Luật sư, Luật trợ giúp pháp lý. 
 Về cơ bản, các quy định trong Luật Luật sư bảo đảm cho Luật sư có điều 
kiện thuận lợi để thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS. Tuy nhiên, cần tiếp tục 
củng cố và kiện toàn tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật 
sư nhằm đề cao và phát huy có hiệu quả vai trò tự quản của tổ chức này. 
 Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư theo hướng 
nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, củng cố vị thế và phát huy vai trò 
của Liên đoàn luật sư Việt Nam trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, 
quản lý luật sư và hành nghề luật sư, tạo nền tảng pháp lý để phát triển đội ngũ luật 
sư và hoạt động hành nghề luật sư chuyên nghiệp, phục vụ đắc lực cho công cuộc 
cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế; phát triển các tổ chức 
hành nghề luật sư quy mô lớn, hoạt động chuyên sâu trong các lĩnh vực, có thương 
hiệu, uy tín trong khu vực và trên thế giới; phát triển thị trường dịch vụ pháp lý của 
luật sư, đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý luật sư của cá nhân, cơ quan, tổ 
chức; tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về luật sư và hành 
nghề luật sư; tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư 
trong công tác quản lý luật sư và hành nghề luật sư, đảm bảo tuân thủ pháp luật, 
tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Đẩy mạnh việc phát triển 
các tổ chức hành nghề luật sư có quy mô lớn, hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực 
hình sự. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt 
động hành nghề luật sư; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật, 
tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư; xử lý kỷ luật và xử lý vi 
phạm pháp luật đối với luật sư. 
 Thứ hai, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý về luật sư và hành 
nghề luật sư, nâng cao năng lực bộ máy cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ cán bộ 
tư pháp thực hiện công tác quản lý luật sư và hành nghề luật sư; thực hiện có hiệu 
quả nguyên tắc quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức luật sư; 
tiếp tục củng cố, kiện toàn về tổ chức của Liên đoàn luật sư Việt Nam đủ nguồn lực 
về con người và cơ sở vật chất, đổi mới và nâng cao năng lực, tính chuyên nghiệp 
trong quản lý, điều hành hoạt động các cơ quan của Liên đoàn để hoạt động của 
Liên đoàn có bước đột phá, thực chất và hiệu quả, xây dựng Liên đoàn thật sự là 
ngôi nhà chung của giới luật sư Việt Nam. Bên cạnh đó, tiếp tục củng cố, kiện toàn 
tổ chức, hoạt động của các Đoàn luật sư để thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn chức 
năng đại diện, bảo vệ quyền lợi cho luật sư; giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân 
theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; 
 147 
huy động, tập hợp trí tuệ của đông đảo luật sư tham gia vào các hoạt động xã hội 
nói chung và các sự kiện pháp lý nói riêng. Củng cố, kiện toàn cơ cấu, tổ chức các 
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương đến địa phương, nhằm phát 
huy vai trò tự quản của Liên đoàn luật sư Việt Nam, các Đoàn luật sư trong việc 
quản lý luật sư và hành nghề luật sư; ban hành các Quy chế hoạt động nội bộ của tổ 
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, quy chế phối hợp trong công tác quản lý luật 
sư và hành nghề luật sư; quy chế phối hợp trong đào tạo, bồi dưỡng luật sư; thực 
hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư; tăng cường công tác kiểm tra, 
thanh tra, xử lý vi phạm đối với tổ chức, hoạt động luật sư; có hình thức tôn vinh 
danh hiệu và trao giải thưởng cho các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; mở rộng 
giao lưu, hợp tác quốc tế về luật sư và hành nghề luật sư. 
 Đối với cơ cấu tổ chức của trợ giúp viên pháp lý: Cần nghiên cứu đổi mới tổ 
chức và hoạt động TGPL, trong đó sớm chuyển đổi chức danh Trợ giúp viên pháp 
lý thành luật sư công để phù hợp với thông lệ quốc tế, chuẩn hóa các chức danh 
trong hoạt động TGPL, phù hợp với thực tiễn hoạt động này, đáp ứng yêu cầu mở 
rộng tranh tụng tại tòa án, bảo đảm thực thi quyền bào chữa, quyền bình đẳng trước 
pháp luật, đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp luật của công dân. 
 Đối với TAND: cần giữ nguyên hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân gồm có 
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố 
trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và 
tương đương và các Tòa án quân sự; và phát huy tính độc lập tư pháp của Thẩm 
phán, bảo đảm việc xét xử theo đúng tinh thần tranh tụng. Về cơ chế quản lý Tòa án 
về tổ chức, giao Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án về tổ chức nhưng cần 
làm rõ cơ chế quản lý như thế nào để bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử; cần làm rõ 
cơ chế Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Hội đồng nhân dân quản lý Tòa án về 
tổ chức như thế nào 
 Đối với VKSND: Hệ thống tổ chức của VKSND cần phù hợp với hệ thống tổ 
chức của Toà án. Bên cạnh đó, cần tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động 
điều tra, loại bỏ quy định kiểm sát viên thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp tại 
Tòa, nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của KSV trong hoạt động tố tụng... nhằm 
bảo đảm hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa. Trong tương lai gần, cần chuyển Viện 
kiểm sát thành Viện công tố như tinh thần Nghị quyết 49 đã nêu. 
 Đối với CQĐT: cần tổ chức CQĐT theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp 
chặt chẽ công tác trinh sát và hoạt động điều tra TTHS nhằm hướng tới tính minh 
bạch, công khai trong các hoạt động tiền tố tụng, tạo tiền đề cho việc thực hiện đúng 
chức năng bào chữa ở giai đoạn tiền tố tụng. Đồng thời, quy định về việc ghi âm, 
 148 
ghi hình có âm thanh trong một số hoạt động điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời 
khai... trong BLTTHS 2015 dẫn đến trường hợp nhiều CQĐT ở các địa phương 
không có đủ phương tiện, thiết bị để đáp ứng quy định nêu trên. Do đó, cần hoàn 
thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị ghi âm ghi hình, các loại máy móc khác để phục 
vụ cho việc ghi âm, ghi hình có âm thanh, bảo đảm chức năng bào chữa được thực 
hiện trên thực tế. 
