Về quản lý kiểm toán: Có thể đảm đương được việc tổ chức, quản lý,
điều hành một cuộc kiểm toán có quy mô nhỏ hoặc một phần việc, một nội
dung độc lập của các cuộc kiểm toán có quy mô trung bình hoặc lớn thuộc
chuyên ngành kiểm toán; thành thạo việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
cụ thể trợ giúp cho các hoạt động quản lý tổng hợp cho trưởng phòng nghiệp
vụ kiểm toán.
Đối với bậc kiểm toán viên chính: Đây là lực lượng chủ yếu thực hiện
chức năng quản lý các hoạt động kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước.
Do vậy, mục tiêu bao quát là đào tạo những kiểm toán viên có năng lực quản
lý các hoạt động kiểm toán cho từng chuyên ngành kiểm toán hoặc phạm vi
hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước khu vực. Để đạt được những mục
tiêu tổng quát đó cần hình thành năng lực nghề nghiệp của kiểm toán viên
chính ở những hoạt động chủ yếu sau:
Về thực hành kiểm toán: Chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo các phương
pháp nghiệp vụ kiểm toán đối với các loại hình kiểm toán cơ bản; có năng lực
độc lập trong việc tư vấn với đơn vị được kiểm toán hoặc các cơ quan quản lý
liên quan về các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý kinh tế, tài chính của
đơn vị.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 163 trang
163 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 649 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên của kiểm toán nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
dưỡng kiểm toán viên nhà nước 
 Cơ quan Kiểm toán nhà nước cần ưu tiên tăng cường kinh phí cho hoạt 
động đào tạo, bồi dưỡng, có thể từ nhiều nguồn khác nhau, như: nguồn ngân 
sách nhà nước, nguồn tài trợ của các dự án, nguồn kinh phí 5%, Bởi vì, một 
trong những nguyên nhân hạn chế chất lượng đào tạo, bồi dưỡng là do hạn 
chế về kinh phí dành cho công tác đào tạo bồi dưỡng. Trong đó đặc biệt quan 
tâm ưu tiên kinh phí thỏa đáng cho xây dựng nội dung chương trình, đề cương 
bài giảng, bài tập tình huống. 
 Cần nghiên cứu vận dụng cơ chế khuyến khích về thù lao giảng dạy 
cho giảng viên trong và ngoài ngành. 
 Sử dụng tối đa hiệu năng cơ sở Chi nhánh đào tạo tại Cửa Lò thuộc 
Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ (KH&BDCB) cho đào tạo, bồi 
dưỡng. Đồng thời cần có giải pháp lâu dài để có thêm phòng học, phòng hội 
thảo phục vụ cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của ngành tại Hà Nội. Vì hiện 
nay, các phòng học của ngành, của từng đơn vị đều chủ yếu sử dụng hội 
trường của cơ quan nên đến thời điểm tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, hội 
thảo của ngành cũng như các đơn vị cũng là thời điểm cơ quan tổ chức rất 
nhiều cuộc họp tổng kết cuối năm hay họp triển khai công tác đầu năm nên 
ảnh hưởng khá nhiều đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. 
132 
 Tăng cường trang bị đầy đủ thiết bị phục vụ cho giảng dạy, đào tạo, 
bồi dưỡng, hội thảo, thực hành, như: máy chiếu, máy tính, bàn ghế 
 4.2.4. Đổi mới và tổ chức thực hiện tốt công tác đánh giá, sử dụng, 
quy hoạch, bổ nhiệm kiểm toán viên nhà nước 
Thứ nhất, đổi mới công tác quản lý, đánh giá kiểm toán viên nhà nước 
Với đặc thù hoạt động kiểm toán luôn gắn với môi trường dễ nảy sinh 
tiêu cực trong điều kiện kiểm toán viên nhà nước đi xa, dài ngày, rất khó quản 
lý. Để quản lý tốt kiểm toán viên nhà nước, cần đổi mới cách thức quản lý cán 
bộ theo hướng đánh giá kết quả đầu ra của công việc theo phương châm: “Ai 
giao việc cho người nào thì người đó đánh giá người được giao việc”. Để 
quản lý tổ trưởng tổ kiểm toán thì trưởng đoàn kiểm toán giao mục tiêu kiểm 
toán cho tổ trưởng ở một tổ kiểm toán đó đánh giá chất lượng, kết quả thực 
hiện. Đối với kiểm toán viên nhà nước thì kiểm soát thông qua tổ trưởng tổ 
kiểm toán. Tổ trưởng giao nhiệm vụ cụ thể cho từng kiểm toán viên và quản 
lý kiểm toán viên thông qua các nhiệm vụ đó. Nếu kiểm toán viên nhà nước 
không hoàn thành nhiệm vụ được giao thì cũng cần phân tích nguyên nhân để 
có căn cứ xếp loại, đánh giá; nếu thuộc về nguyên nhân chủ quan, do năng lực 
kém thì kiểm toán viên nhà nước đó phải được bồi dưỡng để đủ kiến thức làm 
nhiệm vụ. 
Để cách thức quản lý có hiệu quả thì cần một số biện pháp đồng bộ sau đây: 
 Trưởng đoàn kiểm toán trực tiếp đánh giá kết quả công việc của kiểm 
toán viên. 
 Thủ trưởng đơn vị quản lý, sử dụng kiểm toán viên trực tiếp phải đánh 
giá đúng và khách quan kết quả công việc của kiểm toán viên trên cơ sở đánh 
giá của Trưởng đoàn kiểm toán. 
 Thiết lập tiêu chí cụ thể để việc đánh giá bảo đảm khách quan, công tâm. 
Thứ hai, đổi mới công tác bố trí và sử dụng kiểm toán viên nhà nước 
Đổi mới công tác bố trí và sử dụng kiểm toán viên nhà nước là một 
công cụ quan trọng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà 
133 
nước. Bố trí kiểm toán viên nhà nước theo đúng chuyên ngành đào tạo và sở 
trường công tác; thực hiện chính sách luân chuyển công việc và địa bàn công 
tác để từng bước xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước đa năng “biết 
nhiều việc, giỏi một việc”; định kỳ kiểm tra, sát hạch, đánh giá đội ngũ kiểm 
toán viên nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng 
và sử dụng cho phù hợp. Thực hiện các quy định việc luân chuyển kiểm toán 
viên nhà nước trong thời gian 3-5 năm; hoàn thiện và cập nhật đầy đủ, kịp 
thời thông tin về năng lực đội ngũ kiểm toán viên nhà nước hiện tại của cơ 
quan Kiểm toán nhà nước và trên cơ sở đó quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào 
tạo, bồi dưỡng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước; sửa đổi phân cấp trách 
nhiệm quản lý kiểm toán viên nhà nước. Mở rộng quyền và trách nhiệm quản 
lý kiểm toán viên nhà nước cho các đơn vị; đánh giá lại quy định về tiêu 
chuẩn ngạch đối với các ngạch kiểm toán viên nhà nước để có căn cứ sửa đổi, 
bổ sung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới; xây dựng 
quy định về tinh giản biên chế để thực hiện được việc thường xuyên đưa ra 
khỏi bộ máy những kiểm toán viên nhà nước không đủ năng lực, trình độ, 
những người vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. 
Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch kiểm toán viên nhà nước 
 Việc lựa chọn kiểm toán viên nhà nước đưa vào diện quy hoạch là khâu 
rất quan trọng trong công tác quy hoạch kiểm toán viên nhà nước. Muốn lựa 
chọn đúng kiểm toán viên nhà nước đưa vào diện quy hoạch, cần rà soát, đánh 
giá toàn bộ đội ngũ kiểm toán viên nhà nước, phát hiện mặt mạnh, mặt yếu 
của từng kiểm toán viên nhà nước trong phạm vi cấp mình. Căn cứ vào yêu 
cầu, trách nhiệm của từng vị trí, chức danh kiểm toán viên nhà nước mà lựa 
chọn cho phù hợp, đủ tiêu chuẩn. Việc lựa chọn kiểm toán viên nhà nước đưa 
vào diện quy hoạch phải được tiến hành kỹ lưỡng, dân chủ trong nội bộ cấp 
ủy, lãnh đạo đơn vị. 
Nội dung quy hoạch kiểm toán viên nhà nước gồm những công việc sau: 
134 
 Xác định chức năng, nhiệm vụ của đơn vị; 
 Đánh giá thực trạng đội ngũ kiểm toán viên của đơn vị; 
 Xác định tiêu chuẩn cụ thể của từng ngạch kiểm toán viên, của từng vị 
trí lãn đạo trên cơ sở tiêu chuẩn chung theo quy định của pháp luật; 
 Đánh giá công chức và lựa chọn những người có triển vọng đạt tiêu 
chuẩn cụ thể của từng đơn vị; 
 Tổng hợp danh sách nguồn quy hoạch; 
 Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức nằm trong quy hoạch; 
 Bố trí cán bộ thuộc diện quy hoạch tập sự quản lý, luân chuyển và cử 
đi học tập tại các lớp dự kiến trong kế hoạch; 
 Theo dõi, đánh giá công chức thuộc diện quy hoạch hàng năm và 6 
tháng một lần. 
 Chọn cán bộ để đưa vào quy hoạch phải đúng người, đúng việc, đúng 
chỗ và đúng lúc. Đúng người là tìm được cán bộ có phẩm chất, năng lực và uy 
tín thực sự. Cần loại bỏ những người có động cơ không đúng. Phân biệt và 
loại bỏ khỏi quy hoạch những cán bộ coi địa vị lãnh đạo, quản lý là chỗ mưu 
cầu danh lợi. Những người đó thường hay chạy chọt, luồn lọt bằng mọi cách 
đạt cho được địa vị, mặc dù tư cách của họ không xứng với các chức danh đó. 
Những kiểm toán viên nhà nước tuy đã ở trong diện quy hoạch nhưng 
sau thời gian phấn đấu bộc lộ những khuyết điểm và không đáp ứng được yêu 
cầu sẽ được đưa ra khỏi quy hoạch. Để thực hiện tốt công tác quy hoạch kiểm 
toán viên, bản thân cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải thực sự công tâm, 
khách quan, mạnh dạn đề bạt những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình 
độ dù người đó còn trẻ và điều quan trọng là phải luôn đảm bảo nguyên tắc 
công khai, bình đẳng trong quy hoạch (công khai tiêu chuẩn, công khai kết luận 
trong đánh giá công chức dự nguồn, công khai quy trình tuyển chọn kiểm toán 
viên, công khai danh sách quy hoạch) đảm bảo bình đẳng về cơ hội thăng tiến, 
tạo điều kiện để nhiều người biết tham gia công tác nhận xét đánh giá, kiểm 
135 
tra giám sát công chức từ đó góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán 
viên nhà nước. 
Thứ tư, đổi mới công tác bổ nhiệm kiểm toán viên nhà nước 
Công tác bổ nhiệm kiểm toán viên nhà nước có đặc thù về chuyên môn 
đó là không những bổ nhiệm làm công tác quản lý trong điều hành thực hiện 
nhiệm vụ kiểm toan mà còn bổ nhiệm giữ các bậc kiểm toán. 
Bổ nhiệm kiểm toán viên nhà nước đảm nhiệm vị trí quản lý, lãnh đạo: 
Cần phải thực hiện nghiêm quy định kiểm toán viên nhà nước được bổ nhiệm 
phải thuộc diện quy hoạch. Nếu thực hiện tốt quy định này sẽ tạo được sự chủ 
động trong công tác cán bộ; đồng thời tạo được động lực thúc đẩy kiểm toán 
viên nhà nước khác chưa được quy hoạch phấn đấu, rèn luyện để xem xét đưa 
vào quy hoạch, tạo cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp. 
Về thời hạn bổ nhiệm, áp dụng thời hạn 5 năm cho kiểm toán viên nhà 
nước là lãnh đạo cấp vụ và thời hạn 3 năm cho kiểm toán viên nhà nước là 
lãnh đạo cấp phòng. Sở dĩ thời hạn ba năm áp dụng cho lãnh đạo cấp phòng 
bởi vì vị trí lãnh đạo cấp phòng thường gắn với trọng trách là tổ trưởng, thậm 
chí là trưởng đoàn, phó trưởng đoàn kiểm toán; vì vậy, bản thân người cán bộ 
đó phải luôn có ý thức nỗ lực trong công việc, ý thức học tập,... mới có thể 
hoàn thành nhiệm vụ; hơn nữa, do gắn với trách nhiệm theo dõi chuyên quản 
các đối tượng kiểm toán trong thời hạn 3 năm; trong thời hạn này người ta có 
thể đánh giá việc theo dõi chuyên quản của cán bộ đó như thế nào; vì vậy, 
thời hạn bổ nhiệm 3 năm là phù hợp. Với thời hạn này cũng sẽ thúc đẩy kiểm 
toán viên nhà nước phải nỗ lực hết mình mới có thể đủ tín nhiệm để xem xét 
bổ nhiệm lại. Vị trí lãnh đạo cấp vụ thì cần sự ổn định hơn, vì vậy, quy định 
thời hạn 5 năm là phù hợp; 
 Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng vị trí lãnh đạo làm cơ sở lựa chọn 
nhân sự chính xác để bổ nhiệm; 
 Mạnh dạn bổ nhiệm cán bộ trẻ, có năng lực; sẵn sàng bổ nhiệm chức 
vụ cao nếu cán bộ đó luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, có những sáng kiến, 
136 
đề xuất hiệu quả, được áp dụng trong thực tế. Việc bổ nhiệm vào các bậc cần 
lưu ý đến trình độ chuyên môn và xây dựng các tiêu chí cụ thể về từng bậc. 
4.2.5. Tăng cường công tác quản lý, giám sát đội ngũ kiểm toán 
viên nhà nước 
 Hoàn thiện các quy định của cơ quan Kiểm toán nhà nước về chuẩn 
mực kiểm toán, đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của kiểm toán viên 
nhà nước, quy trình kiểm soát chất lượng kiểm toán, quy định rõ chức năng, 
nhiệm vụ của trưởng đoàn, tổ trưởng kiểm toán và kiểm toán viên nhà nước; 
cụ thể hoá quy chế làm việc của cơ quan, đơn vị, quy định rõ chức năng, 
nhiệm vụ của từng bộ phận, từng cán bộ, công chức, viên chức, tăng cường 
trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị và các tổ chức trực thuộc 
cơ quan Kiểm toán nhà nước. 
