Mặt nạ tác giả: Mặt nạ tác giả (author`s mask) là thuật ngữ được nhà phê bình
C.Malmgrem đề xuất, nhằm chỉ một nghĩa tương đương với thuật ngữ “hình tượng
tác giả” trong mỹ học truyền thống. Thứ nhất, mặt nạ tác giả đóng vai trò trung tâm
chỉ đạo cho những phương thức trần thuật đặc thù của văn chương hậu hiện đại: hỗn
độn, diễn ngôn đứt đoạn về một thế giới như là bị xé vụn, bị lạ hóa”; biến các chất
liệu “tạp nhạp” đó thành một chỉnh thể; là nguyên tắc tạo cấu trúc quan trọng trong
nghệ thuật kể chuyện của chủ nghĩa hậu hiện đại [67, tr. 405]. Thứ hai, mặt nạ tác
giả đóng vai trò một “kẻ bịp bợm” (trickster), liên tục nhạo báng vào những niềm
tin “ngây thơ”, lối tư duy văn học và thực tiễn sống theo khuôn mẫu của độc giả,
những kẻ mà thị hiếu thẩm mỹ đã bị các phương tiện truyền thông đại chúng làm
méo mó [67, tr.406]. Thứ ba, mặt nạ tác giả giữ chức năng đảm bảo về mặt giao tiếp
văn học, đảm bảo cho tác phẩm không bị “phá sản về mặt giao tiếp” trong bối cảnh
mà người đọc rất khó nắm bắt được văn bản, bởi “tính đứt đoạn của diễn ngôn và
tính hỗn loạn có chủ ý của cách bố cục tiểu thuyết hậu hiện đại” [67, tr.408]; nó là
một “vật ngụy tạo” cho chính hình tượng tác giả, một khi “tác giả đã chết”.
182 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 2298 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thẩm mỹ, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập
72A, 3, tr. 55-62.
3. Nguyễn Hồng Dũng (2013), Triết học ngôn ngữ trong nghiên cứu văn học hậu
hiện đại, Ngữ học toàn quốc 2013 – Diễn đàn học tập và nghiên cứu, Hội Ngôn ngữ
học Việt Nam xuất bản, tr. 645-652.
4. Nguyễn Hồng Dũng (2014), Quá trình tiếp nhận các công trình nghiên cứu chủ
nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 2, 2, tr. 15-26.
5. Nguyễn Hồng Dũng (2016), Tâm thức hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam
1986 – 2010, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 3, tr.65-73.
Đề tài:
1. Nguyễn Hồng Dũng (chủ trì) (2008), Lịch sử tiếp nhận văn học Mỹ ở Việt Nam,
Đề tài NCKH cấp Bộ, mã số B2006-DHH01-10.
2. Nguyễn Hồng Dũng (chủ trì) (Phan Tuấn Anh nghiên cứu chính) (2012), Chủ
nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng của nó đối với văn học Việt Nam, Đề tài NCKH
cấp Đại học Huế.
3. Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng (chủ biên) (2013), Văn học hậu
hiện đại – Diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn học.
4. Hồ Thế Hà (chủ trì) (Nguyễn Hồng Dũng nghiên cứu chính), (2014), Tiếp nhận
Phân tâm học ở Việt Nam, Đề tài do Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc
gia Nafosted tài trợ.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu văn bản
1. Alberes R.M. (2003), Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỷ 20, Nxb
Lao động, Hà Nội.
2. Appignanesi R. (2006), Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
3. Phan Tuấn Anh (2013), Ngôn ngữ nhị phân – đặc điểm kiến tạo văn hóa nghệ
thuật hậu hiện đại, (trong sách Ngữ học toàn quốc 2013 – Diễn đàn học tập và
nghiên cứu), Hà Nội.
4. Tạ Duy Anh (2004), Đối thoại văn chương (trong sách Thiên thần sám hối), Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
5. Thái Phan Vàng Anh (2010), “Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 2, tr.96-108.
6. Thái Phan Vàng Anh (2014), Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam
đầu thế kỷ XXI (trong sách Văn học hậu hiện đại – Diễn giải và tiếp nhận), Nxb
Văn học, Hà Nội.
7. Đào Tuấn Ảnh (2005), “Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện
đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 8, tr.43-59.
8. Đào Tuấn Ảnh (2007), “Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam
qua so sánh với văn xuôi Nga”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 12, tr.39-57.
9. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn
đề lý thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
10. Lại Nguyên Ân (1986), “Khi quyền kể chuyện được trao cho nhân vật”, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, 5.
11. Baker S. (2008), “Tiểu thuyết chính trị hậu hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn
học, 5, tr.101-125.
12. Bakhtin M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),
Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
13. Barthes R. (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
14. Barthes R. (2008), Những huyền thoại, Nxb Tri thức, Hà Nội.
153
15. Baird F.E. (2006), Tuyển tập danh tác triết học từ Plato đến Derrida, Nxb Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
16. Lê Huy Bắc (tuyển chọn) (2003), Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
17. Lê Huy Bắc (2004), Phê bình – Lý luận văn học Anh Mỹ (2 tập), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
18. Lê Huy Bắc (2012), Văn học hậu hiện đại – Lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại
học Sư pham Hà Nội.
19. Lê Huy Bắc (chủ biên) (2013), Phê bình văn học hậu hiện đại ở Việt Nam, Nxb
Tri thức, Hà Nội.
20. Beaud Michel (2002), Lịch sử chủ nghĩa tư bản, Nxb Thế giới, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Bình (2005), “Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam
gần đây”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 11, tr.60-66.
22. Nguyễn Thị Bình (2013), Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: lối viết hậu
hiện đại (trong sách Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam), Nxb Tri thức, Hà
Nội.
23. Nguyễn Minh Châu (5/12/1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh họa”, Báo Văn nghệ, 49, tr.2.
24. Diễm Cơ (2004), “Hậu hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 8, tr.89-108, 9,
tr.75-84.
25. Compagnon A. (2006), Bản mệnh của lý thuyết văn chương, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội.
26. Phạm Phương Chi (2005), “Chủ nghĩa hậu hiện đại ở Ấn Độ”, Tạp chí Nghiên
cứu Văn học, số 8.
27. Nguyễn Văn Dân (2003), Chủ nghĩa hậu hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo
khái niệm (trong sách Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết), Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Dân (2012), “Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện đại đến văn học nghệ
thuật trên thế giới và Việt Nam”, Tạp chí Văn học nước ngoài, 8.
29. Diamond Jared (2007), Sụp đổ, Nxb Tri thức, Hà Nội.
30. Diamond Jared (2007), Súng, vi trùng và thép – định mệnh của các xã hội loài
người, Nxb Tri thức, Hà Nội.
154
31. Dru Jean Marie (2009), Phá vỡ giới hạn để kiến tạo trật tự, Nxb Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh.
32. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
33. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
34. Trương Đăng Dung (2006), “Những khả năng và giới hạn của văn học Việt
Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Văn
học, 6.
35. Trương Đăng Dung (2011), “Khoa học văn học hiện đại, hậu hiện đại”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, 8, tr.12-25.
36. Trương Đăng Dung (2012), “Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 1, tr. 3-14.
37. Nguyễn Tiến Dũng (2005), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Tổng hợp Tp.
Hồ Chí Minh.
38. Đoàn Ánh Dương (2010), “Tự sự hậu thực dân: lịch sử và huyền thoại trong
Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 9,
tr.107-119.
39. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây hiện đại,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
40. Trần Thiện Đạo (2008), Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
41. Lưu Phóng Đồng (1994), Triết học Phương Tây hiện đại (4 tập), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Đăng Điệp (2009), Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc (trong sách
Cõi người rung chuông tận thế), Nxb Lao động, Hà Nội.
43. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Phan Quang Định (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ 20, Nxb Văn học,
Hà Nội.
