MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
II. LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Khái niệm lỗi và ý nghĩa của yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
2. Việc phân chia hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý
III. THỰC TẾ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ NHẬN XÉT.
1. Một số vụ việc thực tế áp dụng quy định của pháp luật về việc xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Vụ việc thứ nhất
Vụ việc thứ hai
Vụ việc thứ ba
2. Nhận xét về những quy định hiện hành của pháp luật về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
KẾT LUẬN
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6037 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập lớn/học kỳ
Môn Luật Dân sự - Module 2 – K34
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử pháp luật thế giới, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định có sớm nhất của pháp luật dân sự. Trải qua các thời kì lịch sử và ở những nước khác nhau, quy định về người phải bồi thường, cách thức bồi thường, thiệt hại phải bồi thường cũng như mức độ bồi thường…có sự khác biệt. Vấn đề này phụ thuộc vào quan điểm giai cấp, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong lịch sử pháp luật của nước ta nói riêng, dù dưới hình thức nào thì cũng có thể nhận định chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất hiện từ rất sớm. Ngày nay, do sự phát triển của xã hội, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không còn được coi là hình phạt mà là nghĩa vụ, bổn phận. Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong lý luận cũng như trong thực tiễn, bài viết dưới đây tập trung nghiên cứu về lỗi - một trong bốn điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trước hết, để có thể đi sâu tìm hiểu về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ta cần nắm được những điểm cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm BTTH được BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường…
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại.
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Điều 604, BLDS 2005 quy định: “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 604 BLDS quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nghị quyết số 03/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có các điều kiện: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; có mỗi quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; có lỗi của người gây thiệt hại. Như vậy, theo quy định của pháp luật dân sự thì lỗi được coi là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng bởi mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Theo đó, khoản 1 Điều 307 BLDS quy định: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổ thất về tình thần” Như vậy, thiệt hại được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là những hành vi mà pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Cơ sở để xác định hành vi trái pháp luật là căn cứ vào các quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
Mối quan hệ nhân quả giửa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra: Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau.
LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Khái niệm lỗi và ý nghĩa của yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Lỗi hiểu theo góc độ luật học, từ xưa đến nay có nhiều học giả, trong đó có các luật gia đã quan tâm nhận xét rất khác nhau trong việc xác định thế nào là yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Ví dụ như: Theo học thuyết cổ điển, lỗi định nghĩa là “một hành vi bất hợp pháp có thể quy trách nhiệm cho người làm hành vi ấy”. Hoặc như luật dân sự La Mã cũng như Luật dân sự; khoa học pháp luật dân sự của các nước Châu Âu lục địa đều không đề cập đến trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra khi xác định lỗi. Mà theo Luật La Mã, lỗi (Culpa) là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật yêu cầu: “Không có lỗi nếu như tuân thủ tất cả những gì được yêu cầu”
Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết, lỗi được thống nhất hiểu là là trạng thái tâm lý của con người có thể làm chủ, nhận thức được hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó mang lại. Việc đánh giá hình thức, mức độ lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng khác với trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình sự, hình thức và mức độ lỗi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định kẻ phạm tội có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó, đối với trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi và mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất kể lỗi đó là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
Xung quanh vấn đề lỗi, một câu hỏi thường được đặt ra đó là: Mọi trường hợp trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng đều tiên niệm có sự thiệt hại, nhưng có phải mọi sự thiệt hại có đều phát sinh trách nhiệm không? Hay sự thiệt hại đó còn cần phải do một lỗi gây ra? Về vấn đề này có hai quan điểm: một quan điểm cố điển cho rằng phải có lỗi mới có trách nhiệm, một quan điểm khác lại chủ trương trách nhiệm khách quan không cần điều kiện lỗi.