Hoàn thiện và ban hành Quy tắc ứng xử kiểm toán viên nhà nước, quy 
định về kỷ luật công chức, công vụ, kiên quyết đưa ra khỏi ngành những kiểm 
toán viên nhà nước thoái hoá, biến chất, năng lực chuyên môn yếu kém; tạm 
đình chỉ công tác đối với những kiểm toán viên nhà nước vi phạm những điều 
đảng viên không được làm theo quy định của Bộ Chính trị, vi phạm Quy chế tổ 
chức và hoạt động của Đoàn Kiểm toán nhà nước và các quy định của ngành. 
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với kiểm toán viên nhà 
nước, kết hợp giữa kiểm tra của Đảng với thanh tra ngành, thanh tra nhân dân, 
áp dụng các hình thức thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất, giải quyết kịp thời 
các đơn thư tố cáo đối với cán bộ, công chức, viên chức và kiểm toán viên 
trong ngành, nhất là những đơn thư tố cáo kiểm toán viên nhà nước vi phạm 
phẩm chất đạo đức trong khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, kiên quyết xử lý 
nghiêm minh đối với những kiểm toán viên nhà nước vi phạm kỷ luật Đảng, 
pháp luật và quy định của ngành. 
4.2.6. Thực hiện tốt chế độ chính sách đãi ngộ đối với kiểm toán 
viên nhà nước 
Như Chương 2 đã đề cập, cơ chế, chính sách và chế độ đãi ngộ cho 
kiểm toán viên nhà nước (bồi dưỡng và dưỡng liêm,...) theo tính chất hoạt 
137 
động đặc thù (như phụ cấp lưu động và một số loại phụ cấp khác) và thu nhập 
so với mặt bằng đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích, động viên 
và tạo sự yên tâm công tác, cống hiến cho kiểm toán viên nhà nước. Hiện nay 
chính sách hỗ trợ cho riêng kiểm toán viên nhà nước vẫn còn thấp, đặc biệt là 
đối với đội ngũ kiểm toán viên nhà nước làm việc trong điều kiện đi công tác 
xa, dài ngày trên các địa bàn trong phạm vi cả nước lại đòi hỏi đảm bảo được 
tính độc lập, chuyên môn nghiệp vụ cao để đáp ứng được nhiệm vụ kiểm toán 
theo đặc thù riêng của hoạt động kiểm toán. Do vậy, khó thu hút và giữ được 
kiểm toán viên giỏi. 
Việc nghiên cứu, vận dụng các quy định của Nhà nước về chế độ, chính 
sách để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức, viên 
chức, kiểm toán viên nhà nước là việc làm cần thiết; đề xuất với Đảng, Nhà 
nước có cơ chế, chính sách đặc thù để đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng 
và thu hút nhân tài cho cơ quan Kiểm toán nhà nước, kiến nghị Nhà nước áp 
dụng chế độ phụ cấp đặc thù cho nghề kiểm toán, chế độ phụ cấp trách nhiệm 
cho tổ trưởng, trưởng đoàn kiểm toán. 
Cùng với việc thực hiện tốt chế độ đãi ngộ, cần hoàn thiện, mở rộng hệ 
thống các chính sách khuyến khích, tạo động lực như: 
 Ban hành và công bố công khai các chế độ khuyến khích đối với 
những cán bộ có trình độ, có thành tích trong công tác, tạo động lực thúc đẩy 
họ phát huy hơn nữa khả năng của mình và thể hiện rõ chính sách quan tâm 
cán bộ của cơ quan Kiểm toán nhà nước; xây dựng và ban hành công khai quy 
định về tuyển dụng cán bộ, theo đó có chính sách tuyển dụng để thu hút cán 
bộ có năng lực về công tác tại cơ quan Kiểm toán nhà nước; 
 Sớm đề xuất chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp với kiểm toán viên 
nhà nước nhằm tạo điều kiện cho kiểm toán viên nhà nước giảm bớt khó khăn 
khi đi công tác và cũng là biện pháp ngăn ngừa hiệu quả các hiện tượng tiêu 
cực trong hoạt động kiểm toán - một môi trường rất dễ nảy sinh tiêu cực; 
138 
đồng thời cũng có tác dụng nâng cao chất lượng kiểm toán của cơ quan Kiểm 
toán nhà nước. 
4.3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ 
4.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Kiểm toán 
nhà nước 
Đây là biện pháp cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong quá trình xây 
dựng và phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước nói chung và nâng cao chất 
lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước nói riêng. Sự lãnh đạo của Đảng thể 
hiện trước hết ở việc Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đề ra 
chiến lược toàn diện về phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước. Trong từng 
thời kỳ, Đảng đề ra phương hướng kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực 
hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước; Đảng bồi dưỡng, lựa chọn giới 
thiệu với Nhà nước những đảng viên có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức để 
bầu hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo cơ quan Kiểm toán nhà nước theo 
quy định của pháp luật; Đảng kiểm tra hoạt động của Nhà nước, của cơ quan 
Kiểm toán nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính 
sách phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước của Đảng đề ra. Qua công tác 
kiểm tra, một mặt, Đảng phát hiện, uốn nắn, giáo dục và xử lý những sai lệch, 
vi phạm; mặt khác, Đảng kiểm tra tính đúng đắn của các chủ trương, đường 
lối, chính sách do Đảng đề ra từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện,... Đó là sự 
lãnh đạo toàn diện, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của cơ quan Kiểm 
toán nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động kiểm toán nhà nước và 
cơ quan Kiểm toán nhà nước còn được thể hiện thông qua sự gương mẫu của các 
đảng viên và các tổ chức Đảng ở cơ sở trong việc tôn trọng và thực hiện nghiêm 
chỉnh pháp luật của Nhà nước. 
Trong điều kiện đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, xây dựng và 
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay, tăng cường sự 
lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Kiểm toán nhà nước cần được quan tâm 
các vấn đề sau: 
139 
Thứ nhất, lãnh đạo hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động kiểm toán 
nhà nước và cơ quan Kiểm toán nhà nước bảo đảm đầy đủ và đồng bộ cho tổ 
chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước. 
Thứ hai, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Ban cán sự Đảng Kiểm toán nhà 
nước, bảo đảm Đảng lãnh đạo toàn diện tổ chức và hoạt động của cơ quan 
Kiểm toán nhà nước để cơ quan Kiểm toán nhà nước triển khai hoạt động đúng 
định hướng, thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ được giao, 
đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc, cho sự 
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Thứ ba, Đảng, Nhà nước quan tâm đến việc sắp xếp, hoàn thiện hệ 
thống các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhà nước. Bộ Chính trị, Ban 
Bí thư xem xét để thông qua Đề án ‘Tăng cường hiệu lực của các cơ quan 
kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát và sự phối hợp giữa các cơ quan trên 
trong việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát”, nhằm nâng cao năng lực 
hoạt động của từng cơ quan; đồng thời tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa 
các cơ này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, phục vụ đắc lực 
việc kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, 
tiền và tài sản nhà nước, góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, 
thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, nâng 
cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. 
Thứ tư, lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng các quy chế, quy định về mối 
quan hệ phối hợp giữa Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự Đảng Chính phủ, 
Ban Cán sự Đảng các Bộ, ngành có liên quan và Ban Cán sự Đảng Kiểm toán 
nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp về hoạt động 
kiểm toán nhà nước và thực hiện nghiêm các kết luận, kiến nghị của cơ quan 
Kiểm toán nhà nước. 