 4.2.2.2. Giải pháp về con người 
 - Đối với người bào chữa: 
 Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự đã được ghi nhận từ rất lâu, trải 
qua các thời kỳ khác nhau, trong đó bảo đảm được quyền tự bào chữa và quyền nhờ 
người khác bào chữa cho mình khi tham gia TTHS thể hiện sự văn minh, dân chủ 
trong quá trình tố tụng. Trong điều kiện đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn 
diện, theo định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vai trò của NBC 
nói chung và luật sư nói riêng trong hệ thống các cơ quan tư pháp, đề ra nhiều biện 
pháp quan trọng nhằm phát huy vai trò của luật sư. Hoạt động bào chữa trong TTHS 
chỉ đạt được hiệu quả khi và chỉ khi hội đủ ba điều kiện cần thiết, đó là điều kiện về 
pháp lý, điều kiện về tổ chức và điều kiện về con người. Trong đó, vấn đề có ý 
nghĩa quyết định đến chức năng bào chữa phải là việc nâng cao năng lực trách 
nhiệm của những người làm công tác bào chữa. Để đạt được mục tiêu nói trên, theo 
chúng tôi, cần phải quán triệt các yêu cầu sau: 
 Thứ nhất, xây dựng đội ngũ những người làm công tác bào chữa thực sự có 
năng lực, không chỉ thỏa mãn các điều kiện về tiêu chuẩn pháp luật mà còn phải đáp 
ứng được những yêu cầu của thực tiễn tố tụng. Năng lực cá nhân, uy tín, kinh 
nghiệm của NBC có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả bào chữa. Bởi lẽ đó, đội ngũ 
những người làm công tác bào chữa phải được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn 
nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề, đáp ứng nhu cầu bảo vệ chân lý khách quan trong 
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng 
các khoá đào tạo nguồn luật sư, đặc biệt chú trọng đào tạo về kỹ năng hành nghề nói 
chung và kỹ năng tranh tụng tại phiên toà nói riêng và tạo điều kiện để NBC được 
thử thách trong thực tiễn; thu hút chuyên gia giỏi về pháp luật tham gia đội ngũ 
những NBC. 
 Thứ hai, phải đề cao đạo đức nghề nghiệp đối với những người làm công tác 
bào chữa. NBC phải luôn là những người tôn trọng pháp luật và sự thật, trung thực 
trong hoạt động của mình, có nhiệt huyết và lương tâm nghề nghiệp. 
 Trước những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, việc sử dụng 
cán bộ tư pháp nói chung và các chức danh tư pháp nói riêng trong đó có NBC đặt 
 149 
ra những yêu cầu mới. NBC phải được đào tạo và có đủ các tiêu chuẩn do pháp luật 
quy định, trong đó, đặc biệt “chú trọng giáo dục chính trị, đạo đức nghề nghiệp”, 
bảo đảm cho họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước những diễn 
biến phức tạp của tình hình, không bị cám dỗ bởi vật chất. Mặt khác, NBC cũng 
như các chức danh tư pháp khác phải được thường xuyên “cập nhập mới về chính 
trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn”. Việc 
hiểu biết về tình hình thời sự trong nước, quốc tế, tình hình phát triển kinh tế xã hội 
sẽ giúp cho NBC thực hiện chức năng bào chữa đúng quan điểm của Đảng, đáp ứng 
yêu cầu của cải cách tư pháp. Để làm được việc đó, trước hết chúng ta phải đảm bảo 
số lượng NBC nói chung, luật sư nói riêng đáp ứng nhu cầu của xã hội, đồng thời 
NBC cần được trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề. Bên cạnh 
việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản về đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng hành nghề, 
chuyên môn nghiệp vụ, NBC còn phải đáp ứng những yêu cầu cao hơn mà xã hội 
đòi hỏi như khả năng làm việc bằng ngôn ngữ nước ngoài, có kiến thức chuyên sâu 
về lĩnh vực cụ thể  Dó đó, muốn có được đội ngũ NBC đáp ứng yêu cầu của cải 
cách tư pháp, chương trình đào tạo nguồn luật sư phải đảm bảo tính khoa học, có cơ 
cấu hợp lý, thể hiện quan điểm đào tạo hiện đại, phù hợp với thực tiễn của Việt 
Nam, đồng thời tiếp thu một cách hợp lý các kinh nghiệm của nước ngoài. 
 Thứ ba, cho phép người tập sự hành nghề luật sư được tham gia một số hoạt 
động tố tụng hình sự dưới sự kèm cặp, giám sát của luật sư hướng dẫn để tránh tình 
trạng thiếu vắng việc thực hành kỹ năng thực tế trong quá trình tập sự. Tuy nhiên, 
việc thực hiện một số hoạt động này không phải diễn ra trong toàn bộ quá trình tố 
tụng hình sự mà chỉ nên dừng lại ở một số hoạt động như thu thập chứng cứ, nghiên 
cứu hồ sơ vụ án, tham gia một số hoạt động điều tra như có mặt khi hỏi cung, lấy 
lời khai của đương sự, thực nghiệm điều tra, tham gia phiên toà. Chỉ có như vậy, 
người tập sự hành nghề luật sư mới nhận thức được kỹ năng hành nghề, ý thức tuân 
thủ pháp luật, tác phong, đạo đức nghề nghiệp cần thiết của luật sư khi thực hiện 
hoạt động bào chữa; có cơ hội tiếp xúc, làm quen với nghề nhưng không gây cản trở 
và tác động không tốt đến quá trình giả quyết vụ án hình sự. Nâng cao chất lượng 
tập sự hành nghề luật sư thông qua việc các Đoàn luật sư thực hiện nghiêm túc cơ 
chế giám sát người tập sự hành nghề luật sư, luật sư hướng dẫn, tổ chức hành nghề 
luật sư trong việc tuân theo Quy chế tập sự hành nghề luật sư; tạo điều kiện thuận 
lợi để người tập sự được nghiên cứu, tiếp cận những kiến thức pháp luật mới, đồng 
thời tạo cơ hội cho người tập sự được trực tiếp tham gia hoạt động nghề nghiệp, 
nâng cao kỹ năng hành nghề. 
 150 
 - Đối với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: 
 Hiện nay, trong xã hội vẫn có tư tưởng hạ thấp vai trò của NBC và cho rằng 
NBC sẽ gây khó khăn cho việc phòng chống tội phạm, giúp cho người phạm tội 
trốn tránh trách nhiệm mà chưa nhận thức được sự tham gia của NBC trong VAHS 
không những không cản trở mà còn giúp cơ quan có thẩm quyềnTHTT hạn chế vi 
phạm tố tụng, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, khắc phục những sai lầm 
trong việc giải quyết vụ án.. Vì vậy, việc thay đổi nhận thức về vị trí, vai trò của 
NBC chính là cách tốt nhất để bị can, bị cáo tự bảo vệ quyền bào chữa của mình 
trước các cơ quan tiến hành tố tụng. 