45. Eco U. (2004), Đi tìm sự thật biết cười, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
46. Earl E.Fitz (2007), “Sáu khuôn mặt của chủ nghĩa hiện đại trong các nền văn
học châu Mỹ”, Tạp chí Văn học nước ngoài, 3.
155
47. Freeland Cynthia (2009), Thế mà là nghệ thuật ư?, Nxb Tri thức, Hà Nội.
48. Friedman Thomas L. (2005), Chiếc Lexus và cây oliu, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
49. Friedman Thomas L. (2008), Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
50. Friedman Thomas L. (2009), Nóng, phẳng, chật, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
51. Greenspan Alan (2008), Kỷ nguyên hỗn loạn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
52. Văn Giá (1999), “Nhân vật văn học tìm tòi và sáng tạo”, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, 8.
53. Đoàn Lê Giang (2011), “Hồ Xuân Hương từ cái nhìn hậu hiện đại”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 6.
54. Hoàng Cẩm Giang (2010), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế
kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 4, tr.90-104.
55. Grillet A.R. (1997), Vì một nền tiểu thuyết mới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
56. Lê Bá Hán và (chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
57. Hồ Thế Hà (2014), Tiếp nhận cấu trúc văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.
58. Heidegger Martin (1973), Hữu thể và Thời gian (Trần Công Tiến dịch), Nxb
Quê hương, Sài Gòn.
59. Heidegger Martin (2004), Tác phẩm triết học (Trương Đăng Dung dịch), Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội.
60. Trần Ngọc Hiếu (2011), “Tiếp cận bản chất trò chơi của văn học (Những gợi
mở từ công trình Homo Ludens của Johan Huizinga)”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học,
11, tr.16-27.
61. Đỗ Đức Hiểu (1994), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
62. Trần Thái Học (chủ biên) (2014), Văn chương & tiếp nhận, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Honderich Ted (chủ biên) (2002), Hành trình cùng triết học (Lưu Văn Hy dịch),
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
64. Hungtington Samuel (2005), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao động,
Hà Nội.
65. Trần Quỳnh Hương (2007), “Dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học
đương đại Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 12, tr.79-92.
66. Inrasara (2008), Song thoại với cái mới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
156
67. Ilin I.P. và (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên
cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20 (Đào Tuấn Ảnh và dịch), Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
68. Jakovson Roman (2008), Thi học và ngữ học (Trần Duy Châu biên khảo), Nxb
Văn học, Hà Nội.
69. Konrat N. (1997), Phương Đông và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Nxb
Giáo dục, Hà nội.
70. Kuhn Thomas (2008), Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học (Chu Lan Đình
dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.
71. Kundera M. (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
72. Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Những lằn
ranh văn học, Nxb Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh.
73. Khoa Ngữ văn Đại học Khoa học Huế (2013), Văn học hậu hiện đại – Diễn giải
và tiếp nhận, Nxb Văn học, Hà Nội.
74. Khoa Văn học Đại học Sư phạm Hà Nội (2013), Văn học hậu hiện đại – Lý
thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
75. Cao Kim Lan (2007), “Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết
của hệ hình thi pháp hậu hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 12, tr.58-78.
76. Laermer Richard (2009), 2011 – Trào lưu trong thập kỷ tới, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
77. Lotman I.U.M. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương và
dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
78. Lockhart Greg (2001), Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra
tiếng Anh? (trong sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
79. Lucy N. (1999), “Lý thuyết văn chương hậu hiện đại”, Tạp chí Thơ (xuất bản tại
Mỹ), tr.190-210.
80. Phương Lựu (2007), “Chủ nghĩa lịch sử mới, một biến chuyển trong lòng chủ
nghĩa hậu hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 12, tr.3-11.
81. Phương Lựu (2008), Tư tưởng văn hoá văn nghệ của chủ nghĩa Mác ở phương
Tây, Nxb Thế giới, Hà Nội.
157
82. Phương Lựu (2008), “Những bậc tiên phong của tư duy hậu hiện đại”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, 5, tr.3-15.
83. Phương Lựu (chủ biên) (2008), Lý luận văn học (tập 3, Tiến trình văn học), Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội.
84. Phương Lựu (2011), Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm Hà
Nội.
85. Lyotard J.F. (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch), Nxb Tri thức,
Hà Nội.
86. Nguyễn Văn Long (2007), Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học
Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
87. Marcok William (1998), “Những giới hạn của phạm trù tác giả trong văn học
hậu hiện đại”, Tạp chí Văn học nước ngoài, 6.
88. Meletinsky E.M. (2004), Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn và dịch),
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
89. Morrissett Bruce (2005), Những tiểu thuyết của Robbe – Grillet, Nxb Đại học
Sư phạm Hà Nội.
90. Nguyễn Nam và (biên soạn) (1999), Văn hoá nghệ thuật thế kỷ 20, Nxb Văn
học, Hà Nội.
91. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại, văn học Việt Nam giao lưu và gặp
gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
92. Trần Thị Mai Nhân (2014), Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15
năm cuối thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Nguyên Ngọc (1991), “Văn xuôi sau 1975 thử thăm dò đôi nét về quy luật phát
triển”, Tạp chí Văn học, 4, tr.9-13.
94. Lã Nguyên (2007), “Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học
Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài”, Tạp chí Nghiên
cứu Văn học, 12, tr.11-38.
95. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
96. Petrescu L. (2013), Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại (Lê Nguyên Cẩn dịch),
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
158
97. Huỳnh Như Phương (2007), Trường phái Hình thức Nga, Nxb Đại học Quốc
gia Tp.Hồ Chí Minh.
98. Nguyễn Bình Phương (2005), “Tôi không xây dựng một nhân vật điển hình”,
Báo Thể thao và Văn hóa, 4, tr. 33.
99. Trần Thị Phương Phương (2015), “Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Nga”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 4, tr.126-138.
100. Nguyễn Hưng Quốc (2007), Mấy vấn đề phê bình và lý thuyết văn học, Nxb
Văn mới, USA.
101. Nguyễn Hưng Quốc (2010), Văn học Việt Nam thời toàn cầu hóa, Nxb Văn
mới, USA.
102. Rjanskaya L.P. (2007), “Liên văn bản – sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử
và lý thuyết vấn đề”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 11, tr.195.
103. Said E.W. (2014), Đông phương luận (Lưu Đoàn Huynh và dịch), Nxb Tri
thức, Hà Nội.
104. Saussure F. de (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
105. Sarter J.P. (1999), Văn học là gì? Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
106. Trần Huyền Sâm (2008), Kiểu tự sự đánh tráo chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết
hậu hiện đại (trong sách Tự sự học, phần 2), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
107. Tuệ Sỹ (1969), “Cơ cấu ngôn ngữ của Michel Foucault”, Tạp chí Tư tưởng, 6,
tr.93-118.
108. Phạm Văn Sỹ (1969), Về tư tưởng và văn học Phương Tây, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
109. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử
(tập 1), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
110. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử
(tập 2), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
111. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
112. Nguyễn Khắc Sính (2006), Phong cách thời đại nhìn từ một thể loại,
Nxb Văn học, Hà Nội.
113. Strauss L. (2009), Nhiệt đới buồn (Ngô Bình Lâm dịch), Nxb Tri thức, Hà
Nội.
159
114. Trần Quang Thái (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí
Minh.
115. Nguyễn Thành (2012), “Khuynh hướng lạ hoá trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại – Một số bình diện tiêu biểu”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 4, tr.5-9.
116. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
117. Phùng Gia Thế (2012), “Điều kiện hậu hiện đại của văn học Việt Nam”, Tạp
chí Nhà văn, 8.
118. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học – thế giới mở, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.
119. Lưu Khánh Thơ (2005), “Từ quan niệm về thơ đến lý thuyết về tiểu thuyết –
bước phát triển trên con đường hiện đại hóa văn học dân tộc”, Tạp chí Nghiên cứu
Văn học, 4, tr.71-80.