Thứ năm, Đảng, Nhà nước quan tâm hơn nữa để hoàn thiện tổ chức, biên 
chế và hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước: Bổ sung biên chế, đảm bảo 
140 
kinh phí, phương tiện, trụ sở, thiết bị và phương tiện làm việc nhất là về công 
nghệ thông tin, để cơ quan Kiểm toán nhà nước ngày càng hoàn thành tốt hơn 
nhiệm vụ được giao; quan tâm hơn nữa đến đời sống vật chất và tinh thần đối 
với cán bộ làm công tác kiểm toán; có hình thức phù hợp để tôn vinh những 
kiểm toán viên có bản lĩnh, dũng khí, có nhiều thành tích đóng góp trong công 
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. 
4.3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ quan Kiểm toán nhà 
nước và kiểm toán viên nhà nước 
 Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ 
kiểm toán viên nhà nước, cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp 
luật về hoạt động kiểm toán nhà nước nói chung và về kiểm toán viên nhà 
nước nói riêng. 
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm toán viên nhà nước 
tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây: 
 Xác định địa vị pháp lý và thẩm quyền của kiểm toán viên nhà nước, 
những trường hợp kiểm toán viên nhà nước không được thực hiện kiểm toán 
và những hành vi bị nghiêm cấm đối với kiểm toán viên nhà nước. Xác định 
rõ khái niệm, tiêu chuẩn của các loại chức danh trong hoạt động kiểm toán 
(Trưởng đoàn, Phó trưởng đoàn kiểm toán, Tổ trưởng tổ kiểm toán) để trên cơ 
sở đó quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và chế độ phụ cấp đối 
với từng chức danh này. 
Đối với những kiểm toán viên nhà nước giữ vai trò lãnh đạo, quản lý, 
cần thực hiện cơ chế thi tuyển cạnh tranh. Những người tham gia thi tuyển 
công chức lãnh đạo phải có đủ các điều kiện về trình độ đào tạo chuyên môn, 
nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học; ưu tiên cho 
các đối tượng: Thâm niên trong ngành, có nhiều hơn một bằng đại học, hoặc 
có trình độ sau đại học. Những người trúng tuyển được bổ nhiệm giữ các chức 
vụ lãnh đạo, thời hạn bổ nhiệm là 5 năm. Sau khi hết thời hạn bổ nhiệm, họ phải 
141 
tham gia thi tuyển cạnh tranh, nếu trúng tuyển thì được bổ nhiệm lại, nếu không 
trúng tuyển thì bố trí làm công tác chuyên môn. 
 Xác định rõ cơ cấu, tiêu chuẩn chức danh để làm căn cứ tuyển dụng và bố 
trí sử dụng kiểm toán viên nhà nước. Quy định việc tuyển dụng kiểm toán viên 
nhà nước được thực hiện bằng hình thức thi tuyển cạnh tranh, việc xét tuyển chỉ 
thực hiện trong một số trường hợp đặc biệt nhằm thực hiện chính sách xã hội, 
thu hút nhân tài. Đối với những người đã được tuyển dụng kiểm toán viên nhà 
nước định kỳ 5 năm một lần tổ chức các kỳ kiểm tra sát hạch năng lực, trình độ. 
Kỳ thi này không phải cạnh tranh nhưng kiểm toán viên nhà nước nào không 
đạt yêu cầu sẽ được chuyển công tác khác có mức lương thấp hơn hoặc có thể bị 
buộc thôi việc theo quy định của Luật cán bộ, công chức. 
 Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chức danh, tiêu chuẩn theo 
các bậc kiểm toán viên nhà nước phù hợp thực tiễn và yêu cầu chuyên môn của 
từng đối tượng công chức; hoàn thiện quy định về ứng xử và đạo đức nghề 
nghiệp kiểm toán viên nhà nước. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn 
theo chức danh công chức lãnh đạo. Xây dựng chức trách, nhiệm vụ của từng 
bậc kiểm toán viên nhà nước và chế độ chính sách đãi ngộ đối với mỗi loại 
công chức đó. 
 Quy định đầy đủ các điều kiện đảm bảo cho hoạt động kiểm toán của 
cơ quan Kiểm toán nhà nước, chế độ bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp kiểm toán 
cho kiểm toán viên nhà nước. 
4.3.3. Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan 
tham mưu về công tác cán bộ của cơ quan Kiểm toán nhà nước 
 Tập trung kiện toàn đội ngũ công chức của Vụ Tổ chức cán bộ và 
những người làm công tác tổ chức cán bộ tại các đơn vị trực thuộc cơ quan 
Kiểm toán nhà nước; lựa chọn những công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có 
năng lực và kinh nghiệm để làm công tác tổ chức cán bộ. Khi đề cập đến vị 
trí, vai trò của người làm công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: 
142 
Người làm công tác cán bộ phải là người hiểu cán bộ tức là khéo dùng cán bộ, 
cất nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình cán bộ,Do vậy, việc lựa chọn, 
đào tạo, bồi dưỡng và quản lý người làm công tác tổ chức cán bộ là công việc 
hệ trọng. Ngoài tiêu chuẩn chung của người làm công tác cán bộ đòi hỏi họ 
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm giai cấp rõ ràng trong việc 
dùng người, phải thật sự trung thực, công tâm, trong sáng, có trình độ kiểm 
tra, quản lý, nhất là quản lý con người. Muốn vậy, phải chú trọng đào tạo, bồi 
dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ công chức này, đặc 
biệt là các kiến thức chuyên ngành phục vụ công tác tổ chức cán bộ như kiến 
thức về khoa học tổ chức, về tâm lý học, xã hội học, xây dựng đảng và đối với 
những người làm công tác quản lý nhân sự của cơ quan Kiểm toán nhà nước, 
là cơ quan đặc thù mang tính chuyên môn cao trong lĩnh vực kiểm tra giám 
sát ngân sách nhà nước thì cần hiểu về đặc thù của ngành cũng như đặc điểm 
của kiểm toán viên nhà nước. 
Do vậy, cần xác định công tác tổ chức cán bộ là công tác của toàn ngành; 
các cấp, các đơn vị phải thật sự quan tâm đến công tác này; phối hợp chặt chẽ với 
Vụ Tổ chức cán bộ để làm công tác tổ chức. Để triển khai có hiệu quả công tác tổ 
chức, mỗi một đơn vị cần bố trí một cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm làm 
nhiệm vụ tham mưu cho thủ trưởng đơn vị về công tác tổ chức cán bộ của đơn vị 
mình và đề xuất ý kiến với Lãnh đạo Kiểm toán nhà nước những vấn đề thuộc 
công tác tổ chức cán bộ của đơn vị. Đồng thời, phải nâng cao năng lực của đội 
ngũ làm công tác tổ chức cán bộ trong các cơ quan tham mưu về công tác tổ chức 
cán bộ; có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn những người làm công tác tổ 
chức cán bộ có kinh nghiệm, có năng lực, chủ động, sáng tạo. 