 Chức năng bào chữa của người bị buộc tội sẽ không thể được đảm bảo nếu 
như chủ thể tiến hành tố tụng không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan 
trọng của nó. Người THTT phải xác định được vai trò chủ động mình trong toàn bộ 
quá trình tố tụng, phải nhận thức được việc đổi mới trong hoạt động xét xử theo 
hướng từ tố tụng thiên về xét hỏi trước đây sang tố tụng thiên về tranh tụng nhiều 
hơn, để từ đó có những chuẩn bị đầy đủ về chuyên môn nghiệp vụ, về hồ sơ chứng 
cứ và về cả bản lĩnh tranh tụng để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới. Mặt khác, 
trong nhận thức của mỗi người THTT phải loại bỏ được tâm lý “e ngại” NBC; phải 
nhận thức được có luật sư hay người bào chữa khác tham gia tố tụng ngay từ giai 
đoạn khởi tố điều tra, thậm chí từ khi có người bị bắt, bị tạm giữ sẽ giúp cho vụ án 
được giải quyết khách quan, toàn diện và đúng qui định của pháp luật, tránh được 
những trường hợp cơ quan điều tra vi phạm tố tụng hoặc bỏ sót chứng cứ mà Viện 
kiểm sát không phát hiện kịp, dẫn đến phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, thậm chí bỏ 
lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Người THTT cần nhận thức được vai trò 
của NBC tham gia vụ án không chỉ nhằm đảm bảo quyền bào chữa của người bị bắt, 
người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo mà còn nhằm hạn chế những vi phạm 
trong quá trình giải quyết vụ án của các chủ thể tiến hành tố tụng; phải nhận thức 
được sự có mặt của người bào chữa trong vụ án không gây khó khăn cho các cơ 
quan tiến hành tố tụng, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội nếu thiếu căn cứ chứ không phải 
là “đối thủ” của các cơ quan tiến hành tố tụng. NBC có thể đưa ra các căn cứ, tình 
tiết có giá trị giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để trên 
cơ sở xem xét đầy đủ các tình tiết buộc tội và gỡ tội, vì vậy, cơ quan và người tiến 
hành tố tụng cần phải tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện tốt chức năng, 
quyền hạn của họ. Người THTT cần phải nhận thức rằng, hoạt động bào chữa của 
NBC cũng nhằm mục đích bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người nói chung và 
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói riêng. 
 Bên cạnh đổi mới về nhận thức, người THTT phải tự trau dồi cho mình 
 151 
những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, nắm chắc các văn bản pháp 
luật, đặc biệt các văn bản pháp luật chuyên ngành để từ đó nâng cao năng lực 
chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Mặt khác, cơ quan THTT cũng 
cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, 
nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế cho những người tiến hành tố tụng; xây dựng đội 
ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán thực sự “giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về 
pháp luật”, biết vận dụng tốt các kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ vào hoạt 
động thực tiễn đáp ứng yêu cầu mới của Hiến pháp. Đồng thời, người THTT phải 
tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong quá trình thực thi nhiệm vụ và cơ 
quan tiến hành tố tụng phải đặt ra các yêu cầu cụ thể về việc thường xuyên trau dồi 
đạo đức nghề nghiệp và chế tài áp dụng đối với những trường hợp vi phạm. Bên 
cạnh đó, cơ quan và người THTT được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án phải bảo 
đảm quyền được bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị 
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đảm bảo sự tham gia của NBC theo quy định của 
pháp luật; tạo điều kiện để NBC nghiên cứu hồ sơ, có mặt trong các giai đoạn tố tụng 
của vụ án; tôn trọng và xem xét đầy đủ, kịp thời ý kiến của NBC theo quy định của 
pháp luật, nhằm bảo đảm việc điều tra, thu thập chứng cứ khách quan, toàn diện và 
đúng pháp luật. Có như vậy mới bảo đảm việc thực đúng và đầy đủ chức năng bào 
chữa trong TTHS. 
 - Đối với người bị buộc tội: 
 Như đã phân tích ở trên, người bị buộc tội tự bào chữa chiếm tỷ lệ lớn do nhiều 
nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là không tin tưởng NBC. Do đó, cần 
thay đổi nhận thức của cộng đồng xã hội nói chung và một bộ phận người bị buộc tội 
nói riêng, giúp họ nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức năng của NBC. NBC tham gia 
trong vụ án hình sự là để giúp đỡ họ, trấn an tinh thần họ, là người đồng hành cùng với 
họ trong suốt quá trình giải quyết vụ việc của họ 
 4.2.2.3. Giải pháp về kinh tế, chính trị, xã hội 
 - Về kinh tế: 
 Trên thực tế, chế độ đãi ngộ đối với NBC nói chung và luật sư nói riêng, nhất 
là luật sư chỉ định cần được quan tâm. Việc trả thù lao cho luật sư chỉ định quá thấp 
so với thù lao mà họ được hưởng khi được mời ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện 
chức năng bào chữa. Nhà nước cần có chế độ thù lao thoả đáng với công sức mà 
luật sư đã bỏ ra để bào chữa cho người bị buộc tội để động viên, khuyến khích luật 
sư tham gia tích cực và có trách nhiệm cao trong mọi trường hợp Đoàn luật sư phân 
công văn phòng luật sư cử luật sư tham gia bào chữa. 
 Theo quy định của Luật Luật sư và Nghị định 123/2013/NĐ – CP hướng dẫn 
 152 
thi hành một số điều của Luật Luật sư thì“ Mức thù lao luật sư tham gia tố tụng 
trong vụ án hình sự do khách hàng và văn phòng luật sư, công ty luật thỏa thuận 
trong hợp đồng dịch vụ pháp lý nhưng mức cao nhất cho 01 giờ làm việc của luật 
sư không được vượt quá 0,3 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định 
“ và“. Đối với những vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư thì mức 
thù lao được trả cho 01 ngày làm việc của luật sư là 0,4 lần mức lương cơ sở do 
Chính phủ quy định”. Có ý kiến cho rằng không nên quy định mức trần thù lao. 
