể dục - thể thao cũng được đẩy mạnh. Đến nay, Thọ Xuân đã có 225 đội văn nghệ quần chúng không chuyên, 159 câu lạc bộ văn hóa, thể thao, 37 điểm bưu điện - văn hóa xã. Bên cạnh đó, huyện còn chú trọng công tác xã hội hóa hoạt động trùng tu, tôn tạo các khu di tích lịch sử của địa phương. Thời gian qua huyện đã triển khai trùng tu, tôn tạo lăng mộ Quốc Mẫu (xã Phú Yên), mộ vua Lê Hiển Tông (xã Xuân Giang) và hồ nước trước đền thờ vua Lê Thái Tổ (xã Xuân Lam) với tổng kinh phí hơn 3 tỷ đồng bằng nguồn vốn từ xã hội hóa. Đặc biệt, với mục đích xây dựng Khu di tích lịch sử Lam Kinh (xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân) trở thành trọng điểm du lịch ở xứ Thanh, hiện nay tỉnh Thanh Hoá đang gấp rút tiến hành dự án tu bổ, phục hồi, tôn tạo Khu di tích lịch sử Lam Kinh. Đây là dự án lớn mà tỉnh Thanh Hoá thực hiện với mong muốn khôi phục lại một Tây Kinh xưa, góp phần giữ gìn nét văn hóa truyền thống, kiến trúc độc đáo của Việt Nam thế kỷ thứ XV, đồng thời tri ân triều đại Hậu Lê đã có công dựng nước và giữ nước. Theo Ban quản lý di tích lịch sử Lam Kinh, năm 2011 là năm đầu tiên trong lộ trình 5 năm Thanh Hoá tiến hành phục hồi phỏng dựng chính điện Lam Kinh - đây là hạng mục có quy mô to lớn và cũng là công trình quan trọng nhất trong khu di tích Lam Kinh. Với chức năng của chính điện Lam Kinh là nơi hành lễ, khu chính điện Lam Kinh sẽ được bảo tồn, phỏng dựng trên cơ sở nền móng, chân tảng và thềm rồng còn lại với hình thức kiến trúc gỗ truyền thống thời Lê Trung Hưng xuất lộ trên mặt đất, di chỉ kiến trúc thời Lê dưới lòng đất. Đặc biệt, bề mặt kết cấu gỗ khu Chính điện sẽ được trang trí hình rồng và hoa lá thời Lê. Sau khi hoàn thành, đây sẽ là chính điện lớn nhất hiện có trên nước ta cho đến thời điểm này. Số tiền mà Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đầu tư bảo tồn và phỏng dựng chính điện Lam Kinh là 114,8 tỷ đồng. Bên cạnh việc đầu tư trùng tu di tích thì cơ sở vật chất kĩ thuật, hạ tầng của khu di tích Lam Kinh cũng được quan tâm đầu tư. Theo “Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa số 2016/2002 QĐUB” khu di tích được xây dựng với diện tích 103ha, được xây dựng trên phần đất phía nam, phân thành các khu chức năng như: Khu dịch vụ ở phía đông nam (công trình bưu điện, hiệu sách, nhiếp ảnh, nhà nghỉ, cửa hàng, bãi đỗ xe,…); khu công viên cây xanh có diện tích 7,5ha (là khu vui chơi giải trí, tập kết, tổ chức lễ hội và là vùng cây xanh đệm chuyển tiếp không gian giữa di tích và khu du lịch). Thực hiện các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt là Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ V (Khoá IX tháng 2/2002) về “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 - 2010”. Huyện Thọ Xuân đã tập trung vào đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ cho sản xuất và nhu cầu đi lại của người dân. Để phục vụ cho hoạt động du lịch được thuận tiện, toàn huyện đã xây dựng các tuyến đường quốc lộ 47A và 47B đi qua hầu hết các xã trong huyện. Tuyến đường đến đền thờ Lê Hoàn cũng được mở rộng. Đặc biệt, hai tuyến xe buýt số 10 đi Thanh Hóa - thị trấn Thọ Xuân - đền thờ Lê Hoàn, và tuyến xe buýt số 4 từ thành phố Thanh Hóa về Lam Sơn - Thọ Xuân, hai tuyến xe này tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân trong vùng, nhất là vào thời gian lễ hội diễn ra đã tạo điều kiện để nhân dân trong tỉnh có thể đến thưởng thức lễ hội dễ dàng hơn và để thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Đặc biệt, tại khu di tích Lam Kinh, các tuyến đường được mở rộng và cải tạo như: Tuyến đường 15A, 15B (từ cầu Mục Sơn tới nhà trưng bày và đón tiếp); mở rộng mới tuyến đường từ trung tâm xã Xuân Lam tới bến ca nô (bờ sông Chu) và chạy dọc tuyến bờ sông về cầu Mục Sơn. Bãi đỗ xe được xây dựng ở khu vực phía bắc đầu cầu Mục Sơn. Bên cạnh đó, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, thông tin liên lạc, cũng đang được chú trọng đầu tư và phát triển nhằm tạo điều kiện tốt nhất thu hút khách đến với Lam Kinh và tránh tình trạng ùn tắc trong mùa lễ hội. Các nhà nghỉ trong huyện được xây dựng lên ngày một nhiều, chất lượng các nhà nghỉ này cũng được nâng lên. Nhà nghỉ phân bố chủ yếu tại các nơi như: Thị trấn Thọ Xuân, thị trấn Lam Kinh, thị trấn Lam Sơn, thị trấn Sao Vàng,… Cơ sở ăn uống cũng mọc lên nhiều tại các điểm tham quan du lịch. Ngoài ra, hệ thống giao thông nông thôn được bê tông hóa gần 100 % trong các làng xã đã tạo không gian đẹp, thoáng, cũng là yếu tố giúp các lễ hội làng truyền thống được phát triển và được nâng lên tầm cao hơn. Như trình bày ở trên các cổng làng được xây dựng lại cùng với khôi phục lễ hội tiến đến xây dựng các làng văn hóa giữ gìn truyền thống xưa. Hệ thống thông tin liên lạc của huyện phát triển, toàn huyện có đài phát thanh huyện phát đến tất cả các xã, ở mỗi xã cũng đều có hệ thống truyền thanh. Ngoài ra, các trang web của huyện cũng được thành lập như: Trung tâm khai thác tin tức huyện Thọ Xuân ( đây là một website cập nhật các tin tức liên quan đến huyện Thọ Xuân; bách khoa toàn thư huyện Thọ Xuân ( giới thiệu về văn hóa, lịch sử, các danh nhân các lễ hội, các món ăn đặc sản,... ở huyện Thọ Xuân; diễn đàn Thọ Xuân ( là sân chơi cho các bạn trẻ Thọ Xuân giao lưu học hỏi với mục tiêu chung là vì một Thọ Xuân năng động và phát triển;… Như vậy, huyện Thọ Xuân đã và đang quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ cho nhân dân và phát triển kinh tế của huyện. Bên cạnh việc phát triển nông nghiệp, kinh tế huyện đang chuyển dần sang công nghiệp và dịch vụ, khai thác các tiềm năng du lịch của huyện để thay đổi bộ mặt kinh tế huyện trong thời gian sắp tới. Bên cạnh những mặt đạt được thì cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch trên địa bàn huyện vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Về hệ thống giao thông, trên nhiều tuyến đường đang xuống cấp, nhất là tuyến đường từ thị trấn Thọ Xuân lên thị trấn Sao Vàng đang xuống cấp trầm trọng, đường nhiều bụi và ổ gà, ổ voi. Hệ thống cơ sở lưu trú, ăn uống chỉ mới được xây dựng ở bước đầu, để phục vụ cho hoạt động du lịch thì cần đầu tư thêm các trang thiết bị và xây dựng các cơ sở lưu trú, ăn uống này quy mô hơn và theo đúng tiêu chuẩn quy định. 3.1.2. Thực trạng tổ chức quản lý hoạt động của