Xây dựng và thực hiện chế độ trách nhiệm trong lựa chọn và sử dụng 
kiểm toán viên nhà nước để “phòng” và “chữa” những hiện tượng chủ quan 
trong việc dùng người. Chế độ trách nhiệm trong lựa chọn và sử dụng kiểm 
toán viên nhà nước đòi hỏi các chủ thể “sử dụng kiểm toán viên nhà nước” 
143 
phải chịu trách nhiệm rất cao về các hoạt động của mình khi làm công tác cán 
bộ. “Ai kiểm tra người ấy chịu trách nhiệm; ai giới thiệu thì người ấy chịu 
trách nhiệm; ai cắt cử thì người ấy cũng phải chịu trách nhiệm”. Điều này có 
nghĩa là: ai kiểm tra không sâu sát, ai lựa chọn giới thiệu người kém phẩm 
chất và năng lực,... đều phải chịu hình thức kỷ luật nhất định tuỳ theo mức độ 
sai lầm của họ. 
4.3.4. Phát triển đồng bộ và hiện đại cơ sở vật chất, đẩy mạnh nghiên 
cứu khoa học và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán 
Đảm bảo đầy đủ, kịp thời phương tiện, điều kiện kinh phí và cơ sở vật chất 
là một trong những nhân tố quyết định để bảo đảm tính độc lập, hiệu lực và hiệu 
quả của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Do vậy, cần quan tâm thực hiện tốt các 
nhiệm vụ sau đây: 
Thứ nhất, phát triển đồng bộ và hiện đại cơ sở vật chất của cơ quan 
Kiểm toán nhà nước 
 Xây dựng, trang bị đầy đủ hệ thống trụ sở, phương tiện làm việc cho cơ 
quan Kiểm toán nhà nước ở trung ương và các địa phương theo tiến độ phát 
triển của cơ quan Kiểm toán nhà nước, chú trọng việc đầu tư thiết bị phục vụ 
công tác kiểm toán. Phấn đấu đến hết năm 2018 xây dựng xong và cơ bản 
trang bị đầy đủ, đồng bộ trang thiết bị, phương tiện làm việc tại tất cả các đơn 
vị trực thuộc cơ quan Kiểm toán nhà nước theo tiêu chuẩn, định mức Chính 
phủ quy định. 
 Phối hợp với Bộ Tài chính và các đơn vị có liên quan nghiên cứu, xây 
dựng và ban hành các tiêu chuẩn, định mức sử dụng kinh phí, ngân sách và 
phương tiện phù hợp với tính chất và đặc thù của hoạt động kiểm toán và 
chức trách, nhiệm vụ của kiểm toán viên nhà nước. Đảm bảo đầy đủ kinh phí 
cho các hoạt động kiểm toán, có chế độ đãi ngộ thích hợp cho kiểm toán viên 
nhà nước; đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và các phương tiện, 
máy tính, công cụ trợ giúp hoạt động kiểm toán. 
144 
Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng công 
nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán 
 Đẩy mạnh hoạt động khoa học với phát triển công nghệ thông tin trong 
hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước nhằm tạo ra một bước phát triển 
vượt bậc về hoạt động quản lý và hoạt động chuyên môn kiểm toán dựa trên 
ứng dụng công nghệ thông tin. Gắn hoạt động nghiên cứu khoa học với đào 
tạo, bồi dưỡng kiểm toán viên nhà nước và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa 
học vào thực tiễn kiểm toán. Nghiên cứu hoàn thiện các mô hình, phương 
pháp quản lý, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán. 
 Để phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu hội nhập 
quốc tế, việc ứng dụng công nghệ thông tin là yếu tố quan trọng. Phát triển ứng 
dụng công nghệ thông tin trong cơ quan Kiểm toán nhà nước từng bước đáp ứng 
yêu cầu hiện đại hoá các hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước, gồm: 
 Cơ bản hoàn thiện xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin trong phạm vi 
toàn ngành, đảm bảo phương tiện thông tin và truyền thông phục vụ quản lý 
điều hành và hoạt động kiểm toán. Củng cố và nâng cấp hệ thống mạng diện 
rộng, đảm bảo sự hoạt động ổn định thông suốt của hệ thống mạng và an toàn 
bảo mật hệ thống thông tin dữ liệu. 
 Xây dựng, hoàn thiện và đưa vào khai thác có hiệu quả hệ thống cơ sở dữ 
liệu, thông tin kiểm toán, các phần mềm ứng dụng phục vụ công tác quản lý, 
điều hành và hoạt động kiểm toán, hệ thống giao ban trực tuyến toàn ngành. 
 Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đồng bộ; bồi dưỡng đào 
tạo kiến thức tin học cho cán bộ, công chức tiếp cận sử dụng công nghệ mới 
trong công việc thường xuyên, đáp ứng yêu cầu cao về chất lượng và hiệu quả. 
 Phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan Kiểm toán Nhà 
nươc đồng bộ và hiện đại, tạo bước đột phá trong ứng dụng công nghệ thông 
tin phục vụ hoạt động kiểm toán, đưa ứng dụng công nghệ thông tin ngang 
tầm với các cơ quan Kiểm toán nhà nước trên thế giới. 
145 
 4.3.5. Tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về lĩnh vực kiểm toán 
nhà nước 
 Đối với nước ta, hoạt động kiểm toán nhà nước còn khá mới mẻ; cơ 
quan Kiểm toán nhà nước mới được thành lập (từ năm 1994), do vậy, chưa có 
nhiều kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động kiểm toán, nhất là loại hình kiểm 
toán hoạt động; nhiều việc vừa làm, vừa đúc rút kinh nghiệm. Trong khi đó, 
trên thế giới, hoạt động kiểm toán nhà nước và cơ quan Kiểm toán nhà nước 
đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm, nhiều quốc gia có hoạt động kiểm 
toán nhà nước rất phát triển; do vậy, tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế 
về kiểm toán nhà nước là một giải pháp quan trọng để phát triển cơ quan 
Kiểm toán nhà nước trở thành cơ quan kiểm tra tài chính công có trách nhiệm 
và uy tín, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất 
nước, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. 
Để tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về kiểm toán nhà nước, cần 
duy trì, củng cố và tăng cường phát triển các mối quan hệ hợp tác song 
phương và đa phương sẵn có và mang tính truyền thống với các thành viên 
của Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán Tối cao Châu Á (ASOSAI) và Tổ chức 
Quốc tế các Cơ quan Kiểm toán Tối cao (INTOSAI); đa dạng hóa các loại 
hình hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới, các tổ chức quốc tế 
về lĩnh vực kiểm toán nhà nước; khai thác có hiệu quả các thành tựu từ sự trợ 
giúp của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế phù hợp với sự phát triển của cơ 
quan Kiểm toán nhà nước Việt Nam nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực 
hiện nhiệm vụ, chất lượng hoạt động kiểm toán và trình độ của kiểm toán viên 
nhà nước. Tăng cường phối hợp, tổ chức các cuộc kiểm toán chung với các cơ 
quan Kiểm toán tối cao khác trên thế giới phù hợp với yêu cầu hợp tác và hội 
nhập quốc tế hiện nay. 
