Lịch sử Đảng những cảm tưởng khi đi tham quan bảo tàng chứng tích chiến tranh

I. Mở đầu: Việt Nam: một đất nước được cả thế giới biết đến như một hình ảnh đẹp cho tinh thần đấu tranh và bảo vệ độc lập của dân tộc. Chính lịch sử xây dựng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ là minh chứng đầy thuyết phục nhất cho điều này. Một đât nước nhỏ bé, từng bị 1000 năm đô hộ của giặc Tàu, sự xâm lược của giặc Hán, giặc Tống với đầy biến cố lịch sử đã để lại những con người luôn sống mãi với lịch sủ như Đinh Bộ Lĩnh, Hai bà Trưng, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo Và hơn ai hết, cả dân tộc Việt Nam đã tự chính sức mình để khẳng định một chân lí vĩnh cửu: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đầy ác liệt, gian khổ và hào hùng, một lần nữa những con người Việt Nam lại đứng lên, phát huy lòng yêu nước và tinh thần dân tộc để viết nên những tranh sử vàng cho lịch sử và truyền thống của cả đất và con người Việt. Năm 1858, thực dân Pháp bước chân lên lãnh thổ Việt Nam với khẩu hiệu”khai hóa” cho một đất nước ngu muội, lạc hậu và ngheo nàn. Bắt đầu từ đây, “những người đi khai hóa” thực hiện những chính sách mà chúng gọi là soi sáng cho nền văn minh- bắt đầu từ đây, những đồ điền cao su được gây trồng, những nhà máy, những hầm mỏ được xây dựng với tốc độ chóng mặt, chúng vơ vét tài nguyên một cách tham lam và vô độ, thực hiện chình sách ngu dân, mượn bè lũ phong kiến bán nước để đàn áp, bóc lột và vơ vét. Sao cho lấy thật nhiều, ăn thật nhiều và tích lũy về cho chính quốc thật nhiều. Để thực hiện được mục đích đó, chúng đưa ra hàng ngàn chính sách, đàn áp những cuộc đấu tranh nổi dậy của những người yêu nước. Những cuộc đàn áp đẫm máu, những đợt càn quét Việt cộng, lực lượng yêu nước, chúng đã gây nên bao nhiêu tội ác. Cách mạng tháng Tám thành công, 2-9-1945 – nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam được thành lập, lần đầu tiên, nước Việt Nam đã xuất hiện trên bản đồ thế giới. Đóng dấu khẳng định chủ quyền của dân tộc trên thế giới. Nhưng bản chất của thực dân và đế quốc là xâm lược và bóc lột. Năm . Mỹ chính thức bóp cò súng tuyên bố chiến tranh lại diễn ra trên đất nứoc nhỏ bé này. Hành trang cho cuộc xâm lược là những kế hoạch xâm lược, những vũ khí hiện đại, quân đội tinh nhạy với những khoản đầu tư khổng lồ. Tiến trình của những cuộc xâm lấn là bom đạn, và kết quả là sự chết chóc, tổn thương, tàn phá Tất cả nhứng điều đó là những gì mà tôi đã được học qua sách vở. Những trang học giúp tôi hình dung được thế nào là chiến tranh, thế nào là đau thương. Và tôi nghĩ – tự tin là mình đã hiểu được chiến tranh. Những con số thống kê, những bài văn, thơ, trang lịch sử chiến tranh là như thế còn gì? Đơn giản và dễ hiểu, nếu có chiến tranh thì cũng không có gì ghê gớm. Có giặc xâm lược thì cầm súng bắn lại. Thật là sai lầm, quá sai lầm và đầy sự hối hận cho những suy nghĩ quá nông cạn của tôi, khi chính mình được chứng kiến những bức ảnh, những hiện vật của chuyến đi thăm bảo tàng lịch sử. Cảm giác của tôi lúc này là gì đây? Sững sờ, kinh ngạc, căm phẫn những tội ác của chiến tranh và xấu hổ cho những suy nghĩ đáng trách của mình, tôi đã quá vô tâm, quá hờ hững với chính lịch sử của cha ông mình, sống quá an phận trong bình yên mà quên đi nhiều điều. II. Những giá trị lịch sử của chuyến đi bảo tàng di tích chiến tranh: Cảm giác khi bước tới cổng: Có nhiều du khách người nước ngoài, họ đến từ các đất nước khác nhau. Họ đến đây để được xem những bức ảnh, hiện vật của cuộc chiến tranh mà họ cũng chỉ được nghe, đọc và kể. Họ đến thăm quan với mọi lứa tuổi, từ những người già, trung niên, thanh niên và cả những em nhỏ, với một thái độ quan tâm, trân trọng và cũng đầy cảm xúc. Cuộc chiến ở Việt Nam đã gây tiếng vang lớn trên toàn thế giới, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngạc nhiên trước thái độ đầy quan tâm của những nguời khách ngoại quốc này. Những chiếc máy bay rất hoành tráng, chiếc xe tăng, khẩu đại bác và các quả bom hạng nặng. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy tận mắt và sờ tay vào hiện vật. Những vật mà tôi mới chỉ được biết qua tranh ảnh, phim ảnh. Và thú vị hơn khi biết được thông số chính xác về cấu tạo và sức công phá của từng loại khác nhau. Qua những kiến thức mới thu nhận được, tôi hình dung rõ hơn về những chiếc máy bay thả bom, những chiếc xe tăng bọc thép, những khẩu đại bác liên thanh bom đạn,pháo sáng – sự ác liệt của chiến tranh được cảm nhận rõ nét hơn rất nhiều. Sự chiến thắng trong cuộc đấu tranh của một đất nước nhỏ bé nghèo khó đối với một cường quốc giàu có và hiện đại – cả thế giới biết điều đó, và tôi là một người dân Việt Nam- tất nhiên phải cảm thấy hãnh diện và tự hào. Cảm giác lúc này sao nhỉ? Vui – tự hào – hãnh diện khi mình có mặt ở đây khi mình mang dòng máu người Việt trong người. Cảm giác khi bước vào tòa nhà chính: Chiến tranh: tàn bạo và độc ác Bản chất của chiến tranh là gì? Đó là chết chóc và bóc lột. Đặc điểm của chiến tranh là gì? Đó là những cuộc chiến phi nghĩa. Mỹ sang gây chiến ở Việt Nam cũng không ngoài mục đích tìm kiếm thuộc địa và khai thác tài nguyên. Phương thức tiến hành cũng là súng ống và bom đạn. Với mục đích như vậy, Mỹ đã đầu tư cho chiến tranh những khoản tiền không nhỏ, và mang đi những bản kế hoạch được đánh giá là công phu và chắc chắn. Những bức ảnh trong tòa nhà chính đã khái quát được phần nào về những kế hoạch đầu tư tài chính của Mỹ cho cuộc chiến ở Việt Nam. Những con số quả thật khiến tôi sững sờ, tại sao họ không dùng số tiền đó cho những người nghèo, giúp đỡ cho những nạn nhân trong cuộc chiến trên toàn thế giới. Thay vì nghĩa cử cao đẹp đó, họ sang Việt Nam. Và hay xem họ đã làm gì ở mảnh đất nhỏ bé vừa trải qua cuộc chiến đầy gian khổ này? “Bằng các vũ khì phương tiện hiện đại quân đội Mỹ ở Đông Dương đã tiến hành một cuộc chiến tranh diệt chủng tàn bạo và liều lĩnh bất chấp mọi tiêu chuẩn qui định của quốc tế. Chiến tranh xâm lược vốn được xem là một tội ác trước cộng đồng quốc tế.” – Hans Goran Frank, tổng thư kí Uỷ ban quốc tế điều tra tội ác chiến tranh của mỹ ở Đông Dương năm 1974. Trong tay một bọn quân phiệt và chính trị gian tàn bạo, bất chấp luân thường đạo lí, vũ khí kĩ thuật hiện đại đã dẫn đến sự hủy diệt không chỉ những con người mà cả môi trườngx sinh sống, cả một xã hội những thế hệ tương lai cũng chịu chung những mối đe dọa như những người đang tồn tại hiện nay” – Gurnnar Myrdal, chủ tịch Ủy ban quốc tế điều tra tội ác của Mỹ ở Đông Dương, 1972. Xin được nhắc lại câu trích dẫn trong bản tuyên ngôn của Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Vậy mà họ sang đây, với hành động đầy dã man, không những đánh mất đi quyền tự do và bình đẳng của những người dân, mà còn gây ra những tội ác cho những người dân vô tội, cho những em nhỏ, những phụ nữ. Không nói đến những gì quá cao xa, mà tôi chỉ đang nhìn thấy những cái gì rất gần gũi và thực tế. Xác những người phụ nữ và trẻ em, xuất hiện đầy xót xa và căm phẫn: Những người phụ nữ và em nhỏ, đó là những đối tượng luôn được xã hội yêu thương và chăm sóc. Thử hỏi liệu một em nhỏ hay một người phụ nữ có đủ sức để chống đỡ lại những lính binh được đào tạo qua quân đội hay không? Và liệu thân xác bé nhỏ đó chịu đựng được tới đâu với những đau đớc về thể xác và tinh thần như thế? Những lính Mỹ! Họ cũng có gia đình, và trong số đó chắc chắn cũng có những người đã lấy vợ và có con nhỏ. Nếu những người mẹ, người vợ và những đứa con của họ cũng bị chịu đựng những điều tồi tệ đó thì liệu họ có chịu đựng nỗi không? Họ cũng là con người mà tại sao lại mất trái tim như thế? Đừng đổ lỗi hoàn toàn cho chiến tranh, đừng trả lời do chiến tranh và cũng không nên đổ hết trách nhiệm cho quân đội Mỹ. Vấn đề mà tôi quan tâm ở đây đó là nhân tính người ở các chiến binh Mỹ mà thôi. Cho dù họ bị quân đội ép buộc đi nữa, nhưng những hành động của họ tôi không ngờ họ độc ác như thế, bàn tay đó không phải đã dính máu mà là đẫm máu:

doc14 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5869 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lịch sử Đảng những cảm tưởng khi đi tham quan bảo tàng chứng tích chiến tranh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Mở đầu: Việt Nam: một đất nước được cả thế giới biết đến như một hình ảnh đẹp cho tinh thần đấu tranh và bảo vệ độc lập của dân tộc. Chính lịch sử xây dựng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ là minh chứng đầy thuyết phục nhất cho điều này. Một đât nước nhỏ bé, từng bị 1000 năm đô hộ của giặc Tàu, sự xâm lược của giặc Hán, giặc Tống với đầy biến cố lịch sử đã để lại những con người luôn sống mãi với lịch sủ như Đinh Bộ Lĩnh, Hai bà Trưng, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo…Và hơn ai hết, cả dân tộc Việt Nam đã tự chính sức mình để khẳng định một chân lí vĩnh cửu: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đầy ác liệt, gian khổ và hào hùng, một lần nữa những con người Việt Nam lại đứng lên, phát huy lòng yêu nước và tinh thần dân tộc để viết nên những tranh sử vàng cho lịch sử và truyền thống của cả đất và con người Việt. Năm 