lễ hội Hệ thống quản lý lễ hội trên địa bàn huyện được hoàn chỉnh từ trên xuống dưới, sự quản lý phụ thuộc vào quy mô của các lễ hội. Quản lý lễ hội từ cấp tỉnh đến huyện và làng xã. Mỗi cấp có nhiệm vụ riêng của mình và cấp dưới chịu sự chỉ đạo cấp trên. Những lễ hội có quy mô cấp tỉnh thì chịu sự quản lý và tổ chức lễ hội của cấp tỉnh (Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thanh Hóa) như lễ hội Lam Kinh. Mới đây, năm 2011 lễ hội Lê Hoàn đã được tỉnh cấp kinh phí tổ chức. Lễ hội Xuân Phả được xác định là lễ hội trọng tâm của huyện do Phòng Văn hóa thông tin - Thể thao trực tiếp quản lý. Ngoài ra còn nhiều lễ hội làng dưới sự quản lý của cán bộ xã và hệ thống những người lớn tuổi trong làng. Khi lễ hội diễn ra, trước đó một thời gian người ta lập ra ban quản lý lễ hội. Tại lễ hội Lam Kinh, Ban quản lý của di tích đảm nhiệm luôn công tác quản lý, xử lý những tình huống bất ngờ xảy ra trong lễ hội. Tại lễ hội Lê Hoàn, ban quản lý lễ hội thành lập từ những cán bộ trong xã và những người lớn tuổi có kinh nghiệm trong làng. Lễ hội Xuân Phả, Ban quản lý thành tập từ những người có uy tín trong làng và có nhiều năm kinh nghiệm tổ chức lễ hội. Đây chính là những lực lượng chịu trách nhiệm trực tiếp và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong lễ hội Bên cạnh sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền thì nhân dân trong vùng cũng luôn luôn có ý thức bảo vệ tài sản và văn hóa công. Hệ thống di tích, đình làng, đền miếu,… luôn được dọn dẹp, bảo vệ, không bị xâm hại. Vào những ngày lễ hội, tất cả nhân dân trong làng, vùng đều có ý thức dọn dẹp và giữ gìn vệ sinh. Như vậy, với sự quản lý chỉ đạo thống nhất từ trên xuống dưới, hệ thống di tích và lễ hội của huyện Thọ Xuân được vận hành một cách có trình tự. Tuy vẫn còn nhiều bất cập nhưng đây là thành công bước đầu trong việc quản lý hệ thống lễ hội của huyện. 3.1.3. Thực trạng lượng khách du lịch tham gia lễ hội Hàng năm, đến hẹn lại lên, vào những ngày lễ hội nhân dân trong vùng nô nức kéo nhau đi xem hội. Không chỉ có nhân dân địa phương, trong thời gian gần đây những du khách cũng đã biết đến các lễ hội nơi đây và tham gia rất đông, có hàng ngàn người kéo về tham gia lễ hội trong những ngày này. Những lễ hội thu hút lớn có được sự quan tâm lớn của du khách như Lễ hội Lê Hoàn, lễ hội Lam Kinh, lễ hội Xuân Phả,… Theo thống kê của Ban quản lý khu di tích Lam Kinh, năm 2009 có hơn 13.700 lượt người, đến năm 2010 có gần 40.000 lượt khách đến thăm khu di tích. Chúng ta thấy rằng lượng khách du lịch đến Lam Kinh tăng nhanh trong hai năm gần đây (tăng gấp 3 lần), chứng tỏ du lịch địa phương đã bắt đầu gây được ấn tượng tốt đối với du khách. Những năm gần đây, lễ hội Lê Hoàn được huyện cấp kinh phí tổ chức, do đó quy mô tổ chức lớn hơn và thu hút đông đảo nhân dân tham gia, ước tính có hàng nghìn người đến tham gia. Lễ hội Xuân Phả, với đặc trưng riêng là một nghệ thuật múa dân gian độc nhất chỉ có ở Thọ Xuân, do đó lễ hội luôn có sự quan tâm chú ý của nhân dân trong vùng và du khách. Hàng năm, khi lễ hội diễn ra, hàng nghìn người từ khắp nơi trong vùng kéo đến xem hội và năm sau bao giờ cũng rộn ràng hơn năm trước. Mặc dù những lễ hội ở huyện Thọ Xuân có quy mô không nhỏ nhưng lại chưa thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế, khách đến với lễ hội hầu như chỉ có khách nội địa. Do đó, cần có những biện pháp để thu hút khách du lịch quốc tế, góp phần giới thiệu nét văn hóa đặc sắc này của huyện Thọ Xuân với mọi người. 3.1.4. Hiện trạng giữ gìn vệ sinh môi trường tại các lễ hội Giữ gìn môi trường là vấn đề bức thiết luôn luôn được quan tâm trong việc phát triển du lịch của nước ta, trong đó có lễ hội. Lễ hội diễn ra trong thời gian ngắn tập trung lượng người lớn, do đó việc làm ảnh hưởng môi trường là điều không tránh khỏi. Đối với các lễ hội trên địa bàn huyện Thọ Xuân, đây cũng là vấn đề cần được Ban quản lý di tích và Ban tổ chức lễ hội hết sức quan tâm. Trước hết, trong các đình miếu đã hạn chế mức thấp nhất việc đốt nhang, lư hương lớn được đặt ra ngoài và có nơi hóa vàng cách xa đền, miếu, do đó hiện tượng đốt nhang nhiều ít làm ô nhiễm đến không khí. Trong phạm vi tổ chức lễ hội đặt nhiều thùng rác và có người dọn dẹp thường xuyên. Tại khu di tích Lam Kinh, trên các con đường đi xuyên trong khu đến các lăng đều có các thùng rác làm bằng xi măng, trong khoảng sân rộng trước đền Lê Hoàn - nơi mở hội, cũng được đặt nhiều thùng rác di động. Đặc biệt, tổ chức lễ hội có rất đông người tham gia nhưng hệ thống cây xanh ở các di tích, chùa, đình,… đều không bị xâm hại, hưng hỏng gì. Như vậy, cùng với việc tổ chức các lễ hội thành công thì công tác giữ gìn vệ sinh môi trường tại các di tích luôn được Ban quản lý quan tâm. Hầu hết các lễ hội đều kiểm soát được vệ sinh môi trường và không để lại tác hại quá lớn, vẫn giữ được quang cảnh như cũ. 3.1.5. Nhận xét Ông cha ta vẫn thường có câu “lợi bất cập hại”, trong hoạt động lễ hội cũng vậy bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì vẫn tồn tại nhiều mặt tiêu cực. Có những vấn đề có thể giải quyết trực tiếp và nhanh chóng nhưng cũng có vấn đề nan giải không thể giải quyết trong một sớm một chiều được. Nhìn chung, việc khai thác các giá trị lễ hội truyền thống để phát triển du lịch ở huyện Thọ Xuân bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch đã được đầu tư xây dựng cơ bản, hệ thống sân bãi phục vụ lễ hội được đầu tư nâng cấp. Hệ thống giao thông, thông tin liên lạc đã đáp ứng được nhu cầu đi lại và cập nhật thông tin của nhân dân trong vùng, nhất là việc quảng bá hình ảnh các lễ hội trên địa bàn huyện. Hệ thống cơ sở lưu trú và cơ sở ăn uống được xây dựng ở bước đầu, phần nào đáp ứng nhu cầu của du khách. Vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường tại các nơi diễn ra lễ hội đã thực hiện khá tốt, rác được thu gom đúng nơi quy định, không có tình trạng đốt nhang gây nhiều khói. Khuôn viên tổ chức được đảm bảo không bị thay đổi sau khi lễ hội kết thúc. Có thể nói đạt được như vậy là do công tác quản lý của cán bộ tốt và ý thức giữ gìn của nhân dân cũng được nâng cao. Tuy nhiên, trong các lễ hội, số lượng du khách tăng đột biến, làm nảy sinh nhiều bất cập trong công tác tổ chức, quản lý. Một số lễ hội dân gian có hiện tượng pha