120. Bích Thu (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 11.
121. Lý Hoài Thu (2004), “Sự vận động của các thể văn xuôi trong văn học Việt
Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Sông Hương, 8.
122. Lý Hoài Thu – Hoàng Cẩm Giang (2011), “Một cách nhìn về tiểu thuyết “hậu
hiện đại” ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 6, tr.74.
120. Lộc Phương Thủy (2005), “Tác động của văn học nước ngoài đối với lý luận
văn học Việt nam”, Tạp chí Văn học nước ngoài, 3.
123. Lộc Phương Thủy (biên soạn) (2008), Lý luận – phê bình văn học thế giới thế
kỷ XX (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
124. Lộc Phương Thủy (biên soạn) (2008), Lý luận – phê bình văn học thế giới thế
kỷ XX (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
125. Đỗ Lai Thúy (biên soạn) (2006), Theo vết chân những người khổng lồ, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
126. Đỗ Lai Thúy (2007), “Phê bình văn học từ mắt nhìn hậu hiện đại”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, tr.24.
127. Đỗ Lai Thúy (2011), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy (Tư tưởng phê
bình văn học Việt Nam, một cái nhìn lịch sử), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
128. Phạm Công Thiện (1969), “Sự thất bại của cơ cấu luận – Phê bình Levi –
Strauss và Jacques Derrida”, Tạp chí Tư tưởng, 6, tr.81- 92.
129. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Giăng lưới bắt chim, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
160
130. Phan Trọng Thưởng (2013), Thẩm định các giá trị văn học, Nxb Văn học, Hà
Nội.
131. Todorov Tz. (2004), Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
132. Toffler Alvin (2007), Đợt sóng thứ ba, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
133. Phùng Văn Tửu (2001), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ 21, Nxb Tp. Hồ Chí
Minh.
134. Bùi Thanh Truyền (2008), “Sự đổi mới của truyện có yếu tố kỳ ảo sau 1986
qua hệ thống ngôn từ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 12, tr.49-57.
135. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2014), Quá trình tiếp nhận, nghiên cứu vấn đề phái
tính và nữ quyền trong văn học Việt Nam (trong sách Văn chương & tiếp nhận),
Nxb Văn học, Hà Nội.
136. Wellek R. và Warren A. (2009), Lý luận văn học (Nguyễn Mạnh Cường dịch),
Nxb Văn học, Hà Nội.
Tài liệu mạng
137. Ali, Atteqa, Chủ nghĩa hậu hiện đại: Những sự phát triển gần đây trong mỹ
thuật ở Pakistan và Bangladesh,
138. Nhật Chiêu, Thiền và Hậu hiện đại
139. Cuộc nổi dậy chống phụ huynh,
140. Lê Chí Dũng, Phải chăng “chẳng bao lâu nữa lối viết hậu hiện đại sẽ trở nên
phổ biến ở Việt Nam”?
141. Nguyễn Hoàng Đức, Hậu hiện đại sống ngoài tác phẩm,
142. Văn Giá, Tùy bút nhỏ về hậu hiện đại,
143. Hoàng Ngọc Hiến, Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại & chủ
nghĩa hậu hiện đại,
144. Lê Quốc Hiếu, Từ kết cấu đến cảm thức thân phận lạc loài trong Kín,
161
145. Inrasara, Giải minh về hậu hiện đại,
146. Inrasara, Giải minh hậu hiện đại 2,
147.Inrasara, Hậu hiện đại & thơ hậu hiện đại Việt: Một phác họa,
148. Inrasara, Nhập lưu hậu hiện đại kì 2,
149. Inrasara, Nhập lưu hậu hiện đại kì 7,
150. Thuỵ Khuê, Hậu hiện đại,
151. Đông La, Chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng ở nước ta,
152. Vũ Lâm, Nói chuyện "hậu hiện đại" và "toàn cầu hóa" ,
153. Trịnh Lữ, Góp chuyện hậu hiện đại,
154. Mc Master, Gerald, Hậu hiện đại / Hậu thuộc địa / Toàn cầu hoá [và mỹ thuật
thổ dân Canada],
155. Quán Như, Phật giáo dưới góc độ hiện đại và hậu hiện đại,
156. Nguyễn Hưng Quốc, Các lí thuyết phê bình văn học (11): Chủ nghĩa hậu hiện
đại ,
157. Nguyễn Hưng Quốc, Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam,
158. Nguyễn Hưng Quốc, Chủ nghĩa hậu hiện đại - Những mảnh nghĩ rời,
159. Nguyễn Hưng Quốc, Chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa tiền vệ,
162
160. Nguyễn Hưng Quốc, Toàn cầu hoá và văn học Việt Nam,
161. Nguyễn Hưng Quốc, Chủ nghĩa hậu hiện đại và những cái (cần) chết trong
văn học Việt Nam,
162. Phạm Xuân Thạch, Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu?: Suy nghĩ từ những tiểu
thuyết mang chủ đề lịch sử,
163. Thích Thanh Thắng, Đằng sau hậu hiện đại,
164. Bùi Công Thuấn, Phải chăng nỗi sợ hãi hậu hiện đại là có thật ?,
165. Phùng Gia Thế, Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học VN sau 1986,
166. Đoàn Cầm Thi, Sáng tạo văn học: Giữa mơ và điên (Đọc Thoạt kỳ thủy của
Nguyễn Bình Phương),
167. Đỗ Minh Tuấn, Chập chờn bóng ma hậu hiện đại,
168. Hoàng Ngọc Tuấn, Một quái trạng văn hóa,
169. Nguyễn Văn Tùng, Bàn về thuật ngữ văn học hậu hiện đại,
170. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam,
171. Ngân Xuyên, Một nhầm lẫn “hậu hiện đại”,
163
DANH MỤC TÁC PHẨM SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
172. Tạ Duy Anh (1990), Bước qua lời nguyền, Nxb Văn học, Hà Nội.
173. Tạ Duy Anh (1992), Lão Khổ, Nxb Văn học, Hà Nội.
173. Tạ Duy Anh (2002), Đi tìm nhân vật, Nxb Đà Nẵng.
174. Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
175. Tạ Duy Anh (2008), Giã biệt bóng tối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
176. Mạc Can (2004), Tấm ván phóng dao, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
177. Châu Diên (2004), Người sông Mê, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
178. Phong Điệp (2009), Blogger, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
179. Vũ Đình Giang (2007), Song song, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
180. Nguyễn Việt Hà (2000), Cơ hội của Chúa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
181. Nguyễn Việt Hà (2005), Khải huyền muộn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
182. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
183. Lê Anh Hoài (2007), Chuyện tình mùa tạp kỹ, Nxb Đà Nẵng.
184. Phạm Thị Hoài (1998), Thiên sứ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
185. Nguyễn Xuân Khánh (2002), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
186. Nguyễn Xuân Khánh (2005), Mẫu Thượng Ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
187. Nguyễn Xuân Khánh (2010), Đội gạo lên chùa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
188. Chu Lai (1994), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
189. Lê Lựu (1986), Thời xa vắng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
190. Bảo Ninh (1991), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
191. Nguyễn Bình Phương (1990), Người đi vắng, Nxb Văn học, Hà Nội.
192. Nguyễn Bình Phương (1999), Vào cõi, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
193. Nguyễn Bình Phương (2000), Trí nhớ suy tàn, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
194. Nguyễn Bình Phương (2002), Những đứa trẻ chết già, Nxb Văn học, Hà Nội.
195. Nguyễn Bình Phương (2004), Thoạt kỳ thủy, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
196. Nguyễn Bình Phương (2006), Ngồi, Nxb Đà Nẵng.
197. Đoàn Minh Phượng (2007), Và khi tro bụi, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
198. Đoàn Minh Phượng (2007), Mưa ở kiếp sau, Nxb Văn học, Hà Nội.