1858, thực dân Pháp bước chân lên lãnh thổ Việt Nam với khẩu hiệu”khai hóa” cho một đất nước ngu muội, lạc hậu và ngheo nàn. Bắt đầu từ đây, “những người đi khai hóa” thực hiện những chính sách mà chúng gọi là soi sáng cho nền văn minh- bắt đầu từ đây, những đồ điền cao su được gây trồng, những nhà máy, những hầm mỏ… được xây dựng với tốc độ chóng mặt, chúng vơ vét tài nguyên một cách tham lam và vô độ, thực hiện chình sách ngu dân, mượn bè lũ phong kiến bán nước để đàn áp, bóc lột và vơ vét. Sao cho lấy thật nhiều, ăn thật nhiều và tích lũy về cho chính quốc thật nhiều. Để thực hiện được mục đích đó, chúng đưa ra hàng ngàn chính sách, đàn áp những cuộc đấu tranh nổi dậy của những người yêu nước. Những cuộc đàn áp đẫm máu, những đợt càn quét Việt cộng, lực lượng yêu nước, chúng đã gây nên bao nhiêu tội ác. Cách mạng tháng Tám thành công, 2-9-1945 – nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam được thành lập, lần đầu tiên, nước Việt Nam đã xuất hiện trên bản đồ thế giới. Đóng dấu khẳng định chủ quyền của dân tộc trên thế giới. Nhưng bản chất của thực dân và đế quốc là xâm lược và bóc lột. Năm…. Mỹ chính thức bóp cò súng tuyên bố chiến tranh lại diễn ra trên đất nứoc nhỏ bé này. Hành trang cho cuộc xâm lược là những kế hoạch xâm lược, những vũ khí hiện đại, quân đội tinh nhạy với những khoản đầu tư khổng lồ. Tiến trình của những cuộc xâm lấn là bom đạn, và kết quả là sự chết chóc, tổn thương, tàn phá… Tất cả nhứng điều đó là những gì mà tôi đã được học qua sách vở. Những trang học giúp tôi hình dung được thế nào là chiến tranh, thế nào là đau thương. Và tôi nghĩ – tự tin là mình đã hiểu được chiến tranh. Những con số thống kê, những bài văn, thơ, trang lịch sử…chiến tranh là như thế còn gì? Đơn giản và dễ hiểu, nếu có chiến tranh thì cũng không có gì ghê gớm. Có giặc xâm lược thì cầm súng bắn lại. Thật là sai lầm, quá sai lầm và đầy sự hối hận cho những suy nghĩ quá nông cạn của tôi, khi chính mình được chứng kiến những bức ảnh, những hiện vật của chuyến đi thăm bảo tàng lịch sử. Cảm giác của tôi lúc này là gì đây? Sững sờ, kinh ngạc, căm phẫn những tội ác của chiến tranh và xấu hổ cho những suy nghĩ đáng trách của mình, tôi đã quá vô tâm, quá hờ hững với chính lịch sử của cha ông mình, sống quá an phận trong bình yên mà quên đi nhiều điều. II. Những giá trị lịch sử của chuyến đi bảo tàng di tích chiến tranh: Cảm giác khi bước tới cổng: Có nhiều du khách người nước ngoài, họ đến từ các đất nước khác nhau. Họ đến đây để được xem những bức ảnh, hiện vật của cuộc chiến tranh mà họ cũng chỉ được nghe, đọc và kể. Họ đến thăm quan với mọi lứa tuổi, từ những người già, trung niên, thanh niên và cả những em nhỏ, với một thái độ quan tâm, trân trọng và cũng đầy cảm xúc. Cuộc chiến ở Việt Nam đã gây tiếng vang lớn trên toàn thế giới, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngạc nhiên trước thái độ đầy quan tâm của những nguời khách ngoại quốc này. Những chiếc máy bay rất hoành tráng, chiếc xe tăng, khẩu đại bác và các quả bom hạng nặng. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy tận mắt và sờ tay vào hiện vật. Những vật mà tôi mới chỉ được biết qua tranh ảnh, phim ảnh. Và thú vị hơn khi biết được thông số chính xác về cấu tạo và sức công phá của từng loại khác nhau. Qua những kiến thức mới thu nhận được, tôi hình dung rõ hơn về những chiếc máy bay thả bom, những chiếc xe tăng bọc thép, những khẩu đại bác liên thanh…bom đạn,pháo sáng …– sự ác liệt của chiến tranh được cảm nhận rõ nét hơn rất nhiều. Sự chiến thắng trong cuộc đấu tranh của một đất nước nhỏ bé nghèo khó đối với một cường quốc giàu có và hiện đại – cả thế giới biết điều đó, và tôi là một người dân Việt Nam- tất nhiên phải cảm thấy hãnh diện và tự hào. Cảm giác lúc này sao nhỉ? Vui – tự hào – hãnh diện khi mình có mặt ở đây khi mình mang dòng máu người Việt trong người. Cảm giác khi bước vào tòa nhà chính: Chiến tranh: tàn bạo và độc ác Bản chất của chiến tranh là gì? Đó là chết chóc và bóc lột. Đặc điểm của chiến tranh là gì? Đó là những cuộc chiến phi nghĩa. Mỹ sang gây chiến ở Việt Nam cũng không ngoài mục đích tìm kiếm thuộc địa và khai thác tài nguyên. Phương thức tiến hành cũng là súng ống và bom đạn. Với mục đích như vậy, Mỹ đã đầu tư cho chiến tranh những khoản tiền không nhỏ, và mang đi những bản kế hoạch được đánh giá là công phu và chắc chắn. Những bức ảnh trong tòa nhà chính đã khái quát được phần nào về những kế hoạch đầu tư tài chính của Mỹ cho cuộc chiến ở Việt Nam. Những con số quả thật khiến tôi sững sờ, tại sao họ không