Khuynh hướng cổ điển đặt căn bản của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng trên ý niệm lỗi của người gây ra thiệt hại cho người khác. Theo đó, lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Đây cũng là quan điểm của Điều 604 BLDS: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
Giá trị của khuynh hướng cổ điển khi đặt trách nhiệm trên nền tảng lỗi là đã xác định phạm vi của tự do cá nhân: mọi người trong xã hội đều được tự do hoạt động, sự tự do ấy chỉ bị giới hạn bởi quyền lợi của người khác; vậy chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Song trong tình trạng kinh tế xã hội ngày nay, khuynh hướng cổ điển nhiều khi tỏ ra chật hẹp và không che chở được một cách có hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Thực vậy, trong trường hợp thiệt hại xảy ra mà không có ai chứng kiến, hoặc xảy ra mà không do lỗi của ai cả, nếu buộc nạn nhân phải dẫn chứng lỗi, tức là gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường của nạn nhân. Ngoài ra khuynh hướng cổ điển cũng không giải thích được trách nhiệm của người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi về các thiệt hại do họ gây ra.
Khuynh hướng thứ hai đó là khuynh hướng chủ trương trách nhiệm khách quan, không cần điều kiện lỗi. Khuynh hướng này đặt ra trách nhiệm khách quan cho người gây ra thiệt hại, do đó, trong mọi trường hợp, người này đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Khuynh hướng này cũng không thỏa đáng vì bảo đảm sự bồi thường cho nạn nhân trong mọi trường hợp không hẳn là một giải pháp ích lợi cho xã hội. Trên lập trường lợi ích công cộng còn phải quan tâm đến quyền tự do hoạt động của cá nhân, nếu thừa nhận sự bồi thường mà không đòi hỏi lỗi, mọi sự hoạt động của cá nhận sẽ bị tê liệt vì ai nấy đều không khỏi e sợ gây thiệt hại phải bồi thường mặc dầu không phạm lỗi.
Từ những lập luận trên, cùng với thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân Bộ luật dân sự Việt Nam được xây dựng trên cơ sở dung hòa cả hai khuynh hướng trên. Bên cạnh những điều khoản quy định yếu tố lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS Việt Nam cũng áp dụng chế độ trách nhiệm khách quan đối với các thiệt hại do tác động của các phương tiện cơ giới, của súc vật và vật vô tri thức khác. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Ví dụ tại Khoản 3 Điều 627 quy định là: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi”. Hoặc Điều 624 quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi.”
Khi xác định lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do lỗi cố ý hoặc vô ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt hại được xác định là sự kiện bất ngờ. Sự kiện bất ngờ được qui định tại Điều 11 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được dẫn chiếu vì điều luật này không những được áp dụng trong lĩnh vực luật hình sự, mà còn có ý nghĩa trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại ngoài hợp đồng. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó. Đối với sự kiện bất ngờ thì người gây thiệt hại cũng không bị coi là có lỗi vì họ không thể thấy trước, không buộc phải thấy trước hậu quả xảy ra do hành vi của mình, vì ở đây họ không có đủ điều kiện để lựa chọn tránh sự thiệt hại. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó.
Ngoài ra, đối với người tâm thần, người chưa thành niên dưới 15 tuổi, hoặc người bị người khác cố ý dùng chất kích thích làm cho mất khả năng nhận thức, không điều khiển được hành vi của mình, khi họ có hành vi trái pháp luật mà gây thiệt hại thì cũng không bị coi là có lỗi, từ đó họ cũng không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, lỗi được xem xét là lỗi của người quản lý người gây thiệt hại hoặc lỗi của người đã cố ý dùng chất kích thích làm người khác mất năng lực hành vi dẫn tới gây thiệt hại.
Việc phân chia hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý
Vấn đề lỗi được xem xét dưới hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý
Về lỗi cố ý, Khoản 2 Điều 308 BLDS quy định: “Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra”.
Về mặt khách quan, quy định trên đã dự liệu trường hợp người gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vấn thực hiện, cho dù người đó mong muốn hoặc không mong muốn nhưng đã có thái độ để mặc cho thiệt hại xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình.
Về măt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi gây hại luôn nhằm mục đích có thiệt hại xảy ra cho người khác và được thể hiện dưới hai mức độ:
- Mong muốn có thiệt hại xảy ra.
- Không mong muốn có thiệt hại, nhưng lại để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Về lỗi vô ý, Khoản 2 Điều 308 BLDS quy định: “Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.” Như vậy, lỗi vô ý biểu hiện ở việc người gây thiệt hại không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải thấy trước mà vẫn thực hiện hành vi ấy vì cho rằng hậu quả đó không thể xảy ra. Ví dụ: A chặt cây gỗ to ở đỉnh đồi A đã dùng đòn bẩy để lăn cây gỗ đó xuống chân đồi. Khi làm việc này, A biết là rất nguy hiểm vì hàng ngày vẫn có trẻ em chăn trâu ở dưới chân đồi. Nhưng A cho rằng mình có thể hô to để cho đám trẻ chạy ra xa thì sẽ không nguy hiểm. Kết quả cây gỗ đó đã lăn vào một trẻ em là cho em đó bị gãy chân.