199. Bùi Anh Tấn (2008), Một thế giới không có đàn bà, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
200. Hồ Anh Thái (2004), Người đàn bà trên đảo, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
164
201. Hồ Anh Thái (2004), Trong sương hồng hiện ra, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
202. Hồ Anh Thái (2004), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng.
203. Hồ Anh Thái (2005), Người và xe chạy dưới ánh trăng, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
204. Hồ Anh Thái (2007), Mười lẻ một đêm, Nxb Đà Nẵng.
205. Hồ Anh Thái (2007), Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Nxb Đà Nẵng.
206. Hồ Anh Thái (2010), SBC là săn bắt chuột, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
207. Hồ Anh Thái (2012), Dấu về gió xóa, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
208. Nguyễn Huy Thiệp (1995), Như những ngọn gió (Tuyển tập truyện ngắn
và kịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
209. Thuận (2003), Made in Vietnam, Nxb Văn mới, California.
210. Thuận (2005), Chinatown, Nxb Đà Nẵng.
211. Thuận (2005), Pari 11 tháng 8, Nxb Đà Nẵng.
212. Thuận (2007), T mất tích, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
213. Thuận (2008), Vân Vy, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
214. Nguyễn Đình Tú (2002), Hồ sơ một tử tù, Nxb Văn học, Hà Nội.
215. Nguyễn Đình Tú (2007), Bên dòng Sầu Diện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
216. Nguyễn Đình Tú (2008), Nháp, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
217. Nguyễn Đình Tú (2010), Phiên bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
218. Nguyễn Đình Tú (2010), Kín, Nxb Văn học, Hà Nội.
219. Đỗ Minh Tuấn (2009), Thần thánh và bươm bướm, Nxb Văn học, Hà
Nội.
PHỤ LỤC
1. LỊCH SỬ TÊN GỌI “CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI”
Dựa theo tư liệu các bài viết của Mikhail Epstein: Hậu hiện đại ở Nga (Văn học
và lý luận ); Nguyễn Minh Quân: Chủ nghĩa hậu hiện đại: Những khái niệm căn bản;
Nguyễn Văn Dân: Chủ nghĩa hậu hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm;
Nguyễn Ước: Một hồ sơ về chủ nghĩa hậu hiện đại; Lê Huy Bắc: Văn học hậu hiện
đại – lý thuyết và tiếp nhận; Phạm Xuân Nguyên: Một nhầm lẫn “hậu hiện đại”, lịch
sử tên gọi hậu hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại có một lai lịch như sau:
Danh từ hậu hiện đại (postmodern) đã được dùng từ thế kỷ XIX. Nhà khoa học
và triết học Pháp, Antoine Augustin Cournot trong cuốn Chuyên luận về sự liên kết
những ý tưởng cơ bản trong khoa học và sử học (1861) đã đưa ra khái niệm “hậu
lịch sử” (post-histoire). Ở đây, ông nhắc đến giả thuyết của Hegel về sự hoàn tất
(hay kết thúc) lịch sử vào thời điểm hiện đại, để gián tiếp chỉ định những gì diễn ra
sau đó là hậu lịch sử.
Vào năm 1934, nhà phê bình văn học Tây Ban Nha, Federico de Onis đã dùng
danh từ “hậu hiện đại” (postmodern) trong công trình Hợp tuyển thơ ca Tây Ban
Nha và các nước châu Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha để chỉ định “sự vượt qua”
(dépassement) chủ nghĩa hiện đại (modernism) những năm 1905-1914. Sau đó, đến
năm 1942, nó được Dudley Fitts sử dụng trong công trình Hợp tuyển thơ ca Mỹ
Latinh đương đại; rồi đến Arnol Toynbee sử dụng trong công trình Nghiên cứu sử
học (1947). Đến năm 1959, nhà phê bình văn học Irving Howe, được coi là một
trong những người đầu tiên đưa ra một quan niệm lý thuyết về sự “chuyển tiếp” từ
chủ nghĩa hiện đại sang chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu luận Xã hội đại chúng và
tiểu thuyết hậu hiện đại. Ở Mỹ, vào những năm của thập niên 1960, danh từ hậu
hiện đại đã được dùng để chỉ những nhà văn sinh vào khoảng thập niên 1930 (thế hệ
sau E.Hemingway, W. Faulkner, E. Caldwell) chủ trương cách tân tiểu thuyết với
những đặc điểm: “châm biếm” và “tìm một ngôn ngữ văn chương mới”, như John
Bath, D. Barthlme, Robert Coover, William Gass, John Hawkes, Kurt Vonnegut
Vào năm 1979, Jean Francois Lyotard, một trong những người khai sinh ra lý
thuyết hậu hiện đại, trong công trình Hoàn cảnh hậu hiện đại (The Postmodern
Condition) đã đưa ra khái niệm “hậu hiện đại” và giới thuyết nội hàm của nó: “Đối
tượng của công trình nghiên cứu này là hoàn cảnh của tri thức trong các xã hội
phát triển cao nhất. Chúng tôi quyết định gọi hoàn cảnh đó là “hậu hiện đại”. Từ
này được dùng trên lục địa châu Mỹ, dưới ngòi bút của các nhà xã hội học và các
nhà phê bình. Nó chỉ trạng thái của văn hoá sau những biến đổi tác động đến quy
tắc trò chơi [các luật chơi] của khoa học, văn học và nghệ thuật từ cuối thế kỷ 19.
Ở đây chúng tôi sẽ định vị các biến đổi này bằng mối quan hệ của chúng với cuộc
khủng hoảng của các tự sự [truyện kể] (récits)” [85, tr.53]. Từ thời điểm này trở đi,
trên các châu lục, các thuật ngữ “hậu hiện đại”, “thời kỳ hậu hiện đại” và “chủ
nghĩa hậu hiện đại” bắt đầu được sử dụng phổ biến khắp các lĩnh vực của khoa học,
văn hóa nghệ thuật và đời sống xã hội.
Căn cứ từ bản tập hợp trên, chúng ta xét thấy:
1. Từ “hậu” (post) đã xuất hiện rất sớm trong nhận thức của các nhà khoa học,
các nghệ sĩ trước khi trào lưu hậu hiện đại được xuất hiện.
2. Có nhiều ý kiến cho rằng, từ “hậu” (trong hậu lịch sử, hậu kiến trúc, hậu thơ
ca) được dùng trước những năm 1960, chỉ là cách gọi cảm tính, chứ chưa nói
được bản chất hiện tượng. Nhưng không hoàn toàn như vậy. Trong tính chất tản
mạn ở cách dùng từ, đã thể hiện một sự nhạy cảm của các nhà khoa học, các nghệ sĩ
về thực tại. Ở đó, đã manh nha chứa đựng sự hình dung về một thực thể sẽ trở thành
hiện thực vào những năm sau 1960.
3. Lịch sử tên gọi “hậu hiện đại” không thuần túy để chỉ thời gian văn bản của
khái niệm hậu hiện đại, mà trong nó đã hàm chứa về một cuộc cách mạng – cách
mạng Tri thức, điều chưa hề diễn ra trong lịch sử nhân loại. Cuộc cách mạng Khoa
học kỹ thuật từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX thuần túy gắn với giai đoạn
công nghiệp hóa và tự động hóa trong kinh tế tư bản. Còn cuộc cách mạng Tri thức
được phát động bởi chủ nghĩa hậu hiện đại, nhằm “lật đổ” hệ thống tri thức hiện đại,
một hệ thống tri thức quyền lực gắn với thể chế đẳng cấp, chính sách ưu tiên, và đã
trở nên lỗi thời. Như vậy, nó khác với khái niệm tri thức được xây dựng từ thời Ánh
Sáng – tri thức để xây dựng quyền lực, còn đây là tri thức để lật đổ quyền lực, hay
nói đúng hơn là đặt định quyền lực đúng chỗ của nó. Thời gian của cuộc cách mạng
Tri thức mới nay vẫn đang còn ở phía trước.