dùng số tiền đó cho những người nghèo, giúp đỡ cho những nạn nhân trong cuộc chiến trên toàn thế giới. Thay vì nghĩa cử cao đẹp đó, họ sang Việt Nam. Và hay xem họ đã làm gì ở mảnh đất nhỏ bé vừa trải qua cuộc chiến đầy gian khổ này? “Bằng các vũ khì phương tiện hiện đại quân đội Mỹ ở Đông Dương đã tiến hành một cuộc chiến tranh diệt chủng tàn bạo và liều lĩnh bất chấp mọi tiêu chuẩn qui định của quốc tế. Chiến tranh xâm lược vốn được xem là một tội ác trước cộng đồng quốc tế.” – Hans Goran Frank, tổng thư kí Uỷ ban quốc tế điều tra tội ác chiến tranh của mỹ ở Đông Dương năm 1974. Trong tay một bọn quân phiệt và chính trị gian tàn bạo, bất chấp luân thường đạo lí, vũ khí kĩ thuật hiện đại đã dẫn đến sự hủy diệt không chỉ những con người mà cả môi trườngx sinh sống, cả một xã hội…những thế hệ tương lai cũng chịu chung những mối đe dọa như những người đang tồn tại hiện nay” – Gurnnar Myrdal, chủ tịch Ủy ban quốc tế điều tra tội ác của Mỹ ở Đông Dương, 1972. Xin được nhắc lại câu trích dẫn trong bản tuyên ngôn của Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Vậy mà họ sang đây, với hành động đầy dã man, không những đánh mất đi quyền tự do và bình đẳng của những người dân, mà còn gây ra những tội ác cho những người dân vô tội, cho những em nhỏ, những phụ nữ. Không nói đến những gì quá cao xa, mà tôi chỉ đang nhìn thấy những cái gì rất gần gũi và thực tế. Xác những người phụ nữ và trẻ em, xuất hiện đầy xót xa và căm phẫn: Những người phụ nữ và em nhỏ, đó là những đối tượng luôn được xã hội yêu thương và chăm sóc. Thử hỏi liệu một em nhỏ hay một người phụ nữ có đủ sức để chống đỡ lại những lính binh được đào tạo qua quân đội hay không? Và liệu thân xác bé nhỏ đó chịu đựng được tới đâu với những đau đớc về thể xác và tinh thần như thế? Những lính Mỹ! Họ cũng có gia đình, và trong số đó chắc chắn cũng có những người đã lấy vợ và có con nhỏ. Nếu những người mẹ, người vợ và những đứa con của họ cũng bị chịu đựng những điều tồi tệ đó thì liệu họ có chịu đựng nỗi không? Họ cũng là con người mà tại sao lại mất trái tim như thế? Đừng đổ lỗi hoàn toàn cho chiến tranh, đừng trả lời do chiến tranh và cũng không nên đổ hết trách nhiệm cho quân đội Mỹ. Vấn đề mà tôi quan tâm ở đây đó là nhân tính người ở các chiến binh Mỹ mà thôi. Cho dù họ bị quân đội ép buộc đi nữa, nhưng những hành động của họ tôi không ngờ họ độc ác như thế, bàn tay đó không phải đã dính máu mà là đẫm máu: Còn những người dân thường thì sao? Tôi cố gắng hiểu, tìm một lí do giả thích cho những bức ảnh này? Không thể hiểu nỗi. Liệu những tấm hình này sẽ khiến người xem phải nể phục họ sao? KHÔNG! Tôi chỉ cảm thấy ghê tởm thôi. Khinh bỉ bởi hành động thú tính đó! Ác liệt của chiến tranh là đây sao? Chết chóc và chết chóc. Mỗi ngày qua đi là thêm những xác chết. Tôi thấy sợ và căm thù. Và cách để báo cáo thành tích đó là đếm số xác chết. Càng nhiều xác chết đồng nghĩa với việc họ càng được đánh giá cao. Và niềm tự hào của họ là gì? Đó chính là họ được thể hiện sức mạnh. Họ sẽ làm gì với niềm tự hào đó? Họ sẽ giữ lại những cái gọi là chiến lợi phẩm qua những bức ảnh “đáng để đời”. CHUỒNG CỌP – ĐÂY ĐÚNG LÀ ĐỊA NGỤC CỦA TRẦN GIAN. Tôi đã từng nghe nhiều đến Côn Đảo và biết đó là một nơi chuyên để nhốt và tra tấn các tù nhân chính trị. Ở đây chúng sử dụng rất nhiều các biện pháp cực hình để thực hiện mưu đồ độc ác của mình, và có rất nhiều người yêu nước đã hy sinh ở nơi này. Nhưng để được mắt thấy và hình dung được một cách thực tế thì đến lúc này mới cảm nhận được. Xin kể về một chi tiết nhỏ, đó là người bạn đi cùng tôi đến đây. Trước đó bạn đó đã đến đây một lần và đã tham quan khu nhà này. Nhưng lần này bạn đó nói với tôi là không muốn đến khu nhà đó nữa, bởi vì bạn đó sợ. Tôi nghĩ dù sao đây cũng chỉ là những hình ảnh mang tính minh họa, điều gì đã khiến người bạn của tôi lại sợ như thế? Và khi đến nơi thì tôi đã hiểu? Có những hành động giết chém làm tôi rùng mình, có những bức ảnh tang thương khiến tôi đau xót. Nhưng khi đến đây, được chứng kiến và nghe người hướng dẫn nói về những cách thức về kiểu giam cầm chuồng cọp, tôi cảm thấy kinh sợ và ghê tởm cho những kẻ có thể làm những điều này. Chuồng cọp là nơi giam cầm và tra tấn tù nhân dã man và tàn bạo nhất của hệ thống nhà tù Côn Đảo. Tại đây, hàng ngàn tù nhân đã bị hành hạ khổ sai, nhiều chiến sĩ cách mạng, người yêu nước đã hy sinh vì những nhục hình ở nơi này. Hình thức chuồng cọp như sau: “Cứ năm người bị nhốt bị nhốt vào một chuồng bề ngang 1,45m, dài 2,5m. Ăn, ngủ, ở, tiểu tiện gì cũng chung một chỗ. Người