Luận án Chế định ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm 2014, những vấn đề lý luận và thực tiễn

Ly hôn dưới góc độ xã hội là một hiện tượng xã hội nhưng dưới góc độ pháp lý thì ly hôn là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng theo bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật của TA. Trong Luật HN&GĐ thì Ly hôn là một chế định pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn giữa vợ chồng. Trong đó, bao gồm tất cả các vấn đề về ly hôn như quyền yêu cầu ly hôn, căn cứ ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn (bao gồm quan hệ nhân thân giữa vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, phân chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn, cấp dưỡng), trình tự thủ tục ly hôn. Là một chế định pháp luật, chế định ly hôn có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống. Đặc biệt, với tình trạng ly hôn diễn ra nhiều như hiện nay thì đây là chế định ứng dụng nhiều trong thực tiễn. Theo sự phát triển của tình hình kinh tế, xã hội, sự thay đổi của quan hệ HN&GĐ theo thời gian, pháp luật về ly hôn ở nước ta đã nhiều lần sửa đổi. Qua mỗi lần sửa đổi, bổ sung, pháp luật HN&GĐ ở nước ta đã dần dần, từng bước hoàn thiện. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có rất nhiều quy định tiến bộ, bắt kịp với xu thế phát triển mọi mặt ở trong nước và quốc tế. Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua rất chú trọng đến việc cải cách tư pháp, trong đó ngoài việc hoàn thiện pháp luật nội dung thì cũng đã có nhiều biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời trong bối cảnh nước ta đang ở giai đoạn phát triển nóng về kinh tế, xã hội. Tình trạng ly hôn ngày càng tiến triển theo chiều hướng tăng nhanh về số lượng, phức tạp về tính chất vụ việc. Nếu trước đây, các vụ án ly hôn chủ yếu là yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con thì hiện nay rất nhiều các vụ án ly hôn yêu cầu giải quyết cùng lúc toàn bộ các vấn đề về tình cảm, con cái, tài sản. Các tranh chấp ly hôn cũng ngày càng phức tạp và gay gắt hơn. Trong các vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản thì tính chất các loại tài sản cũng đa dạng hơn, khó giải quyết hơn. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có rất nhiều quy định mới, tiến bộ hơn, sát thực tiễn hơn. Cùng với những quy định mới, tiến bộ thì các nội dung của chế định ly hôn cũng được quy định rõ ràng hơn, thống nhất hơn nên việc áp dụng cũng dễ dàng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những điểm còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn. Qua nghiên cứu, LA đã phần nào làm rõ một số vấn đề lý luận về chế định ly hôn, xây dựng một số khái niệm mới, đưa ra quan điểm dựa trên luận cứ khoa học. Ngoài ra, LA cũng đã nghiên cứu pháp luật nội dung, cụ thể là chế định ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014 để từ đó phát hiện những vấn đề còn bất cập trong nội dung chế định ly hôn cũng như trong pháp luật có liên quan. Bên cạnh những điểm mới, tiến bộ thì Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn còn nhiều quy định chưa phù hợp, nhiều nội dung còn chưa có quy định cụ thể. Một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi giải quyết các vụ ly hôn thì trong chế định ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn chưa có quy định và cũng chưa có văn bản hướng dẫn nào hướng dẫn cụ thể. Do đó, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về ly hôn, nuôi con và phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn vẫn gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn, NCS cũng mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện chế định ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014. NCS hy vọng rằng, các kết quả nghiên cứu của NCS có thể đáp ứng được mục tiêu đã đề ra và trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều công trình nghiên cứu sâu hơn về các nội dung của chế định ly hôn để làm tiền đề cho việc sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ trong thời gian tới.

docx166 trang | Chia sẻ: Minh Bắc | Ngày: 16/01/2024 | Lượt xem: 102 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chế định ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm 2014, những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hệ giữa cha, mẹ và con là chưa hợp lý. Về kỹ thuật làm luật, nhà làm luật muốn đưa toàn bộ các vấn đề về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con về chung một chương để thấy rằng quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con kể cả trong thời kỳ hôn nhân hay khi đã ly hôn là như nhau. Tuy nhiên, việc quy định như vậy dẫn đến sự thiếu đồng bộ của Mục 1 Chương IV về ly hôn. Mục 1 Chương IV quy định về ly hôn, các hậu quả pháp lý khi vợ chồng ly hôn nhưng bỏ lại hậu quả pháp lý về con. Việc sắp xếp như vậy là chưa hợp lý. Trong Chương Ly hôn cần quy định riêng biệt và đầy đủ quyền yêu cầu ly hôn, căn cứ ly hôn, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn, chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn, giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng đối với người thứ ba khi ly hôn. Quy định tất cả các vấn đề về ly hôn trong cùng một chương giúp việc tra cứu dễ dàng, áp dụng dễ dàng và nhất quán, logic hơn. Về phần này, kỹ thuật làm luật trong Luật HN&GĐ năm 2000 có phần hợp lý hơn khi đưa Điều 92, Điều 93, Điều 94 về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn vào Chương 10 Ly hôn. Một đạo luật ra đời, không chỉ phục vụ nhu cầu áp dụng pháp luật của cơ quan tư pháp mà còn phục vụ nhu cầu tra cứu, tìm hiểu để thực hiện pháp luật của người dân. Do đó, về mặt kỹ thuật làm luật, tiêu chí xây dựng các QPPL một cách dễ hiểu, thống nhất và dễ tra cứu là rất quan trọng. Bởi lẽ, tiêu chí này giúp cho người dân dễ hiểu, dễ tra cứu góp phần thực hiện pháp luật đúng, đầy đủ hơn. Mặt khác, chương về quan hệ giữa cha mẹ và con cần phải đặt lên trước chương về ly hôn, ngay sau chương quan hệ giữa vợ và chồng. Xét theo tính hợp lý về mặt logic: Kết hôn làm phát sinh quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, sau cùng mới là ly hôn chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng. 4.2.3.2. Về phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn So với các đạo luật về HN&GĐ trước đây của Nhà nước ta thì Luật HN&GĐ năm 2014 có những tiến bộ trong quy định chế độ tài sản của vợ chồng. Theo đó, Luật HN&GĐ năm 2014 công nhận hai chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định) và chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. Vợ chồng có quyền lựa chọn chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Điều 7 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản chung nhưng thỏa thuận này bị TA tuyên bố vô hiệu". Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 khuyến khích vợ chồng thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn. Quy định này xuất phát từ tinh thần tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong các quan hệ dân sự và tôn trọng quyền tự định đoạt về tài sản của chủ sở hữu. Việc cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thể hiện sự đổi mới trong tư duy lập pháp của các nhà làm luật. Việc thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng không chỉ đảm bảo quyền tự định đoạt tài sản của vợ, chồng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho TA hoặc cơ quan Nhà nước khác trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng. a. Phân chia tài sản chung của vợ chồng có lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận Quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng còn một số quy định chưa hợp lý, cần sửa đổi, bổ sung. Cụ thể như sau: Thứ nhất, Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn". Quy định này được hiểu là nếu vợ chồng thỏa thuận áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận đó phải được lập trước khi kết hôn. Chế độ tài sản của vợ chồng được xác lập kể từ khi nam nữ chính thức là vợ chồng, tức là văn bản thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng chỉ có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, về kỹ thuật làm luật thì câu chữ trong quy định này dễ dẫn đến hiểu lầm giữa thời điểm "lập" văn bản thỏa thuận và thời điểm "xác lập" chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Bởi lẽ, người dân không phải ai cũng có thể phân biệt và hiểu được các thuật ngữ pháp lý này. Mặt khác, Điều 47 đang trộn lẫn quy định về hình thức văn bản thỏa thuận chế độ tài sản vợ chồng trong một khoản, mục với thời điểm lập thỏa thuận và xác lập chế độ tài sản làm cho việc tra cứu khó khăn hơn. Do đó, NCS kiến nghị sửa Điều 47 như sau: "1. Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận thì thoả thuận này phải được lập trước khi kết hôn và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký kết hôn. 2. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng phải được công chứng hoặc chứng thực mới có hiệu lực pháp luật.". Thứ hai, thỏa thuận chế độ tài sản bản chất là một dạng giao dịch dân sự. Trong đó, các bên tham gia giao dịch dân sự có quyền tự thỏa thuận với nhau với điều kiện các thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và không được xâm hại đến lợi ích của người khác. Theo Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014, vợ chồng có thể thỏa thuận chế độ tài sản chung như sau: "a) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; b) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung; c) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó; d) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng." Theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật HN&GĐ thì khi TA giải quyết vụ án ly hôn có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, cần phải xem xét xem vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản hay không. Nếu có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng theo luật định. Khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 cũng hướng dẫn: “1. Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì TA phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà TA xử lý như sau: a) Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị TA tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn; b) Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị TA tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật HN&GĐ để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn”. Khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 quy định: “Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì TA xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn”. Như vậy, theo tinh thần Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 thì khi nào có đương sự yêu cầu, TA mới được xem xét và tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu. Vấn đề đặt ra là, khi vợ chồng yêu cầu ly hôn, chia tài sản chung khi ly hôn mà không có ai yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu, mặc dù thỏa thuận này có căn cứ là vô hiệu do trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba thì TA có quyền quyết định tự mình tuyên bố thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng là vô hiệu hay không hay chỉ khi có yêu cầu thì TA mới xem xét? Để giải quyết các vấn đề nêu trên thì cần bổ sung quy định: Trong trường hợp không ai có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì TA có thể tự mình tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu trong các trường hợp thỏa thuận của vợ chồng vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; một bên mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc việc công nhận thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng dẫn đến xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Ngoài ra, trong trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ chung nhưng thoả thuận chế độ tài sản của vợ chồng không có tài sản chung, chỉ có tài sản riêng thì cần quy định rõ việc phân chia nghĩa vụ chung đó cho vợ chồng theo tỷ lệ trừ trường hợp nghĩa vụ chung xuất phát từ các giao dịch phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chung theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014. Quy định rõ ràng trách nhiệm của vợ chồng theo tỷ lệ để tránh việc vợ chồng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, gây khó khăn cho bên có quyền và gây khó khăn cho cơ quan thực thi pháp luật. Thoả thuận chế độ tài sản của vợ chồng là một dạng hợp đồng, vì vậy phải tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015 và phải tuân thủ các nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng được quy định từ Điều 29 đến Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy nhiên, khi xem xét hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng cũng cần tôn trọng ý chí của vợ, chồng. Nếu họ là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tự nguyện, tự thỏa thuận với nhau về việc xác lập thỏa thuận. Thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không xâm hại lợi ích của người khác mà chỉ vi phạm về mặt hình thức nhưng hai bên đều công nhận nội dung của thỏa thuận thì khi giải quyết ly hôn, TA nên công nhận thỏa thuận của họ. Thứ ba, theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 thì thoả thuận chế độ tài sản của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, quy định này là chưa đủ. Bởi lẽ, văn bản thoả thuận này do vợ chồng lưu giữ hoặc được lưu giữ tại nơi công chứng, chứng thực nên người thứ ba (có thể là người mà vợ, chồng có nghĩa vụ) không thể biết được nội dung thoả thuận của vợ chồng trong văn bản này dẫn tới việc nhầm lẫn hoặc có thể bị lừa dối khi giao kết các giao dịch dân sự với vợ, chồng. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của vợ, chồng và của những người có liên quan, đồng thời cũng dễ dàng hơn cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong công tác quản lý thì cần thiết phải quy định ghi chú/đăng ký văn bản thoả thuận chế độ tài sản của vợ chồng vào giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và sổ hộ tịch khi vợ chồng đăng ký kết hôn. b. Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo luật định Về chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp không có thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng hoặc chế độ tài sản của vợ chồng bị tuyên bố vô hiệu, khoản 2 Điều 59 Luật HN& GĐ năm 2014 quy định: Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi có tính đến các yếu tố hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi của mỗi bên trong vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng. Quy định này thể hiện, khi chia tài sản chung của vợ chồng, TA có thể xem xét đến các yếu tố hoàn cảnh, công sức đóng góp của vợ chồng và lỗi của mỗi bên trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của mỗi bên trong quan hệ sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp. Tuy nhiên, quy định này có một số điểm chưa hợp lý và chưa rõ ràng. Cụ thể: Khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 và khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 6/1/2016 quy định về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Điều luật đã ấn định việc chia tài sản chung của vợ chồng là “chia đôi”, vậy quy định “tính đến các yếu tố như hoàn cảnh, công sức đóng góp của vợ chồng và lỗi của mỗi bên trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích chính đang của mỗi bên trong quan hệ sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp” là chưa hợp lý. Do đó, cần phải sửa đổi quy định này cho phù hợp với tinh thần mà nhà làm luật muốn diễn đạt. Vì vậy, NCS kiến nghị sửa khoản 2 Điều 59 như sau: “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi. Trường hợp vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu chia theo tỷ lệ khác thì TA xem xét các yếu tố sau: a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”. Về tinh thần, Luật HN&GĐ năm 2014 cho phép chia tài sản chung của vợ chồng theo tỷ lệ khác, không nhất thiết là phải chia đôi. Khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 quy định các yếu tố như hoàn cảnh, công sức đóng góp của vợ chồng và lỗi của mỗi bên trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của mỗi bên trong quan hệ sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp là căn cứ để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia. Tuy nhiên tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia trong những trường hợp này là bao nhiêu thì đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Quy định thiếu rõ ràng như vậy dẫn đến việc áp dụng tùy tiện, cảm tính, thậm chí có thể dẫn đến tiêu cực trong quá trình giải quyết các vụ án ly hôn có yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng. Do đó, cần quy định cụ thể trường hợp một bên có lỗi thì bị chia ít hơn người không có lỗi với tỷ lệ tối đa là bao nhiêu phần trăm; bên có công sức đóng góp nhiều hơn trong việc tạo lập khối tài sản chung thì được chia tài sản nhiều hơn tối đa là bao nhiêu phần trăm; bên có hoàn cảnh khó khăn hơn thì được chia phần tài sản nhiều hơn bên còn lại tối đa là bao nhiêu phần trămNgoài ra, cũng cần quy định rõ thế nào là có hoàn cảnh khó khăn hơn để tránh việc một bên lợi dụng quy định này đưa ra trình bày hoàn cảnh khó khăn nhằm chiếm lợi thế trong việc phân chia tài sản. Khoản 3 Điều 59 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch”. Thực tiễn, nhiều trường hợp vợ chồng có yêu cầu TA phân chia tài sản chung của vợ chồng nhưng không thỏa thuận được với nhau ai nhận hiện vật, ai nhận tiền. TA buộc phải tuyên giao hiện vật cho một người và buộc người đó giao tiền cho người còn lại. Rất nhiều trường hợp người nhận hiện vật không có tiền để trả cho người được nhận phần tài sản được chia bằng tiền. Trong trường hợp này người được nhận tiền có quyền yêu cầu cơ quan THA kê biên phát mại các tài sản của người nhận hiện vật để được nhận khoản tiền đã tuyên trong bản án của TA nhưng như vậy là chưa đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho bên nhận tiền vì họ không được quản lý sử dụng tài sản và cũng chưa được nhận tiền trong khi bên còn lại được quản lý sử dụng tài sản nhưng lại chưa thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Vì vậy, cần bổ sung thêm quy định nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán phần tài sản được chia từ khối tài sản chung của vợ chồng nhằm đảm bảo bản án khi được TA tuyên sẽ được các bên nghiêm túc thực hiện, chậm thực hiện sẽ phải chịu lãi. Điều 357 BLDS năm 2015 quy định: "Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thoả thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thoả thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này". Do đó, trường hợp bên nhận tài sản là hiện vật mà chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán phần chênh lệch thì cần xác định là chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền và phải chịu lãi trên số tiền chậm thanh toán như quy định tại Điều 357 và Điều 468 BLDS năm 2015. Quy định chế tài là cách để buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Vì vậy, kiến nghị sửa khoản 3 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 như sau: "Tài sản chung của vợ chồng được ưu tiên chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. Trường hợp không bên nào nhận hiện vật thì một trong hai bên hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu cơ quan THA kê biên, bán đấu giá để chi trả cho các bên theo bản án/quyết định của TA. Bên chậm thanh toán phần nghĩa vụ chênh lệch phải chịu lãi theo mức lãi suất chậm thanh toán do pháp luật quy định tại thời điểm thanh toán". Trong thực tiễn, các vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản thường phức tạp nhất, mất nhiều thời gian để giải quyết. Đặc biệt, khi kinh tế ngày càng phát triển, các mô hình kinh doanh cũng ngày càng đa dạng. Doanh nghiệp được Nhà nước tạo điều kiện thành lập và hoạt động. Vì vậy, ngày càng phát sinh nhiều tranh chấp liên quan đến vốn góp của vợ chồng trong doanh nghiệp. Việc xác định số tiền vợ, chồng góp vốn trong doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Những khó khăn này xuất phát từ việc nhiều doanh nghiệp chưa minh bạch trong báo cáo tài chính. Khi vợ chồng ly hôn có yêu cầu phân chia tài sản là vốn góp trong doanh nghiệp thì TA phải yêu cầu kiểm toán và định giá giá trị phần vốn góp tại thời điểm phân chia để làm cơ sở phân chia tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, việc kiểm toán rất khó khăn vì nhiều doanh nghiệp không hợp tác. Do đó, việc định giá tài sản thường bị kéo dài hoặc kết quả định giá đôi khi không phản ánh được thực chất giá trị phần vốn góp (bao gồm vốn góp ban đầu, giá trị tăng thêm của phần vốn góp và lợi nhuận trên vốn góp). Hiện pháp luật chưa có hướng dẫn về việc xác định giá trị tài sản là phần vốn góp của vợ, chồng trong doanh nghiệp và cũng chưa có hướng dẫn về thủ tục giải quyết tranh chấp trong trường hợp này. Để giải quyết khó khăn, vướng mắc này, NCS kiến nghị như sau: - Khi vợ chồng có tranh chấp về vốn góp trong doanh nghiệp thì TA tiến hành định giá để xác định giá trị phần vốn góp dựa trên giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm tranh chấp và có thể yêu cầu kiểm toán nếu thấy cần thiết. Trường hợp không thể kiểm toán và định giá để xác định giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm tranh chấp thì TA sử dụng giá trị tổng vốn chủ sở hữu tại thời điểm đăng ký hoặc tại báo cáo tài chính gần nhất có thể thu thập được tuỳ giá trị nào lớn hơn. - Về phân chia tài sản là cổ phần trong doanh nghiệp: Ưu tiên cho vợ/chồng có góp vốn vào doanh nghiệp được nhận phần vốn góp trong doanh nghiệp và thanh toán phần chênh lệch cho bên còn lại. Ngoài tranh chấp về tài sản là giá trị phần vốn góp trong doanh nghiệp thì trong các vụ án ly hôn còn phát sinh các tranh chấp liên quan đến tài sản vô hình là các quyền SHTT. Theo khoản 1 Điều 4 Luật SHTT năm 2005, quyền SHTT bao gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng. Điều 3 Luật SHTT năm 2015 quy định: Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá; đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý; đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống Quyền SHTT là một quyền tài sản. Đây là một loại tài sản vô hình nhưng cũng là một loại tài sản có giá trị như các tài sản khác, thậm chí nhiều tài sản vô hình có giá trị rất lớn (Ví dụ: Năm 2020, giá trị thương hiệu Vinamilk được Forbes công bố là 2.4 tỷ Đô la Mỹ tương đương 55.000 tỷ đồng) Xem bài viết: “Giá trị thương hiệu Vinamilk được định giá hơn 2,4 tỷ USD chiếm 20% tổng giá trị của 50 thương hiệu dẫn đầu Việt Nam 2020”, đăng tải ngày 6/8/2020 trên website https://www.vinamilk.com.vn. . Tài sản vô hình thường được đăng ký cho cá nhân vợ/chồng hoặc doanh nghiệp do vợ/chồng làm chủ hoặc có vốn góp nhưng về nguyên tắc, các tài sản vô hình được hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn là tài sản chung của vợ, chồng nên khi ly hôn, vợ, chồng có quyền yêu cầu TA phân chia đối với các tài sản là quyền SHTT giống như các tài sản hữu hình khác. Tuy nhiên, việc định giá các tài sản vô hình gặp rất nhiều khó khăn. Pháp luật hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể liên quan đến định giá tài sản vô hình nên cũng chưa có cơ sở pháp lý nào để xác định giá trị các tài sản vô hình này. Vì vậy, TA rất lúng túng khi giải quyết các vụ án có yêu cầu chia tài sản là các quyền SHTT. Yêu cầu đặt ra là cần kịp thời bổ sung quy định liên quan đến phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền SHTT. Đồng thời phải bổ sung quy định liên quan đến các loại tài sản này trong các ngành luật khác có liên quan để việc giải quyết quyền lợi của vợ, chồng liên quan đến các quyền SHTT nói chung và việc phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền SHTT được dễ dàng, đúng đắn hơn. Về vấn đề đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, NCS kiến nghị sửa đổi khoản 5 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 như sau: "Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Trong trường hợp phân chia tài sản chung của vợ chồng, ưu tiên cho người trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình được nhận bằng hiện vật nếu có tài sản là nhà ở trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác". Để đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có cuộc sống ổn định về mặt vật chất, về môi trường sống thì cần thiết phải quy định một cách rõ ràng. Để pháp luật trở nên gần gũi với đời sống, dễ áp dụng, dễ thực hiện và phù hợp hơn với thực tiễn thì cần phải dự liệu các tình huống, trường hợp có thể xảy ra trong thực tiễn. Pháp luật về ly hôn cũng vậy, quan hệ HN&GĐ luôn thay đổi và phát triển theo xu hướng phát triển của xã hội, đòi hỏi phải thường xuyên hoàn thiện các quy định của pháp luật để điều chỉnh kịp thời sự phát triển của quan hệ HN&GĐ. 4.2.3.3. Về cấp dưỡng khi ly hôn * Cấp dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly hôn Theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014: Khi cha mẹ ly hôn có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chưa thành niên, con đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Khoản 1 Điều 107 Luật HN&GĐ năm 2014 còn quy định: "Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác". Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm thể hiện tình cảm giữa cha mẹ và con. Cấp dưỡng nuôi con khi quan hệ hôn nhân tồn tại cũng như khi vợ chồng ly hôn đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với con nhằm đảm bảo quyền được sống, được chăm sóc, được yêu thương, được học tập của con. Theo quy định tại Điều 116 Luật HN&GĐ năm 2014 thì: "Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu TA giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu TA giải quyết". Như vậy khi giải quyết ly hôn, có yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con mà các bên không thỏa thuận được thì TA phải căn cứ vào hai yếu tố là thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có văn bảo nào hướng dẫn cụ thể về “thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng”. Trước đây, theo khoản 1 Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 thì “khả năng thực tế của người có nghĩa cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó” và theo khoản 2 Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 thì: “Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng”. Mặc dù trước đây pháp luật có quy định như vậy nhưng thực tiễn cũng rất khó để TA xác định được thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Bởi vì, ở Việt Nam việc chi trả thu nhập chưa được minh bạch, nhiều người lao động không có công việc ổn định (lao động tự do) nên việc xác định thu nhập trong nhiều trường hợp dựa vào khai báo của đương sự. Do chưa có văn bản hướng dẫn nên hiện nay đối với những trường hợp cha/mẹ không thống nhất được mức cấp dưỡng thì các TA vẫn ngầm vận dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC: “TA phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con” để làm căn cứ giải quyết Xem bài viết: "Vướng mắc về cấp dưỡng nuôi con trong các vụ án ly hôn", tác giả Dương Tấn Thanh, Tạp chí Tòa án điện tử ngày 11/12/2019. . Mức cấp dưỡng bằng ½ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định khó đủ đảm bảo nhu cầu tối thiểu về sinh hoạt, học tập của con, đặc biệt là trong thời buổi hiện đại, y tế và giáo dục đều đã được xã hội hóa. Nhiều nơi, khi giải quyết vụ án có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly hôn còn áp dụng mức lương bình quân của lao động phổ thông tại địa phương để tính mức cấp dưỡng Xem: Bản án sơ thẩm số 16/2018/HNGĐ-ST ngày 7/2/2018 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An . Do pháp luật chưa có quy định cụ thể nên việc xác định mức cấp dưỡng là ở mỗi nơi lại khác nhau, mỗi thẩm phán cũng có quyết định khác nhau. Hiện nay, hàng năm Chính phủ đã có quy định mức lương tối thiểu vùng dựa trên khả năng đáp ứng nhu cầu thiết yếu của một cá nhân vào từng thời điểm trên cơ sở tính toán tốc độ phát triển của xã hội và của từng khu vực khác nhau. Do đó, cần lấy mức lương tối thiểu vùng làm căn cứ để quyết định mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu. Mỗi khu vực khác nhau thì mức cấp dưỡng cũng cần khác nhau dựa trên mức lương tối thiểu vùng, như vậy sẽ đảm bảo được nhu cầu thiết yếu của con khi sống ở khu vực nông thôn, miền núi cũng như ở khu vực thành thị. Trường hợp cha/mẹ không có thu nhập nhưng có tài sản thì tiền cấp dưỡng được trích ra từ tài sản thuộc sở hữu của cha/mẹ để đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Ngoài xác định mức cấp dưỡng thì khi giải quyết ly hôn, vấn đề xác định thời điểm phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng vô cùng quan trọng. Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ quy định thời điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng tại Điều 114 mà không quy định thời điểm cha/mẹ bắt đầu phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận được với nhau về việc cấp dưỡng thì TA công nhận thỏa thuận đó. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, vợ, chồng không thỏa thuận được thời điểm cấp dưỡng thì thời điểm bắt đầu cấp dưỡng được tính từ ngày bản án/quyết định của TA có hiệu lực pháp luật hay từ thời điểm bên còn lại yêu cầu THA? Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ thường xuyên, liên tục của cha mẹ đối với con cái. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của con thì cần thiết phải quy định thời điểm bắt đầu nghĩa vụ cấp dưỡng kể từ khi bản án/quyết định có hiệu lực. Trước khi bản án/quyết định ly hôn có hiệu lực, cha mẹ đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con chung, khi bản án/quyết định ly hôn có hiệu lực thì vẫn tiếp tục phải cấp dưỡng nuôi con. Quy định như vậy làm cho nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con không bị gián đoạn. Trong thực tiễn, mặc dù có bản án/quyết định có hiệu lực của TA buộc cha/mẹ phải cấp dưỡng nuôi con, thậm chí có trường hợp vợ chồng tự thỏa thuận cấp dưỡng nuôi con nhưng sau đó cha/mẹ vẫn không thực hiện đúng nghĩa vụ cấp dưỡng. Điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chính đáng của con nhưng việc chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có phải chịu lãi chậm thi hành hay không thì Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn còn chưa có quy định. Cần thiết phải coi việc cha mẹ vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng như vi phạm nghĩa vụ trả tiền để áp dụng theo quy định tại Điều 357 BLDS năm 2015: "Trường hợp bên có nghĩa vụ thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả". Việc quy định này nhằm mục đích tạo ra chế tài đối với người vi phạm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con. Quy định tính lãi chậm THA cũng góp phần đảm bảo số tiền cấp dưỡng tại thời điểm thu hồi được tương xứng với tỷ lệ lạm phát, trượt giá của đồng tiền và phù hợp với nhu cầu thiết yếu của con thời điểm đó. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 117 Luật HN&GĐ năm 2014 thì:“Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần". Nếu áp dụng Điều 282 BLDS năm 2015 thì: “Nghĩa vụ được thực hiện theo định kỳ theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, cần xác định việc chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ. Lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng cần áp dụng theo khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015. Việc bổ sung quy định về tính lãi chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ góp phần hạn chế người có nghĩa vụ cấp dưỡng cố tình chậm trễ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong giai đoạn THA. Hoàn thiện các QPPL về cấp dưỡng góp phần đảm bảo đời sống cho những người được cấp dưỡng, đặc biệt là con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Cấp dưỡng không chỉ mang ý nghĩa nhân văn giữa các thành viên trong gia đình thể hiện tình cảm, trách nhiệm giữa cha mẹ với con cái, giữa các thành viên trong gia đình với nhau mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc, đảm bảo ổn định đời sống xã hội, góp phần giảm bớt tình trạng tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên nảy sinh do khó khăn trong cuộc sống gây ra. * Cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn Mối quan hệ giữa vợ chồng là mối quan hệ thiêng liêng. Khi nam nữ kết hôn thành vợ chồng thì giữa họ ngoài tình cảm còn mang theo trách nhiệm với nhau. Điều 115 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định khi ly hôn vợ chồng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau nếu một bên có khó khăn, túng thiếu và có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Tuy nhiên, trong thực tiễn, quy định này hiếm khi được áp dụng vì cũng ít trường hợp vợ/chồng yêu cầu bên kia cấp dưỡng cho mình dù có thể họ có khó khăn thực sự nhưng khi ly hôn, vì sự tự trọng mà họ không yêu cầu bên kia cấp dưỡng. Điều 115 cũng quy định người phải cấp dưỡng sẽ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Do đó, trong thực tiễn dù một bên có khó khăn và có yêu cầu cấp dưỡng thì người chồng/vợ phải cấp dưỡng lấy lý do không có khả năng để không phải cấp dưỡng. Nếu vợ, chồng tự nguyện cấp dưỡng cho bên có khó khăn, túng thiếu thì dù pháp luật không có quy định họ vẫn thực hiện. Cấp dưỡng giữa vợ, chồng chỉ thực sự cần thiết và có nhiều ý nghĩa trong trường hợp khi ly hôn nếu một bên bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dẫn đến không có khả năng lao động tự nuôi sống mình. Vì người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dẫn đến không có khả năng lao động tự nuôi sống mình, không thể lao động để tạo ra thu nhập. Do đó, quy định cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp này là cần thiết. Vì vậy, NCS kiến nghị sửa Điều 115 Luật HN&GĐ năm 2015 như sau: “Khi ly hôn một bên bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dẫn đến không có khả năng lao động tự nuôi sống mình thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc một bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà bên kia tự nguyện đồng ý thì TA ghi nhận sự thỏa thuận của các bên”. Quy định như vậy sẽ vừa đảm bảo sự nhân văn mà nhà làm luật mong muốn truyền tải vào điều luật, vừa thể hiện được sự tôn trọng ý chí của các bên, mà vẫn được pháp luật ghi nhận để có cơ sở pháp lý thực hiện. 4.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về ly hôn Bên cạnh hoàn thiện các QPPL về ly hôn thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về ly hôn. Hoàn thiện pháp luật có liên quan tạo ra sự đồng bộ, thống nhất chung của cả hệ thống pháp luật, tránh sự xung đột, mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật. Dưới đây là một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan như BLTTDS, Luật THA dân sự, BLDS liên quan đến giải quyết các vụ án ly hôn. Cụ thể: Thứ nhất, theo các quy định hiện hành, khi ly hôn vợ chồng có quyền yêu cầu TA phân chia tài sản chung của vợ chồng hoặc cũng có thể không yêu cầu TA chia. Nếu vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba thì người này có quyền khởi kiện. Sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật thì có quyền yêu cầu THA. Cơ quan THA sẽ kê biên, phát mại tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo THA và trả cho vợ/chồng (người không phải thực hiện nghĩa vụ) phần của mình. Tuy nhiên, nếu vợ chồng không chia tài sản chung, không có phán quyết của TA thì theo Điều 74 về cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của Luật THA dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014) quy định: “Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án”. Quy định của Luật THADS là chưa hợp lý vì thời hạn 30 ngày để vợ hoặc chồng khởi kiện một vụ án dân sự chia tài sản chung của vợ chồng là quá ngắn. Thậm chí vì nhiều lý do mà vợ, chồng không thể thực hiện được việc khởi kiện trong thời hạn này (do bệnh tật, do đi công tác, do phải thu thập chứng cứ, do TA gây khó khăn). Mặt khác, pháp luật hiện hành cũng không cho phép bên thứ ba khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng đồng thời với yêu cầu giải quyết vụ án xác định nghĩa vụ của vợ, chồng với mình. Điều này là chưa hợp lý. Bởi lẽ, nếu theo quy định hiện hành, bên thứ ba phải khởi kiện một vụ án để có phán quyết của TA xác định nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng với mình. Sau đó, họ phải yêu cầu cơ quan THA xử lý tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ. Để xử lý được tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung thì họ lại phải chờ 30 ngày để vợ, chồng khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung. Nếu hết 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan THADS mà vợ, chồng không yêu cầu TA chia tài sản chung thì bên thứ ba (người mà vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ) mới có quyền yêu cầu TA xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án hoặc cơ quan THADS yêu cầu xác định quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung. Quy định này khiến cho quyền lợi của bên thứ ba chưa được đảm bảo vì họ phải theo đuổi 2 vụ kiện để đòi được quyền lợi của mình, vô cùng mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc đồng thời có thể phát sinh các thiệt hại về kinh tế do lạm phát, mất giá tài sản Để đảm bảo thống nhất giữa Luật HN&GĐ với Luật THADS thì cần quy định trong trường hợp vợ, chồng có nghĩa vụ riêng mà có yêu cầu TA giải quyết ly hôn nhưng không có yêu cầu chia tài sản thì người có quyền lợi liên quan (người thứ ba ngay tình) có quyền yêu cầu TA chia tài sản chung của vợ chồng để thực hiện nghĩa vụ với mình. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn mà chỉ có một bên có nghĩa vụ với người thứ ba thì TA chia tài sản chung của vợ chồng và xác định nghĩa vụ riêng của vợ/chồng với người thứ ba. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ chung với người thứ ba mà khi giải quyết ly hôn có yêu cầu chia tài sản thì TA xác định nghĩa vụ của từng người tương ứng với phần tài sản mà vợ, chồng được nhận. Thứ hai, cần hoàn thiện BLTTDS để tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về ly hôn. Cụ thể: - Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 208 BLTTDS năm 2015 đối với trường hợp không lấy được ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên. Trong thực tiễn, nhiều vụ án ly hôn TA không thể lấy được ý kiến của con từ đủ 07 tuổi trở lên do vợ/chồng trực tiếp nuôi con hoặc người thân gây khó khăn. BLTTDS năm 2015 chưa có hướng dẫn giải quyết trường hợp này nhưng tại Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/1/2016 của TANDTC về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ có hướng dẫn: Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 thì nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên chỉ là một trong những yếu tố TA phải xem xét trong quá trình giải quyết vụ án, việc quyết định giao con cho bên nào trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Đây chỉ là hướng dẫn nghiệp vụ. Do đó, để cụ thể hóa thì cần có quy định của thể trong Luật. Theo đó cần quy định, trong trường hợp này TA lập biên bản không lấy được ý kiến của con từ đủ 07 tuổi trở lên thì TA lập biên bản không lấy được ý kiến của con có sự chứng kiến của đại diện Viện kiểm sát hoặc đại diện cơ quan quản lý Nhà nước tại địa phương để làm căn cứ và quyết định người trực tiếp nuôi con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con. - Khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu TA giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”. Đối với trường hợp người bị TA tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự mà có cha mẹ, người thân thích có yêu cầu ly hôn phải nộp kèm quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự của con hoặc người thân thích của mình. Tuy nhiên, đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 thì cha mẹ, người thân thích của người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi cũng có thể yêu cầu TA giải quyết ly hôn mà không cần phải có quyết định của TA về việc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Cần thiết phải hướng dẫn cụ thể khi cha, mẹ, người thân thích có đơn yêu cầu TA giải quyết ly hôn thì cần phải nộp kèm những tài liệu nào để chứng minh tình trạng của người bị tâm thần. Nếu tài liệu yêu cầu cung cấp là xác nhận của bệnh viện hoặc bệnh án điều trị thì cần quy định cụ thể xác nhận, bệnh án điều trị của bệnh viện tuyến nào thì được chấp nhận để tránh tình trạng cha, mẹ, người thân thích lạm dụng quy định mở của pháp luật mà yêu cầu ly hôn bừa bãi làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác dẫn đến làm mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi. - Cần sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015. Khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:“Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu TA giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”. Vậy xác định vợ/chồng bị tâm thần hay cha, mẹ, người thân thích của họ mới là nguyên đơn? Khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015 quy định: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm hại”. Vậy, theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì nguyên đơn phải đáp ứng hai điều kiện: Là người khởi kiện và là người cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại. Trong vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 thì người khởi kiện là cha, mẹ, người thân thích nhưng người có quyền và lợi ích bị xâm hại lại là con hoặc người thân thích của họ. Người có lợi ích bị xâm hại là người tâm thần, không thể tự mình nhận thức lợi ích của họ có bị xâm hại hay không mà người nhận thức được vấn đề này là cha, mẹ, người thân thích của người bị tâm thần. Vì vậy, cần thiết sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015 theo hướng: "Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó hoặc người thân của họ bị xâm phạm trong các trường hợp pháp luật quy định". Khi quy định như vậy, cha, mẹ, người thân thích sẽ là người nhận văn bản tống đạt, người được TA triệu tập, người cung cấp tài liệu chứng cứ và trình bày quan điểm của mình trước TA để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho con cái, người thân thích của họ, thậm chí cần thiết quy định cho họ có quyền tham gia hoà giải thay cho con cái, người thân thích bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ hành vi. Các quy định pháp luật có sự thống nhất với nhau có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện của các cơ quan thực thi pháp luật, của người dân, góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Do đó, cần thiết phải hoàn thiện các QPPL có liên quan để đảm bảo quy định của các văn bản pháp luật có sự nhất quán. KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 Chế định ly hôn là một chế định quan trọng trong Luật HN&GĐ đồng thời là chế định được áp dụng nhiều trong thực tiễn. Đặc biệt, trong xã hội hiện đại các quan hệ HN&GĐ ngày càng phức tạp hơn, nhiều quan hệ chồng chéo thì việc hoàn thiện pháp luật về HN&GĐ nói chung, pháp luật về ly hôn nói riêng vô cùng quan trọng. Việc hoàn thiện pháp luật ly hôn góp phần giải quyết các vụ án ly hôn đang tăng nhanh về số lượng, phức tạp về tính chất một cách nhanh chóng, hiệu quả và triệt để. Với tình trạng ly hôn phổ biến như hiện nay, nếu không giải quyết được nhanh chóng, triệt để thì sẽ kéo theo các vấn đề về xã hội vô cùng phức tạp. Hoàn thiện pháp luật về ly hôn càng trở lên quan trọng trong thời đại hiện nay khi nước ta bước vào giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội nhanh chóng. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới ngày càng sâu rộng thì việc kiện toàn hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về HN&GĐ nói riêng giúp xây dựng hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo sự tin tưởng trong quan hệ ngoại giao, tạo ra một xã hội đoàn kết, vững chắc từ trong từng tế bào của xã hội đó chính là gia đình. Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về ly hôn và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ly hôn giúp thay đổi quan niệm xã hội về ly hôn. Các vụ án ly hôn trở nên văn minh hơn, nhân văn hơn,hạn chế kéo theo những tác động tiêu cực. Đồng thời, hoàn thiện pháp luật về ly hôn cũng góp phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích của vợ, chồng, con và những người có liên quan khi vợ chồng ly hôn. Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật và đánh giá các quy định hiện hành của chế định ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014, tại chương 4, LA đã nêu những yêu cầu hoàn thiện chế định ly hôn trong thời gian tới. Cụ thể, chúng ta cần phải hoàn thiện chế định ly hôn dựa trên định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách phát triển kinh tế, xã hội đồng thời đáp ứng nhu cầu về cải cách tư pháp, cụ thể hóa Hiến pháp. Mặt khác, hoàn thiện chế định ly hôn cũng cần phù hợp với thực tiễn, đồng bộ với các chế định khác trong Luật HN&GĐ và thống nhất với các quy định của pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó hoàn thiện chế định ly hôn phù hợp với bối cảnh toàn cầu hoá. Cũng trong chương 4, tác giả đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của chế định ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014 cho phù hợp với thực tiễn, góp phần giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực thi. Ngoài ra, tác giả cũng kiến nghị một số vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về ly hôn KẾT LUẬN Ly hôn dưới góc độ xã hội là một hiện tượng xã hội nhưng dưới góc độ pháp lý thì ly hôn là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng theo bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật của TA. Trong Luật HN&GĐ thì Ly hôn là một chế định pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn giữa vợ chồng. Trong đó, bao gồm tất cả các vấn đề về ly hôn như quyền yêu cầu ly hôn, căn cứ ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn (bao gồm quan hệ nhân thân giữa vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, phân chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn, cấp dưỡng), trình tự thủ tục ly hôn. Là một chế định pháp luật, chế định ly hôn có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống. Đặc biệt, với tình trạng ly hôn diễn ra nhiều như hiện nay thì đây là chế định ứng dụng nhiều trong thực tiễn. Theo sự phát triển của tình hình kinh tế, xã hội, sự thay đổi của quan hệ HN&GĐ theo thời gian, pháp luật về ly hôn ở nước ta đã nhiều lần sửa đổi. Qua mỗi lần sửa đổi, bổ sung, pháp luật HN&GĐ ở nước ta đã dần dần, từng bước hoàn thiện. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có rất nhiều quy định tiến bộ, bắt kịp với xu thế phát triển mọi mặt ở trong nước và quốc tế. Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua rất chú trọng đến việc cải cách tư pháp, trong đó ngoài việc hoàn thiện pháp luật nội dung thì cũng đã có nhiều biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời trong bối cảnh nước ta đang ở giai đoạn phát triển nóng về kinh tế, xã hội. Tình trạng ly hôn ngày càng tiến triển theo chiều hướng tăng nhanh về số lượng, phức tạp về tính chất vụ việc. Nếu trước đây, các vụ án ly hôn chủ yếu là yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con thì hiện nay rất nhiều các vụ án ly hôn yêu cầu giải quyết cùng lúc toàn bộ các vấn đề về tình cảm, con cái, tài sản. Các tranh chấp ly hôn cũng ngày càng phức tạp và gay gắt hơn. Trong các vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản thì tính chất các loại tài sản cũng đa dạng hơn, khó giải quyết hơn. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có rất nhiều quy định mới, tiến bộ hơn, sát thực tiễn hơn. Cùng với những quy định mới, tiến bộ thì các nội dung của chế định ly hôn cũng được quy định rõ ràng hơn, thống nhất hơn nên việc áp dụng cũng dễ dàng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những điểm còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn. Qua nghiên cứu, LA đã phần nào làm rõ một số vấn đề lý luận về chế định ly hôn, xây dựng một số khái niệm mới, đưa ra quan điểm dựa trên luận cứ khoa học. Ngoài ra, LA cũng đã nghiên cứu pháp luật nội dung, cụ thể là chế định ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014 để từ đó phát hiện những vấn đề còn bất cập trong nội dung chế định ly hôn cũng như trong pháp luật có liên quan. Bên cạnh những điểm mới, tiến bộ thì Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn còn nhiều quy định chưa phù hợp, nhiều nội dung còn chưa có quy định cụ thể. Một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi giải quyết các vụ ly hôn thì trong chế định ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn chưa có quy định và cũng chưa có văn bản hướng dẫn nào hướng dẫn cụ thể. Do đó, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về ly hôn, nuôi con và phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn vẫn gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn, NCS cũng mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện chế định ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014. NCS hy vọng rằng, các kết quả nghiên cứu của NCS có thể đáp ứng được mục tiêu đã đề ra và trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều công trình nghiên cứu sâu hơn về các nội dung của chế định ly hôn để làm tiền đề cho việc sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ trong thời gian tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxluan_an_che_dinh_ly_hon_trong_luat_hon_nhan_va_gia_dinh_nam.docx
  • docxbìa chính tóm tắt TA.docx
  • docxbìa chính tóm tắt.docx
  • docbìa ngoài LUẬN ÁN.doc
  • docxbìa phụ tóm tắt TA - Copy.docx
  • docxbìa phụ tóm tắt TV.docx
  • docbìa trong luận án.doc
  • docxDANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ.docx
  • docxDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.docx
  • docxDANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.docx
  • docxMỤC LỤC.docx
  • docThông tin mới của Luận án - bản TA.doc
  • docThông tin mới của Luận án.doc
  • docxTÓM TẮT TIẾNG ANH.docx
  • docxTÓM TẮT TIẾNG VIỆT.docx
  • docxtrang PHỤ LỤC BẢN ÁN.docx
Luận văn liên quan