2. NHỮNG KHÁI NIỆM TRIẾT – MỸ VÀ THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT CỦA
VĂN HỌC HẬU HIỆN ĐẠI
Thời kỳ hậu hiện đại, xét trong trường kỳ lịch sử nhân loại, thì mới đang định
hình và cũng không ai dám nói chắc là nó sẽ như thế nào, khi các “đại tự sự” lớn
tiếng soi đường chỉ lối đã bị hoài nghi và trở nên lỗi thời. Tương lai của con người
sẽ do con người tương lai quyết định. Chủ nghĩa hậu hiện đại phủ quyết tất cả
những lời nói dối tỏa sáng có tính chất răn dạy. Vì vậy, nó không có tham vọng đặt
định đường hướng cho lịch sử, mà chỉ đề xuất những tri nhận của các cá nhân trước
sự đối diện với lịch sử. Lê Huy Bắc viết: “Do đặc thù tiểu tự sự và phi trung tâm
của mình nên nền triết học hậu hiện đại không có tính quy tụ vào một tên tuổi duy
nhất như các thời hiện đại hay cổ điển trước đó (Karl Marx chẳng hạn). “Tính tản
mát” là đặc điểm dễ nhận thấy của nền triết học này Nhưng không phải mỗi
người lập một triết thuyết riêng mà mỗi người đề xuất một hoặc một vài khái
niệm có liên quan đến hậu hiện đại” [18, tr.36]. Dưới đây, chúng tôi tóm lược lại
các khái niệm chính về triết – mỹ và các thủ pháp nghệ thuật cơ bản của văn học
hậu hiện đại.
Những khái niệm triết-mỹ
Cảm quan hậu hiện đại: Cảm quan hậu hiện đại (postmodern sensibility) là
khái niệm do Lyotard đề xuất và được các nhà hậu cấu trúc (Fokkema, Hassan)
hưởng ứng, nhằm biểu đạt cho tâm thức (mentality) cảm nhận thế giới một cách đặc
thù. Cảm quan hậu hiện đại thay thế cho thế giới quan, một khái niệm không phù
hợp với tinh thần hậu hiện đại. Khái niệm này được áp dụng không chỉ trong văn
học nghệ thuật mà hầu khắp mọi ngành khoa học.
Cảm quan hậu hiện đại bao gồm hai cảm thức chính: Thứ nhất, xem tồn tại của
thế giới như một sự hỗn độn (chaos); “nơi không còn bất kỳ tiêu chuẩn giá trị và
định hướng ý nghĩa nào”, thế giới này ghi đậm dấu ấn của cơn “khủng hoảng niềm
tin” vào tất cả những giá trị đã từng tồn tại trước đó (Hassan) [9, tr.8]. Thứ hai, là
phương thức “tư duy thơ ca”, thể hiện qua “lối viết tiểu luận nhiều ẩn dụ”. Đây là
“lối viết” được áp dụng không chỉ cho các nhà phê bình, nghiên cứu văn học mà
còn cho nhiều nhà triết học và văn hóa học. Hiện tượng “tư duy thơ ca” cũng nằm
trong tinh thần phản đối các “đại tự sự”. Vấn đề này được gợi ý từ tư tưởng của
Heidegger (vào những năm cuối đời), khi ông nhìn thấy “các quan niệm triết – mỹ
có xuất xứ phương Đông” hữu ích cho tư duy hơn là “mô hình triết học hóa cổ điển
phương Tây”. Ông cho rằng, ngôn ngữ thi ca, nhờ chứa đựng một cách tập trung
“những liên tưởng ám chỉ” sẽ hỗ trợ việc “khôi phục lại cái ý nghĩa “đích thực” của
“ngôn từ khởi thuỷ”; nhà khoa học ngoài việc sử dụng các luận cứ logic, còn phải
sử dụng cách liên tưởng để khám phá ý nghĩa của các khái niệm. Về sau, các nhà
triết học Đức còn mở rộng quan điểm của Heidegger, nhấn mạnh đến “vai trò đặc
biệt của nghệ thuật như phương cách đáng tin cậy nhất để suy ngẫm, lý giải những
liên hệ mang tính bản thể và tâm lý giữa con người với thế giới đồ vật và thế giới tư
tưởng” [9, tr.10].
Đại tự sự/Tiểu tự sự: Đại tự sự (grand narrative), còn được gọi Siêu tự sự
(meta narrative) và Tiểu tự sự (petit narrative) là khái niệm then chốt của chủ nghĩa
hậu hiện đại, do Lyotard đề xuất trong công trình Hoàn cảnh hậu hiện đại (1979).
Đại tự sự hay siêu tự sự có ý nghĩa tương đồng, nhằm chỉ những chủ thuyết lớn, có
khả năng tự hợp pháp hóa chính nó, có tham vọng trở thành những hệ quy chiếu
toàn trị của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Theo Lyotard, đạo Cơ đốc, chủ
nghĩa duy lý thời Khai Sáng (trong đó có phép biện chứng tinh thần của Hegel) là
những đại tự sự, và thời hậu hiện đại không còn tin vào những cái đó. Thời hậu hiện
đại được xem như sự xói mòn niềm tin vào những học thuyết, những thứ “chính
thống hóa, thống nhất và toàn trị hóa” quan niệm về thời đại. Quan điểm của
Lyotard được các nhà hậu hiện đại tiếp nhận và vận dụng. T.D’haen dựa vào quan
điểm đại tự sự để vạch rõ đường biên của hai trào lưu hiện đại và hậu hiện đại, đó
là, “ở cấp độ hình thức, thay cho chủ nghĩa hiện đại mang chức năng đơn tuyến,
chủ nghĩa hậu hiện đại đã dùng đến tính gián đoạn và tính chiết trung”, và “chỉ có
tính đứt đoạn, tính chiết trung là có thực, còn bất kỳ sự luận chứng theo lý tính ở
các bình diện lịch sử, thần thoại, tâm lý học đều hiển nhiên là giả dối và ngụy tạo,
võ đoán và nói một cách ngắn gọn là dối trá” [9, tr.44]. Tiểu tự sự đối lập với đại tự
sự, được dùng để chỉ mọi “lập ngôn” có tính địa phương, cá nhân, nhỏ bé, rời rạc;
trở thành các diễn ngôn chính của thời hậu hiện đại, khi con người “ chấp nhận
sự hỗn độn của cuộc sống, chấp nhận sự tạm bợ, ngẫu nhiên và nhất thời, chấp
nhận những sự tự chủ, tự tại của con người trong những hoàn cảnh nào đó mà
không áp đặt bất cứ tư duy hay tập quán nào lên những cuộc sống cá nhân riêng
lẻ” [18, tr.39].
Liên văn bản: Liên văn bản (intertextuality) do R. Barthes, J.Kristeva đề xuất,
có vai trò lớn trong việc xác định thế giới quan hậu hiện đại. Kristeva xem thế giới
như một tổng thể văn hoá khổng lồ, cấu trúc dưới mô hình kính vạn hoa. Dưới cách
nhìn của một nhà hậu cấu trúc, Kristeva quan niệm mọi hiện tượng đời sống (xã hội,
khoa học, lịch sử) đều là những văn bản (text), các văn bản này luôn tồn tại trong
mối quan hệ chặt chẽ, phức tạp, tạo thành một liên văn bản. Bất cứ một liên văn bản
nào cũng là một hệ thống các văn bản thành viên, đến lượt nó, bất cứ một văn bản
thành viên nào cũng là một liên văn bản. Liên văn bản là thuật ngữ hòa tan tính chủ
thể tự chủ của con người trong tác phẩm, từ đó tạo điều kiện cho sự ra đời của độc
giả và dẫn đến “cái chết” của tác giả. Trong văn học, liên văn bản được hiểu là “ sự
tương tác giữa những dạng khác nhau của những diễn ngôn bên trong văn bản:
diễn ngôn của người trần thuật về diễn ngôn của các nhân vật; diễn ngôn của một
nhân vật này với một nhân vật khác” [9, tr.37].