bị nhốt phải thay phiên nhau kẻ ngồi, người nằm. Đêm ngủ phải tahy phiên nhau người thức, người ngủ, phải thường xuyên nắm chồng lên nhau”. “Ăn cơm nấu lõng bõng với mắm thúi, giòi bọ và khô mục đắng nghét. Chén đũa để trong thùng đất cát bụi bặm, cho bầy chó liếm đi liếm lại rồi sớt cơm cho tù ăn”. “Khi tắm, chị em gom phần nước của năm người lại cho một người tắm, luân phiên nhau năm ngày mỗi người được tắm một lần, nước tắm cũng phải dùng tới ba bốn lần”. Người nào bị đưa vào chuồng cọp coi như cái chết đã cận kề. Tù nhân vào đây khoảng ba tháng thường là sẽ chết vì bị xiềng chân, bị tra tấn, bị bỏ đói. Liệu có ai tưởng tượng nỗi, trong thế giới văn minh, vẫn tồn tại một nơi đầy dã nhân và thú tính như vậy? Không thể ngờ nỗi lại tồn tại những điều ghê sợ như thế trên cõi đời này. Nếu như không đến đây? Không được chứng kiến những điều này? Có lẽ sẽ không bao giờ tôi nghĩ và dám nghĩ lại có một “địa ngục” như thế? Không những chúng đã lấy mất quyền tự do và quyền bình đẳng của những con người yêu nước chân chính mà còn chà đạp và có những hành động dã man lên thể xác và tinh thần của họ. Không hiểu chúng đã lấy quyền gì mà dám đối xử, tra tấn những chiến sĩ cộng sản như vậy? Chúng chỉ là những kẻ đi cướp nước, những kẻ xâm lược đầy thú tính? Chúng không và sẽ không bao giờ có thể sánh được với những người mà chúng coi là tù nhân phản động đó! Vậy mà chúng không biết được chân lí đơn giản đó, chúng còn ra sức sử dụng nhiều nhiều các phương thức để tra tấn các người tù chính trị. Tôi thấy rùng mình khi bước vào phòng quan sát những hình thức tra tấn hỏi cung của lính Mỹ đối với các tù nhân. Thật đáng ghê tởm và đáng khinh thường! Tại các nhà tù, cai ngục dùng mọi thủ đoạn để khủng bố tinh thần, hành hạ hủy diệt thể xác tù nhân. Các hình thức tra tấn phổ biến là: dùng kim đâm vào ngón tay của người tù, đổ nước vào mũi để làm người tù ngạt thở, dùng điện châm vào người tù để cho họ bị rối loạn thần kinh… Nhiều tù nhân sau khi bị tra tấn hành hạ bằng nhiều loại nhục hình vẫn không chịu khuất phục đã bị xử bắn hoặc thủ tiêu. Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles páht biểu tại Thượng viện Mỹ ngày 11 tháng 11 năm 1954: “phải khai thác việc cải huấn tù nhân cộng sản Việt Nam như mọtt bộ phận của chiến tranh tâm lí, chương trình cải huấn đó phải được trợ lực bởi một hội đồng nhân viên Hoa Kì”. (dân sự vụ, chiến tranh tâm lí và tình báo phản gián). Trích tham luận của thượng nghị sĩ Edward Kennedy trong phiên họp kì thứ nhất khóa 83 của quốc hội Hoa Kì vào năm 1973 “ Chứng cứ rõ ràng là có tù nhân chính trị tại Nam Việt Nam và chứng cứ rõ ràng là chính quyền Thiệu đang cản trở việc giải quyết các tù nhân chính trị. Nhưng sự đồng lõa của chính phủ ta trong việc lạm dụng công lí và thiện chí cũng rõ ràng và điều này nếu công bố ra sẽ làm phẫn nộ lương tâm của toàn thể nhân dân Hoa Kì…”. Rõ ràng, nếu những điều đó lộ ra sẽ làm toàn bộ nhân dân Hoa Kì phẫn nộ, vậy mà sao nhà tù vẫn tồn tại, vẫn được xây thêm, và càng ngày càng có nhiều các hình thức tra tấn… Nước nhỏ giọt: người tù bị trói chặt ngay dưới vòi nước vặn nhỏ giọt lên một chỗ cố định đã bị cạo sẵn một mảng tóc trên đầu. Độ 2 giờ sau thì mỗi giọt nước là một thanh sắt giáng xuống đầu người tù làm nhức nhối khủng khiếp. Hậu quả gây loạn thần kinh. Tra điện: dùng dây điện thoại quân đội làm máy phát điện hay dùng điện nhà. Hai đầu day điện được nối vào cơ thể người tù (thường gắn vào vào vành tai, ngón tay, đầu vú, bộ phận sinh dục…), người tù bị trói hai tay sau lưng, đặt ngồi dưới đất, điện giật sẽ làm hoảng loạn. Đòn tra tấn này không để lại vết tích nhưng hậu quả rất thâm độc: gây đau tim, đau thần kinh, nếu bị tra tấn ở bộ phận sing dục thì làm tuyệt đường con cái. Tra rắn: dùng để tra tấn phụ nữ nhắm vào tâm lí sợ hãi rắn của chị em và làm tuyệt đường sinh đẻ. Ngoài rắn bọn cai ngục còn dùng chai bia mẻ miệng thay vào. Những mảnh chai đâm vào âm đạo không thể giải phẫu lấy ra được vì soi X.quang không thấy. Tra nước: người tù bị trói chặt trên băng gỗ, đầu thấp hơn chân, miệng bị bịt chặt bằng giẻ, đầu bị giữ chặt rồi nối ống cao su dẫn nước vào mũi (đôi khi nước có pha xà phòng hoặc vôi). Khi nước đầy bụng bọn cai ngục dùng giày đinh đạp mạnh cho người tù nôn ra nước lẫn máu. Đâm kim vào tay: dùng thước sắt đóng kim gút có gắn lông gà vào đầu các ngón tay của người tù đặt dướic quạt máy. Mỗi nhịp thước, mỗi vòng xoay của lông gà là một luồng đau đớn xoáy tận tim người tù. Và còn nhiều nhiều các hình thức tra tấn dã man khác như treo người, cắt chân… Không ngờ những việc làm ghê tởm như vậy mà bọn ác thú cũng nghĩ ra để làm cài gọi là “công việc chính trị” của chúng đươc. Xin được mượn lời của hạ nghị sĩ William Clay đã nói trong biên bản họp quốc hội Mỹ ngày 15/10/1969 “…Không thể nào có danh dự trong một hành động nhục nhã được. Cuộc chiến ở Việt Nam là bất công , bất hợp pháp và phi đạo lí.”