Đối với lỗi vô ý, tùy theo mức độ trầm trọng của nó, cũng có thể phân chia thành lỗi nặng, lỗi nhẹ, lỗi rất nhẹ như trong trường hợp trách nhiệm hợp đồng, nhưng đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, sự phân biệt này không có lợi ích gì trên thực tế, vì trên nguyên tắc một lỗi rất nhẹ cũng đủ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Lỗi vô ý hay lỗi cố ý cần được xem xét trên các căn cứ như thời gian, địa điểm, điều kiện, diễn biến của sự việc, căn cứ vào sự hiểu biết xã hội, nghiệp vụ chuyên môn của người có hành vi gây thiệt hại từ đó kết luận người gây thiệt hại có nhận thức được hành vi của mình hay không và buộc phải nhận thức được hay không. Khác với cách giải quyết trong trách nhiệm hình sự dù đối với lỗi vô ý hay lỗi cố ý thì người gây thiệt hại vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự. Trong trách nhiệm hình sự lỗi vô ý gây thiệt hại nhỏ thì không phải truy cứu trách nhiệm hình sự, còn trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì không vì sự cố ý hay vô ý của người gây thiệt hại mà xét họ có phải bồi thường hay không hoặc là xét ở mức độ tăng hay giảm mà ở đây chỉ xem xét mức độ giảm bồi thường được quy định ở khoản 2 Điều 605 BLDS.
Về ý nghĩa của việc phân biệt hai hình thức lỗi: ta nhận thấy rằng, mặc dù Điều 308 BLDS chia “lỗi” thành hai hình thức - lỗi cố ý và lỗi vô ý nhưng hầu như ý nghĩa của sự phân chia này không được thể hiện trong các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ Điều 615 có nhắc đến lỗi cố ý của người dùng rượu hoặc các chất kích thích khác làm cho người khác lầm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình mà gây thiệt hại là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên đối với mọi trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định cụ thể tại BLDS, việc phân định lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý ảnh hưởng đến mức bồi thường được quy định tại khoản 2 Điều 605, trong đó coi yếu tố lỗi vô ý là căn cứ giảm mức bồi thường khi người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắc và lâu dài của mình. Như vậy, trừ trường hợp quy định tại Điều 615, việc phân biệt lỗi cố ý và lỗi vô ý không có ý nghĩa trong việc xác định hoặc loại trừ trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại.
THỰC TẾ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ NHẬN XÉT.
Một số vụ việc thực tế áp dụng quy định của pháp luật về việc xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Vụ việc thứ nhất
Vào 15 giờ ngày 29/5/1997, Nguyễn Tiến, Nguyễn Lộc, Nguyễn Phước, Đỗ Thành cùng nhau uống rượu tại nhà Lộc ở Phường 10 Đà Lạt, sau khi uống rượu xong vào khoảng 17 giờ cùng ngày, cả bọn cùng nhau đến quán Karaoke để hát. Lúc này còn nhiều người chờ hát nên Tiến, Lộc, Phước, Thành vào ngồi chờ. Khi người hát trước vừa ngừng thì Bùi Trọng, người vào quán trước cầm Micrô lên để hát, Lộc thấy thế cũng giành lấy micrô; hai người cãi nhau và Lộc đã đánh Trọng. Tiến, Phước, Thành thấy vậy kéo nhau tham gia ẩu đả đánh Trọng. Bà con xung quanh chạy vào can và giải tán đám ẩu đả. Về nhà, do bực mình nên Trọng tiếp tục quay lại quán, tới nơi, Trọng túm cổ áo Tiến kéo lên hỏi: “Hồi nãy mày đánh tao phải không?” rồi hai bên lời qua tiếng lại gây ồn ào mất trật tự. Thấy vậy Đặng Tùng và Phạm Anh đang ngồi uống nước chờ hát liền đứng dậy, Tùng đi tới lên tiếng hỏi: “Tụi bay uống rượu rồi la hét quậy phá phải không?”. Tiến và Tùng đôi co và hai bên cãi nhau, Tùng tức giận cầm 01 vỏ chai 0,5 lít đập vào đầu Tiến, chai vỡ Tiến bị thương chảy máu đầu. Thấy Tiến bị đánh, Phước, Thành xô lại định đánh Tùng, Phạm Anh liền nhặt một chiếc đĩa nhỏ ở trên bàn ném về phía bọn Phước nhưng lại trúng đầu Tiến.
