Hoạt động tư pháp bao gồm những hoạt động trực tiếp liên quan đến trình tự
thủ tục tố tụng theo luật định như hoạt động điều tra, thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử, thi hành án và các hoạt động khác
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao tiến hành một số hoạt động tư pháp
theo quy định của pháp luật. Trong số các hoạt động tư pháp thì hoạt động xét xử của
Tòa án được coi là trọng tâm. Với mục đích góp phần hoàn thiện pháp luật về các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, Luận án đã
nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, có hệ thống, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; thực trạng áp dụng pháp luật tại các tỉnh
duyên hải miền Trung, từ đó đưa ra quan điểm và đề xuất các giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật về nhóm tội phạm này, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập
trong quy định của pháp luật cũng như những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn áp
dụng pháp luật. Qua việc nghiên cứu các vấn đề nêu trên, tác giả rút ra các kết luận
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, qua tham khảo một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước,
có thể nhận thấy quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã được các học
giả trong và ngoài nước đề cập, phân tích ở các góc độ và phạm vi khác nhau. Tuy
nhiên, vẫn chưa có công trình nào ở cấp độ Tiến sĩ luật học nghiên cứu chuyên sâu về
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Hầu hết các công trình nghiên cứu ở nước ta
hiện nay hoặc đã lâu (trên cơ sở quy định của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999)
hoặc chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý và TNHS đối với một số tội
phạm cụ thể thuộc nhóm tội phạm này nên còn thiếu các công trình nghiên cứu một
cách toàn diện và hệ thống về dấu hiệu pháp lý và TNHS của cả nhóm tội phạm. Vì
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở góc độ lý luận,
đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật từ địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung, dự
báo và đề xuất những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xử lý hình sự đối với
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
169 trang |
Chia sẻ: Minh Bắc | Ngày: 16/01/2024 | Lượt xem: 790 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn các tỉnh duyên hải Miền Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n; không triệu tập bị can hoặc có triệu tập
nhưng không tiến hành hỏi cung bị can và những người tham gia tố tụng khác; không
quyết định áp giải bị can; không thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu
giữ, tạm giữ; không tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối
chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra; không tiến hành các hoạt động điều tra theo sự
phân công của Thủ trưởng CQĐT.
Ba là, Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS ra quyết định không khởi tố vụ án,
không ra quyết định khởi tố bị can; ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án;
quyết định không phục hồi điều tra; quyết định không phê chuẩn các quyết định của
CQĐT; không yêu cầu CQĐT thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
không quyết định việc truy tố.
Bốn là KSV không kiểm sát việc khởi tố, không kiểm sát các hoạt động điều
tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; không đề ra yêu cầu điều tra; không triệu tập
và hỏi cung bị can; không triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
140
không kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam, không tham gia phiên toà; không đọc cáo
trạng, quyết định của VKS liên quan đến việc giải quyết vụ án; không hỏi, đưa ra
chứng cứ và thực hiện việc luận tội.
Các hành vi trên của người tiến hành tố tụng chỉ thỏa mãn tội danh này nếu các
hành vi đó đều nhằm mục đích để lọt người phạm tội hoặc để lọt tội phạm. Về mặt
hình thức, các hành vi phạm tội tồn tại ở cả hai dạng: văn bản (ra các quyết định để
không truy cứu TNHS) và cả trường hợp chỉ là những hành vi tố tụng nhằm mục đích
không truy cứu TNHS người phạm tội.
Từ những phân tích trên, Điều 369 BLHS về Tội không truy cứu TNHS người
có tội được sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 369. Tội bỏ lọt tội phạm, người phạm tội trong hoạt động khởi tố, điều
tra, truy tố
1. Người nào có thẩm quyền và trách nhiệm trong việc khởi tố vụ án, điều tra,
truy tố mà không hoặc không thực hiện tiếp việc truy cứu trách nhiệm hình sự
người mà mình biết rõ là phạm tội nhằm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội thì bị
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
Thứ tư, bổ sung các quy định điều chỉnh các hành vi xâm phạm hoạt động tư
pháp thông qua việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
những người tiến hành tố tụng.
Như đã phân tích ở trên, có nhiều trường hợp người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng bị một số đối tượng thực hiện các hành vi xâm phạm như: Đe dọa
dùng vũ lực, gây thương tích, hủy hoại tài sản, vu khống nhằm làm cho họ phải
hoang mang, lo sợ khi thực hiện các hoạt động tố tụng, cản trở hoạt động tư pháp.
Những hành vi này nếu cũng chỉ bị truy tố, xét xử như phạm tội với các nạn nhân
thông thường khác như Tội đe dọa giết người (Điều 133 BLHS), Tội vu khống (Điều
156 BLHS) sẽ không thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội vì khách thể bị xâm phạm trong trường hợp này không chỉ là quyền được
bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, quyền sở hữu tài
sản mà còn cả hoạt động tư pháp.