. Qua những năm tháng bị giam cầm khắc nghiệt trong nhà tù, hầu hết tù nhân khi thoát ra đều bị bệnh tật, thậm chí bị tàn phế không thể đi lại được, thân hình chỉ còn da bọc xương. Chế độ lao tù đày ải đã để lại những hậu quả nghiêm trọng cả về tinh thần lẫn thể xác đối với tù nhân. Chiến tranh đi liền với tội ác. Và tội ác đó là không có giới hạn. Có những điều thiết tưởng chỉ có trong xã hội ngày xưa, cổ hủ, lạc hậu và tàn bạo - đó là hình thức chém đầu. Tôi chỉ nghĩ hình thức “tử hình” theo kiểu đó chỉ có trong trong những bộ phim, vở kịch mà chỉ nằm trong lịch sử và mãi thuộc về một thế giới xa lại nào đó, bởi vì tôi không thể hiểu nỗi tại sao cùng là con người mà lại có thể bỏ đầu của một người khác vào một lưỡi chém để “kết án chết”! Vậy mà trước mắt tôi là gì đây? MÁY CHÉM – thứ mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng, kéo lê đi khắp miền Nam Việt Nam để thực hiện kế hoạch “tố cộng – diệt cộng”, chính cái máy chém này đã giết chết bao nhiêu chiến sĩ và người dân vô tội, giết chết một cách thô bạo và dã man. Thế kỉ 20, vậy mà vẫn còn những điều ghê tởm như vậy? Sự văn minh và tiến bộ mà chính quyền ngụy quyền rêu rao đâu không thấy mà chỉ thấy người dân càng ngày càng lầm than, sống trong cái “bóng đêm quyền lực” mà Mỹ và ngụy quyền thiết lập. Những gì mà tôi có thể nói lúc này là sự ghê tởm và căm phẫn! Có lẽ có người sẽ nói: “chiến tranh mà”, sao tránh khỏi sự tàn phá và chết chóc! Nhưng tôi lại hỏi tiếp, “vậy chiến tranh do ai thực hiện?” – do chính con người. Sự ham muốn quyền lực, thống trị đã bất chấp tất cả những luân thường đạo lí, đã chà đạp lên thể xác và tinh thần của những con người yếu ơt, không có khả năng tự vệ. Sự tàn khốc và ác liệt là đây! Vậy mà tại sao chiến tranh vẫn xảy ra trên thế? Tại sao con người vẫn phải chết vì những điều vô nghĩa như thế. Và khi chiến tranh kết thúc, đâu phải mọi thứ cũng kết thúc với Những nạn nhân của chiến tranh: Lật lại trang sử hào hùng của toàn dân tộc, chúng ta càng cảm thấy tự hào bao nhiêu về những chiến thắng vẻ vang thì chúng ta lại càng chua xót bấy nhiêu khi nhận ra những mất mát to lớn mà nhân dân ta phải gánh chịu, những thiệt hại về người và vật chất. Sau khi chiến tranh kết thúc, chúng ta có thể xây dựng lại cơ sở hạ tầng, tái tạo lại những gì đã bị tàn phá trong chiến tranh. Nhưng ngược lại có những người mãi mãi ra đi, đã hy sinh mình cho quê hương, nhhững nạn nhân của chiến tranh thì không sao bù đắp được, bên cạnh đó cũng có những người may mắn hơn họ đã trở về đoàn tụ với gia đình, nhưng một phần thân thể họ đã để lại nơi chiến trường ác liệt, hay những đưa con yêu dấu của họ không có được một hình dạng bình thường như những bạn cùng trang lứa do chất độc màu da cam. Kể đến những mất marttong cuộc chiến tranh, chúng ta không thể không nhắc đến hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Theo số liệu thống kê thì có tới 19,02% số người tàn tật xuúat phát từ nguyên nhân chiến tranh. Lật lại trang sử đẫm máu và nước mắt đất nước chúng ta mới thấy được hậu quả mà cuộc chiến để lại trên con người lớn nhường nào. Chỉ tính trong giai đoạn của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, Mỹ đã ném xuống Việt Nam 14.500.000 tấn bom đạn, bằng 725 quả bom nguyên tử ném xuống Hỉo Shima và Nagazaki (Nhật Bản). Trung bình mỗi ngày Mỹ ném 4.622 tấn bom. Hậu quả một người dân phải gánh chịu là ½ tấn bom đạn. Từ 1975 – 1977, có 11.000 người chết và khoảng 20.000 người bị thương do bom đạn Mỹ chôn vùi trong lòng đất. Mỹ cũng rải 72 triệu lít chất độc hóa học, ước tính nạn nhân chất độc hóa học, chủ yếu là nạn nhân chất độc hóa học màu da cam là 3 triệu người (theo số liệu công bố của hội nạn nhân chất độc màu da cam). Điều đáng sợ là những hành động này không chỉ tác động đến hiện tại mà còn để lại nỗi đau dai dẳng đến hàng chục nămm sau, dẫn tới những hậu quả nặng nề mà bao thế hệ phải gánh chịu không chỉ về sức khỏe, tinh thần, trí tuệ của một vài người mà của cả một dân tộc. Bốn cuộc chiến tranh chống Pháp, Mỹ, biên giới Tây Nam và biên giới phái Bắc, bao người đã ngã xuống, có những người phải để lại một phần thân thể mình ở chiến trường: cánh tay, đôi chân, con mắt…Có những