Lợi dụng đêm tối ít người qua lại, với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường, A dùng dây thép căng ngang đường
Đề bài:
Lợi dụng đêm tối ít người qua lại, với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường, A dùng dây thép căng ngang đường. Hai đầu dây đều được cột chặt vào cây ven đường. Chị N đi xe máy qua đoạn đường này bị dây thép hất ngược trở lại, nằm ngất xỉu. A từ chỗ nấp ở bụi cây ven đường chạy ra tháo dây chuyền, nhẫn, đồng hồ, túi sách của N. Tổng tài sản có giá trị 4.800.000 đồng. Sau đó N được người đi qua thấy và đưa đi cấp cứu kịp thời nên không chết. Tổng số tiền viện phí là 2.700.000 đồng, tổn hại sức khoẻ của chị N không đáng kể. Xe máy của chị N bị hỏng, tiền sửa chữa là 800.000 đồng.
Hỏi:
1. Xác định tội danh và định khung hình phạt cho hành vi của A?
2. Giả sử N bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 61% thì trách nhiệm hình sự của A được xác định như thế nào?
Nguồn tài liệu tham khảo
1. Bộ luật hình sự 1999.
2. Trường đai hoc Luât HàNội – Giao trình Luật hinh sự Việt Nam tập 2 – nxb.CAND – Hà Nội 2010.
3. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/ 12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của bộ luật hình sự năm 1999.
5 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3512 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lợi dụng đêm tối ít người qua lại, với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường, A dùng dây thép căng ngang đường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài:
Lợi dụng đêm tối ít người qua lại, với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường, A dùng dây thép căng ngang đường. Hai đầu dây đều được cột chặt vào cây ven đường. Chị N đi xe máy qua đoạn đường này bị dây thép hất ngược trở lại, nằm ngất xỉu. A từ chỗ nấp ở bụi cây ven đường chạy ra tháo dây chuyền, nhẫn, đồng hồ, túi sách của N. Tổng tài sản có giá trị 4.800.000 đồng. Sau đó N được người đi qua thấy và đưa đi cấp cứu kịp thời nên không chết. Tổng số tiền viện phí là 2.700.000 đồng, tổn hại sức khoẻ của chị N không đáng kể. Xe máy của chị N bị hỏng, tiền sửa chữa là 800.000 đồng.
Hỏi:
1. Xác định tội danh và định khung hình phạt cho hành vi của A?
2. Giả sử N bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 61% thì trách nhiệm hình sự của A được xác định như thế nào?
1. Xác định tội danh và định khung hình phạt cho hành vi của A?
Hành vi phạm tội của A ở đây thuộc tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Hành vi xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt được hiểu là hành vi cố ý dịch chuyển trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình. Và ở đây, A đã thực hiện hành vi cố ý chiếm đoạt trái pháp luật dây chuyền, nhẫn, đồng hồ, túi sách đang thuộc sự quản lý của N thành tài sản của mình.
Căn cứ xác định tội danh cho hành vi phạm tội của A :
* Khách thể:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Trong trường hợp này, khách thể được xác định là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Cụ thể là quyền sở hữu của N đối với dây chuyền, nhẫn, đồng hồ, túi sách của mình đã bị A xâm phạm, làm tước đi quyền sở hữu của N đối với tài sản trên mặt thực tế; và quan hệ nhân thân đó là việc chị N đã phải vào viện.
* Mặt khách quan:
+ Hành vi : A đã thực hiện hành vi làm cho chị N lâm vào tình trạng không thể chống cự được rồi sau đó thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. A dùng dây thép căng ngang đường, hai đầu dây đều được cột chặt vào cây ven đường, chị N đi xe máy qua đoạn đường này bị dây thép hất ngược trở lại, nằm ngất xỉu. Ở đây chị N đã ngất xỉu, nên không thể có sự chống cự lại việc chiếm đoạt tài sản của A. Theo điểm 5.1 mục 5 phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/ 12/2001 : “Thủ đoạn nguy hiểm khác quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS là ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm để thực hiện việc cướp tài sản, người phạm tội có thể dùng thủ đoạn khác nguy hiểm đối với người bị tấn công hoặc những người khác như sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của nạn nhân; đầu độc nạn nhân; nhốt nạn nhân vào nơi nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ; dùng dây chăng qua đường để làm cho nạn nhân đi mô tô, xe máy vấp ngã để cướp tài sản...” Vậy A đã dùng thủ đoạn nguy hiểm nhằm chiếm đoạt tài sản của chị N.
+ Hậu quả : chị N đã bị A chiếm đoạt dây chuyền, nhẫn, đồng hồ, túi sách với tổng tài sản là 4.800.000 đồng; đồng thời do bị ngất xỉu, chị N đã phải vào viện với tổng số tiền viện phí là 2.700.000 đồng, tổn hại sức khoẻ của chị N không đáng kể; xe máy của chị N bị hỏng, tiền sửa chữa là 800.000 đồng. Ở đây, hậu quả do hành vi của A gây ra không những làm thiệt hại về của, mà còn làm tổn hại đến sức khỏe của chị N.
* Mặt chủ quan :
+ Lỗi : Lỗi ở đây xác định được là lỗi cố ý trực tiếp : A lợi dụng lúc trời tối, đường ít người qua lại rồi cố tình dùng dây thép căng ngang đường. A nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi mình thực hiện, thấy trước được hậu quả và mong muốn hậu quả sẽ xảy ra. A mong muốn hành vi của mình đè bẹp hoặc làm tê liệt được sự chống cự của người bị tấn công, để có thể thực hiện được mục đích chiếm đoạt tài sản.
+ Mục đích : muốn người đi qua con đường này sẽ gặp phải tai nạn như : ngã xe, đổ xe,….rồi chiếm đoạt tài sản.
* Chủ thể:
+ Khi thực hiện, A nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi ấy. Vậy khẳng định được A là người có năng lực TNHS.
+ Về điều kiện tuổi : ở đây mặc nhiên coi A đã đủ 18 tuổi trở lên, đủ tuổi chịu TNHS theo luật định.
Kết luận : Hành vi của A là tội cướp tài sản ( điều 133 BLHS ) bởi đã thỏa mãn đủ các dấu hiệu bắt buộc của tội này . Tội cướp tài sản được hiểu là “dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”. A đã chiếm đoạt tài sản của chị N với tổng giá trị là 4.800.000 đồng, với những căn cứ pháp lý đã nêu trên, hành vi cướp tài sản của A thuộc điểm d khoản 2 điều 133 BLHS với khung hình phạt là từ bẩy năm đến mười lăm năm.
Khoản 2 điều 133 BLHS quy định : “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bẩy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
2. Giả sử N bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 61% thì trách nhiệm hình sự của A được xác định như thế nào?
Căn cứ theo thương tật của chị N là 61% và điều 133 BLHS thì trách nhiệm hình sự của A được xác định theo điểm a khoản 4 điều 133 BLHS :
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
Với trách nhiệm hình sự được xác định như trên, khung hình phạt của A là từ mười tám năm đến hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.Nguồn tài liệu tham khảo
Bộ luật hình sự 1999.
Trường đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 2 – nxb.CAND – Hà Nội 2010.
Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/ 12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của bộ luật hình sự năm 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập cá nhân 2 hình sự l2 (9 điểm) đề bài- Lợi dụng đêm tối ít người qua lại, với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường, A dùng dây thép căn.doc