Hầu hết các nước trên thế giới đều có quy định bảo vệ người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng và thân nhân họ rất chặt chẽ. Đơn cử, BLHS Liên bang Nga
có quy định về Tội xâm phạm đến tính mạng của người đang tiến hành các hoạt động
tư pháp hoặc điều tra ban đầu (Điều 295 BLHS Liên Bang Nga), Tội vu khống đối
với thẩm phán, thành viên hội đồng thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, người
141
đang điều tra, thư ký tòa án, chấp hành viên (Điều 298 BLHS Liên Bang Nga) Việc
bổ sung các quy định nảy không chỉ để đảm bảo quá trình giải quyết vụ án được
khách quan, công bằng, đúng đắn mà còn qua đó làm tăng vị thế và sự tôn nghiêm
của các cơ quan tư pháp. Trên cơ sở nghiên cứu quy định pháp luật hình sự của một
số quốc gia phát triển như Liên Bang Nga, Cộng hòa Liên bang Đức tác giả đề xuất
bổ sung một số tội danh sau:
Điều. Tội xâm phạm đến tính mạng của người đang tiến hành các hoạt động
tư pháp
Người nào có hành vi xâm phạm đến tính mạng của người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng hoặc người thân thích của họ nhằm mục đích cản trở các hoạt
động tố tụng hoặc trả thù do họ thực hiện những hoạt động đó
Điều. Tội xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản đối với người
đang tiến hành các hoạt động tư pháp
Người nào có hành vi đe doạ giết người, gây tổn hại đến sức khoẻ, xúc phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm, huỷ hoại hoặc làm hư hại tài sản của người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người thân thích của họ nhằm mục đích
cản trở các hoạt động tố tụng hoặc trả thù do họ thực hiện những hoạt động đó
Điều. Tội vu khống đối với người đang tiến hành các hoạt động tư pháp
Người nào thực hiện hành vi vu khống đối với người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng hoặc người thân thích của họ nhằm mục đích cản trở các hoạt động
tố tụng hoặc trả thù do họ thực hiện những hoạt động đó
Thứ tư, bổ sung các quy định điều chỉnh các hành vi làm lộ bí mật các thông tin
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Theo đó, có một số thông tin tố tụng cần phải
được giữ bí mật nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được tiến hành một cách
đúng đắn và khách quan như: Những thông tin về điều tra vụ án hình sự, từ khi có
quyết định khởi tố vụ án hình sự đến khi có kết luận điều tra như: thông tin về nghi
can, chứng cứ, người làm chứng; Những thông tin về tình hình và kết quả kiểm sát
điều tra; hồ sơ, tài liệu các vụ án do ngành kiểm sát xác lập đang trong quá trình kiểm
sát điều tra; lệnh bắt giữ, khám xét, quyết định trả tự do, trả vật chứng tạm giữ khi
chưa thi hành Việc làm lộ các thông tin này sẽ gây cản trở, khó khăn cho việc giải
quyết vụ án, xâm phạm đến sự đúng đắn của hoạt động tư pháp.
Trên thực tế, hành vi làm lộ bí mật các thông tin tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án thường bị áp dụng Tội cố ý làm lộ bí mật công tác (Điều 361 BLHS) nếu
hành vi được thực hiện với lỗi cố ý hoặc Tội vô ý làm lộ bí mật công tác (Điều 362
142
BLHS) nếu hành vi được thực hiện với lỗi vô ý. Tuy nhiên, việc áp dụng các Điều
luật trên để truy cứu TNHS người phạm tội cũng không thật sự hợp lý vì đây là các
tội phạm trong Chương các tội phạm về Chức vụ nói chung. Trong khi đó, hành vi
làm lộ bí mật các thông tin tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án trực tiếp xâm
phạm đến khách thể riêng biệt, đó là hoạt động tư pháp. Vì vậy, cần phải xây dựng
các điều luật riêng trong Chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp để điều chỉnh
các hành vi này, cụ thể như sau:
Điều. Tội cố ý làm lộ bí mật các thông tin tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án
Người nào cố ý làm lộ bí mật các thông tin tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án,
nếu không thuộc trường hợp quy định tại điều 337 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ
Điều. Tội vô ý làm lộ bí mật các thông tin tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án
Người nào vô ý làm lộ bí mật các thông tin tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án,
ảnh hưởng đến việc điều tra, truy tố, xét xử, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điều
338 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ
Thứ năm, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng tội danh Dùng nhục hình nhằm
đảm bảo việc định tội danh được thực hiện thống nhất trên cả nước, tránh gây sự bức
xúc, hoang mang trong dư luận. Theo đó, nội dung văn bản hướng dẫn phải bao hàm
nội dung:
- Trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình để cố ý tước bỏ tính
mạng của nạn nhân như: Đánh vào những vị trí hiểm yếu của cơ thể chứa đựng khả năng
thực tế gây ra chết người thì hành vi của người phạm tội cố ý xâm phạm đến hai
khách thể tại hai Chương khác nhau: Xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tư pháp
trong Chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và xâm phạm tính mạng của
người khác trong Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con người. Do đó, cần phải truy cứu TNHS đối với người phạm tội về cả hai
tội danh: Tội dùng nhục hình (Điều 373 BLHS) và Tội giết người (Điều 123 BLHS).
- Trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình gây hậu quả
chết người, tức người phạm tội cố ý đối với hành vi dùng nhục hình để gây thương
tích cho nạn nhân, hậu quả chết người nằm ngoài ý muốn của người phạm tội thì
hành vi của người phạm tội chỉ cấu thành Tội dùng nhục hình (Điều 373 BLHS)
nhưng áp dụng tình tiết định khung tăng nặng TNHS tại khoản 4:“Phạm tội làm
người bị nhục hình chết”.
143
- Đối với Tội dùng nhục hình: BLHS năm 2015, cần mở rộng tội phạm hoá hành
vi dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác tại Điều
273 theo hướng mở rộng không chỉ trong hoạt động tố tụng, thi hành án mà còn trong
hoạt động thi hành tạm giữ, tạm giam. Cụ thể, khoản 1 Điều 273 cần được sửa đổi, bổ
sung như sau:
- Người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án, hoạt động thi hành tạm
giữ, tạm giam, mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của
người khác dưới bất kỳ hình thức nào, thí bị phạt tù từ 06 tháng đến năm.
4.3.2. Các giải pháp khác
Để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp, cần thiết phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp cụ thể như sau:
4.3.2.1. Tăng cường bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.
Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án các cấp phải thường xuyên tổng kết, đánh giá
chất lượng hoạt động xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp để từ đó rút ra
những kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật hình sự để xử lý loại tội phạm này.
Như đã phân tích ở trên, việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội xâm phạm
hoạt động tư pháp trong một số vụ án là chưa tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Đối với các vụ án về tội phạm Dùng nhục hình
gây hậu quả chết người nhưng hình phạt áp dụng đối với các bị cáo lại tương đối nhẹ,
thậm chí cho hưởng án treo sẽ làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật.