tạp, vay mượn hoặc cải biên làm biến dạng nghi lễ, phai mờ bản sắc dân tộc,… Có thể khái quát những điểm chưa được của lễ hội truyền thống ở huyện Thọ Xuân như sau: - Đơn điệu hóa lễ hội. Văn hóa nói chung cũng như lễ hội nói riêng mang tính đa dạng. Cùng là lễ hội, nhưng mỗi vùng miền, thậm chí mỗi làng có nét riêng, theo kiểu người xưa nói “chiêng làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Mỗi lễ hội đều có cốt cách, sắc thái riêng, cuốn hút khách thập phương đến với lễ hội làng mình. Tuy nhiên, ngày nay lễ hội đang đứng trước nguy cơ nhất thể hóa, đơn điệu hóa, hội làng nào cũng na ná như nhau, làm thui chột tính đa dạng của lễ hội, du khách thập phương sau một vài lần dự hội đã cảm thấy nhàm chán và không còn hứng thú đi chơi hội nữa. - Quan phương hóa lễ hội. Văn hóa nói chung, trong đó có sinh hoạt lễ hội là sáng tạo của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là cách thức mà người dân nói lên những mong ước, khát vọng tâm linh, thỏa mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của mình. Do vậy, từ bao đời nay, người dân bỏ công sức, tiền của, tâm sức của mình ra để sáng tạo và duy trì sinh hoạt lễ hội. Đó chính là tính nhân bản, khát vọng dân chủ của người dân, nó khác với các nghi thức, lễ lạt của triều đình phong kiến trước kia và chừng nào cả với lễ hội mới hiện nay. Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn lễ hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ hội với du lịch,... đây đó và ở những mức độ khác nhau đang diễn ra xu hướng quan phương hóa, áp đặt một số mô hình định sẵn, làm cho tính chủ động, sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí họ còn bị gạt ra ngoài sinh hoạt văn hóa mà vốn xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính xu hướng này khiến cho lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, “giả tạo”, mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hóa, vừa khiến cho du khách hiểu sai lệch về nền văn hóa dân tộc. - Thương mại hóa lễ hội. Cần phân biệt giữa hoạt động mua bán trong lễ hội và việc thương mại hóa lễ hội. Từ xa xưa, trong lễ hội không thể thiếu việc mua bán các sản phẩm độc đáo của địa phương, các món ăn đặc sản. Chính các hoạt động mua bán đó vừa mang ý nghĩa văn hóa, phong tục “mua may bán rủi”, vừa quảng bá các sản phẩm địa phương, mang lại những thu nhập đáng kể cho một số ngành nghề ở địa phương. Đó là các hoạt động rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, hiện nay tại nhiều lễ hội đã cho thuê những gian hàng bán đồ, những nơi tổ chức trò chơi hiện đại mang tính đen đỏ ngày càng gia tăng. Sự tăng giá các sản phẩm trong lễ hội đang là vấn đề cần quan tâm. Du lịch gắn liền với lễ hội là một xu hướng tất yếu và cũng là một cách khai thác hiệu quả những lợi thế vốn có của mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Tuy nhiên, làm như thế nào và mức độ ra sao thì rất cần sự cân nhắc và định hướng đúng đắn của những cơ quan chức năng, những nhà quản lý văn hóa. Nếu làm một cách khoa học, với tinh thần trách nhiệm cao đối với văn hóa thì chẳng những không bị mang tiếng là tầm thường hóa lễ hội mà còn góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đang có nguy cơ mai một và biến tướng. Những bất cập của công tác lễ hội vừa qua có thể do mấy nguyên nhân sau: Thứ nhất là do quá tải về số lượng khách tham gia lễ hội. Vì theo điều kiện lịch sử tự nhiên để lại khuôn viên của di tích, danh thắng, không gian tổ chức lễ hội có giới hạn nhưng lượng du khách đến quá lớn, dẫn đến tình trạng quá tải, lộn xộn, ùn tắc giao thông; tư thương nâng giá dịch vụ làm phiền lòng du khách,… những điều đó dẫn đến hình ảnh phản cảm, làm biến dạng bức tranh đẹp đẽ của lễ hội Việt Nam. Nguyên nhân nữa là sự mất cân đối giữa nguồn lực đầu tư và hiệu quả tổ chức. Ở một số địa phương, lễ hội được tổ chức bằng ngân sách Nhà nước nhưng lại thiếu hiệu quả, gây lãng phí. Cùng với sự lãng phí đó là sự ganh đua về tổ chức lễ hội, nhiều lễ hội dân gian kéo dài quá thời gian quy định. Tổ chức lễ hội thiếu căn cứ khoa học, làm cho nội dung nhiều lễ hội trùng lặp, không thể hiện được đặc trưng và việc khai thác phát huy các diễn xướng, các trò chơi, các hoạt động thể thao dân gian còn hạn chế. Nguyên nhân thứ ba là việc tu bổ di tích và sử dụng nguồn thu công đức ở một số nơi thiếu hiệu quả. Tác động của thị trường đã dẫn đến nhận thức sai lệch về mục đích tổ chức lễ hội. Một số địa phương coi di tích lễ hội là nguồn lợi của địa phương, chỉ chú trọng tập trung khai thác giá trị kinh tế. Nguyên nhân nữa là việc thực hiện nếp sống văn hóa trong lễ hội còn hạn chế. Văn hóa giao tiếp ứng xử trong lễ hội còn yếu, trách nhiệm ý thức của du khách rất hạn chế, xả rác tùy tiện, đốt vàng mã nhiều bất chấp quy định của ban tổ chức lễ hội. Không khí hội hè kéo dài, đặc biệt thời điểm đầu năm, làm cho tình trạng lao động sản xuất ở một số địa phương bị xao nhãng; hiện tượng nâng ép giá, cờ bạc, mệ tín dị đoan, ban hành một số ấn phẩm không được phép xuất bản, đem bán cho khách du lịch, hành khất chưa giảm ở một số lễ hội lớn. Một nguyên nhân nữa là do công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả tối ưu, chưa tuyên truyền sâu rộng để người dân hiểu rõ giá trị của lễ hội, công đức danh nhân, bảo vệ nơi thờ tự, bảo vệ môi trường cảnh quan; Văn bản quản lý lễ hội đã được ban hành nhưng hiểu biết của nhân dân còn hạn chế. Có những lễ hội thiêng liêng bị biến thành những buổi biểu diễn văn nghệ nhằm thu hút khách du lịch, nghĩa là không gian lễ hội bị sân khấu hóa, người diễn đây không hẳn là nhân dân quần chúng mà là những diễn viên chuyên nghiệp được đào tạo bài bản. Việc này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tính linh thiêng của lễ hội. Nếu hiện tượng này không được quan tâm đúng thì không lâu nữa sẽ làm mất dần sự thành kính đối với dân tộc và lịch sử, làm mất niềm tin trong tâm linh người dân. Bên cạnh đó, việc bảo tồn, phát huy và khai thác các giá trị văn hóa của lễ hội thành các sản phẩm du lịch đang còn nhiều hạn chế. Hiện nay, hầu như chưa có một nghiên cứu khoa học mang tính tổng thể về lễ hội truyền thống. Vẫn còn tồn tại nhiều lẫn lộn trong việc phân biệt rạch ròi đâu là văn hóa dân gian truyền thống, là tín ngưỡng, tâm linh, đâu là mê tín dị