Hiện thực thậm phồn: Hiện thực thậm phồn (hyperreality) là khái niệm được
Baudrillard đề xuất, nhằm phản đối và thay thế khái niệm “hiện thực” trong mỹ học
truyền thống. Theo lý thuyết hậu hiện đại, “tất cả những gì được coi là hiện thực,
trên thực tế không phải là gì khác hơn chính sự hình dung về nó, sự hình dung vốn
phụ thuộc vào người quan sát lựa chọn nhìn điểm nào và sự thay đổi điểm nhìn dẫn
tới sự thay đổi cơ bản chính sự hình dung ấy” [18, tr.40]. Các nhà hậu hiện đại, khi
dựa vào những thành tựu khoa học (chủ yếu được công bố vào nửa sau thế kỷ 20),
đã đưa ra quan niệm mới về hiện thực: “rằng hiện thực hậu hiện đại, hiện thực
chúng ta đương sống bị xâm hại bởi các phương tiện nghe nhìn, bởi sự tác động
không thể cưỡng của các chính sách hay mưu toan trục lợi hiện thực Mỗi khi một
giá trị đạo đức nào đó suy thoái thì cần phải được làm mới hay thay thế bằng một
kiểu đạo đức mới” [18, tr.40]. Do vậy, hiện thực thậm phồn tạo cho con người cách
làm quen với một cách hiểu mới về một hiện thực mới, đó là hiện thực “của bất cứ
điều gì con người có thể nghĩ hay tưởng tượng được”.
Bất tín nhận thức: Bất tín nhận thức (epistemological) do Foucault và Hassan
đề xuất, là khái niệm biểu trưng cho cảm quan hậu hiện đại, nhằm chỉ sự khủng
hoảng niềm tin vào các siêu giá trị đã tồn tại. Bất tín nhận thức còn nhằm chỉ tâm
thế từ bỏ các quyết định luận của khoa học, vào truyền thống duy lý của triết học
phương Tây. Các nhà hậu hiện đại thông qua thuật ngữ bất tín nhận thức đã đưa ra
kết luận: tất cả những gì được xem là hiện thực chẳng qua chỉ là ý niệm về chính nó
do chủ thể đưa ra.
Giải nhân cách hoá: Giải nhân cách hoá (depersonalization) là khái niệm được
R.Barthes, Foucault, Brooke Rose xây dựng, nhằm chỉ nhũng hiện tượng khủng
hoảng liên quan đến cá nhân như: “cái chết của tác giả” (Barthes), “cái chết của chủ
thể” (Foucault), “khủng hoảng của cá tính” Đây là thuật ngữ có vai trò quan trọng
trong lĩnh vực văn học trong việc “khai tử” tác giả và “khai sinh” độc giả, đưa sự
quyết định cắt nghĩa tác phẩm văn học vào quyền người đọc, trong tinh thần dân chủ.
Ngoại biên: Ngoại biên (marginalism) là khái niệm được Foucault đề xuất,
nhằm chỉ một trong những phương thức tư duy đặc thù của chủ nghĩa hậu hiện đại,
phản ánh cảm quan thế giới của giới nghệ sĩ sáng tác ở thế kỷ XX, đó là lối tư duy
có tính chất “phi trung tâm hoá” (decentralization), chống lại những khuôn sáo tư
duy, những quan điểm đã được thừa nhận; quan tâm đến những phạm vi thuộc về
“phía ngoài”, “ngoài lề”, “phía đối lập”. Lập trường tiêu biểu của họ là sự phản
kháng về đạo đức, không chấp nhận thế giới xung quanh, phản bác tất cả, “lưu vong
về tinh thần”. Tính ngoại biên, được bắt đầu xây dựng bởi những nhà hậu cấu trúc,
đã trở thành phản xạ lý luận có ý thức, chiếm vị thế “tư tưởng trung tâm”, thể hiện
“tinh thần thời đại”. Nó đã gây sự chú ý đặc biệt ở các nhà triết học, mỹ học, nghiên
cứu văn học hậu hiện đại. Đi sâu luận giải tính ngoại biên, Foucault đã gắn kết vấn
đề “ý thức thẩm mỹ phá hoại” của người nghệ sĩ ngoại biên, vốn dựa vào “công
việc của vô thức”, với vấn đề về “tính ngông cuồng của con người”, từ đó thiết lập
một dạng mô hình xã hội thông qua thái độ và hành vi ứng xử trong sự đối sánh
giữa cái “bình thường” với cái “khác thường”, lấy nó làm một trong những tiêu chí
để đánh giá trình độ xã hội. Ở góc nhìn này, “toàn bộ lịch sử nhân loại đối với ông
là lịch sử của sự điên khùng, bởi Foucault cố gắng vạch ra ở lịch sử những cái mà
lý trí con người loại bỏ: sự điên khùng, tính ngẫu nhiên, hiện tượng thiếu nhất quán
về lịch sử – tất cả điều này chứng tỏ sự tồn tại của “cái khác đời”, cái “ngoại lệ”
trong bản thân con người”, để từ đây, “Foucault đối lập mọi cấu trúc quyền lực với
hoạt động của những người “ngoại biên” bị xã hội ruồng bỏ: những kẻ bị điên
khùng, bệnh tật, tội phạm, và trước hết, những nghệ sĩ và những nhà tư tưởng (khác
người)” [9, tr.54].
Nguỵ tạo: Nguỵ tạo (simulacres) là khái niệm do Baudrillard đề xuất, xác định
một cách hiểu mới về đặc thù văn học. Nguỵ tạo (còn được dịch là “vật thế vì”, “vật
giả tượng”) nhằm chỉ những hình ảnh, vật thể không có bản gốc, những bản sao
không có bản chính, là cái bóng của những vật thể không tồn tại: “ Đó là một hình
thức trống rỗng, một ký hiệu tự thân, nghệ thuật tự tạo (artfastus) chỉ dựa vào thực
tại của bản thân mình”. Trong mỹ học hậu hiện đại, khái niệm nguỵ tạo có khi được
dùng để thay thế cho khái niệm hình tượng của mỹ học cổ điển. Baudrilard xác định
ngụy tạo “như “vật giả” thay thế một “thực tại đang hấp hối” bằng một hậu thực tại
thông qua những ngụy tạo, xem cái không có thực thành có thực, xoá bỏ sự khác
biệt giữa thực tại và tưởng tượng. Các cấp độ ngụy tạo trong văn học hậu hiện đại
được xác lập theo diễn tiến: “Sự phản ánh một thực tại có chiều sâu được thay
bằng sự biến thái nó, sau đó, bằng sự trá hình không có nó, và cuối cùng, là sự
đánh mất mối liên hệ với nó, thế vào đó là ý nghĩa những trò chơi chữ, vẻ ngoài
tưởng tượng, tức là bằng những nguỵ tạo” [9, tr.21]. Với tư cách là một khái niệm
cơ bản của mỹ học hậu hiện đại, ngụy tạo biểu hiện sự “hỗn độn dư thừa” (hiện thực
thậm phồn) của năng lượng văn hóa, dẫn tới sự suy đồi, kiệt quệ của thời đại mới.