Tại Nghị quyết 49- NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Chính
trị đặt ra yêu cầu “Cần phải quy định TNHS nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm
là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội
thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác”. Việc quyết định hình
phạt như trên đối với những người có chức vụ, quyền hạn phạm tội xâm phạm hoạt động
tư pháp là không phù hợp với yêu cầu mà Bộ Chính trị đã đặt ra. Vì vậy, Tòa án nhân
dân tối cao cần phải có văn bản hướng dẫn áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
xâm phạm hoạt động tư pháp là người chức vụ, quyền hạn theo hướng nghiêm khắc hơn
để tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Bên cạnh đó, trong một số vụ án thì Hội đồng xét xử lại không áp dụng đầy đủ và
chính xác các quy định của BLHS khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, từ đó
quyết định hình phạt quá nặng, vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt có thể áp
dụng đối với bị cáo hoặc không cho bị cáo được hưởng án treo dù bị cáo đáp ứng
144
được các điều kiện mà pháp luật quy định. Do đó, việc tổng kết, đánh giá công tác xét
xử thường xuyên cũng góp phần giúp cho ngành Toà án thấy được những ưu, khuyết
điểm, những mặt đạt được và những mặt chưa đạt được của ngành, từ đó rút ra những
kinh nghiệm trong công tác xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp tránh được
những sai sót và tiêu cực, bởi thực tế cho thấy những vụ án xâm phạm hoạt động tư
pháp luôn được sự quan tâm, theo dõi giám sát của xã hội. Việc đánh giá, tổng kết xét
xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp cũng là cơ sở để đánh giá sự chính xác,
phù hợp thực tiễn của các quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tư pháp;
những quy phạm pháp luật nào phát huy tác dụng tốt; những quy phạm pháp luật nào
còn mang tính chung chung, trừu tượng khó thực hiện; những quy phạm pháp luật nào
quy định quá cụ thể, cứng nhắc không đáp ứng được yêu cầu của công tác cải cách tư
pháp cũng như yêu cầu của xã hội để từ đó, có những đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung,
huỷ bỏ, giải thích, hướng dẫn những quy phạm pháp luật nhằm không ngừng nâng cao
tính khả thi của các văn bản pháp luật về hoạt động tư pháp nói chung, quy định pháp
luật hình sự về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng.
4.3.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp, chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
Tòa án các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp. Thực tế cho thấy rằng việc áp
dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Tòa án
phụ thuộc rất nhiều vào kết quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác, đặc biệt là
cơ quan điều tra và cơ quan kiểm sát. Do đó, cần đảm bảo mối quan hệ và cơ chế
phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan tiến hành tố tụng là yêu cầu khách quan, là cơ
sở quan trọng để đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp.
Với những vụ án phức tạp, có liên quan đến cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp,
những vụ án mà dư luận quần chúng nhân dân bức xúc, khiếu kiện kéo dài... thì trong
quá trình giải quyết, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cần có các cuộc
họp liên ngành để phối hợp giải quyết trên cơ sở nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, các cơ quan tư pháp khác như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
cần phải phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương đặc biệt là cơ quan tư pháp, cơ
quan thanh tra, ủy ban kiểm tra... để kịp thời phát hiện và xử lý một cách khách quan
toàn diện vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp ở địa phương.
145
4.3.2.3. Nâng cao năng lực, bản lĩnh của cơ quan điều tra các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp đối với các vụ án mà người phạm tội là người tiến hành tố tụng tại
các cơ quan tư pháp.
Trên thực tế, các cơ quan tư pháp đều có quan hệ phối hợp, chế ước lẫn nhau
trong hoạt động tư pháp nói chung, trong đó có hoạt động điều tra. Nếu không có sự
đồng thuận với cơ quan tư pháp thì họ có thể tác động, gây trở ngại đến hoạt động
điều tra, xử lý vụ án. Vì nếu có cán bộ trong cơ quan phạm tội, sẽ ảnh hưởng xấu đến
uy tín, thành tích của cơ quan tư pháp chủ quản, đến trách nhiệm của người lãnh đạo
cơ quan, bởi vậy, cơ quan tư pháp dễ nảy sinh tâm lý muốn xử lý nội bộ. Người phạm
tội cũng muốn dựa vào cơ quan để lẩn tránh trách nhiệm, đối phó với Cơ quan điều
tra. Do đó, cơ quan tư pháp chủ quản của đối tượng phạm tội thường không tích cực
phối hợp với Cơ quan điều tra, thậm chí họ còn gây ra các trở ngại cho hoạt động
điều tra như: Không cho cán bộ có liên quan làm việc với Điều tra viên; không cung
cấp tài liệu cho Cơ quan điều tra; không phối hợp thực hiện một sổ hoạt động điều tra
cần có sự tham gia của họ... Có trường hợp, cơ quan tư pháp chủ quản của đối tượng
phạm tội còn phản ứng đến các cơ quan cấp trên làm phức tạp hoá vấn đề, tạo ra
những thông tin, dư luận trái chiều trong công luận. Từ chỗ chỉ là quan hệ tố tụng
giữa Cơ quan điều tra với đối tượng phạm tội, dễ trở thành vấn đề căng thẳng giữa hai
cơ quan, đơn vị. Khi đó, việc điều tra, xử lý vụ án sẽ gặp nhiều khó khăn, không đạt
hiệu quả cao trong công tác giáo dục, phòng ngừa chung. Bởi vậy, Cơ quan điều tra,
Điều tra viên thụ lý vụ án phải cố gắng tạo ra sự đồng thuận với cơ quan tư pháp
chủ quản của người phạm tội.