Sau đó Phạm Anh và Đặng Tùng về trụ sở Công ty ở 44 Hùng Vương, Phường 9, Đà Lạt. Còn Phước, Thành đưa Tiến về nhà em Tiến. Lúc này ở trong nhà có Ngụy Tuấn và Nguyễn Tới, thấy Tiến bị đánh, thì Tuấn nói phải trả thù ngay và vào nhà bếp lấy 01 con dao có chiều dài 40 cm, rộng 6cm cán gỗ và cầm theo 01 cây gỗ. Cả bọn Tuấn, Thành, Phước, Tới kéo nhau tới Công ty Hùng Vương để tìm đánh Tùng và Phạm Anh. Khi tới nơi thấy Phạm Anh đang xem ti-vi ở trong phòng, Tuấn, Phước, Thành nhảy vào đánh Phạm Anh, Tuấn dùng dao mang theo chém nhiều nhát vào đầu và người Phạm Anh, Phạm Anh không chống đỡ nổi bị ngất xỉu tại chỗ. Còn Tùng cháy tới phòng bảo vệ lấy súng ra bắn 03 phát chỉ tiên với mục đích giải tán đám người gây rối, nghe thấy tiếng súng nổ, Tuấn, Thành, Tới, Phước bỏ chạy ra cổng Công ty, lấy gạch đá ném vào Công ty và hăm dọa, một lúc sau mới bỏ về.
Hậu quả của vụ án được xác định như sau: biên bản giám định pháp y số 80/GĐPY-TT ngày 03/10/1997 kết luận Phạm Anh bị thương với tỷ lệ thương tật là 7,86%. Đặng Tùng đánh Tiến bị thương, theo biên bảo giảm định pháp y thương tật số 95/GĐPY-TT kết luận Nguyễn Tiến tỉ lệ thương tích là 6%.
Căn cứ vào Điều 604 và Điều 609 BLDS nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tòa án đã quyết định giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: buộc các bị cáo Ngụy Tuấn, Nguyễn Tới, Nguyễn Phước, Đỗ Thành phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho Phạm Anh. Trong đó, căn cứ vào mức độ lỗi của từng người mà tóa án quy định cụ thể: Ngụy Tuấn phải bồi thường số tiền là 700.000đ; Nguyễn Tới phải bồi thường 440.000đ; Nguyễn Phước phải bồi thường 440.000đ; Đỗ Thành phải bồi thường 420.000đ. Ngoài ra, Tòa án cũng yêu cầu Đặng Tùng phải bồi thường cho Nguyễn Tiến số tiền là 680.000đ.
Từ những tình tiết của vụ án, có thể nhận thấy hành vi đánh Phạm Anh của Tuấn, Phước, Thành, Tới và hành vi đánh Tiến bị thương của Tùng là những hành vi gây thiệt hại hoàn toàn với lỗi cố ý của những người này. Tức là những người này nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác nhưng do thù hận cá nhân mà vẫn thực hiện thực hiện hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Vì vậy xác định trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại của Tuấn, Phước, Thành, Tới là hoàn toàn hợp lý; việc tòa án phân chia từng phần nghĩa vụ mà mỗi người này phải thực hiện không làm mất đi bản chất liên đới giữa những người này.
Tuy nhiên, qua vụ án trên ta cũng nhận thấy việc xác định lỗi để xác định mức bồi thường cho từng bị cáo là rất phức tạp. Việc xác định mức bồi thường về dân sự như bản án đã tuyên chỉ là suy đoán về lỗi để xác định mức bồi thường mà chưa có những căn cứ và cơ sở pháp lý chặt chẽ để xác định mức bồi thường. Ta thấy tại sao Phước, Thành, Tới đều dùng tay, chân để đánh Phạm Anh, cùng tham gia từ đầu đến cuối, cùng gây ra thương tích cho Phạm Anh nhưng mức bồi thường xác định cho mỗi bị cáo lại khác nhau? Đây là một câu hỏi cần được giải đáp và cần những văn bản dưới luật hướng dẫn đường lỗi xét xử một cách chặt chẽ hơn.