Bởi lẽ: Thứ nhất, lao động của luật sư là lao động đặc thù về trí óc. Vì thế, cho dù 
đánh giá như thế nào đi nữa thì cũng mang tính chủ quan và không thể chính xác 
một cách tuyệt đối. Có thể một việc mà luật sư làm được đối với người này thì 
không đáng kể, nhưng đối với người khác thì lại cực kỳ có giá trị. Hoặc đối với 
người này mức thù lao như thế là quá rẻ, nhưng đối với người khác thì lại cho rằng 
quá cao. Như vậy, mức thù lao là phải căn cứ vào sự ghi nhận của các bên trên cơ 
sở thỏa thuận, vì thế khi Nhà nước quy định mức trần là đã “đóng khung” và định 
mức cho thù lao luật sư một cách rất khiên cưỡng. Thứ hai, khách hàng có quyền tự 
quyết định về mức thù lao sẽ trả cho luật sư. Nhà nước quy định mức trần tức là 
không cho họ quyền định đoạt tài sản về mặt dân sự? Ý kiến khác lại cho rằng, việc 
quy định mức trần thù lao là không phù hợp và bộc lộ một số bất cập. Vì vậy, trong 
tương lai, đề nghị bỏ mức trần thù lao của luật sư và thay vào đó là mức sàn thù lao 
như một số nước khác trên thế giới. Theo tác giả, cần phải có một khung hành lang 
về mức thù lao. Nếu thấp quá thì đánh giá không đúng giá trị lao động của luật sư, 
mà cao quá thì sẽ khó tiếp cận. Do vậy, Nhà nước bắt buộc quy định về giá trần thù 
lao cho luật sư trong các vụ án hình sự. Với mức giá trần này, Nhà nước hướng đến 
mục tiêu đảm bảo khách hàng của luật sư không bị các luật sư, vốn rất hiểu biết 
pháp luật, lợi dụng tình thế của họ để lấy thù lao quá mức so với công lao thực tế. 
Và khi đã tạo được một khung giá ở mức độ nằm trong khả năng kinh tế của mặt 
bằng chung xã hội, việc khách hàng sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư sẽ nhiều 
hơn, cơ hội của các bị can, bị cáo được sự giúp đỡ, bào chữa của các luật sư sẽ tăng 
cao, quyền lợi hợp pháp của tổ chức cá nhân được đảm bảo, Nhà nước cũng đảm 
bảo về trật tự trong quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực. Điều này, đến lượt mình, sẽ 
kích thích và tạo điều kiện cho sự phát triển của đội ngũ luật sư theo Chiến lược cải 
cách tư pháp đến năm 2020, Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 của 
Đảng đã đề ra. Tuy nhiên, mức trần thù lao này cũng phải thay đổi theo điều kiện 
kinh tế, xã hội của đất nước. Theo chúng tôi, cần nâng mức trần thù lao sao cho phù 
hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng quy định về bảng giá thù lao 
chuẩn hoặc cũng có thể quy định mức trần nhưng cho phép các bên thỏa thuận vượt 
mức trên cơ sở tự nguyện. 
 153 
 - Về chính trị: 
 Các giải pháp về chính trị tập trung ở hai vấn đề chính: tăng cường sự lãnh 
đạo của Đảng và bảo đảm dân chủ trong quá trình thực hiện pháp luật về chức năng 
bào chữa. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở chỗ: Đảng quản lý, kiểm tra 
hoạt động của các tổ chức Đảng, Đảng viên, công tác quy hoạch, bồi dưỡng cán 
bộ trong việc thực hiện chức năng bào chữa, tạo điều kiện cho NBC trong quá 
trình tham gia giải quyết VAHS, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. 
 Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ cần phát triển, nâng 
cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, 
công nghệ và kinh tế tri thức là nền tảng tiếp tục phát triển đội ngũ luật sư, nâng cao 
hơn nữa chất lượng luật sư, xây dựng và phát triển các tổ chức hành nghề luật sư có 
nhiều luật sư tham gia, điều hành, quản trị chuyên nghiệp, triển khai có hiệu quả Đề 
án phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, Chiến lược phát triển 
nghề luật sư đến năm 2020. Đối với các tỉnh, thành phố đã xây dựng Đề án phát 
triển nghề luật sư tại địa phương cần khẩn trương triển khai thực hiện. Đối với các 
tỉnh, thành phố chưa xây dựng Đề án phát triển nghề luật sư cần sớm xây dựng và 
ban hành Đề án. Việc xây dựng và triển khai thực hiện Đề án phát triển nghề luật sư 
ở các địa phương cần chú trọng, gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu và định hướng 
của Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 mà Thủ tướng Chính phủ đã 
ban hành. Các cấp ủy đảng, chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 
trên cơ sở nhiệm vụ chính trị tại địa phương, tiếp tục chủ động, quan tâm chỉ đạo, 
lãnh đạo việc tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ về cơ sở vật chất nhằm 
tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn. 
 Về vấn đề bảo đảm dân chủ trong quá trình thực hiện pháp luật về chức năng 
bào chữa, cần phát triển nền dân chủ và tạo nên sự bình đẳng thực sự giữa chủ thể 
thực hiện chức năng gỡ tội và chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, mở rộng quyền 
của NBC và người bị buộc tội... 
 - Về xã hội: 
 Về mặt xã hội, cần tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật về các quy 
định của BLTTHS, Luật luật sư có liên quan đến chức năng bào chữa. Trên thực tế, 
nhận thức, hiểu biết pháp luật của người dân nói chung và người bị buộc tội nói 
riêng còn hạn chế. Đây là một trong những nguyên nhân khiến người bị buộc tội và 
người thân của họ chưa ý thức được tầm quan trọng của NBC trong việc tham gia 
giải quyết vụ án hình sự. Điều này ảnh hưởng đến quyền nhờ người khác bào chữa 
của người bị buộc tội. Do đó, cần làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao hiểu biết 
của người dân về kiến thức pháp luật. Qua đó giúp người dân có ý thức tuân thủ 
 154 
pháp luật, nhận thức được và tự bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân. 
Cần thiết phải thay đổi nhận thức của người dân nói chung và người bị bắt, bị 
tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng khi cho rằng, sự tham gia tố tụng của người bào 
chữa là không cần thiết và tốn kém, hay thậm chí e ngại sự có mặt của người bào 
chữa sẽ khiến cho các cơ quan tố tụng thiếu thiện cảm với mình. Nhận thức 
không đúng về vai trò và vị trí của người bào chữa chính là rào cản lớn làm cho 
sự tham gia của người bào chữa trở nên khó khăn, trong khi bản thân người bị 
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ lại không có 
khả năng bào chữa hiệu quả. Vì vậy, việc nâng cao hiểu biết của người dân về sự 
cần thiết tham gia tố tụng của người bào chữa chính là đảm bảo cho người bị bắt, 
bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo Hiến định. Để 
làm được việc này, chúng ta cần xây dựng thói quen sống và làm việc theo pháp 
luật của công dân; nâng cao trình độ dân trí; phổ biến, giáo dục pháp luật trực 
tiếp hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng bằng các hình thức đơn 
giản, dễ tiếp cận, lôi cuốn được sự chú ý của nhiều người như xây dựng những 
bộ phim trong đó đề cao vai trò của NBC bảo vệ có hiệu quả cho người bị buộc 
tội không bị oan. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền, phổ biến quy định của BLTTHS 
về chức năng bào chữa nhằm nâng cao nhận thức của cá nhân, tổ chức về vị trí, vai 
trò của NBC, chủ động và kịp thời hướng dẫn để tháo gỡ những khó khăn, vướng 
mắc trong quá trình thi hành BLTTHS và văn bản có liên quan. 