đoan. Thậm chí cái gì là giá trị gốc, là nguyên bản, cái gì là sự chắp vá, lai tạp vẫn chưa được làm rõ. 3.2. Giải pháp 3.2.1. Giải pháp bảo tồn các giá trị của lễ hội huyện Thọ Xuân 3.2.1.1. Đầu tư trùng tu các di tích gắn với lễ hội Toàn huyện Thọ Xuân có 312 di tích lịch sử - văn hóa, có những di tích lịch sử cấp quốc gia, có di tích cấp tỉnh, cấp xã, hay của làng. Những di tích nơi đây như một chứng tích thời gian, minh chứng cho lịch sử phát triển văn hóa về tâm linh, tín ngưỡng người Việt nói chung và vùng đất Thọ Xuân nói riêng, gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của người dân qua nhiều thế hệ. Việc đầu tư di tích này cần có chọn lọc, đặc biệt những di tích có lễ hội tiêu biểu của huyện cần được quan tâm trùng tu trước tiên. Ban quản lý các di tích gắn với lễ hội cần có chính sách thu hút và đa dạng hóa các nguồn vốn cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích văn hóa - lịch sử đã được xếp hạng trên địa bàn Thọ Xuân. Các nguồn vốn có thể huy động từ: Ngân sách của địa phương, doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước (doanh nghiệp lữ hành, doanh nghiệp kinh doanh,…). Đối với mỗi di tích tiến hành trùng tu theo đúng kế hoạch, khu di tích Lam Kinh thì tiếp tục trùng tu theo dự án, đền thờ Lê Hoàn tiếp tục xin vốn để trùng tu, hoàn thiện không gian tổ chức lễ hội. Với lễ hội Xuân Phả thì mở rộng phạm vi tổ chức để tạo điều kiện cho du khách dễ dàng quan sát các phần hội,… Để việc đầu tư trùng tu di tích trên địa bàn huyện phải hợp lý, tránh được những sai sót, trước hết cần đặt ra một hệ thống quy trình chuẩn mực về trùng tu di tích, trong đó các tiêu chuẩn về vật liệu, phương pháp thi công và tiêu chuẩn đánh giá sản phẩm trùng tu phải được xác định trên cơ sở các tiêu chí khoa học, kỹ thuật. Có như vậy, công tác bảo tồn và trùng tu di tích mới vươn tới các chuẩn mực quốc tế và bảo đảm về ý nghĩa bảo tồn tính chân thực, chính xác trong trùng tu di tích. 3.2.1.2. Đưa cộng đồng trở thành chủ thể của lễ hội Từ hàng chục năm nay, những khuôn mẫu lễ hội được tổ chức theo kiểu sân khấu hóa (như lễ hội đền Hùng) được thường xuyên truyền hình trực tiếp trên vô tuyến truyền hình đã ảnh hưởng mạnh đến tư duy của các cán bộ quản lý văn hóa ở các tỉnh thành trong cả nước. Họ thường đưa các lực lượng văn công chuyên nghiệp xuống và trình diễn cho người dân xem. Hậu quả tiêu cực nhất mà cách làm lễ hội này mang lại là: Thứ nhất, biến người dân vốn là chủ thể của lễ hội thành những người khán giả đơn thuần; Thứ hai, khi lực lượng nòng cốt này rút đi thì toàn bộ những gì đã được đầu tư cũng “rút” theo. Điều này đi ngược lại với nguyên lý bảo tồn di sản: Di sản văn hoá phải được bảo tồn sống trong lòng các cộng đồng. Để tránh xu hướng làm lễ hội theo cách sân khấu hóa như trên đồng thời để người dân các cộng đồng sở tại tham gia vào lễ hội như là chủ thể. Trong quá trình tổ chức lễ hội, chúng ta phải luôn tuân thủ nguyên tắc: Không áp đặt ý chí chủ quan của mình vào cộng đồng. Từ xây dựng kịch bản tổng thể đến kịch bản chi tiết ở từng nghi thức, diễn xướng của lễ hội, từ phân công thực hiện đến luyện tập phải luôn thảo luận cùng với lãnh đạo địa phương và những người đại diện cho các cộng đồng. Nếu điều này làm tốt sẽ tạo được lòng tự hào của người dân về lễ hội mà họ đã góp công góp sức xây dựng nên. Đó cũng chính là sức mạnh tinh thần để lễ hội sống trong lòng cộng đồng. 3.2.1.3. Khôi phục và giữ gìn những giá trị truyền thống của lễ hội Qua hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị 27/CT-TƯ ngày 12/1/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII), chỉ thị 14/1998/CT-TTg ngày 28/3/1998 và quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, địa phương đã tăng cường công tác quản lý lễ hội, đưa lễ hội dần đi vào ổn định. Các lễ hội được đầu tư tổ chức công phu, nghi lễ trang trọng theo truyền thống, nêu bật công đức danh nhân, anh hùng dân tộc, tưởng niệm người có công với dân, với nước, đồng thời khôi phục nhiều trò chơi dân gian và các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng. Tuy nhiên, hoạt động lễ hội dễ phát sinh những tiêu cực, tệ nạn: Mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc,… Tình trạng ùn tắc giao thông, mất trật tự ở nhiều lễ hội, gây nên cảnh chen lấn, trộm cắp, xả rác bừa bãi vẫn phổ biến,… Tất cả những điều đó đã làm tổn hại đến cảnh quan di tích và không khí vui tươi của lễ hội. Do đó, để lễ hội huyện Thọ Xuân ngày càng có quy mô và hoàn thiện hơn, thì bản thân những người tham gia và lãnh đạo quản lý lễ hội cần khắc phục những mặt tồn tại, phát huy những văn hóa tốt đẹp để tạo lòng tin đối với du khách trong và ngoài nước như: Tăng cường an ninh trong những dịp lễ hội; quy định giá bán chung cho các cửa hàng và thành lập đội kiểm tra tránh tình trạng bắt chẹt khách; bài trừ các tệ nạn mê tín dị đoan; không để những ăn xin hoạt động trong phạm vi lễ hội;… 3.2.2. Giải pháp cho phát triển du lịch lễ hội huyện Thọ Xuân 3.2.2.1. Xây dựng cơ sở cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho du lịch Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì vậy nên sự phát triển du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật. Du lịch là ngành “sản xuất” nhiều và đa dạng về thể loại dịch vụ, hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Do vậy, cơ sở vất chất kỹ thuật du lịch gồm nhiều thành phần khác nhau. Việc tiêu dùng dịch vụ, hàng hoá du lịch đòi hỏi phải có một hệ thống các cơ sở, công trình đặc biệt,… Tài nguyên du lịch chiếm vị trí rất quan trọng trong tiêu dùng của khách du lịch. Việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống các công trình. Cần xây dựng thêm các cơ sở phục vụ ăn uống và lưu trú. Đây là thành phần đặc trưng nhất trong toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Chúng đáp ứng nhu cầu căn bản nhất của con người (ăn và ngủ) khi họ sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Hiện trên địa bàn huyện đã xây dựng nhiều cơ sở lưu trú, nhưng những cơ sở này chưa được trang bị đầy đủ trang thiết bị và chưa có những khách sạn đủ tiêu chuẩn. Các cơ sở ăn uống cần được xây dựng có thương hiệu, phục vụ những món ăn truyền thống, tiêu biểu của địa phương. Đặc biệt, cần xây dựng tại điểm thu hút khách như khu di tích Lam Kinh, đền thờ Lê Hoàn,… những khu vui chơi giải trí như thị trấn Thọ Xuân, thị trấn Lam Sơn,… Hình thành các trung tâm mua sắm, thuộc các trung tâm dịch vụ du lịch, chúng phục vụ khách du lịch là chủ yếu hay thuộc mạng lưới thương nghiệp địa phương với nhiệm vụ phục vụ nhân dân địa phương đồng thời cũng đóng vai trò quan trọng đối với việc phục vụ khách du lịch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch như: Cửa hàng bán thực phẩm, rau quả, cửa hàng bán những sản phẩm đặc sản của Thọ Xuân, hay các gian hàng bán đồ lưu niệm đến các gian hàng bán đồ chuyên dùng cho du lịch, bán hàng tiêu dùng (bằng ngoại tệ hay nội tệ,…). 