người đến bây giờ vẫn oắn mình vì cơn đau cắt dữ dội do phải mang trong mình những mảnh đạn, những chất độc hóa học… Đó là những thương binh, bênh binh. Người nhẹ, người nặng. Người tỉnh táo, người bị tâm thần. Họ sẽ sống ra sao trong cuộc sống hiện tại? Xã hội cộng đồng đã chung tay góp sức cố gắng làm tròn đạo lí trên? Cũng có số ít thương bệnh binh chí thú làm ăn, có được cuộc sống khá giả, sắm sửa đầy đủ tiện nghi trong gia đình và xây dựng được nhà cửa khang trang, nuôi dạy con cái học hành đến nơi đến chốn. Nhưng ngược lại cũng có những người do bệnh nặng không thể đi làm nuôi sống gia đình, vợ phải dành thời gian chăm sóc nên không đi làm được đành phải sống dựa vào tiền lương, con cái không được quan tâm đấy đủ để phát triển bản thân. Có những bệnh binh sống ở trung tâm do họ bị thương nặng, không có người thân chăm sóc. Những thương bệnh binh gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống thường nhật, họ không thể làm việc như người bình thường, đặc biệt với những người bị nặng khó khăn trong việc đi lại, sinh hoạt cá nhân…cộng với những cơn đau do cơn đau tái phát và những bệnh phát sinh do thương tật. Hậu quả của chiến tranh là tổn thất và đau thương. “ Napalm và hơi độc đã được sử dụng chống lại nhân dân Miền Nam Việt Nam. Các dân tộc trên thế giới giới ghi nhận với sự ghê tởm việc chính phhủ Mỹ vi phạm mọi nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Họ đòi hỏi phải chấm dứt tất cả các hành động man rợn này. Một sự xâm lược như vậy đang đe dọa toàn bộ vùng Đông Nam Á và đe dọa hòa bình cả thế giới”. Điển hình nhất đó là những nạn nhân chất độc màu da cam. Những em bé này vô tội, sinh ra trong thời bình, nhưng điều gì đã đến với các em thế này? Bước qua gian ảnh tiếp theo, tôi suýt nữa đã hét lên khi thấy mẫu được ngâm trong formol. Có hai học sinh cấp 3 đứng cạnh tôi đã nói với nhau về hai em bé quái thai dính nhau bị chết khi còn đang trong giai đoạn phát triển của phôi do ảnh hưửong của chất độc màu da cam và đang được lưu giữu trong trong formol:”Cái này chắc làm bằng tượng thôi, chứ làm gì có thật?” Đúng thế, không ai nghĩ và dám nghĩ đến việc trên đời lại có những hình ảnh đáng sợ và đau xót như thế? Nguyên nhân sao? Không phải nguyên nhân gì xa xôi mà chính là do một trong số rất nhiều các kế hoạch chiến tranh của Mỹ - đó là kế hoạch chất độc màu da cam với mục đích tàn phá các cây rừng – nơi ở và di chuyển của bộ độ nước ta. Sự chết chóc, đau thương tưởng chừng như đã kết thúc khi tiếng súng không còn nữa. Nhưng những giot nước mắt đau xót vẫn còn đó? Sinh ra là người, mà không cho em được hình người? không cho em quyền được sống bình thường như bao người khác? Nhìn các em bé đó, và xem bộ phim tư liệu được chiếu trong bảo tàng, tôi cảm thấy xót xa quá! Những gia đình đó đã chịu quá nhiều đau thương do cuộc chiến đã gây ra rồi, đáng lẽ giờ phải cho họ được hưởng được niềm vui thời bình, dù niềm hạnh phúc đó chỉ giản dị trong hai từ “gia đình”, họ chỉ cần người mẹ, người cha và những đứa con bình thường. Vậy mà điều giản dị rất thường đó họ cũng không có được. Hàng ngày khi họ tỉnh dậy, lại chứng kiến sự đày đọa thể xác mà con họ phải trải qua, niềm đau lại như cào xé, chiến tranh vấn đeo đuổi, đeo đuổi một cách tàn nhẫn. Không chỉ những người dân nước ta bị ảnh hưởng, mà cả những người đem rải chhúng cũng bị. Chất độc màu da cam- không tha bất kì ai- cả những người gây ra và những người chịu. “…Trong thời gian tới, cùng với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, Hội nạn nhân Chất Độc Da cam hy vọng sẽ huy động được đông đảo nhân dân trong cả nước giúp đỡ tích cực hơn nữa các nạn nhân Chất độc Dan cam để làm giảm đi phần nào nỗi khổ và bất hạnh của họ. Nhưng mặt khác, chúng ta cho rằng Hoa Kì cần phải thừa nhận hậu quả của Chất độc Da cam đối với người Việt Nam, và thực hiện trách nhiệm về tinh thần và vật chất đối với nạn nhân Việt Nam, như họ đã làm với các cựu chiến binh Mỹ. Không có lí do gì mà người ngồi trên máy bay đi rải chất độc được công nhận bị nhiễm và mắc bệnh, còn người bị rải chất độc trên đầu, phải ăn uống với những thức ăn, nước uống có chất độc lại không được công nhận. Đây là sự vi phạm nhân quyền cực kì nghiêm trọng. Trước mắt các Công ty hóa chất đã sản xuất các chất độc hóa học trong đó có dioxin nồng độ cao để cung cấp cho quân đội Mỹ, phải đáp ứng yêu cầu của nạn nhận Chất độc Da cam, bồi thường thích đáng cho họ. Nguyện vọng, đòi hỏi của Việt Nam là hết sức chính đáng, phù hợp với đạo lí và cả pháp lí quốc tế” – phát biểu của chủ tịch danh dự