 Các điều kiện về xã hội có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện chức năng 
bào chữa. Hiện nay, ngoài việc chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai rò của NBC, một 
số bộ phận người dân cũng chưa hiểu rõ về hoạt động của các cơ quan THTT. Để 
giúp cho người dân hiểu rõ và nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề này, giải pháp tuyên 
truyền pháp luật là điều không thể thiếu. Khi người dân hiểu biết về pháp luật hình 
sự, TTHS nhiều hơn thì chức năng bào chữa sẽ được thực hiện tốt hơn. Ví dụ, việc tổ 
chức các phiên tòa lưu động xét xử ở các địa phương hoặc phát sóng chương trình 
Tòa tuyên án đã thu hút được nhiều người dân tham gia, thông qua đó, vai trò của 
NBC cũng như các quyền của người bị buộc tội được người dân biết đến nhiều hơn 
 Ngoài các giải pháp trên, cần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối 
với các tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm trợ giúp pháp lý... Cần đầu tư thỏa 
đáng về nguồn lực con người, cơ sở vật chất, kiện toàn, nâng cao năng lực cho 
đội ngũ cán bộ tư pháp ở Trung ương và địa phương thực hiện công tác quản lý 
nhà nước đối với các tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm trợ giúp pháp lý...; 
tăng cường áp dụng tin học trong công tác quản lý tổ chức và hoạt động luật sư, 
hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý và trợ giúp viên pháp lý. Đồng thời, 
 155 
tăng cường kiểm tra, thanh tra để nắm bắt tình hình về tổ chức và hoạt động luật 
sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân để kịp thời tháo gỡ khó khăn, 
vướng mắc, uốn nắn và xử lý nghiêm những hành vi phạm pháp luật, vi phạm 
Quy tắc đạo đức; biểu dương, khen thưởng kịp thời đối với luật sư, tổ chức hành 
nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, trung tâm trợ giúp pháp 
lý, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân có nhiều đóng góp trong quá 
tình hành nghề, gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật... Bên cạnh đó, cần xây 
dựng và thực hiện thường xuyên cơ chế thông tin, phối hợp quản lý giữa các cơ 
quan quản lý nhà nước về tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm trợ giúp pháp lý 
ở Trung ương với địa phương và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan nhằm 
tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề luật sư, 
trung tâm trợ giúp pháp lý, bào chữa viên nhân dân một cách tốt nhất. 
 156 
 Kết luận chƣơng 4 
 Quan điểm về hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào 
chữa trong TTHS được ghi nhận trong nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước. Việc 
hoàn thiện pháp luật cần được thực hiện dựa trên quan điểm của Đảng về nâng cao 
chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, tăng cường tranh tụng, phân định rạch ròi giữa 
ba chức năng cơ bản của TTHS, đồng thời nâng cao vai trò của NBC và bảo vệ 
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Quán triệt các quan điểm trên, luận 
án đã đưa ra các giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện 
chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. 
 BLTTHS năm 2015 ghi nhận các quyền của người bị buộc tội trong quá trình 
tham gia giải quyết vụ án hình sự, với mục đích bảo vệ họ tránh khỏi sự vi phạm từ 
phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc tham gia tố tụng của NBC là sự giám sát 
tốt nhất các hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; đấu tranh với 
những hành vi sai trái để bảo vệ mục đích cuối cùng của quá trình tố tụng hình sự là 
giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu 
điểm, thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong thời gian qua còn nhiều bất cập, 
hạn chế. Từ những bất cập và nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thực 
hiện chức năng bào chữa trong TTHS, nghiên cứu sinh đã đưa ra những kiến nghị 
hoàn thiện về mặt pháp luật và các giải pháp thực hiện chức năng bào chữa trong 
TTHS Việt Nam. Hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa trong TTHS bao 
gồm: Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và hoàn thiện các quy định về 
chức năng bào chữa trong TTHS. Tác giả đã mạnh dạn đưa ra một số đề nghị nhằm 
chỉnh sửa, bổ sung một số quy định có bất cập. Ví dụ: quy định về quyền của NBC 
và việc bảo đảm thực hiện, quy định về quyền của người bị buộc tội và việc bảo 
đảm thực hiện Đồng thời, phải có định hướng hoàn thiện mô hình TTHS Việt 
Nam,tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình TTHS thẩm 
vấn, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, nhất là tăng 
cường các yếu tố tranh tụng tại phiên tòa xét xử. Bởi mô hình TTHS quyết định 
chức năng TTHS nên muốn hoàn thiện chức năng TTHS nói chung, chức năng bào 
chữa nói riêng thì trước hết phải hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự.Để bảo đảm 
thực hiện chức năng bào chữa trên thực tế, ngoài giải pháp hoàn thiện pháp luật còn 
một số giải pháp khác như: Giải pháp về tổ chức, về con người, về kinh tế, chính trị, 
xã hội 
 157 
 KẾT LUẬN 
 Nghiên cứu đề tài luận án “Chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam”, 
trong điều kiện nghiên cứu rộng và phức tạp, tác giả luận án đã đạt được một số kết 
quả khiêm tốn. Đây là một trong những đề tài mang tính lý luận và thực tiễn cao. 
Mặc dù vấn đề bào chữa đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới góc độ quyền bào 
chữa, nguyên tắc bào chữa nhưng dưới góc độ là chức năng bào chữa thì rất ít công 
trình nghiên cứu đề cập đến. Tác giả luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản 
về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, 
vai trò của chức năng bào chữa; hình thức thực hiện chức năng bào chữa; các điều 
kiện bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Qua đó khẳng 
định, chức năng bào chữa là một trong ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, là 
những phương diện hoạt động trong tố tụng hình sự được pháp luật ghi nhận và bảo 
đảm cho bên bị buộc tội khả năng đưa ra chứng cứ và lý lẽ chống lại sự buộc tội, 
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, pháp nhân thương mại 
phạm tội, góp phần vào việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ. 
Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam thể hiện chức năng bào chữa trong 
tố tụng hình sự cũng được tác giả làm rõ thông qua việc phân tích các quy định về 
quyền của người bào chữa, quyền của người bị buộc tội cũng như nghĩa vụ của họ 
trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. 
 Trong những năm qua, người bào chữa đã thực hiện khá tốt chức năng bào 
chữa của mình nhằm bảo vệ quyền lợi cho thân chủ. Sự tham gia của người bào 
chữa không làm cản trở công tác của người tiến hành tố tụng, trái lại hoạt động của 
các bên có mối quan hệ thúc đẩy, bổ sung cho nhau. Đồng thời, sự theo sát của 
người bào chữa với người bị buộc tội giúp bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp 
của người bị buộc tội, hạn chế những vi phạm pháp luật của cơ quan THTT và đam 
bảo cho các hoạt động tố tụng diễn ra khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Tuy 
nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của 
người bào chữa và người bị buộc tội còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân xuất 
phát từ các quy định của pháp luật và từ chính người bào chữa, người bị buộc tội, 
người tiến hành tố tụng. Từ thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS 
Việt Nam, tác giả đưa ra quan điểm hoàn thiện pháp luật và những giải pháp bảo 
đảm thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, bao gồm các giải pháp về hoàn 
thiện pháp luật, giải pháp về điều kiện tổ chức, về con người, về kinh tế, chính trị, 
xã hội. 
 158 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN 
 LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ 
 1. Cao Thị Ngọc Hà (2018), “Một số vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố 
 tụng hình sự Việt Nam”, tạp chí nghề luật số 01/2018 
 2. Cao Thị Ngọc Hà (2018), “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự của một số 
 nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam”, tạp chí nghề luật số 03/2018 
 3. Cao Thị Ngọc Hà (2019), “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự của một số 
 nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam”, tạp chí nghề luật số 
 02/2019 
 159 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 Tài liệu tiếng Việt: 
 1. Trần Văn Bảy (2003), “Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của 
người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 5/2004 
 2. Lê Cảm (2006), “Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng 
 3. Lê Cảm (2004), « Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc cơ bản của 
luật TTHS », tạp chí Luật học, số 6, năm 2004; 
 4.Lê Tiến Châu (2008), «Chức năng xét xử trong TTHS Việt Nam”, Luận án tiến sỹ 
luật học; 
 5. Lưu Bình Dương (2004), “Tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự, những vấn 
đề lý luận và thực tiễn”, luận văn thạc sỹ luật học 
 6. Phạm Hồng Hải (2004),“Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của 
người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 5/2004 
 7. Phạm Hồng Hải (1999),“Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội”, NXB 
công an nhân dân. 
 8. Phan Văn Hòa (2013), “người bào chữa trong TTHS”, luận văn thạc sỹ luật học. 
 9. Phan Trung Hoài (2006), “hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam”, NXB tư 
pháp, Hà Nội. 
 10. Phan Trung Hoài (2007), “Hành nghề luật sư trong vụ án hình sự”, NXB tư 
pháp, Hà Nội 
 11. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), “Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt nam”, 
luận án tiến sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội. 
 12. Nguyễn Duy Hưng (2004),“Về sự tham gia của người bào chữa vào quá trình 
TTHS theo BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3/2004. 
 13. Nguyễn Văn Hiển (2010), “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - 
những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận án tiến sỹ luật học. 
 14. Học viện tư pháp (2014), “Nâng cao vị thế và vai trò của luật sư trong tiến 
trình cải cách tư pháp”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường. 
 15. Đỗ Thị Hường (2007), “Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa 
của bị can, bị cáo”, luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội. 
 16. Nguyễn Văn Huyên (2003), “Bảo đảm quyền của bị cáo trong phiên toà mở 
rộng tranh tụng”, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên để về tranh tụng năm 2003 
 17. Trang web https://sites.google.com/site/xahoihocsociology/cac-khai-niem-ly-
thuyet-xa-hoi-hoc/lt/ly-thuyet-cau-truc-chuc-nang). 
 18. Trang web 
hoi-hoc/ly-thuyet-cau-truc-chuc-nang-trong-xa-hoi-hoc.html 
 160 
 19. Trang web 
van-de-chung/1762-arradcliffe-brownban-ve-khai-niem-chuc-nang-trong-khoa-hoc-xa-
hoi-.html (Trích Nguồn: A. R. Radcliffe-Brown. 1965. Structure and Function in 
Primitive Society. New York: The Free Press, pp. 178-187.) 
 20. Trang Web (
doi.aspx?ItemID=1828) 
 21. Nguyễn Ngọc Khanh (2008),“Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên toà 
hình sự”, tạp chí Luật học, số 7/2008; 
 22. Vũ Huy Khánh (2012),“Thực trạng quy định của pháp luật về hoạt động tham 
gia tố tụng của luật sư với tư cách là người bào chữa và hướng hoàn thiện” Tạp chí 
Tòa án nhân dân (kỳ II, tháng 4/2012, số 08). 
 23. Trần Hoài Lâm (2007),“chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự », luận văn 
thạc sỹ luật học. 
 24. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2011), “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp 
luật sư Việt Nam”, Hà Nội 
 25. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2012), “Kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS 
2003 và các luận chứng, Hà Nội. 
 26. Phan Thanh Mai (2013), “Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động bào chữa 
của luật sư”, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội 
 27. Đinh Thị Mai (2015), Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ cấp Bộ, Đề tài: Các chức 
năng của Tố tụng hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn. 
 28. Đào Thị Nga, Nguyễn Chí Trinh (2012), “Hoạt động của luật sư trong giai đoạn 
xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 19. 
 29. Đặng Trần Thanh Ngọc (2015),“thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình 
sự Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sỹ luật học. 
 30. Đặng Thị Hải Hằng (2014), “nội dung cơ bản và giá trị đương đại của Bộ luật 
Hồng Đức”, Luận văn thạc sỹ luật học, ĐH QG Hà Nội 
 30. NXB Chính trị quốc gia (2001), Khái quát hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ, Hà Nội. 
 31. NXB chính trí quốc gia, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, 
Đại học Luật hà Nội; 
 32. Nguyễn Thái Phúc (2015), “Các chức năng của TTHS và vấn đề hoàn thiện mô 
hình TTHS ở Việt Nam hiện nay”, Hội thảo khoa học “Các chức năng của TTHS trong 
bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội. 
 33. Nguyễn Văn Phương (2014), “vai trò của luật sư – người bào chữa trong giai 
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sỹ luật học. 