Bên cạnh đó, do người phạm tội trong các cơ quan tư pháp lại là những người
có thâm niên công tác lâu năm, nắm rõ các quy định của pháp luật, vận dụng những
thao tác nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cũng như điều kiện làm việc của mình để
che giấu tội phạm nên việc tìm kiếm những chứng cứ buộc tội đối với những đối
tượng này là rất khó khăn. Vì vậy, các Điều tra viện cần phải nghiên cứu thật kỹ hồ
sơ vụ việc tư pháp đã phát sinh tội phạm để phát hiện các dấu hiệu không bình
thường, các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc. Khách thể chính của
tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là hoạt động bình thường của các cơ quan tư
pháp nên khi thực hiện hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội thường vi phạm về trình
tự, thủ tục giải quyết vụ việc mà họ thụ lý để đạt được mục đích phạm tội, do vậy
hoạt động này sẽ để lại dấu vết trên các tài liệu, biên bản giải quyết vụ việc. Hồ sơ vụ
việc tư pháp là “hiện trường” xảy ra tội phạm, nên cần phải nghiên cứu cẩn thận, tỉ
146
mỉ để phát hiện các dấu hiệu, tình tiết bất bình thường trong quá trình giải quyết vụ
việc để đấu tranh với đối tượng phạm tội, làm rõ mục đích của hành vi đó. Việc đầu tiên
Điều tra viên cần tiến hành khi bắt đầu điều tra, xác minh là thu thập toàn bộ hồ sơ vụ
việc đã phát sinh tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp; phải lập biên bản, thống kê chi
tiết các tài liệu có trong hồ sơ; yêu cầu người cung cấp xác định rõ đã cung cấp tất cả hồ
sơ tài liệu có liên quan đến vụ việc, để tránh việc hợp thức hoá vi phạm. Phải nghiên cứu
kỹ hồ sơ trước khi đấu tranh với đối tượng vi phạm. Sau khi hỏi cung, lấy lời khai phải
đối chiếu lời giải trình của họ với hồ sơ vụ việc xem đã phù hợp chưa để kiểm tra tính
khách quan của lời khai, vạch ra các biện pháp phát hiện, thu thập và củng cố chứng cứ
chứng minh tội phạm.
4.3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tiến hành tố tụng đối
với các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp
Hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được quy định rõ trong Bộ
luật Tố tụng hình sự. Sự giám sát của các cơ quan dân cử trong thời gian qua đã được
tăng cường, thông qua hoạt động giám sát, tiếp xúc với cử tri đã phát hiện những vi
phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động này đã phần nào tác
động tích cực đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung
và hoạt động điều tra xử lý các vụ án hình sự nói riêng.
Tuy nhiên, trong thực tế, sự giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Bởi vì chất lượng hoạt động giám
sát của các cơ quan và đại biểu dân cử chủ yếu thông qua hoạt động chất vấn của đại
biểu Quốc hội, đại biểu của Hội đồng nhân dân đối với người đứng đầu các cơ quan tư
pháp. Trong khi đó, trình độ hiểu biết pháp luật của nhiều đại biểu còn hạn chế; mặt khác
lại thiếu những quy định cụ thể về cơ chế giám sát, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan
trong quá trình giám sát... Vì vậy, vẫn còn xảy ra thực trạng là một số hành vi do người
có cán bộ tư pháp thực hiện có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nhưng
các cơ quan tiến hành tố tụng không áp dụng quy định pháp luật hình sự để truy cứu
TNHS đối với người thực hiện hành vi và các cơ quan, đại biểu dân cử cũng không phát
hiện được những vi phạm này.
Do vậy cần đổi mới, nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn của các cơ quan
tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, hội đồng nhân dân. Tăng cường và nâng cao hiệu lực
giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp thông qua các hoạt động tiếp
xúc cử tri để phát hiện các vi phạm những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
147
tụng trong quá trình xử lý các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.
Bên cạnh việc thực hiện tốt quyền giám sát tư pháp của các cơ quan dân cử, mỗi
cơ quan tư pháp cần có sự kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong việc thực
hiện các hoạt động tư pháp của chính cơ quan và cán bộ của mình. Các cơ quan cấp
trên cần thường xuyên có các hoạt động kiểm tra, giám sát về mặt nghiệp vụ hoặc tiến
hành thanh tra khi có các khiếu nại của các tổ chức và cá nhân có liên quan. Song
song với các hoạt động của mỗi cơ quan là hoạt động phối hợp, kiểm tra, giám sát lẫn
nhau của các cơ quan tư pháp trong quá trình thực hiện nghiệp vụ.
Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo các hoạt động này tuân thủ theo
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Vì vậy, tăng cường chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát đối với các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đảm
bảo cho hoạt động tư pháp được nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật, không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Ngay từ khâu thụ lý tin báo, tố giác tội phạm, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân các cấp phải cử Kiểm sát viên theo dõi việc thụ lý cũng như kết quả xác minh tin
báo để có thể cùng với điều tra viên xem xét các căn cứ để có thể khởi tố vụ án, khởi
tố bị can. Khi đã khởi tố vụ án, Kiểm sát viên được cử kiểm sát điều tra vụ án phải đề
ra được yêu cầu điều tra cũng như xem xét các căn cứ mà Cơ quan điều tra áp dụng
để ra lệnh, quyết định; giám sát các hoạt động thu thập chứng cứ mà Cơ quan điều tra
tiến hành, đảm bảo các hoạt động này tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Đặc
biệt, các vụ án về tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ tư
pháp thì thẩm quyền điều tra thuộc Cơ quan điều tra VKSND. Vì vậy, việc giám sát
hoạt động điều tra, truy tố cần được thực hiện với hình thức đặc biệt; tăng cường
giám sát nội bộ VKSND là điều cần thiết...
Khi có những vướng mắc trong việc đánh giá chứng cứ cũng như việc ra quyết định
thì cần phải có sự phối hợp giữa Lãnh đạo các cơ quan để tìm phương hướng giải quyết.