Phi lựa chọn: Phi lựa chọn (nonselection) là khái niệm do Fokkema, Lodge,
Hassan xây dựng, nhằm chỉ năng lực tiếp nhận “phi đẳng cấp” của cách tiếp nhận
hậu hiện đại. Nguyên tắc phi lựa chọn buộc phải đặt ra vấn đề là, quá trình giao tiếp
văn học theo kiểu truyền thống đã không còn phù hợp ở thời đại mới: “Đối với
người gửi văn bản hậu hiện đại (tức là tác giả của văn bản: nhà văn) nguyên tắc
này có nghĩa là khước từ sự lựa chọn (selection) có chủ định những yếu tố ngôn
ngữ (hoặc cá yếu tố khác) trong lúc “sản xuất văn bản”. Đối với người nhận thông
báo (communicata) tương tự (tức người đọc văn bản), nếu như anh ta sẵn sàng đọc
(giải mã) văn bản đó “bằng phương thức hậu hiện đại”[9, tr.426], thì chính nguyên
tắc này đòi hỏi phải khước từ mọi ý đồ tạo dựng trong ý niệm của mình một “sự
diễn giải mạch lạc” văn bản. Thuật ngữ này đóng vai trò nền tảng cho phương thức
cấu trúc của tất cả văn bản hậu hiện đại. Thông qua các cấp độ: từ vựng, ngữ nghĩa,
cấu trúc câu, cấu trúc văn bản, Fokkema đề xuất các đặc trưng cơ bản sau của cấu
trúc phi lựa chọn: phi ngữ pháp và cú pháp, không tương hợp về nghĩa, cấu tạo câu
đặc biệt.
Tính nhục thể: Tính nhục thể (cororality) là khái niệm do M.Ponty, G.Deleuze,
Foucault, Kristeva xây dựng, thể hiện quan niệm về hiện tượng sử dụng một cách
đặc thù các yếu tố tính dục trong văn chương hậu hiện đại. Trong nền mỹ học tính
dục nghệ thuật truyền thống, tính dục (biểu trưng cho thể xác) thường tách biệt,
thậm chí đối lập với thế giới tinh thần của nhân vật. Trong khi đó, các yếu tố tính
dục trong văn chương hậu hiện đại lại gắn liền, thậm chí đồng nhất với các cơ chế
tinh thần. Đây là xu hướng đề cao “tính thân xác của ý thức”, tạo cơ sở nhằm xóa bỏ
ranh giới giữa bên trong và bên ngoài đời sống tâm lý.
Thân rễ: Thân rễ (rhizome, có chỗ dịch là “rễ chùm”) là khái niệm do
G.Deleuze, F.Guattari, U.Eco xây dựng, chỉ nguyên tắc tổ chức mọi hiện tượng
trong tự nhiên và xã hội dưới cảm quan hậu hiện đại; ngoài ra, nó còn được xem
như biểu trưng của thực tiễn sáng tác nghệ thuật hậu hiện đại. Thân rễ là thuật ngữ
ẩn dụ, nhằm chỉ các quan hệ trong đời sống được cố kết với nhau trong một trật tự
bất định, rối rắm, không thể phân biệt được đâu là rễ chính đâu là rễ phụ, cái nào
sinh ra cái nào.
Những thủ pháp nghệ thuật
Mảnh vỡ: Mảnh vỡ (fragmentation) là thuật ngữ được trừu xuất từ khái niệm
“phi lựa chọn”, mà điểm xuất phát đầu tiên là “quan niệm coi văn bản nghệ thuật
như một loại nghệ thuật cắt dán (collage) đặc biệt, mà về thực chất, không có khả
năng biến hóa bản chất rời rạc, mảnh vụn của mình thành một chỉnh thể duy nhất”
[9, tr.23]. Sau đó, Fokkema đã phát triển quan niệm này thành nguyên tắc nền tảng
của việc tổ chức văn bản hậu hiện đại: “ Cấp độ cấu trúc văn bản của văn học hậu
hiện đại được nhà nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng hơn. Ở đây ông cố gắng thống nhất
và chỉnh đốn hệ thuật ngữ khác loại được sử dụng trong nghiên cứu văn học
phương Tây để mô tả hiện tượng “phi lựa chọn”. Trong quá trình xây dựng tác
phẩm, cấp độ văn bản thường biến thành nơi áp dụng các quy tắc tổ hợp mô phỏng
các “thủ pháp toán học”: sao chép, nhân bản, liệt kê. Bổ sung vào tổ hợp này, dưới
ảnh hưởng của I.Hassan và D.Lodge, Fokkema đưa ra thêm hai thủ pháp nữa: ngắt
đoạn và làm dư thừa. Tất cả những thủ pháp này gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm
phá bỏ tính mạch lạc truyền thống của trần thuật” [9, tr.24]. Mảnh vỡ, với tư cách
là một thủ pháp nghệ thuật chủ yếu, đã xâm nhập vào tất cả các khuynh hướng sáng
tác của văn học hậu hiện đại.
Tương phản xuyên suốt: Tương phản xuyên suốt là thuật ngữ do D.Lodge xây
dựng, phục vụ cho nguyên tắc “phi lựa chọn”, nhằm thực hiện một trong những nội
dung căn bản của văn học hậu hiện đại: tính mâu thuẫn. Cơ sở lý thuyết mà Lodge
dựa vào là quan niệm về diễn ngôn của Jakobson về cách viết của chủ nghĩa hiện
thực và chủ nghĩa hiện đại: “ mỗi diễn ngôn thường gắn đề tài này với một đề tài
khác theo nguyên tắc tương đồng và kề cận, bởi vì tất cả những đề tài này theo một
ý nghĩa nhất định, hoặc là giống nhau, hoặc gần gụi, kề cận nhau trong không gian
và trong thời gian. Jakobson gọi những kiểu liên kết này giống như liên kết mang
tính ẩn dụ và hoán dụ và cho rằng những hình ảnh ngôn ngữ này (phép ẩn dụ và
hoán dụ) là những mô hình cơ bản, thể hiện bản chất của mọi quá trình ngôn ngữ”.
[67, tr.429]. Lodge, khi so sánh văn bản hậu hiện đại với các văn bản khác, đã cho
rằng cách viết hậu hiện đại không đi theo nguyên tắc tương đồng và kề cận, mà tìm
kiếm nguyên tắc loại suy (alternative) cho kết cấu của mình. Ông đã đưa ra sáu mô
thức: “tính mâu thuẫn, hoán vị, tính đứt đoạn, tính ngẫu nhiên, tính thái quá và sự
đoản mạch”. Theo ông, tính mâu thuẫn là yếu tính, còn những cái khác chỉ là “thủ
pháp kỹ thuật” nhằm hỗ trợ cho định đề chính yếu này: “ Kết quả cuối cùng được
thực hiện ở tính tương phản xuyên suốt, truyền đạt cảm quan hậu hiện đại tiêu biểu
về tính không trùng hợp về nguyên tắc của các mặt đối lập (các mặt xã hội, đạo
đức, mỹ học, ) và sự cần thiết bằng cách nào đó phải chung sống với tất cả những
điều này, phải chấp nhận tính mâu thuẫn đó như thực tại của cuộc sống” [67,
tr.429-430].
Giễu nhại: Giễu nhại (pastiche) là thuật ngữ có nguồn gốc từ ca kịch Ý
(pasticcio), nhằm chỉ phương thức giễu nhại gắn liền với sự giả định, là sự giễu nhại
có tính phân thân, tự giễu nhại chính mình. Thuật ngữ này được Gullelmi, Poirier,
Hassan, Jameson, D`haen xây dựng. Giễu nhại vừa mang thuộc tính giễu nhại, vừa
mang ý nghĩa vượt lên chính bản thân cái hài, nhằm tự giễu nhại, để chống lại “bản
chất dối trá của ngôn ngữ” và “tính ảo tưởng của truyền thông đại chúng” [67,
tr.435]. Theo Hassan, nhà văn hậu hiện đại là người “hoài nghi chủ nghĩa triệt để”,
sáng tác trong một “thế giới dị thường và thật vô nghĩa và đã đánh mất mọi cơ sở”,
vì vậy, thay cho việc đem đến cho người đọc sự mô phỏng thực tại thì tác giả lại
“mô phỏng vai trò tác giả”. Ở đó, nhà văn hậu hiện đại đã “giễu nhại chính bản
thân mình bằng hành vi giễu nhại” [67, tr.434]. Giễu nhại là thuật ngữ bóc trần tính
mê hoặc do truyền thông đại chúng gây ra và gắn với nó là văn hoá đại chúng. Cùng
với thủ pháp mảnh vỡ, tương phản xuyên suốt, thủ pháp giễu nhại là mô thức trần
thuật căn bản của văn học hậu hiện đại. Nó xâm nhập sâu vào toàn bộ văn bản, từ
cấu trúc đến tư tưởng, góp phần tạo nên một cái nhìn mới về thực tại. Có thể nói, từ
thủ pháp nhại đã tạo nên phạm trù “cái nhại” trong mỹ học hậu hiện đại, thay thế
cho phạm trù “cái hài” trong mỹ học truyền thống.