 34. Bộ tư pháp (2011), Báo cáo tổng kết thi hành luật luật sư. 
 35. Báo cáo tổng kết ngành TAND năm 2014, 2015. 
 161 
 36. Báo cáo tổng kết ngành Kiểm sát nhân dân năm 2016, 2017. 
 37. Báo cáo tổng kết của Liên đoàn Luật sư Việt Nam năm 2015, 2016, 2017 
 38. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự năm 1999, 2015, Hà Nội. 
 39. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, 2003, 2015, Hà Nội. 
 39. Quốc hội (2012), Luật Luật sư, năm 2012, Hà Nội. 
 40. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), “Đảm bảo quyền có người bào chữa của người 
bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ”, luận án tiến sỹ 
luật học; 
 41. Hoàng Thị Minh Sơn (2015), “Khái niệm, vị trí, vai trò, ý nghĩa của các chức 
năng TTHS”, “ Hội thảo khoa học “Các chức năng của TTHS trong bối cảnh cải cách 
tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội. 
 42. Hồ Sỹ Sơn (2000),“Những đảm bảo hiệu quả của hoạt động bào chữa trong tố 
tụng hình sự”, tạp chí nhà nước và pháp luật. 
 43. Hoàng Thị Sơn (2003), “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong 
luật TTHS Việt Nam”, luận án tiến sỹ luật học. 
 44. Hoàng Thị Sơn (2002), “Thực trạng thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền 
bào chữa của bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học, số 4/2002 
 45. Hoàng Thị Sơn (2000),“Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm 
quyền bào chữa của bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học số 5/2000. 
 46. Lê Hồng Sơn (2002), “Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong 
TTHS”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 7/2002 
 47. Lê Trung Sơn (2015), “Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trong 
tố tụng hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sỹ luật học 
 48. Nguyễn Văn Tuân (2011),“vai trò của luật sư trong TTHS”, NXB công an 
nhân dân. 
 49.Từ điển Tiếng Việt (1996), NXB Đà Nẵng. 
 50. Bùi Bảo Trâm (2012), “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm 
giữ, bị can, bị cáo”, luận văn thạc sỹ luật học. 
 51. Nguyễn Thị Phương Thảo (2009), “bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong 
tố tụng hình sự”, luận văn thạc sỹ luật học. 
 52. Nguyễn Huy Thiệp (2012), “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS 2003 về 
bảo đảm quyền bào chữa của luật sư”, Hội thảo quốc tế, Hà Nội. 
 53. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014),“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người 
chưa thành niên trong TTHS”, luận án tiến sỹ luật học. 
 54. Lại Văn Trình (2011),“bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, 
bị cáo trong TTHS Việt Nam”, luận án tiến sỹ luật học. 
 162 
 55. Trường Đại học luật Hà Nội (2013), “Hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm nâng 
cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp 
Trường. 
 56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), “Giáo trình luật tố tụng hình sự”, NXB 
Tư pháp, Hà Nội. 
 57. Nguyễn Trương Tín (2010), “Bàn về sự tham gia bắt buộc của người bào chữa 
trong giai đoạn điều tra trong TTHS”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12. 
 58. Nguyễn Văn Tuân (2009), “Bảo đảm quyền có người bào chữa của bị can, bị 
cáo trong tố tụng hình sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 3, Hà Nội. 
 59. Nguyễn Văn Tuân (2008), “Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa 
với bị can, bị cáo trong TTHS”, tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2008; 
 60. Nguyễn Văn Tuân (2010),“Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò 
của luật sư trong tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp”, tạp chí Dân chủ và Pháp 
luật số tháng 3. 
 61. Ngô Thị Ngọc Vân (2015),“ Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn 
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, luận án tiến sỹ luật học 
 62. Trịnh Tiến Việt – Trần THị Hồng Lê. “Luật sư bào chữa trong phiên tòa sơ 
thẩm hình sự: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và những kiến nghị”, Dân chủ và pháp 
luật (Số chuyên đề tổ chức và hoạt động của luật sư). 
 63. Đào Trí Úc (2011), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàn thiện mô hình tố tụng 
hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp - kinh nghiệm CHLB Đức” do 
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Quỹ Hợp tác quốc tế về pháp luật CHLB Đức phối 
hợp tổ chức tại Hà Nội”. 
 64. Phạm Minh Tuyên (2008), Một số vướng mắc trong việc áp dụng BLTTHS 
2003 và những kiến nghị sửa đổi, Tạp chí TAND số 21. 
 65. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2012), Báo cáo đánh giá thực trạng thi hành 
BLTTHS 2003 về đảm bảo quyền bào chữa, Hà Nội. 
 66. Phong Trần (2012), Người đại diện hợp pháp là người bào chữa hay chi mang 
tính chất trang trí, Báo pháp luật và xã hội, 01/11/2012. 
 67. Nguyễn Huy Hoàn (2004), Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa cho bị can 
trong hoạt động TTHS, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 10. 
 68. Viện khoa học pháp lý (2016), Báo cáo kết quả dự án điều tra cơ bản về thực 
trạng đảm bảo thực hiện qyền bào chữa và quyền có người đại diện pháp lý của cá 
nhân ở Việt Nam. 
 69. Lê Hồng Sơn (2002), Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong TTHS, 
Tạp chí NHà nước và pháp luật số 7. 
 163 
 70. Nguyễn Ngọc Khanh (2008), Nâng cao vị thế của Luật sư tại phiên toà hình sự, 
Tạp chí Luật học. 
 74. Võ Khánh Vinh (2010),“Quyền con người - tiếp cận đa ngành và liên ngành 
Luật học”, nhà xuất bản khoa học xã hội (2 tập); 
 75. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), “Quyền con người – Tiếp cận đa ngành và 
liên ngành luật học”, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 
 76. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2011), “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con 
người”, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 
 77. Võ Khánh Vinh (2003), “Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN 
của dân, do dân, vì dân ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 8). 
 78. Võ Khánh Vinh (2015), Xã hội học pháp luật, NXB khoa học xã hội. 
 79. Ban chấp hành trung ương Đảng, Chỉ thị số 33/CT_TW ngày 30/3/2009 về tăng 
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. 
 80. Trang web của Liên đoàn luật sư Việt Nam, trích “Tạp chí luật sư Việt nam, số 
7 tháng 9 năm 2014”. 
 81. Trang web 
hanh-to-tung-va-nguoi-tham-gia-to-tung-trong-luat-to-tung-1777304.html 
 82. Trang web của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trích “Số chuyên đề về mô 
hình TTHS một số nước trên thế giới (số 1+2) năm 2011 
 83. Trang web 
Bộ luật Gia Long 
 84. Trang web  mô hình TTHS 
Trung Quốc. 