Tăng cường công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với áp dụng pháp luật trong
hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, Cơ quan kiểm sát, Tòa án và Cơ quan thi hành án
sẽ hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng như tình trạng
oan, sai trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
148
Kết luận Chương 4
Trong những năm vừa qua, tình hình tội phạm việc xâm phạm các hoạt động tư
pháp tại các tỉnh thuộc khu vực duyên hải miền Trung diễn biến phức tạp với tính
chất nguy hiểm của tội phạm ngày càng nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với
niềm tin của nhân dân vào hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp. Thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp giai đoạn 2010 – 2019
trên địa bàn này còn tồn tại nhiều hạn chế như: Việc định tội danh không thống nhất,
quyết định hình phạt chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm Đồng thời quy định pháp luật hình sự hiện
hành về nhóm tội phạm này vẫn còn tồn tại một số bất cập cần sửa đổi, bổ sung để
nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm.
Việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về các tội phạm xâm phạm hoạt động
tư pháp đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu cụ thể nhằm đảm bảo các giải pháp đưa ra
được đúng đắn và khả thi khi áp dụng trên thực tế, bao gồm: Yêu cầu bám sát các
mục tiêu, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh với các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp; Bảo đảm thực hiện đúng chính sách hình sự đối với các tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp trong thực tiễn xét xử; Áp dụng pháp luật hình sự đối
với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp phải gắn liền với việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ tư pháp; Bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân trong xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp; Bảo đảm về cơ chế
kiểm tra, giám sát xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp; Áp dụng pháp luật
hình sự đối với các tội phạm về xâm phạm hoạt động tư pháp phải chú ý đến những
đặc thù của loại án này.
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cũng như nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp như:
Sửa đổi nội dung Điều 369 BLHS về Tội không truy cứu TNHS người có tội, mở rộng
phạm vi chủ thể đối với Tội từ chối khai báo và Tội khai báo sai sự thật, bổ sung một số
hành vi mới xâm phạm hoạt động tư pháp, hướng dẫn áp dụng thống nhất Tội dùng nhục
hình, tổng kết, đánh giá công tác xét xử các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của
ngành Tòa án nhằm đảm bảo cho hoạt động tư pháp của nước ta thực sự trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý cũng như bảo vệ hiệu quả các quyền và
lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân.
149
KẾT LUẬN
Hoạt động tư pháp bao gồm những hoạt động trực tiếp liên quan đến trình tự
thủ tục tố tụng theo luật định như hoạt động điều tra, thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử, thi hành án và các hoạt động khác
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao tiến hành một số hoạt động tư pháp
theo quy định của pháp luật. Trong số các hoạt động tư pháp thì hoạt động xét xử của
Tòa án được coi là trọng tâm. Với mục đích góp phần hoàn thiện pháp luật về các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, Luận án đã
nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, có hệ thống, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; thực trạng áp dụng pháp luật tại các tỉnh
duyên hải miền Trung, từ đó đưa ra quan điểm và đề xuất các giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật về nhóm tội phạm này, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập
trong quy định của pháp luật cũng như những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn áp
dụng pháp luật. Qua việc nghiên cứu các vấn đề nêu trên, tác giả rút ra các kết luận
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, qua tham khảo một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước,
có thể nhận thấy quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã được các học
giả trong và ngoài nước đề cập, phân tích ở các góc độ và phạm vi khác nhau. Tuy
nhiên, vẫn chưa có công trình nào ở cấp độ Tiến sĩ luật học nghiên cứu chuyên sâu về
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Hầu hết các công trình nghiên cứu ở nước ta
hiện nay hoặc đã lâu (trên cơ sở quy định của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999)
hoặc chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý và TNHS đối với một số tội
phạm cụ thể thuộc nhóm tội phạm này nên còn thiếu các công trình nghiên cứu một
cách toàn diện và hệ thống về dấu hiệu pháp lý và TNHS của cả nhóm tội phạm. Vì
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở góc độ lý luận,
đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật từ địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung, dự
báo và đề xuất những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xử lý hình sự đối với
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, so với quy định về khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
trong các BLHS trước đó thì điều luật trong BLHS năm 2015 quy định khái quát và
chính xác hơn, không liệt kê các chủ thể cụ thể mà quy định rõ đối tượng là hoạt động
tố tụng và thi hành án. Bên cạnh đó, khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp có
phạm vi mở rộng hơn vì ngoài hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án và hoạt động thi hành án hình sự, dân sự thì vẫn còn có một số cơ quan khác
150
cũng tham gia vào hoạt động tố tụng. Đồng thời, qua nghiên cứu pháp luật hình sự về
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của một số quốc gia trên thế giới như: Liên bang
Nga, Trung Quốc, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, có thể thấy một số hành vi vi phạm đã
bị các quốc gia này coi là tội phạm nhưng pháp luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có
quy định. Đây là những nội dung mà chúng ta có thể nghiên cứu và học hỏi nhằm bảo
vệ tốt hơn nữa hoạt động tư pháp.
Thứ ba, quy định của BLHS năm 2015 về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
đã có nhiều thay đổi đáng kể khi sửa đổi, bổ sung tất cả 23 điều trong chương XXII
của BLHS năm 1999 và bổ sung mới 02 điều, tạo thành Chương các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp gồm 25 điều. Những sự sửa đổi, bổ sung này nhằm đáp ứng yêu
cầu của việc thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp như
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn áp dụng các điều luật
hiện hành cũng như nội luật hóa các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử
hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.