Việc tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về kiểm toán nhà nước 
được thực hiện theo hai giai đoạn: 
146 
 Giai đoạn hội nhập tích cực: 
Tiếp tục duy trì và củng cố các mối quan hệ và hợp tác hiện có, phát triển 
các hình thức hợp tác và đối tác mới; tích cực thực hiện các nghĩa vụ của 
thành viên tổ chức INTOSAI và ASOSAI; cử cán bộ trực tiếp tham gia các 
nhóm làm việc của INTOSAI và ASOSAI; tham gia làm giảng viên cho các 
khóa đào tạo về kiểm toán trong khu vực; đẩy mạnh thực hiện chương trình 
hợp tác song phương, chú trọng việc ký kết các thoả thuận hợp tác với các n-
ước; tham gia tích cực vào các hoạt động đào tạo quốc tế và các cuộc kiểm 
toán phối hợp với nước ngoài đối với các chương trình, dự án ODA; chủ trì và 
tổ chức hội thảo, đào tạo quốc tế tại Việt Nam; khai thác có hiệu quả các hỗ 
trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế, Chính phủ các nước. 
 Giai đoạn hội nhập, hợp tác sâu rộng: 
Cử cán bộ tham gia vào các Uỷ ban của INTOSAI và ASOSAI; tổ chức 
Đại hội các Cơ quan Kiểm toán Tối cao châu Á (ASOSAI) vào năm 2018 tại 
Việt Nam, hoàn thành vai trò là Chủ tịch ASOSAI giai đoạn 2018 - 2021. 
Nâng cao hiệu lực hợp tác và ký kết các hiệp định song phương, hiệu quả của 
các dự án hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế, Chính phủ các nước. 
147 
KẾT LUẬN 
Chất lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước là 
một trong những vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết hiện nay của cơ quan 
Kiểm toán nhà nước. Nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước là 
tăng cường số lượng với cơ cấu hợp lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo 
đức nghề nghiệp trong sáng, tinh thông nghiệp vụ chuyên môn, chuyên 
nghiệp, tương xứng với yêu cầu của nghề nghiệp kiểm toán nhà nước và đáp 
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đề tài “Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên 
của Kiểm toán nhà nước” được nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng chất 
lượng đội ngũ kiểm toán viên của cơ quan Kiểm toán nhà nước trong những 
năm qua, tìm ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân; đề xuất các giải pháp 
nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên của cơ quan Kiểm toán nhà nước. 
Đề tài đã đạt được những kết quả chính sau đây: 
1. Thông qua việc nghiên cứu một số công trình khoa học trong và 
ngoài nước về những vấn đề liên quan tới nội dung đề tài luận án và khảo cứu 
tình hình thực tiễn của Việt Nam, nghiên cứu sinh đã khái quát thành một số 
vấn đề có tính chất lý luận - thực tiễn chung về chất lượng đội ngũ kiểm toán 
viên nhà nước, làm cơ sở cho việc nghiên cứu đánh giá thực trạng chất lượng 
đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Việt Nam, như: đặc điểm của hoạt động 
kiểm toán nhà nước; vai trò của kiểm toán viên trong việc thực hiện các 
nhiệm vụ kiểm toán; chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước được xác 
định bởi các tiêu chí nào; vai trò của công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, 
luân chuyển công tác của kiểm toán viên đối với chất lượng đội ngũ kiểm 
toán viên nhà nước; chính sách nhân sự trong việc nâng cao chất lượng đội 
ngũ kiểm toán viên nhà nước. 
2. Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước ở 
Việt Nam; phân tích được những kết quả đạt được trong công tác tuyển dụng, 
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng quản lý đội ngũ kiểm toán viên nhà nước; đồng 
148 
thời cũng phân tích những hạn chế, bất cập với yêu cầu thực tế. Tác giả rất coi 
trọng vấn đề cơ cấu của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước, các yếu tố ảnh 
hưởng đến chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước và vấn đề đào tạo, bồi 
dưỡng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước nên đã dành nhiều trang viết cho hai 
lĩnh vực này để phân tích các nguyên nhân chủ quan và khách quan của 
những thành công và hạn chế, các bài học kinh nghiệm cho việc nâng cao chất 
lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. 
3. Đặc biệt, nghiên cứu sinh đã dành nhiều tâm huyết và trí lực cho 
Chương 4. Trong chương này, nghiên cứu sinh đã đề xuất định hướng phát 
triển chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước, làm nổi bật vai trò của việc 
xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, tập trung chủ yếu vào đội ngũ kiểm toán 
viên nhà nước trong việc triển khai thực hiện chiến lược phát triển cơ quan 
Kiểm toán nhà nước. Nghiên cứu sinh đã lý giải các vấn đề liên quan tới 6 
nhóm giải pháp lớn để đảm bảo chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước 
nhằm thực hiện thành công những nhiệm vụ chiến lược phát triển cơ quan 
Kiểm toán nhà nước đến năm 2020. 
Việc nghiên cứu đề tài đã đạt được một số kết quả nêu trên, nhưng 
để các giải pháp về đảm bảo chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước 
thực sự đi vào cuộc sống góp phần tích cực vào việc xây dựng đội ngũ 
kiểm toán viên nhà nước ngày càng vững mạnh, có chất lượng thì cần lưu ý 
các vấn đề sau đây: 
 Thứ nhất, Cơ quan Kiểm toán nhà nước cần quan tâm đặc biệt đối 
với việc xây dựng, ban hành, hoàn thiện đầy đủ và đồng bộ hệ thống văn bản 
pháp lý của ngành và các quy chế quy định về tổ chức, hoạt động kiểm toán, 
nghiệp vụ chuyên môn kiểm toán, như: các Quy chế, quy trình, chuẩn mực 
kiểm toán; các văn bản về tổ chức cán bộ, chức năng nhiệm vụ các đơn vị; 
phân cấp quản lý cán bộ; đặc biệt sớm xây dựng và hoàn thiện các văn bản về 
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng kiểm toán viên nhà nước, luân chuyển công 
tác cho phù hợp với Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các nghị 
149 
quyết, nghị định, thông tư hướng dẫn liên quan, làm cơ cở pháp lý cho việc tổ 
chức, thực hiện, quản lý, kiểm tra, kiểm soát các mặt công tác nêu trên. 
 Thứ hai, Cần làm tốt hơn nữa công tác tư tưởng để toàn ngành, từ 
lãnh đạo đến công chức, kiểm toán viên nhà nước nhận thức sâu sắc về tầm 
quan trọng, sự cần thiết và tính cấp bách của vấn đề nâng cao chất lượng đội 
ngũ kiểm toán viên nhà nước; nhận biết được những cơ hội, nguy cơ và thách 
thức trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. Từ đó 
có sự chuyển biến tích cực về tư duy, nhận thức và hành động trong tất cả các 
khâu công tác liên quan tới việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước, 
thì chất lượng các khâu công tác mới được nâng cao, góp phần quyết định cho 
việc đảm bảo chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. 
Thứ ba, Các kết quả được nghiên cứu trong giải pháp cần nhận được 
sự đồng thuận về nhận thức và sự ủng hộ thống nhất trong hành động và chỉ 
đạo của các cấp lãnh đạo của toàn ngành và sự ủng hộ của đội ngũ kiểm toán 
viên nhà nước. 
 Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công việc, lãnh đạo các cấp của cơ 
quan Kiểm toán nhà nước cần đặc biệt quan tâm tới trách nhiệm phối hợp 
trong công tác xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước giữa các đơn vị 
trong toàn ngành từ Vụ Tổ chức cán bộ, Trung tâm KH&BDCB, Trung tâm 
Tin học đến các đơn vị chuyên môn và các đơn vị khác. 