Mặt nạ tác giả: Mặt nạ tác giả (author`s mask) là thuật ngữ được nhà phê bình
C.Malmgrem đề xuất, nhằm chỉ một nghĩa tương đương với thuật ngữ “hình tượng
tác giả” trong mỹ học truyền thống. Thứ nhất, mặt nạ tác giả đóng vai trò trung tâm
chỉ đạo cho những phương thức trần thuật đặc thù của văn chương hậu hiện đại: hỗn
độn, diễn ngôn đứt đoạn về một thế giới như là bị xé vụn, bị lạ hóa”; biến các chất
liệu “tạp nhạp” đó thành một chỉnh thể; là nguyên tắc tạo cấu trúc quan trọng trong
nghệ thuật kể chuyện của chủ nghĩa hậu hiện đại [67, tr. 405]. Thứ hai, mặt nạ tác
giả đóng vai trò một “kẻ bịp bợm” (trickster), liên tục nhạo báng vào những niềm
tin “ngây thơ”, lối tư duy văn học và thực tiễn sống theo khuôn mẫu của độc giả,
những kẻ mà thị hiếu thẩm mỹ đã bị các phương tiện truyền thông đại chúng làm
méo mó [67, tr.406]. Thứ ba, mặt nạ tác giả giữ chức năng đảm bảo về mặt giao tiếp
văn học, đảm bảo cho tác phẩm không bị “phá sản về mặt giao tiếp” trong bối cảnh
mà người đọc rất khó nắm bắt được văn bản, bởi “tính đứt đoạn của diễn ngôn và
tính hỗn loạn có chủ ý của cách bố cục tiểu thuyết hậu hiện đại” [67, tr.408]; nó là
một “vật ngụy tạo” cho chính hình tượng tác giả, một khi “tác giả đã chết”.
Mã kép: Mã kép (double code) được Barthes, Fokkema, Jencks, D’haen xây
dựng, là thuật ngữ nhằm chỉ bản chất đặc thù của văn bản hậu hiện đại. “Mã” ở đây
không phải là các ký hiệu mật mã như trong khoa học, mà là những trường liên
tưởng, “là tổ chức siêu văn bản của những ý nghĩ có liên quan tới cách hiểu về một
cấu trúc nhất định; mã, theo như cách chúng ta hiểu chủ yếu thuộc về lĩnh vực văn
hoá” [67, tr.416]. Barthes đã phân chia ra năm loại mã cơ bản: mã văn hoá, mã giải
thích, mã tượng trưng, mã ký hiệu, mã trần thuật. Mối quan hệ của những loại mã
này quy định lẫn nhau, trong đó mã đứng sau có vai trò khu biệt phạm vi hoạt động
của những mã đứng trước nó. Jencks và D’haen đã phát triển hệ thống phân loại của
Barthes, xem văn bản ngoài việc bao gồm năm loại mã nói trên, còn có loại mã thứ
hai gắn với lý thuyết mỉa mai hậu hiện đại (pastiche), và đề xuất thuật ngữ “mã kép”
hoặc “mã hoá kép”, cả hai loại mã đều song hành tồn tại trong văn bản: “Cả hai thứ
đều hiện diện trong thực tiễn nghệ thuật của văn học hậu hiện đại như hai siêu hệ
thống mã lớn, chúng hai lần mã hoá văn bản hậu hiện đại với tư cách một loại
thông tin nghệ thuật cho độc giả” [67, tr.418].
Mờ hoá: Mờ hoá (declearisation) là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng
rộng rãi trong văn học hậu hiện đại, có xuất xứ từ khái niệm “giải nhân cách hóa”,
được Lê Huy Bắc đề xuất. Lê Huy Bắc đã nhận thấy mờ hoá là đặc trưng thi pháp
cơ bản của văn xuôi hậu hiện đại: “Mờ hoá được sử dụng trong nghệ thuật một
cách có chủ định nhằm tạo ra một hiệu quả thẩm mỹ, qua đó đối tượng được miêu
tả hiện lên không rõ ràng, cụ thể như ngoài đời hoặc như chúng ta từng gặp trong
sáng tạo nghệ thuật. Người viết cố tình xoá mờ các đường viền (lịch sử, quan hệ),
các đặc điểm cá biệt của đối tượng nhằm tạo cho độc giả cảm giác về sự mơ hồ, tối
nghĩa. Muốn hiểu, người đọc phải dụng công, phải tích cực tham gia vào tiến trình
nghệ thuật để chiêm nghiệm, đề xuất cách hiểu của riêng mình. Mục đích cơ bản
của mờ hoá là nhằm khai thác khả năng đồng sáng tạo từ phía độc giả, thể hiện
thái độ tôn trọng độc giả của nghệ sĩ” [18, tr.97].
Siêu hư cấu: Siêu hư cấu (metafiction) là thủ pháp nghệ thuật thường được các
nhà văn hậu hiện đại sử dụng, “qua đó nhà văn bàn về chính kỹ thuật viết và tiến
trình xây dựng tác phẩm ngay trong tác phẩm của mình. Làm thế, nhà văn đặt độc
giả vào một vị trí khách quan và tỉnh táo để nhìn thấy tác phẩm như một văn bản
đúng nghĩa: một tác phẩm nghệ thuật hư cấu như một trò chơi tự trình bày cách
chơi của nó và mời gọi độc giả tham gia vào trò chơi ấy” [9, tr.229-230]. Đi cùng
thủ pháp siêu hư cấu là cảm quan đa trị gắn với quan niệm bất tín nhận thức và trần
thuật đa điểm nhìn. Với kỹ thuật siêu hư cấu và một cấu trúc mở của văn bản, “nhà
văn muốn mở ra trước mắt độc giả một thế giới vô hạn của những khả thể cho sự
diễn dịch. Như thế, văn chương hậu hiện đại là một trò chơi ngôn ngữ mang tính
dân chủ tối đa” [9, tr.230].
Hoán vị: Hoán vị (permutation) là “lối viết hậu hiện đại nhằm chống lại tính
ước lệ văn chương của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện đại” [9, tr.25]. Thủ
pháp hoán vị có các đặc tính chính: 1. Sự chuyển đổi các bộ phận của văn bản,
người đọc có quyền tự sắp xếp các trang, chương, mục theo ý mình, có thể đọc phần
nào trước cũng được, không cần dựa vào thứ tự được sắp trong sách. Đây được xem
là tính toàn quyền tự do cho người đọc trong tiếp nhận văn học hậu hiện đại; 2. Sự
hoán vị văn bản văn học và văn cảnh xã hội, xoá bỏ ranh giới giữa nghệ thuật hư
cấu và sự kiện có thật; 3. Sự phá vỡ trật tự thời gian trong văn bản, không phải chỉ
xáo trộn trình tự thời gian quá khứ / hiện tại mà còn cố ý làm sai lệch cả quy ước
thời gian quá khứ / hiện tại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieuthuyetviennam1986den2010_0998.pdf