Thứ tư, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp giai đoạn 2010 – 2019 trên địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung còn tồn tại
nhiều hạn chế như: Việc định tội danh không thống nhất, quyết định hình phạt chưa
tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, có dấu hiệu
bỏ lọt tội phạm Nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên là do: Quy định pháp luật
hình sự hiện hành về nhóm tội phạm này vẫn còn tồn tại một số bất cập cần sửa đổi,
bổ sung; Công tác đảm bảo áp dụng pháp luật về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
chưa được coi trọng nên còn nhiều hạn chế trong thực tiễn thực hiện; Hạn chế về
năng lực và ý thức của các chủ thể tiến hành tố tụng
Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cũng như nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
như: Sửa đổi nội dung Điều 369 BLHS về Tội không truy cứu TNHS người có tội,
mở rộng phạm vi chủ thể đối với Tội từ chối khai báo và Tội khai báo sai sự thật, bổ
sung một số hành vi mới xâm phạm hoạt động tư pháp, hướng dẫn áp dụng thống
nhất Tội dùng nhục hình, tổng kết, đánh giá công tác xét xử các tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp của ngành Tòa án nhằm đảm bảo cho hoạt động tư pháp của
nước ta thực sự trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý cũng
như bảo vệ hiệu quả các quyền và lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân.
151
Với kết quả nghiên cứu nêu trên, tác giả hy vọng Luận án sẽ góp phần hoàn
thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp cũng
như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với nhóm tội phạm này. Tuy nhiên,
do đây là một vấn đề phức tạp, trong phạm vi đề tài, Luận án chưa thể giải quyết
hoàn toàn thỏa đáng những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra nên Luận án không
tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Một số nội dung về các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp vẫn còn bỏ ngỏ và nó sẽ được giải quyết trong các công trình
nghiên cứu tiếp theo.
152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Phùng Anh Dũng (2018), Một số vấn đề về các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp trong Bộ luật Hình sự 2015, Tạp chí Tòa án số 20/2018
2. Phùng Anh Dũng (2020), Một số vấn đề về hành vi không thi hành án
quy định trong Luật Hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án số 19/2020
3. Phùng Anh Dũng (2020), Tội phạm chống công lý (Tội phạm tư pháp),
Tạp chí Nhà khoa học trẻ của Cộng hòa Liên bang Nga ngày 4 tháng 9
năm 2020
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Ngọc Anh (2021), Hoàn thiện quy định của Điều 373 BLHS năm 2015 về
tội dùng nhục hình, , Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 10/2021.
2. Phạm Thị Mai Anh (2015), "Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam",
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
3. Bùi Đức Bằng (2013), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội ra bản án trái
pháp luật trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại
học quốc gia Hà Nội
4. Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên (1997), Các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ luật Hình sự Liên bang Đức
6. BLHS Liên Bang Nga
7. BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2007), Đinh Bích Hà dịch, NXB Tư
pháp, Hà Nội.
8. BLHS nước Cộng hòa Pháp (2002), bản dịch, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý,
Bộ tư pháp.
9. Bộ Tư pháp (1998), Số chuyên đề: Luật hình sự của một số nước trên thế giới, Hà
Nội.
10. Bộ Tư pháp (2015), Báo cáo đánh giá tác động dự án BLHS sửa đổi, Hà Nội
11. Bộ Tư pháp, Vụ pháp luật hình sự - Hành chính (2014), Tài liệu phục vụ phiên
họp lần thứ hai nhóm chuyên gia tư vấn pháp luật xây dựng Dự án BLHS (sửa
đổi), Hà Nội.
12. Đặng Văn Cường (2021), Xử lý nghiêm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp để
đảm bảo sự công bằng trong thực hiện quyền tư pháp, Tạp chí Luật sư, số
02/2021.
13. Lê Cảm (2000), “Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 05.
14. Lê Cảm (2008), “Sự hình thành và phát triển các quy phạm pháp Luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (6).
15. Lê Cảm (chủ biên)(2010), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam (phần các tội phạm),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học những vấn đề cơ bản trong Luật
hình sự, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
154
17. Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền, (sách chuyên khảo), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
tr.340.
18. Nguyễn Ngọc Chí (2007), Đề cương giảng dạy sau đại học, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, tr.36
19. C.Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập (1978-tập 19), NXB Sự thật, Hà Nội.
20. Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb
CAND, Hà Nội.
21. Hoàng Minh Đức (2014), Những vấn đề bất cập trong quy định về các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp của BLHS, tạp chí Nghề luật, số 02/2014;
22. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chế ước quyền lực nhà nước, NXB. Đà Nẵng, 2008,
tr. 407-448.
23. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao và Lã Khánh Tùng (2011), Giáo trình lý luận
và pháp luật về quyền con người, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ (2001), Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp trong BLHS 1999, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
25. Trần Mạnh Đạt (chủ nhiệm đề tài) – Bộ Tư Pháp (2012), Đấu tranh phòng chống
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
26. Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sách chuyên khảo), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
27. Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật So sánh, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội.
28. Đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Cộng hòa Liên bang Đức, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội.
29. Đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Liên bang Nga, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội.
30. Đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Thụy Điển, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
31. Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 2, Nxb
CAND, Hà Nội.
32. Đại học Luật TP.HCM (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, phần các tội
phạm, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
155
33. Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, phần các tội
phạm, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
34. Đại học Luật TPHCM (2015), Giáo trình Luật Hành chính nhà nước, NXB Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác cải cách tư pháp trong
thời gian tới, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tại Việt
Nam đến năm 2010, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 09/06/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 50, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.499.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 1/8/2007 của
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước
40. Đảng Cộng sản Việt nam (2016), Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng XII, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Hà Nội.
42. Đỗ Thị Thanh Giang (2014), Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị
dẫn giải, đang bị xét xử theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật
học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
43. Hoàng Phước Hiệp (2010), “Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật của chính phủ”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, số 09, Hà Nội.
44. Lê Hồng Hạnh, Đặng Công Cường (2015) (Chủ biên), Độc lập tư pháp ở Việt
Nam và tiêu chí đánh giá, NXB. Hồng Đức.
45. Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học, "Đảm bảo quyền con người trong
hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay", năm 2005.
46. Nguyễn Ngọc Hoà (2006). Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
47. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
156
48. Nguyễn Thị Phương Hoa (2014), Luật hình sự quốc tế với việc đảm bảo quyền
con người, Nxb Đại học quốc gia TPHCM.
49. Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên), Bình luận khoa học
Những điểm mới của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Nxb Hồng
Đức, Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), Tội không chấp hành án theo luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Hải (2012), Một số kinh nghiệm điều tra các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp, tạp chí
Kiểm sát, số 11/2012;
52. Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam
(sách chuyên khảo), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2003, trang 166.
53. Phạm Mạnh Hùng, Vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp giữa Viện
kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự, https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-
hoc/chi-tiet/79/738
54. Trần Minh Hưởng, Đặng Thu Hiền (2002), Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội;
55. Hồ Mạnh Hà (2016), TNHS đối với tội không tố giác tội phạm, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
56. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (1986), Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ
ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm
của BLHS.
57. Jean-Jacques Rousseau (2013), Khế ước xã hội, NXB Thế giới, Hà Nội.
58. Bùi Đức Long (1998), Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và trách
nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu tranh chống các tội
phạm này, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội;
59. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2002), Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự
của một số nước trên thế giới, Viện Nghiên cứu KHPL, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
60. Nguyễn Quang Lộc (2015), Một số ý kiến về Chương XXIV Dự thảo BLHS (sửa
đổi) - các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số
chuyên đề sửa đổi, bổ sung BLHS 2015.
61. Đinh Văn Quế (2001), Bình luận BLHS năm 1999, Phần các tội phạm, Chương
XXII “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp”, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh.
157
62. Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Phần các tội phạm,
NXB Nhân dân TPHCM, tr.64.
63. Đinh Văn Quế (2019), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Phần các tội phạm,
NXB Thông tin và truyền thông, tr.39.
64. Đinh Văn Quế (2021), Bình luận BLHS năm 2015, Phần các tội phạm,“Các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp”, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh.
65. Lại Viết Quang (2016), Một số điểm mới cơ bản đối với các tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp trong BLHS 2015, Tạp chí kiểm sát, Số 8/2016;
66. Nguyễn Văn Quyền, Nguyễn Tất Viễn (2013), Quyền tư pháp trong nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ lý luận đến thực tiễn, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Nhà nước,
67. Quốc hội (1985), BLHS năm 1985 (sửa đổi bổ sung năm 1989, 1991, 1992,
1997).
68. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946
69. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992.
70. Quốc hội (1999), BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
71. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
72. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
73. Quốc hội (2015), BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
74. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
75. Bùi Ngọc Sơn (2010), “Lập pháp trong bối cảnh văn hóa Việt Nam”, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp 3+4(164+165).
76. Nguyễn Văn Sơn (2020), “Điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc từ
thực tiễn Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, Luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện khoa học xã hội.
77. Hồ Hữu Thành (2016), Tội cản trở việc thi hành án theo luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. Trong công
78. Lê Chí Trung (2018), Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội
79. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
80. Nguyễn Thị Diệu Trang (2015), “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong luật
hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
158
81. Nguyễn Thị Thu Trang (2012), “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người
phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
82. Phan Anh Tuấn (2010), “Tội phạm hóa trong Luật hình sự - Một số vấn đề lý
luận”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 05.
83. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử Luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
84. Trần Thị Hồng Thái (2015), Tội không thi hành án theo luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
85. Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM, Bản án phúc thẩm số 280/2019/HSST ngày
21 tháng 5 năm 2019.
86. Tòa án nhân dân tỉnh NT, Bản án sơ thẩm số 14/2018/HSST ngày 13 tháng 9 năm
2018.
87. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội.
88. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố
tụng, Hà Nội.
89. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2010,
2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, 2021, Hà Nội.
90. Trường Đại học Luật TPHCM (2019), Giáo trình Luật Hình sự Phần các tội
phạm, NXB Hồng Đức, TPHCM, tr.360.
91. Nguyễn Tất Viễn (1996), Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong luật hình sự
Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Luật học.
92. Nguyễn Tất Viễn (2016), Sách chuyên khảo Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
trong luật hình sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội.
93. Nguyễn Đức Việt (2015), Những điểm mới về tội “Bức cung”, “Dùng nhục
hình” quy định tại Điều 374, 373 BLHS năm 2015
94. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2021
của các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh
Thuận, Bình Thuận và Thành phố Đà Nẵng.
95. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin,
Số liệu thống kê tội phạm năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017,
2018, 2019, 2020, 2021, Hà Nội.
96. Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1999), Chuyên đề về Tư pháp
hình sự so sánh (tủ sách luật so sánh), Hà Nội.
159
97. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi
mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
98. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về
nhà nước và pháp luật, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
99. Viện ngôn ngữ (2007), Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
100. Võ Khánh Vinh (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình
sự trong giai đoạn hiện nay, NXB CAND, Hà Nội.
101. Võ Khánh Vinh (2019), Về quyền tư pháp và chế độ tư pháp ở nước ta, Tạp chí
Toà án nhân dân, số 16/2019.
102. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb khoa
học xã hội, tr.9.
103. Y Nguyễn Thị Hoàng Yến (2006), Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
Tài liệu tham khảo bằng tiếng nước ngoài
104. Andrii R. Vorobchak, Viktor V. Nalutsyshyn, Olena V. Popovych (2020),
“Crimes against Justice under the Legislation of the States of the European
Union”, International Journal of Criminology and Sociology.
105. Andreopoulos, G., Barberet R., Levine J.P. (2011), International Criminal
Justice, Critical Perspectives and New Challenges, Publisher: Springer Verlag.
106. Becker, G.S. (1968), "Crime and Punishment: An Economic Approach", The
Journal of Political Economy, 76(2), pp.169-217.
107. Byrne, J.M., J.Lurigio A., Petersilia J. (1992), Smart sentencing: the emergence
of intermediate sanctions, Newbury Park, California: Sage, c.
108. Cohen, M.A. (2000), "Measuring the Costs and Benefits of Crime and Justice",
Criminal justice. (4), pp.263-315.