Thứ tư, Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc, nhất là đơn vị Kiểm toán nhà 
nước chuyên ngành, Kiểm toán nhà nước khu vực phải thực sự chủ động, tích 
cực và sâu sát tất cả các khâu xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước, nhất 
là việc phân tích, đánh giá nhu cầu tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng kiểm toán 
viên nhà nước của đơn vị để xây dựng kế hoạch tuyển dụng, nội dung chương 
trình, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng hoặc đề xuất với ngành đào tạo, bồi dưỡng 
đáp ứng nhu cầu thiết thực của đơn vị./. 
150 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
1. Vương Đình Huệ, Hà Thị Mỹ Dung (2002), "Hà Nội: Thị trường dịch vụ 
kế toán và kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế", 
Tạp chí Kiểm toán, (3/37), tr.3-6 
2. Hà Thị Mỹ Dung (2006), "Hà Nội: Kiểm toán hoạt động và chiến lược 
thực hiện kiểm toán hoạt động", Tạp chí Kiểm toán, (2/63), tr.21-22. 
3. Hà Thị Mỹ Dung (2007), "Hà Nội: Vai trò của Tổng KTNN Ca-na-đa 
với việc tăng cường trách nhiệm giải trình của Chính phủ", Tạp chí 
Kiểm toán, (1+2), tr.36-37. 
4. Hà Thị Mỹ Dung (2008), "Hà Nội: Kiểm toán Môi trường-Nhu cầu cấp 
bách để bảo vệ môi trường và tư duy hành động của Kiểm toán nhà 
nước", Tạp chí Kiểm toán, (7), tr.13-16. 
5. Hà Thị Mỹ Dung (2010), "Hà Nội: Thông tin đối ngoại trên Tạp chí Kiểm 
toán: Chiều sâu, chất lượng và hiệu quả", Tạp chí Kiểm toán, (7), 
tr.25-28. 
6. Hà Thị Mỹ Dung (2014), "Hà Nội: Một số giải pháp nâng cao chất lượng 
đào tạo công chức, kiểm toán viên nhà nước", Tạp chí Tài chính, 
(11/601), tr.99-100. 
7. Hà Thị Mỹ Dung (2014), "Hà Nội: Đạo đức nghề nghiệp và chất lượng đội 
ngũ kiểm toán viên nhà nước", Tạp chí Kinh tế và Quản lý, (12), tr.42-
45. 
8. Hà Thị Mỹ Dung (2014), "Hà Nội: Nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm 
toán viên đáp ứng yêu cầu hiến định của Kiểm toán nhà nước", Tạp 
chí Kế toán & Kiểm toán, (10), tr.4-6. 
151 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Alvin A.Arens (1995), Kiểm toán, NXB Thống kê, Hà Nội. 
2. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Nghị định 
số 70/CP ngày 11/7/1994 về việc thành lập cơ quan Kiểm toán nhà 
nước, Hà Nội. 
3. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Tờ trình 
Quốc hội về Dự án Luật Kiểm toán nhà nước, Hà Nội. 
4. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị định 
số 91/2008/NĐ-CP ngày 18/8/2008 về công khai kết quả kiểm toán 
và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán 
nhà nước, Hà Nội. 
5. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị 
quyết số 01/NQ-CP ngày 12/5/2009 ban hành Chiến lược quốc gia 
phòng, chống tham nhũng đến năm 2020,, Hà Nội. 
6. Đinh Tiến Dũng (2013), "Nâng cao vai trò của cơ quan Kiểm toán nhà 
nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng đáp ứng yêu cầu 
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Tạp 
chí Cộng sản, (5), tr.27-29. 
7. Đỗ Bình Dương (2000), "Tăng cường hoạt động của cơ quan Kiểm 
toán nhà nước, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức 
chiến đấu của Đảng”, Báo Nhân dân, ngày 28/12/2000. 
8. Đỗ Bình Dương (2004), Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành chuẩn 
mực đạo đức nghề nghiệp và văn hoá ứng xử của kiểm toán viên 
nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Kiểm toán nhà 
nước, Hà Nội. 
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc 
lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội. 
152 
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc 
lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban 
Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban 
Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc 
lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban 
Chấp hành Trung ương khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban 
Chấp hành Trung ương khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban 
Chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban 
Chấp hành Trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, 
Hà Nội. 
20. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (1997), Kiểm toán, NXB Tài 
chính, thành phố Hồ Chí Minh. 
21. Đại hội đồng Liên hiệp quốc (2011), Nghị quyết A/66/209 về thúc đẩy 
tính hiệu lực, trách nhiệm giải trình, tính hiệu quả và minh bạch 
của quản lý công bằng cách tăng cường các cơ quan kiểm toán tối 
cao, Hà Nội. 
22. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình lý luận nhà 
nước và pháp luật, Tập 1, Hà Nội. 
153 
23. Học viện Tài chính (2007), Giáo trình lý thuyết kiểm toán, NXB Tài chính, 
Hà Nội. 
24. Vương Đình Huệ (2001), Giáo trình kiểm toán, NXB Tài chính, Hà Nội. 
25. Vương Đình Huệ (2006), Định hướng chiến lược và những giải pháp xây 
dựng, phát triển hệ thống kiểm toán ở Việt Nam trong thời kỳ 
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, Đề tài nghiên cứu 
khoa học độc lập cấp Nhà nước, Kiểm toán nhà nước, Hà Nội. 
26. Vương Đình Huệ (2009), Giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của Kiểm toán 
nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, Đề tài Nghiên cứu khoa 
học cấp bộ, Kiểm toán nhà nước, Hà Nội. 
27. Vương Đình Huệ (2010), "Ban hành Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà 
nước đến năm 2020 là sự kiện có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến 
trình phát triển của kiểm toán nhà nước", Tạp chí Nghiên cứu khoa học 
kiểm toán, (5), tr.21-24. 
28. Vương Đình Huệ (2010), "Chiến lược phát triển cơ quan Kiểm toán nhà 
nước đến năm 2020, phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế - 
xã hội của đất nước”, Báo Nhân dân, ngày 09/7/2010. 
29. Vương Đình Huệ (2012), Vai trò của kiểm toán nhà nước Việt Nam trong 
hội nhập và phát triển, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nội. 
30. Nguyễn Đình Hựu (1998), Xây dựng phương thức và nội dung, chương 
trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ công chức Kiểm toán 
nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Kiểm toán nhà 
nước, Hà Nội. 
31. Nguyễn Đình Hựu (1999), "Về một chiến lược phát triển nguồn nhân lực 
kế toán, kiểm toán", Tạp chí Kế toán, (77), tr.32-35. 
32. Kiểm toán nhà nước (1995), Tăng cường các thể chế Kiểm toán nhà 
nước ở các nước đang phát triển, Tài liệu dịch, Hà Nội. 
33. Kiểm toán nhà nước (1996), Cơ sở khoa học để xây dựng chức danh, 
tiêu chuẩn và cơ chế thi tuyển các chức danh công chức Kiểm 
toán nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội. 
154 
34. Kiểm toán nhà nước (2001), So sánh quốc tế về địa vị pháp lý và các 
chức năng của cơ quan Kiểm toán tối cao, Tài liệu dịch, Hà Nội. 
35. Kiểm toán nhà nước (2003), Những điều khoản quy định về địa vị pháp 
lý và tính độc lập của kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp của 
một số nước trên thế giới, Tài liệu dịch, Hà Nội. 