3.2.2.2. Đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch lễ hội huyện Từng bước xây dựng đội ngũ các nhà quản lý, chủ doanh nghiệp đủ năng lực điều hành các hoạt động kinh doanh du lịch lịch có hiệu quả theo cơ chế thị trường; mở rộng hợp tác về đào tạo nguồn nhân lực với các cơ sở, tổ chức đào tạo chuyên môn nghiệp vụ du lịch của tỉnh. Liên hệ với các cơ sở đào tạo nhân lực cho du lịch trong địa bàn tỉnh để tìm những người có trình độ về công tác. Bên cạnh đó phải thường xuyên kiểm tra trình độ của các nhân viên trong ngành để nâng cao chất lượng. Nguồn nhân lực phục vụ trong các lễ hội cần được quan tâm xây dựng. Thành lập đội ngũ thuyết minh trong lễ hội (có thể thuyết minh bằng tiếng nước ngoài), nhân viên phục vụ công tác trong lễ hội cần được đào tạo chuyên sâu để mỗi người sẽ đảm nhận một khâu trong đó. Đội ngũ nhân viên vệ sinh cũng cần được thành lập. Ngoài ra, tiến hành xã hội hoá công tác giáo dục để nâng cao nhận thức cho nhân dân và du khách về văn hoá du lịch; hỗ trợ giáo dục cộng đồng cho những người dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động du lịch. Việc làm này nếu làm tốt thì có thể xây dựng được đội ngũ cộng tác viên hùng hậu của địa phương. 3.2.2.3. Mở rộng quy mô tổ chức lễ hội Để du lịch phát triển hơn, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa cần đầu tư hơn nữa để tạo nên những lễ hội truyền thống có quy mô lớn nhất của tỉnh, có khả năng thu hút khách du lịch từ các địa phương khác trong nước và khách quốc tế như lễ hội Lam Kinh, lễ hội Lê Hoàn. Những lễ hội truyền thống này nếu được tổ chức, được khuyếch trương, quảng bá một cách khoa học như là tổ chức một sự kiện thì nó không chỉ mang lại thương hiệu văn hóa cho địa phương mà chúng còn mang lại những lợi ích rất rõ ràng trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh, ở tại các cộng đồng có diễn ra lễ hội: - Các cộng đồng sở tại có nguồn thu ổn định ở những dịp lễ hội, ít nhất họ cũng cân đối được khoản kinh phí mà họ phải chi cho tổ chức lễ hội (từ các nguồn: Thu phí xe máy, xe ô tô, cho thuê địa điểm dịch vụ ăn uống và giải trí và một số nguồn tài trợ khác). Nhân dân ở các cộng đồng này có công ăn việc làm (bán đồ lễ, nhà trọ, viết sớ, xe ôm, dịch vụ ăn uống). Có những nơi công việc này được duy trì quanh năm (như đền Kiếp Bạc, đền Lảnh Giang). Qua đó, ý thức bảo tồn di tích và tham gia lễ hội của các cộng đồng được nâng cao hơn. - Nhà nước cũng thu được một khoản tiền không nhỏ (từ tiền bán vé vào thăm di tích, tiền công đức, hoặc kinh phí được giao khoán cho những người quản lý di tích…). - Là cơ hội để các nhà hảo tâm đóng góp cho di tích và để kêu gọi đầu tư cơ sở vật chất cho địa phương sở tại - Dĩ nhiên, lợi ích lâu dài và quan trọng nhất là quảng bá hình ảnh địa phương. Lợi ích của việc quảng bá này không chỉ ở khía cạnh kinh tế (thu hút khách du lịch, thu hút các nguồn đầu tư) mà còn ở khía cạnh tinh thần: Khơi dậy và kích thích lòng tự hào của nhân dân địa phương về di sản văn hóa của mình. Hiện tại, tỉnh Thanh Hóa đã tạo được cho mình nhiều lễ hội với quy mô lớn, tiêu biểu là lễ hội Lam Kinh, và trên địa bàn huyện Thọ Xuân cũng đang đầu tư vào những lễ hội như: lễ hội Lê Hoàn, lễ hội làng Xuân Phả,… để tạo hình ảnh du lịch văn hóa của huyện. Tuy nhiên, chúng ta cần tiếp tục đầu tư hơn nữa để những giá trị tốt đẹp được lan rộng và hình ảnh du lịch Thọ Xuân đẹp hơn. Đối với lễ hội Lam Kinh, đã là lễ hội cấp tỉnh thì cần đầu tư phục hồi lại những nghi thức của lễ hội đã bị mai một, mở rộng quy mô để trở thành lễ hội mang tầm quốc gia. Tiếp tục mở rộng và đưa lễ hội Lê Hoàn, lễ hội Xuân Phả lên cấp tỉnh. 3.2.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá Thọ Xuân cần xây dựng các chương trình xúc tiến, quảng bá du lịch hàng năm theo chuyên đề, gắn với xúc tiến quảng bá du lịch tỉnh Thanh Hóa để xúc tiến quảng bá về du lịch địa phương ra các thị trường du lịch trong và ngoài nước. Thực hiện các chương trình thông tin tuyên truyền, quảng bá về những sự kiện văn hoá, thể thao, lễ hội truyền thống sẽ diễn ra hàng năm trên địa bàn huyện; tổ chức các chiến dịch xúc tiến, quảng bá sự kiện, phát động thị trường theo chuyên đề; tổ chức và tham gia hội chợ, triển lãm, hội nghị, hội thảo du lịch để giới thiệu tiềm năng du lịch của địa phương. Đặc biệt gắn du lịch huyện với định hướng phát triển du lịch của toàn tỉnh. Nâng cấp các trang website của huyện và thiết lập trang website du lịch riêng. Một thực tế hiện nay là huyện Thọ Xuân có thừa các lễ hội đặc sắc nhưng lại đang thiếu một chiến dịch quảng bá chuyên nghiệp. Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch cũng như văn hóa, cần có một chiến lược hợp lý trong việc đầu tư cho các lễ hội. Không nên đầu tư dàn trải, mà nên chọn lọc một số lễ hội đặc sắc, ấn tượng của huyện, rồi từ đó, xây dựng thành sản phẩm “đinh” và đưa ra chiến lược quảng bá phù hợp. Ngoài ra, việc tuyên truyền phải được thực hiện đồng bộ trên toàn huyện, tỉnh và cả nước. Gắn các hoạt động tuyên truyền lễ hội với hình ảnh và thành quả tích cực trong công tác quản lý bảo tồn, phát huy giá trị của các di tích văn hóa - lịch sử như lễ hội Lam Kinh gắn với giới thiệu dự án trùng tu khu di tích,… 3.2.2.5. Bảo vệ tài nguyên và môi trường Tổ chức học tập và triển khai các văn bản pháp quy về quản lý tài nguyên môi trường. Có chính sách ưu đãi trong việc huy động vốn đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ, tôn tạo nâng cao chất lượng môi trường du lịch. Thường xuyên theo dõi biến động để có những giải pháp kịp thời phối hợp cùng các ban, ngành và địa phương liên quan khắc phục sự cố, tình trạng xuống cấp về