Vụ việc thứ hai
Nguyễn Văn H 31 tuổi là chủ chiếc xe môtô Dream II mang biển kiểm soát 29T 3435. Hoàng văn M 30 tuổi là bạn của của H làm việc tại cơ quan gần nhà H. Ngày chủ nhật M được cơ quan cho nghỉ để về thăm nhà nên anh đã rủ H về nhà mình chơi. H đồng ý dùng xe của mình để chở M về nhà. Ngay từ đầu M đã đề nghị với H là để mình lái xe (Lưu ý: H có giấy phép lái xe còn M thì không và H cũng không biết việc M có hay không giấy phép lái xe), H đồng ý để M điều khiển xe còn mình ngồi phía sau. Ngày 25/1/2009 trên đường đi về nhà vì trời tối, đường trơn và M lại đi quá tốc độ cho phép nên khi gặp người đi xe đạp là chị Nguyễn thị N 29 tuổi đang sang đường đúng theo quy định, M đã không làm chủ được tay lái nên đã đâm vào chị N. Hậu quả làm cho chị N bị thương nặng và phải nằm điều trị tại bệnh viện 2 tháng. (Chị N có một con nhỏ 7 tuổi, chồng chết cách đây 2 năm, hai mẹ con đang sống ở nhà cùng với bố mẹ đẻ).
Trong tình huống nêu trên, việc Hoàng Văn M bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (theo Điều 202 BLHS 1999) là một điều không phải bàn cãi. Tuy nhiên, khi xác định đến trách nhiệm BTTH trong tình huống này có những quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng Hoàng văn M chỉ là người điều khiển phương tiện, M không được giao quyền chiếm hữu, sử dụng vì H không giao xe cho M một cách độc lập (H ngồi sau tay lái của M). H không bị thoát ly khỏi sự quản lý phuơng tiện vì thế M không thể tùy tiện sử dụng phương tiện vào các mục đích khác nếu không được sự đồng ý của H. Chính vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”, chủ phương tiện là Nguyễn Văn H phải có trách nhiệm BTTH. Như vậy, quan điểm này loại bỏ yếu tố lỗi ở hành vi của Hoàng Văn M và cho rằng Nguyễn Văn H là người duy nhất có lỗi nên phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Quan điểm thứ hai lập luận rằng: Mặc dù không được giao chiếm hữu, sử dụng một cách độc lập nhưng trên thực tế M đã sử dụng tức là đã khai thác lợi ích của phương tiện để phục vụ vào lợi ích của mình là về thăm nhà và quay lại cơ quan bằng phương tiện đó. Vì vậy, khi gây tai nạn M là người điều khiển, vừa là người sử dụng phương tiện, căn cứ vào khoản 2 Điều 623 BLDS 2005, M là người phải chịu BTTH trong tình huống này.
Có thể nói, cách giải quyết của cả 2 quan điểm trên đều có những điểm bất hợp lý vì những lý do sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng M không được giao quyền chiếm hữu, sử dụng là không chính xác, vì thực tế H đã giao xe cho M điều khiển còn mình ngồi phía sau.Cơ sở để chứng minh một người có sử dụng phương tiện giao thông hay không là xem người đó có trực tiếp điều khiển phương tiện hay không, khi đã trực tiếp điều khiển phương tiện thì việc sử dụng phương tiện đó vào mục đích gì là toàn quyền của người điều khiển, kể cả trong trường hợp này H có ngồi sau hay không thì cũng không có ý nghĩa tác động tới việc sử dụng phương tiện của M với mục đích gì cả. Giả dụ trên đường đi bất thần M gặp một người mà mình có mối thù từ trước, nhân cơ hội đường vắng, trời tối, M đã sử dụng xe của H điều khiển để nó đâm vào người kia gây thiệt hại cho họ, thì thử hỏi hành vi của M, H ngồi sau có điều khiển được không, nếu hành vi này H hoàn toàn không đồng ý. Chính vì vậy mà quan điểm này cho rằng, căn cứ vào khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 buộc chủ của phương tiện phải có trách nhiệm BTTH là không sát thực tế.