109. Cohen, M.A. (2005), The Costs of Crime and Justice, Publisher: Routledge.
110. Document: Presidential Decree No. 968, Philipine Law Journal, 51(3), pp.327-
336.
111. Hamai, K., Harris R., Hough M., Ville R., Zvekic U. (1995), Probation Round
the World, A comparative study, First published by Routledge 11 New Fetter
Lane, London EC4P 4EE.
112. Lawyers of Neveda (2006), “Neveda Defense lawyer explains crimes against
public justice”, Publisher: ABC-CLIO.
160
113. Jackson, M. (2002), Justice behind the walls : human rights in Canadian
prisons, Vancouver, B.C.: Douglas & McIntyre, c.
114. Johnson, H.A., Jones M., Wolfe N.T. (2008), History of criminal justice,
Newark, NJ LexisNexis/Anderson Pub c.
115. Klaus, J.F. (1998), Handbook on Probation Services, Guidelines for Probation
Practitioners and Managers, Publication No. 60 Rome/London.
116. Kalunta-Crumpton, A. (2010), Race, Crime and Criminal justice International
Perspectives, Publisher: Palgrave Macmillan.
117. Morgenstern, C. (2009), "European initiatives for harmonisation and minimum
standards in the field of community sanctions and measures", European Journal
of Probation, 1(2), pp.128-141.
118. Newman, G.R. (ed) (2010), Crime and Punishment around the World, Africa
and the middle east, Volume 1, Publisher: ABC-CLIO.
119. Newman, G.R. (ed) (2010), Crime and Punishment around the World, the
Americas, Volume 2, Publisher: ABC-CLIO.
120. Newman, G.R. (ed) (2010), Crime and Punishment around the World, Asia and
Pacific, Volume 3, Publisher: ABC-CLIO.
121. Newman, G.R. (ed) (2010), Crime and Punishment around the World, Europe,
Volume 4, Publisher: ABC-CLIO.
122. Tyler, T.R. (2006), “Restorative Justice and Procedural Justice: Dealing with
Rule Breaking”, Journal of Social Issues, 62(2), pp.307-326.
123. Sinelnikov (2013), “Criminological aspects of crimes against public justice
committed by prosecution authorities office holders”, Penal Reform
International, Moscow.
124. Sullivan, D., Larry T. (2006). Handbook of Restorative Justice A Global
Perspective, London & New York: Routledge.
125. Siegel, Larry J.(2012), International Criminal Justice, Critical Perspectives and
New Challenges, Publisher: Springer Verlag.
126. Stephen A. Saltzbufg, John L.Diamond, Kit Kinports và Thomas H.Morawetz
(1994) “Criminal Law”, The Michie Company, Law Publishers.
127. United Nations (2007), Handbook of basic principles and promising practices
on Alternatives to Imprisonment, (Criminal justice handbook series), New
York.
128. University of Glasgow (2019), The Scottish Criminal Justice System, Scotland.
161
129. Unafei (2003), Annual Report for 2002 and Resource Material, Series No. 61,
Tokyo.
130. Utkin, A.V. (2013), Alernative sanctions in Russia: Status, Problems and
Prospe cts, Penal Reform International, Moscow.
131. Worrall, A. (1997). Punishment in the community: The future of criminal
justice, London: Longman.
Tài liệu từ Internet
132.
doi-bo-sung-trong-chuong-cac-toi-xam-pham-hoat-dong-tu-phap-cua-Bo-luat-
hinh-su-nam-2015-sua-doi-bo-sung-nam-2017-1439.html
133.
134.
dong-tu-phap-121518
135. https://ninhthuan.toaan.gov.vn/webcenter/portal/ninhthuan/tintuc?mucHienThi=
1000180
136. https://stp.quangbinh.gov.vn/3cms/cac-toi-xam-pham-hoat-dong-tu-phap-trong-
bo-luat-hinh-su-nam-2015-(sua-doi-bo-sung-nam-2017).htm
137. https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/can-co-che-kiem-soat-xoa-bo-hoi-
cung-khep-kin_t114c67n78616
138. https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/119/366
139. https://tuoitre.vn/12-dang-vien-gay-oan-ong-huynh-van-nen-rut-kinh-nghiem-
sau-sac-20180601133115525.htm
140. https://vietnamnet.vn/vn/phap-luat/ky-su-phap-dinh/vu-an-oan-ong-chan-dieu-
tra-vien-kiem-sat-vien-linh-an-353416.html
141. https://www.nhandan.com.vn/phapluat/item/9110302-.html
142.
doi-bo-sung-trong-chuong-cac-toi-xam-pham-hoat-dong-tu-phap-cua-Bo-luat-
hinh-su-nam-2015-sua-doi-bo-sung-nam-2017-1439.html (truy cập ngày
08/02/2020)
143. https://stp.quangbinh.gov.vn/3cms/cac-toi-xam-pham-hoat-dong-tu-phap-trong-
bo-luat-hinh-su-nam-2015-(sua-doi-bo-sung-nam-2017).htm (truy cập ngày
02/01/2022)
144.
dong-tu-phap-121518 (truy cập ngày 18/01/2022)
162
145. https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/can-co-che-kiem-soat-xoa-bo-hoi-
cung-khep-kin_t114c67n78616, truy cập ngày 05/02/2020
146. https://tuoitre.vn/12-dang-vien-gay-oan-ong-huynh-van-nen-rut-kinh-nghiem-
sau-sac-20180601133115525.htm, truy cập ngày 03/02/2020
147. https://vietnamnet.vn/vn/phap-luat/ky-su-phap-dinh/vu-an-oan-ong-chan-dieu-
tra-vien-kiem-sat-vien-linh-an-353416.html, truy cập ngày 05/02/2020
148. https://www.nhandan.com.vn/phapluat/item/9110302-.html, truy cập ngày
07/02/2020
149. https://ninhthuan.toaan.gov.vn/webcenter/portal/ninhthuan/tintuc?mucHienThi=
1000180, truy cập ngày 01/02/2020