tài nguyên và môi trường du lịch. Phát triển các chương trình giáo dục toàn dân và giáo dục trong các trường học về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường. Có thể lồng ghép đào tạo và giáo dục về tài nguyên và môi trường du lịch (cả tự nhiên và xã hội) trong chương trình giảng dạy của các trường phổ thông của huyện, cũng như giáo dục nâng cao nhận thức về việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch cho khách du lịch, cộng đồng dân cư địa phương. Ngoài ra, xây dựng thêm các công trình vệ sinh trong các khuôn viên tổ chức lễ hội, đặt thêm các thùng đựng rác để tránh tình trạng quá tải trong mùa du lịch. Đội ngũ nhân công dọn dẹp vệ sinh trong lễ hội còn mỏng, do đó cần có kế hoạch tăng cường trong những ngày diễn ra lễ hội. 3.2.1.6. Kết hợp lễ hội với các tài nguyên du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa để xây dựng tuyến du lịch Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng về du lịch. Năm 2007, du lịch Thanh Hóa năm đón tiếp gần 1,7 triệu lượt khách, chủ yếu là khách trong nước đến tham quan nghỉ mát tại đô thị du lịch biển Sầm Sơn, con số đó hiện nay đã tăng lên gần gấp đôi. Hiện tại, tỉnh Thanh Hóa xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng. Tỉnh đã thực hiện quy hoạch hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch. Cùng với chính sách phát triển du lịch của tỉnh, huyện nên kết hợp giữa lễ hội của huyện với các di tích khác trong và ngoài huyện để hình thành những tour du lịch. Các khu du lịch, di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của tỉnh Thanh Hóa như: Các khu du lịch bãi biển Sầm Sơn, bãi biển Hải Hòa; các vườn quốc gia (Vườn quốc gia Bến En; các khu bảo tồn (khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông,…); Suối cá thần Cẩm Lương; cụm di tích Nga Sơn (Động Từ Thức, Cửa biển Thần Phù, Chiến khu Ba Đình, đền thờ Mai An Tiêm,...); cụm di tích thành nhà Hồ; đền Bà Triệu, huyện Hậu Lộc; đền thờ Lê Hoàn, huyện Thọ Xuân; khu di tích lịch sử Phủ Trịnh và chùa Báo Ân; khu lăng miếu Triệu Tường, huyện Hà Trung; Phủ Na (xã Xuân Du huyện Như Thanh), đền Sòng (Bỉm Sơn); khu di chỉ, khảo cổ văn hóa Đông Sơn; khu di tích Hàm Rồng;… Để xây dựng được các tour du lịch cần có sự kết hợp của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trong và ngoài tỉnh. Mỗi doanh nghiệp sẽ xây dựng những tour phù hợp với thị trường khách của mình. Việc xây dựng tour cần xác định nhiều yếu tố như: ăn uống, nghỉ ngơi, phương tiện, giá cả,… Dưới đây xin giới thiệu một số tuyến du lịch có thể kết hợp để khai thác lễ hội của huyện. Tuyến 1: Thành phố Thanh Hóa - lễ hội Lam Kinh - khu du lịch Sầm Sơn. Từ thành phố Thanh Hóa, du khách sẽ đến với lễ hội Lam Kinh, hòa chung vào không khí hào hùng một thời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tỏ lòng thành kính đối với anh hùng dân tộc Lê Lợi. Sau đó sẽ được thỏa sức vùng vẫy trong màu nước xanh mát của biển Sầm Sơn, thưởng thức những dịch vụ tại khu du lịch này. Bãi biển Sầm Sơn chạy dài gần 6km từ cửa Lạch Hới đến chân núi Trường Lệ. Bãi cát thoai thoải, sóng êm, nước trong xanh và nồng độ muối vừa phải rất phù hợp với sức khoẻ con người. Ngoài bãi tắm đẹp, thiên nhiên còn phú cho Sầm Sơn nhiều danh lam - thắng cảnh nổi tiếng và lung linh sắc màu huyền thoại. Đó là dãy núi Trường Lệ chạy dài theo mép nước bốn mùa thông reo, là hòn Trống Mái lãng mạn tình tứ, là đền Độc Cước, Cô Tiên uy nghi cổ kính; là Vọng Hải đài - nơi du khách có thề ngắm cả một vùng trời nước mênh mông. Phía Nam dãy núi Trường Lệ còn có một bãi tắm rất đẹp, cảnh quan môi trường còn rất nguyên sơ, nơi đây hứa hẹn một khu du lịch nghỉ dưỡng hiện đại trong tương lai. Tuyến 2: Thành phố Thanh Hóa - lễ hội Lê Hoàn - suối cá thần ở Cẩm Lương. Từ thành phố Thanh Hóa chạy xe khoảng 1giờ đồng hồ đến với lễ hội Lê Hoàn, hòa vào không khí linh thiêng, thắp nén nhang tưởng nhớ vị vua triều Tiền Lê và sau đó sẽ đến với suối cá thần thuộc xã Cẩm Lương huyện Cẩm Thủy để thư giãn, ngắm cá và thưởng thức những món ăn truyền thống của người dân nơi dây như: Bắp nướng, cơm lam,… và mua những quà lưu niệm. Tuyến 3: Thành phố Thanh Hóa - thành nhà Hồ - lễ hội Lê Hoàn - khu du lịch Sầm Sơn. Xuất phát từ thành phố Thanh Hóa, du khách sẽ đến thăm di tích thành nhà Hồ, một thành cổ được xây dựng bằng đá duy nhất ở Việt Nam. Thành được xây dựng trên bình đồ kiến trúc gần vuông, bên ngoài mặt thành ghép bằng những khối đá xanh vuông, có trọng lượng từ 10 - 20 tấn được ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất kết dính nào. Di tích Thành Nhà Hồ là một danh lam thắng cảnh, một điểm du lịch đẹp mắt đang hấp dẫn khách du lịch tới tham quan. Tiếp đó, đoàn sẽ đến với lễ hội Lê Hoàn, quay ngược thời gian một chút nữa để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc Lê Hoàn, cùng nhân dân địa phương thắp nén hương tri ân và thưởng thức những màn nghệ thuật đặc sắc, những trò chơi dân gian. Sau thời gian tham quan mệt mỏi, du khách sẽ trở về Thanh Hóa đến khu du lịch Sầm Sơn, khám phá những điều mới lạ tại nơi đây và thỏa sức vùng vẫy trong những đợt sóng biển. Tuyến 4: Thành phố Thanh Hóa - lễ hội Lê Hoàn - khu di tích Lam Kinh. Trong tuyến du lịch này, du khách sẽ đến tham gia lễ hội Lê Hoàn sau đó, lên tham quan khu di tích Lam Kinh. Có thể liên hệ tổ chức buổi tiệc ngoài trời trong khuôn viên khu di tích, là thời gian để mọi người vui chơi, về với thiên nhiên. Tour có mang tính chất kết hợp giữa tâm linh và giải trí. Tuyến 5: Thành phố Thanh Hóa - lễ hội Xuân Phả - khu di tích Lam Kinh - suối cá thần ở Cẩm Lương - khu du lịch Sầm Sơn. Tour sẽ diễn ra trong thời gian trong vài ngày (4 ngày 3 đêm) tùy theo yêu cầu và điều kiện của du khách. Du khách sẽ được thưởng thức những màn múa đặc sắc trong lễ hội Xuân Phả, về với vùng đất Tây Kinh xưa kia, ngắm những đàn cá bơi lội và sử dụng những dịch vụ thú vị tại khu du lịch Sầm Sơn. Trên đây là một số tour du lịch có thể sử dụng phục vụ du khách. Tất nhiên khi xây dựng một tour còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy nhiên, nếu được thực sự quan tâm và đầu tư thì những tour này sẽ đạt kết quả tốt, góp phần phát triển du lịch trong huyện và tỉnh Thanh Hóa. KẾT LUẬN Trong tất cả các loại hình văn hóa thì lễ hội là một sinh hoạt