36. Kiểm toán nhà nước (2003), Chức năng nhiệm vụ và địa vị pháp lý của 
cơ quan Kiểm toán trong cơ cấu nhà nước, Tài liệu dịch, Hà Nội. 
37. Kiểm toán nhà nước (2003), Luật Kiểm toán nhà nước của một số nước 
trên thế giới, Tài liệu dịch, Hà Nội. 
38. Kiểm toán nhà nước (2004), Địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước 
trong Nhà nước pháp quyền, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nội. 
39. Kiểm toán nhà nước (2004), 10 năm xây dựng và phát triển kiểm toán 
nhà nước Việt Nam, Hà Nội. 
40. Kiểm toán nhà nước (2005), Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong nền 
kinh tế thị trường, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nội. 
41. Kiểm toán nhà nước (2006), Định hướng chiến lược và giải pháp phát 
triển kiểm toán nhà nước Việt Nam, Đề tài khoa học cấp nhà 
nước, Hà Nội. 
42. Kiểm toán nhà nước (2008), Đề án trình Bộ Chính trị về tăng cường 
năng lực hoạt động của kiểm toán và các cơ quan thanh tra, 
kiểm tra, giám sát của Đảng và Nhà nước, Hà Nội. 
43. Kiểm toán nhà nước (2009), Tờ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội về 
Chiến lược phát triển kiểm toán nhà nước giai đoạn 2009-2015 
và tầm nhìn đến năm 2020, Hà Nội. 
44. Kiểm toán nhà nước (2009), Kiểm toán nhà nước Việt Nam - 15 năm xây 
dựng và phát triển, Hà Nội. 
45. Kiểm toán nhà nước (2012), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Kiểm 
toán nhà nước và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà 
nước, Hà Nội. 
46. Kiểm toán nhà nước (2012), Địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước và 
155 
Tổng kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nội. 
47. Kiểm toán nhà nước (2013), Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng 
công chức, Kiểm toán viên theo định hướng Chiến lược phát triển kiểm 
toán nhà nước đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 
48. Kiểm toán nhà nước (2014), Kiểm toán nhà nước Việt Nam - 20 năm xây 
dựng và phát triển, Hà Nội. 
49. Kiểm toán nhà nước (2014), Chỉ thị số 53-CT/ĐU “về nâng cao chất 
lượng hoạt động của chi bộ tạm thời đối với đoàn kiểm toán”, 
Hà Nội. 
50. Kiểm toán nhà nước (2015), Báo cáo tổng kết hoạt động giai đoạn 2010-
2015, Hà Nội. 
51. Bùi Văn Mai (2010), “Ngành kiểm toán đang phải đối mặt với tình trạng 
thiếu hụt nhân lực đạt trình độ quốc tế”, Báo Kinh tế Việt Nam, 
(8), tr.11-13. 
52. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
53. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật (2007), Giáo trình Quản lý nhà nước về 
kinh tế, xã hội, Hà Nội. 
54. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2000), Cẩm nang kiểm toán viên Kiểm 
toán nhà nước, Hà Nội. 
55. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2002), Phát huy tính tích cực xã hội của đội 
ngũ cán bộ nước ta hiện nay, Hà Nội. 
56. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2009), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển 
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước, Hà Nội. 
57. Vương Hữu Nhơn (1998), Cơ sở khoa học để xây dựng chức danh, tiêu 
chuẩn và cơ chế thi tuyển các chức danh công chức Kiểm toán 
nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Kiểm toán nhà 
nước, Hà Nội. 
156 
58. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 
1992, Hà Nội. 
59. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Ngân 
sách nhà nước, Hà Nội. 
60. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật sửa 
đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước, Hà Nội. 
61. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị quyết 
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, Hà Nội. 
62. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Ngân 
sách nhà nước sửa đổi, Hà Nội. 
63. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Kiểm 
toán nhà nước, Hà Nội. 
64. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật 
Phòng, chống tham nhũng, Hà Nội. 
65. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Thực 
hành tiết kiệm, chống lãng phí, Hà Nội. 
66. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán 
bộ, công chức, Hà Nội. 
67. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp 
năm 2013, Hà Nội. 
68. Nguyễn Quang Quynh (2001), Lý thuyết kiểm toán, NXB Tài chính, Hà 
Nội. 
69. Đặng Văn Thanh (2006), Vai trò vị trí của kiểm toán nhà nước trong 
việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội và Hội đồng 
nhân dân, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, Kiểm toán 
nhà nước, Hà Nội. 
70. Đặng Văn Thanh (2014), Giải pháp tăng cường chất lượng công tác 
kiểm soát đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên nhà nước, Đề tài 
nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Kiểm toán nhà nước, Hà Nội. 
157 
71. Thủ tướng Chính phủ (1995), Quyết định 61/TTg ban hành Điều lệ về tổ 
chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước, Hà Nội. 
72. Đoàn Xuân Tiên (2013), Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào 
tạo, bồi dưỡng công chức, kiểm toán viên theo định hướng Chiến 
lược phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước đến năm 2020, Đề 
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Kiểm toán nhà nước, Hà Nội. 
73. Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao - INTOSAI (1997), 
Tuyên bố Lima về hướng dẫn các nguyên tắc kiểm toán (sửa đổi, 
bổ sung năm 2008). 
74. Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao - INTOSAI (2008), 
Nâng cao năng lực cho các cơ quan Kiểm toán nhà nước. 
75. Trung tâm từ điển học (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển bách 
khoa, Hà Nội. 
76. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2003), Giáo trình lý thuyết kiểm 
toán, NXB Tài chính, Hà Nội. 
77. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2011), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
78. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2005), Nghị quyết số 916/2005/NQ-
UBTVQH11 về tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nước, Hà Nội. 
79. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2010), Nghị quyết số 927/2010/NQ-
UBTVQH12 về việc ban hành chiến lược phát triểm Kiểm toán 
nhà nước đến năm 2020, Hà Nội. 
80. Nguyễn Hữu Vạn (2014), "Kiểm toán nhà nước một thiết chế bảo đảm 
tính dân chủ trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Pháp luật, (5), tr.17-19. 
81. Wang Chang Song (2004), Khái quát về pháp luật kiểm toán Cộng hòa 
nhân dân Trung Hoa, Tham luận, Trung Hoa. 
Tiếng Anh 
82. Australian National Audit Office (2013), An introduction on Australian 
National Audit Office, Australia. 
158 
83. Board of Audit and Inspection(2012), Anual Report, Korea. 
84. Board of Audit (2013), Report on Auditors, Japan. 
85. International Organisation of Supreme Audit Institutions (2001), 
Independence of SAIs Project, Final Task Force Report, Austria. 
86. International Organisation of Supreme Audit Institutions (2001), 
Mandates of Supreme Audit Institutions, Austria. 
87. International Organisation of Supreme Audit Institutions (2012), 
Human Resourse Management - A guide for SAIs, Austria. 
88. International Organisation of Supreme Audit Institutions (2013), 
International Standards of Supreme Audit Institution, Austria. 
89. Office of the Auditor General of Canada (2013), Report on the staff, Canada. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_an_chat_luong_doi_ngu_kiem_toan_vien_cua_kiem_toan_nha.pdf luan_an_chat_luong_doi_ngu_kiem_toan_vien_cua_kiem_toan_nha.pdf