Quan điểm thứ hai đối lập với quan điểm thứ nhất cho rằng M chứ không phải H là người phải BTTH trong tình huống này. Quan điểm này cũng đã đưa ra được các căn cứ chứng minh người sử dụng phương tiện gây tai nạn là M đã được H giao xe cho điều khiển. Xong không vì thế mà chúng ta loại trừ trách nhiệm BTTH của H trong tình huống này. H cũng đã có lỗi trong việc giao phương tiện cho người không có đủ điều kiện điều khiển xe. M không có giấy phép lái xe nhưng H vẫn giao xe cho M điều khiển. Theo quy định của Luật Giao Thông Đường Bộ thì người điều khiển xe từ trên 50cc trở lên phải có giấy phép lái xe (xe Dream II có dung tích tối đa là 160cc). Trên thực tế H phải biết rõ quy định này vì H cũng đã phải thi lấy bằng lái xe, vậy mà khi giao tay lái cho M thì H đã không quan tâm đến điều này. Ngoài ra, tính chất có lỗi của H còn được thể hiện tại Điều 205 BLHS 1999 về “Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ”. Như vậy, trong tình huống trên cân phải xác định cả Nguyễn Văn H và Hoàng Văn M đều có lỗi đối với thiệt hại đã gây ra, căn cứ vào Điều 604, Điều 616, Điều 623 BLDS 2005 thì H và M phải liên đới bồi thường thiệt hại cho chị N.
Vụ việc thứ ba
Chiều 11-7, ông Bùi Viết Khảm, 63 tuổi (ngụ quận Tân Bình, TP.HCM), đến Viện Y dược học dân tộc TP.HCM để khám bệnh. Sau đó, từ lầu ba ông Khảm đi thang máy xuống lầu một của viện để nhận thuốc. Khi cửa thang máy ở lầu ba vừa mở, ông Khảm bước vào và… rơi thẳng xuống nóc ca-bin thang máy đang nằm ở tầng trệt! Lập tức, ông được đưa đến Bệnh viện Chợ Rẫy cấp cứu trong tình trạng vỡ xương chậu, gãy hai ngón tay ở bàn tay phải. Sau đó, ông Khảm phải lần lượt điều trị bệnh ở hai bệnh viện Thống Nhất và Chấn thương chỉnh hình.
Sau sự cố này, ông Khảm đã gửi đơn yêu cầu Viện Y dược học dân tộc TP.HCM phải bồi thường các thiệt hại phát sinh liên quan đến sức khỏe của mình. Theo ông Khảm, thang máy trên thuộc loại bán tự động, dễ gây tai nạn cho người sử dụng nhưng Viện Y dược học dân tộc đã không có sự cảnh báo cần thiết (như dán bảng nội quy ngay tại cửa thang máy…). Ngoài tầng trệt có người ngồi trực, các tầng còn lại trống trơn, ai muốn đi sao cũng được.
Ngày 12-8, trong cuộc họp hòa giải tại Công an phường 10, quận Phú Nhuận, phía ông Khảm đòi viện bồi thường 70 triệu đồng. Thế nhưng phía viện chỉ đồng ý hỗ trợ và thanh toán cho ông Khảm những chi phí điều trị ngoài chế độ bảo hiểm y tế.
Ngày 17-10, tại buổi hòa giải lần hai ở Công an quận Phú Nhuận, phía ông Khảm đã nâng mức bồi thường lên hơn 100 triệu đồng, bao gồm các khoản mất thu nhập, thuê người chăm sóc, tinh thần giảm sút… Lần này, phía viện tiếp tục giữ y cách hỗ trợ đã nêu ở trên. Ông Hà Văn Hùng, Viện phó Viện Y dược học dân tộc TP.HCM đưa ra lý do đó là: “Viện không thể đáp ứng những yêu cầu trên của gia đình ông Khảm vì tai nạn xảy ra ngoài mong muốn của đôi bên”. Do không thương lượng được nên phía ông Khảm đang chuẩn bị nộp đơn khởi kiện Viện Y dược học dân tộc TP.HCM.