tổng hợp bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời thường. Ngoài ra, lễ hội còn là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc biệt, có sức hấp dẫn và lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội, trở thành một nhu cầu, một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của con người. Đó là loại hình văn hóa phi vật thể nhằm cố kết cộng đồng gắn bó chặt chẽ, thể hiện những khát khao vươn lên trong đời sống được giữ gìn từ đời này sang đời khác. Đồng thời, lễ hội cũng là một sinh hoạt văn hóa nghệ thuật mà trong đó vừa thể hiện sự nghiêm trang, cẩn trọng trong các nghi lễ vừa vui vẻ, hòa đồng trong các nghi thức hội hè. Trong thời điểm lễ hội, mọi người đều hướng về cái thiêng, cái thiện. Văn hoá lễ hội từ đây mà hình thành. Vì thế có thể nói lễ hội có một vị trí quan trọng trong cuộc sống văn hóa tinh thần của con người là một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong cuộc sống xã hội. Lễ hội ở huyện Thọ Xuân mang nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó là nghi thức cúng tế, những bài cúng, bài hát đến những trò chơi dân gian như trò “Ngũ quốc lân bang đồ tiến cống”, các trò chạy giải, chạy trận, các điệu hát rí ren hay những đặc sản nổi tiếng của huyện như bánh gai, bưởi Luận Văn,… Với bề dày lịch sử và sự phong phú, đa dạng trong đời sống văn hoá nên hàng năm trên địa bàn tỉnh Thanh có rất nhiều lễ hội được tổ chức, nội dung của các lễ hội thường là tôn vinh những nhân vật có công với dân, với nước (lễ hội Lam Kinh, lễ hội Lê Hoàn,…) hoặc gắn với tín ngưỡng thờ Thành Hoàng, thờ Mẫu,… hoặc cầu thánh - thần - trời - đất phù hộ cho quốc thịnh dân an, cầu cho nhân dân gặp nhiều thuận lợi trong lao động sản xuất và may mắn, bình yên trong cuộc sống (lễ hội chùa Tạu, các lễ hội làng,…). Với hệ thống lễ hội phong phú và đa dạng, có 29 lễ hội đã được thống kê, có những lễ hội cấp tỉnh, huyện, địa phương. Các lễ hội này là tiềm năng du lịch nhân văn phong phú để huyện Thọ Xuân phát triển ngành công nghiệp không khói. Để ngành du lịch có thể phát triển mạnh trong thời gian tới thì lãnh đạo huyện cần có những chính sách phù hợp để khai thác mà không làm mất giá trị của lễ hội. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, nhu cầu hưởng thụ của con người không ngừng nâng lên. Trong đó nhu cầu về du lịch ngày càng lớn và đa dạng hơn. Hoạt động du lịch đã chuyển từ chỗ ban đầu là kinh tế dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi của con người, dần dần trở thành một bộ phận trong hoạt động không thể thiếu được của đời sống văn hóa tinh thần. Đối với du lịch văn hóa, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, trong đó có lễ hội là cơ sở quan trọng để hình thành những chương trình du lịch. Từ những giá trị mà lễ hội mang trong nó, việc bảo tồn, tôn tạo giá trị lễ hội và đưa lễ hội vào khai thác phục vụ phát triển và du lịch văn hóa trên địa bàn huyện Thọ Xuân là việc cần thiết, cần có sự quan tâm và đầu tư của ban lãnh đạo các cấp, của các doanh nghiệp lữ hành trong và ngoài tỉnh. Nếu lễ hội nơi đây có được sự quan tâm đúng mức thì thiết nghĩ việc phát triển hoạt động du lịch trên địa bàn huyện Thọ Xuân sẽ phát triển hơn. Để lễ hội ở huyện Thọ Xuân thực sự thu hút du khách thì cần có những thay đổi trong cách tổ chức, dưới đây tác giả xin có một số kiến nghị như sau: 1. Thực hiện việc tuyên truyền, quảng bá giới thiệu hình ảnh các lễ hội trên địa bàn tỉnh và cả nước. Mục đích để giới thiệu cho nhân dân trong vùng biết đến các lễ hội và giúp mọi người hiểu được giá trị của từng lễ hội để nâng cao ý thức bảo tồn. Có nhiều hình thức để tuyên truyền về lễ hội như: - Căn cứ định hướng nội dung tuyên truyền là về lễ hội, các cơ quan thông tin đại chúng có kế hoạch tuyên truyền trước, trong và sau khi lễ hội được tổ chức. Các cơ quan báo chí và các ban, ngành, đoàn thể tăng cường tuyên truyên trên mạng internet và thông tin ra toàn tỉnh và cả nước về các hoạt động của lễ hội. Tăng cường xuất bản sách, báo, ấn phẩm viết về các lễ hội. Quản lý chặt chẽ các hoạt động xuất bản, không để lọt các ấn phẩm chứa đựng thông tin trái chiều gây dư luận xấu trong xã hội. - Tổ chức các hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền miệng để tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, trong thị trường khách du lịch. Tuyên truyền trên đài phát thanh huyện, đài truyền hình và đài phát thanh tỉnh. - Đẩy mạnh các hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật chào mừng các lễ hội tưởng nhớ các anh hùng dân tộc như tổ chức cuộc thi viết về anh hùng dân tộc Lê Lợi, Lê Hoàn,… Tổ chức biểu diễn nghệ thuật truyền thống phục vụ nhân dân. Quan tâm tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ ở các vùng cao, vùng có dân tộc ít người sinh sống (người Mường). - Ngoài ra, xây dựng các cụm thông tin, cổ động, panô, áp phích, khẩu hiệu, màn hình cổ động ở các khu trung tâm, nơi tập trung đông người, trên các tuyến đường trung tâm huyện, tại nơi tổ chức lễ hội. Khắp nơi trong huyện phải treo cờ Tổ quốc, đặc biệt là cờ Ngũ sắc là loại cờ biểu trưng cho các lễ hội truyền thống ở nước ta. 2. Bên cạnh việc tuyên truyền nên kết hợp tổ chức các buổi ngoại khóa tham quan di tích (di tích có tổ chức lễ hội) cho học sinh các cấp trong huyện. Đầu tiên tổ chức những buổi giới thiệu về các lễ hội trong các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông nhằm giáo dục cho các em học sinh hiểu và ý thức được những giá trị văn hóa quý báu của quê hương mình. Đồng thời, để nâng cao lòng tự hào và phát huy tinh thần đó trong cuộc sống và trong học tập. Việc giáo dục này không đơn thuần chỉ đưa vào giới thiệu trong những giờ ngoại khóa trên lớp mà nên tạo điều kiện cho các em được tham gia trực tiếp và nghe thuyết minh tại lễ hội để tạo hứng thú, góp phần tuyên truyền nâng cao giá trị lễ hội. Lễ hội của người Việt Nam chúng ta có những vẻ đẹp muôn màu, đậm dấu ấn văn hóa truyền thống. Trong lễ hội, mỗi người tự tìm thấy, tự cảm nhận được những giá trị của tâm hồn Việt. Có thể nói, lễ hội là môi trường góp phần giáo dục con người nhận thức về truyền thống văn hóa dân tộc mà đặc biệt là trong lớp trẻ. Từ đó xây dựng môi trường sinh thái văn hóa ngày càng khởi sắc, trong kỷ nguyên XXI - kỷ nguyên của trí tuệ và toàn