Nguyễn Thị Bình tại Hội nghị ủng hộ nạn nhân Chất độc Da cam Việt Nam, ngày 25/7/2004 tại Tp.Hồ Chí Minh. Mong là những nạn nhân Chất độc Da cam sẽ được những quyền lợi chính đáng mà họ đáng và phải có. Và các công ty hóa chất Mỹ sẽ có những hành động đúng đắn để chuộc lại một phần tội lỗi của họ trong qua khứ. Mặc dù những đau thương và mất mát sẽ vẫn còn đó, như những minh chứng đau thương của chiến tranh, những nỗi đau của thời gian… Và hàng ngày, vẫn còn đâu đó những vụ nổ mìn còn sót lại của những cuộc chiến trong lịch sử: Đó như sự trở mình của chiến tranh, giống như lời cảnh báo cho một điều mà lúc nào cũng có thể đến:”chiến tranh chỉ tạm dừng mà thôi, không có chuyện kết thúc, nó sẽ trở lại ….”; và nếu điều đó là sự thật thì thật là tồi tệ, giống như những ác mộng dài, ác mộng trong đời thực… Cảm giác khi đến khu nhà trưng bày những bức ảnh xây dựng đất nước sau chiến tranh, đất và người Việt Nam đang từng ngày phấn đấu xây dựng đất nước, cố gắng chữa lành những vết thương mà chiến tranh đã gây ra. (hình ảnh) Xây dựng đất nước- đó là cách duy nhất để tiếp tục tồn tại, phát triển. và cũng là cách để đền đáp lại công ơn xương máu của bao người đã ngã xuống để giành lại quyền dân tộc, để ngày hôm nay ta được sống trong “hòa bình”- hai chữ đã đổi bằng hàng triệu mạng người. Chiến tranh thuộc về quá khứ, nhưng quá khứ đó mãi hiện hữu, ta không quên và không bao giừo được quên. Ý thức bản thân và trách nhiệm dân tộc không cho phép ta được lãn quên điều đó. III. Kết luận: Đọc những dòng trong cuốn cảm tưởng để trong phòng hữu nghị, có một bài viết mà tôi thấy rất đúng với tâm trạng tôi lúc bấy giờ: “Gây chiến tranh để làm gì? Khai hóa các nước lạc hậu? Vì mục đích kinh tế chăng? Không! Tất cả đều vô nghĩa, bởi các nước gây chiến thật sự không có lòng tốt đó, bởi vì họ không nghèo. Vậy thì bởi mụch đích gì? Thật điên rồ! Thật là độc ác và dã man! Đó chỉ là một sự ngụy biện của những kẻ đã gây ra tội ác, giết chóc, lòng tham, ý nghĩa điên rồ. Hãy chung tay ví hòa bình thế giới! Hãy giáo dục cho các thế hệ trẻ yêu hòa bình, có lòng nhân ái. Hãy chỉ cho thế hệ trẻ biết chiến tranh là điên rồ!” Tôi cũng là một trong số họ, những con người thuộc thế hệ trẻ của đất nước. Khi đến đây, tôi cảm thấy mình thật đáng trách. Từ trước đến nay tôi đã quá hờ hững với chính lịch sử đất nước mình, đầy bi thương và cũng đầy hào hùng. Rất nhiều bạn trẻ luôn so sánh, nhìn nhận dân tộc một cách vô tâm và đáng trách, rằng “nước mình nghèo, kĩ thuật lạc hậu, trình độ khoa học thấp…”, Nhưng tôi chỉ muốn nhắn gửi một câu trong một bài hát “đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc”. Hãy tự hào vì ta được sinh ra trong một đất nước anh hùng. Đảng và dân ta đã làm nên lịch sử thì ta phải biết trân trọng lịch sử đó, tiếp bước nó một cách xứng đáng. Xin cảm ơn những con người anh hùng, xin tưởng niệm đến những con người đã ngã xuống. Và tất nhiên, xin cảm ơn những con người anh hùng đã bất chấp cái chêt để ghi lại được những hình ảnh quý giá trong lịch sử đó, để hôm nay, những thế hệ trẻ Việt Nam và cả thế giới đến đây, được xem – cảm nhận – quan trọng hơn hết là hiểu rõ hơn về “chiến tranh”. Dân tộc chúng ta phải chịu đựng quá nhiều bi thương của các cuộc chiến tranh. Từ trong đau thương, Việt Nam đã cùng đoàn kết dân tộc, đoàn kết thế giới để ngày hôm nay, trong hòa bình, cả nước đang tiến lên con đương xây dựng CNXH – phương tiện để giải phóng con người và xã hội, một xã hội bình đẳng đúng nghĩa và phát triển con người một cách toàn diện. Các thế lực phản động, những kẻ có âm mưu xâm lược vẫn chưa từ bỏ mục đích xâm chiếm nước ta. Nên hòa bình hiện tại không phải tồn tại một cách dễ dàng nếu như không có sự bảo vệ, trách nhiệm và phấn đấu không ngừng của toàn dân tộc. Chiến tranh là đau thương, tàn bạo và chết chóc Hãy nhìn – suy nghĩ – và hành động một cách trách nhiệm để xứng đáng với những gì mà cha ông ta đã phải đánh đổ để có được ngày hôm nay! Biểu tượng của bảo tàng di tích chiến tranh, đó chính là hình tượng chim bồ câu trắng – biểu tượng của hòa bình và hữu nghị. Chiến tranh đã qua đi, đau thương vẫn còn đó, hậu quả của nó là điều không thể phủ nhận. Nhưng vấn đề bây giờ ta cần và phải thực hiện, đó là xây dựng một xã hội văn minh, hòa bình và thân ái. Hãy xóa bỏ mọi hận thù, nhìn vào tương lai để xương máu của cha ông ta đã đổ xuống không vô nghĩa! Xin cảm ơn một chuyến đi đầy ý nghĩa !

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCam nghi khi tham quan bao tang.doc
  • docBia.doc
  • docChat.doc
Luận văn liên quan