Trong trường hợp trên, lý do mà Viện Y dược học dân tộc TP.HCM đưa ra đó là “tai nạn nằm ngoài mong muốn của đôi bên” để từ đó không chấp nhận bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe cho ông Khảm là không hợp lý. Bởi lẽ, căn cứ vào Điều 627 BLDS: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.” , như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ được loại trừ trong trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Trong trường hợp này, phía Viện Y dược học dân tộc TP.HCM hoàn toàn có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đến sức khỏe cho ông Khảm. Lỗi ở đây được suy đoán là lỗi vô ý do Viện Y dược học trong quá trình chiếm hữu, sử dụng quản lý thang máy dù biết thang máy có thể gây ra nguy hiểm cho người sử dụng nhưng đã không có những biện pháp đảm bảo an toàn cần thiết như dán bảng nội quy ngay tại cửa thang máy, cử nhân viên trực ở các cửa thang máy… vì cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra. Thiệt hại về sức khỏe đối với ông Khảm là hậu quả tất yếu do hành vi không áp dụng các biện pháp an toàn cần thiết trong việc quản lý thang máy. Do vậy, đã có đẩy đủ điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Căn cứ vào Điều 604, Điều 609 và Điều 627 BLDS thì Viện Y dược học dân tộc TP.HCM phải bồi thường cho ông Khảm toàn bộ thiệt hại.
Nhận xét về những quy định hiện hành của pháp luật về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thứ nhất, theo nguyên tắc chung thì lỗi là điều kiện cần thiết để áp dụng trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Chính vì vậy mà quy phạm về trách nhiệm do có lỗi được đưa vào Bộ Luật dân sự. Khoản 1 Điều 309 Bộ Luật dân sự (BLDS) quy định rằng, người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Mặc dù pháp luật dân sự coi lỗi là điều kiện tiên quyết để áp dụng trách nhiệm dân sự nhưng lại không đưa ra định nghĩa rõ ràng về lỗi. Điều này đã gây ra một số bất cập trong việc xác định trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Ngoài ra, trong khoa học pháp luật Dân sự hiện nay, còn tồn tại những quan điểm trái chiều nhất định trong việc định nghĩa lỗi. Vì vậy, có thể thấy rằng cần thiết phải có một định nghĩa chung, thống nhất và đúng đắn về lỗi trong các quy định của pháp luật Dân sự.
Thứ hai, ở Điều 630 BLDS về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng quy định như sau: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”. Tức là điều khoản này không quy định lỗi của người tiêu dùng là căn cứ để miễn trừ trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh, điều này là hơp lý. Tuy nhiên, để phù hợp với xu hướng điều chỉnh các quy định pháp luật dân sự nước ta là tăng cường bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong điều kiện phát triển mạnh mẽ về kinh tế hàng hóa, nâng cao trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh bằng cách coi việc đưa ra thị trường tiêu dùng các hàng hóa kém phẩm chất, gây thiệt hại cho người tiêu dùng là hành vi vi phạm pháp luật, là căn cứ để ràng buộc trách nhiệm bồi thương thiệt hại đối với họ. Do vậy, nên chăng Điều 630 BLDS cũng cần được xây dựng tương tự Điều 624 ở việc xác định: khi có thiệt hại xảy ra do hàng hóa không đảm bảo chất lượng, người sản xuất kinh doanh phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong mọi trường hợp, kể cả trường hợp người này không có lỗi.
KẾT LUẬN
Bàn về lỗi - một điều kiện xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là cần thiết. Vì đối với ngành tòa án khi giải quyết những tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, cần thiết phải hiểu rõ cơ sở lý luận về lỗi để áp dụng chuẩn xác các quy phạm pháp luật về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, qua đó đưa ra những nhận định và quyết định chuẩn xác, đúng pháp luật. Cũng qua việc nhận thức về lỗi, nhằm giúp các luật sự tư vấn và luật sư tranh tụng hiểu đúng và toàn diện về bản chất của yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, để bảo vệ tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009.
Bộ luật dân sự năm 2005.
TS.Phùng Trung Tập, “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí tòa án, sô 10/2004.
TS. Phùng Trung Tập, “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng”, Nxb. Hà Nội, 2009.
Ths. Phạm Kim Anh, “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự” (nguồn:
Website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn hk luật dân sự- Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.doc