cầu hóa. 3. Tiến hành xây dựng đội ngũ lao động chuyên nghiệp phục vụ trong lễ hội. Lực lượng lao động là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công trong ngành du lịch. Hiện tại, mới chỉ có lễ hội Lam Kinh có đội ngũ hướng dẫn viên nhưng số lượng ít. Lao động tốt nghiệp chuyên ngành du lịch hầu như chưa có. Do đó, đầu tư xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp trong lễ hội là vấn đề hết sức cần thiết. Ngoài ra, có thể kêu gọi đầu tư của các doanh nghiệp để đầu tư du lịch tại chỗ, góp phần tạo việc làm cho nhân dân địa phương. Bên cạnh đội ngũ hướng dẫn viên thì nguồn nhân lực trong tổ chức, quản lý lễ hội cũng là vấn đề cần được quan tâm. Các lễ hội cần thiết lập hệ thống quản lý chặt chẽ, tránh sự chồng chéo giữa các cấp, gây bất cập trong quản lý tổ chức lễ hội. Nếu là lễ hội cấp nào thì cấp đó chịu trách nhiệm thực hiện tổ chức lễ hội. 4. Để du lịch lễ hội phát triển chuyên nghiệp thì huyện Thọ Xuân cần có sự liên kết với các doanh nghiệp lữ hành trong và ngoài tỉnh để xây dựng tour du lịch hoàn chỉnh nhằm mục đích cung cấp những dịch vụ tốt nhất cho du khách. Khai thác du lịch bằng lễ hội ở huyện Thọ Xuân là một hướng đi tốt, nhưng không phải lễ hội nào cũng thành công với du lịch. Nguyên nhân chính là lễ hội Thọ Xuân thiếu sự liên kết phối hợp với các doanh nghiệp làm tour, bên cạnh đó ở một vài địa phương có quá nhiều lễ hội khiến các nhà tổ chức không có sự chuẩn bị tốt nhất. Do đó, để du lịch Thọ Xuân có diện mạo mới thì cần có sự phối hợp với các doanh nghiệp lữ hành trong và ngoài tỉnh xây dựng nên các tour với những sản phẩm du lịch đặc sắc. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có rất nhiều công ty du lịch hoạt động như: Công ty cổ phần du lịch Thanh Hóa, công ty cổ phần Kim Quy, công ty cổ phần thương mại dịch vụ & du lịch Xuyên Việt, công ty Sông Mã - Khách sạn Sao Mai, công ty TNHH TM du lịch quốc tế và Dạy nghề Hương Lúa,… Đây là những doanh nghiệp lữ hành chuyên nghiệp để các lãnh đạo huyện Thọ Xuân có thể liên kết phát triển du lịch địa phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Dương Văn An (2001), Ô châu cận lục, Nxb Thuận Hóa. [2] Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa. [3] Nguyễn Sơn Anh - Nguyễn Sơn Văn (2009), Lễ hội cầu phúc cầu lành ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin. [4] Toan Ánh (2005), Hội hè đình đám, quyển thượng, Nxb Trẻ. [5] Ban quản lý khu di tích Lam Kinh Thanh Hóa (2001), Di tích lịch sử Lam Kinh, Nxb Thanh Hóa. [6] Vũ Thế Bình (2005), Non nước Việt Nam, Nxb Hà Nội. [7] Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. [8] Đỗ Như Chung (2007), Lễ hội Lam Kinh từ lễ hội cung đình đến lễ hội dân gian, thanhhoatourism.com.vn/PrintPreview.aspx?ID=1145. [9] Ngô Thị Kim Doan (2003), Những lễ hội Việt Nam tiêu biểu, Nxb Văn hóa thông tin. [10] Lê Duy Dũng (2010), Trò Xuân Phả - một di sản văn hóa quý xứ Thanh, tuoitrethanhhoa.com/forum. [11] Nguyễn Văn Đính - Trần Minh Hòa (2004), Kinh tế du lịch, Nxb Lao động. [12] Thuận Hải (2006), Bản sắc văn hóa lễ hội, Nxb Giao thông vận tải. [13] Nguyễn Hồ Mai Hương (2010), Lễ hội Cầu Bông, khóa luận tốt nghiệp khoa Lịch Sử, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. [14] Vũ Ngọc Khánh (2008), Lễ hội Việt Nam, Nxb Thanh Niên. [15] Đinh Trung Kiên (2006), Một số vấn đề về du lịch Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [16] Lê Văn Kỳ (1997), Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng, Nxb Khoa học xã hội. [17] Hồ Hoàng Lan (1998), Lễ hội - một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. [18] Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục. [19] Thu Linh - Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa. [20] Tuấn Linh (2010), Thọ Xuân: Khi văn hóa trở thành động lực, baothanhhoa.vn/search. [21] Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. [22] Phạm Thị Mai (2010), Khu di tích Lam Kinh giá trị văn hóa - lịch sử và tiềm năng phát triển du lịch, khóa luận tốt nghiệp khoa Lịch Sử, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. [23] Nguyễn Văn Mạnh (2005), Quản trị kinh doanh lữ hành, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội. [24] Đổng Trọng Minh và Vương Lôi Đình (2001), Kinh tế du lịch và du lịch học, Nxb Trẻ. [25] Phạm Gia Minh (2011), Lễ hội thời nay đang được thả nổi, tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-02-23-le-hoi-thoi-nay-dang-duoc-tha-noi. [26] Phạm Lê Trọng Nghĩa (2010), “Mùa xuân cơ hội quảng bá du lịch văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 308. [27] Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học. [28] Phan Đăng Nhật (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. [29] Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2010), Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2007 - 2015 và định hướng đến 2020, www.itdr.org.vn/details_daqh-x-58.vdl. [30] Phạm Tấn - Phạm Tuấn - Hoàng Tuấn Phổ (2005), Địa chí huyện Thọ Xuân, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. [31] Trần Đức Thanh (1999), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. [32] Đỗ Phương Thảo (2007), Lễ hội Lê Hoàn và huyền thoại về ông vua trọng nông, kinhtenongthon.com.vn/Story/vanhoa/2007/4/3199.html. [33] Trương Thìn (2007), 101 điều cần biết về phong tục và tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Hà Nội. [34] Trần Văn Thông (2002), Tổng quan du lịch, Đại học dân lập Văn Lang. [35] Huy Thông (2009), Trò Xuân Phả những điệu múa mặt nạ dị kỳ, tintuc.xalo.vn/00-400578582/Tro_Xuan_Pha_nhung_dieu_mua_mat_na_di_ky. [36] Tổng cục Du lịch Việt Nam, Luật du lịch (2006), Nxb Chính trị Quốc gia. [37] Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh hóa - Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch (2008), Báo cáo “Tình hình thực hiện kế hoạch vốn năm 2008, đề nghị bổ sung vốn năm 2009 và kế hoạch vốn 2010”. [38] Cao Trung Vinh (2010), Phát triển lễ hội truyền thống - nhìn từ cộng đồng, viettems.com/index.php?option=com. [39] Lê Văn Viện (2008), Mười tám vị khai quốc công thần ở Lũng Nhai, Nxb Thanh Hóa. [40] Văn Viện (2009), Các vua và hoàng hậu táng ở Lam Kinh, Nxb Thanh Hóa. [41] Tài liệu điền dã, thực tế, phỏng vấn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương.doc