 85. Trang web  
 86.  Luatsuhanoi.org.vn/traođổi/cảicách_tưpháp.asp#Top “Lê Phú 
Thịnh, Cải cách tư pháp - Gọc nhìn từ một phiên Toà hình sự sơ thẩm – Ý kiến của 
luật sư chưa được tôn trọng”. 
 87. Trang web 
nhung-van-de-dat-ra-trong-thuc-tien-48339.html 
 88. Trang web https://tuoitre.vn/ghi-am-ghi-hinh-hoat-dong-hoi-cung-thuc-hien-
sao-cho-hieu-qua-20180318085327519.htm 
 Tài liệu tiếng Anh: 
 89.Adam Paker(2008), “Basic principles on the role of lawyers” 
 90.Antonio Cassese, Paolo Gaeta, John Rwd Jones (2002), “The Rome statute ò the 
international criminal court: A Commentatry, NXB Oxford University Press. 
 164 
 91. (Al.Ritlin 1960, Buộc tội xã hội tại phiên tòa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật 
Xô viết số 9) 
 92Christoph Saffeling (2003), “Toward an international criminal procedure”. 
 93. Donald J.Newman, Ph.D (Lecturer in law University Wiseunsin, Modison), 
 “Functions of the police, prosecutor, court workers, defense counsel, Judge in 
 aiding Juvenile Justice” 
 94. K.W.Lidstone (2006),“ Humand rights in the Enghlish criminal trial”. 
 95. Michael bohlander, Roman boed, and Richael J.wilson (2009), “defense 
international criminal proceeding”. 
 96. Lan Brownlie, GuyS.Goodwin (2010), “Brownlie’s document on the man right” 
 97. Melvin Urofski, “Rights of the people: Individual freedom and bills of right” 
 98.Rene David, John E.C.Brierly, The Free Press (1978), “Major legal systems in 
world today” 
 99. Rolando V.del carmen Trường Đại học bang Sam Houston, “Criminal 
proceduce – law and practice”(in tại Printed in the United states of American). 
 100. Roberta K.flowers (2009), “The role of the defense attorney: not just an 
adwcate. 
 101. Paul Bergman and Sara J.Berman (2003),“the Criminal law handbook”. 
 102. Peter A renella, đại học luật Boston, “Rethinking the functions of criminal 
Proceduce”. 
 103 Samuel Dash, 47 N.C.L.Rev 598 (1969) tại trang web http:// scholar 
ship.law.urc.ed/nclr, “The emerging Role and Function of the Criminal defense 
lawyer”. 
 104. Stephanos stavros (1993), “the guarantees for accused peorsons under Article 
6 of the European convention on Human Righs”, nhà xuất bản sweet and maxwell, 
Anh quốc. 
 105. Uni. Melbourne, Australia (2011); “Criminal process and human rights”. 
 106. Xiong Qiuhong, phó giáo sư-tiến sỹ Viện luật, Học viện khoa học xã hội 
Trung Quốc, “Lawyer Defence in the Pre-Trial Proceedings” . 
 107. www.americanbar.org / american Justice section archive, “Defense 
function”, Đoàn luật sư Hoa Kỳ. 
 108. 
[email protected]/ “Human rights in china”, “Human rights protections 
and China’s criminal proceduce law in practice” 
 165 
 PHỤ LỤC 
 MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN DÀNH CHO LUẬT SƢ 
Tỉnh/thành:... Huyện/quận:. 
Người được phỏng vấn: Thời gian phỏng vấn:......../....../2018. 
Kính thưa: Ông (Bà)... 
Để nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện một số quy định mới có liên quan đến chức 
năng bào chữa trên cơ sở các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị 
Ông (Bà) vui lòng trả lời phiếu hỏi sau đây bằng cách gạch chéo vào ô thích hợp. Chúng 
tôi cam kết các thông tin Ông (Bà) cung cấp chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu 
khoa học và không sử dụng vào các mục đích khác. 
Câu hỏi 1. Trong quá trình làm thủ tục đăng ký bào chữa, Ông/Bà gặp những khó 
khăn nào sau đây? 
 Thời gian ban hành văn bản thông báo NBC kéo dài hơn quy định của pháp luật 
 Đòi hỏi nhiều giấy tờ không cần thiết 
 Văn bản thông báo NBC không có giá trị trong các giai đoạn tố tụng 
 Khác:.................................................................................................... 
Câu hỏi 2. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về 
nhận thức của ngƣời đƣợc Ông/bà bào chữa về các quyền tố tụng sau đây? 
Nội dung Biết Không biết 
1. Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa   
2. Các quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, bị tạm giữ,   
bị can, bị cáo 
3. Quyền được cơ quan có thẩm quyền bảo đảm các   
quyền tố tụng nêu ở mục (1) và (2) 
Câu hỏi 3. Trong quá trình tham gia tố tụng hình sự, Ông/Bà thực hiện việc bào chữa 
với tƣ cách nào dƣới đây? 
  Luật sư do người bị buộc tội hoặc gia đình của họ mời 
  Luật sư do Đoàn luật sư cử theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng 
 166 
Câu hỏi 4. Trong quá trình tố tụng, việc Ông/Bà gặp gỡ ngƣời đƣợc Ông/Bà bào chữa 
thƣờng diễn ra nhƣ thế nào? 
 Trƣờng hợp Thƣờng Thỉnh thoảng Không bao 
 xuyên giờ 
 Gặp riêng    
 Gặp và có sự giám sát    
Câu hỏi 5. Các cơ quan tiến hành tố tụng có tạo điều kiện cho Ông/Bà đủ thời gian 
gặp gỡ tiếp xúc với ngƣời đƣợc bào chữa không? 
  Có 
  Không 
Câu hỏi 6. Trong quá trình tham gia vào hoạt động hỏi cung bị can, Ông/Bà nhận 
thấy quá trình hỏi cung có ghi âm, ghi hình có âm thanh hay không? 
  Có 
  Không 
Nếu không, lý do vì sao? 
........................................................................................................................................... 
.......................................................................................................................................... 
Câu hỏi 7. Ông/Bà có đƣợc CQTHTT thông báo về địa điểm, thời gian hỏi cung bị 
can và các hoạt động điều tra khác không? 
  Có 
  Không 
Câu hỏi 8. Theo Ông/Bà, quyền thu thập chứng cứ của luật sƣ theo BLTTHS 2015 có 
gặp khó khăn gì không? CQTHTT đánh giá các chứng cứ do LS cung cấp nhƣ thế 
nào? 
..................................................................................................................................................
.................................................................................................................................... 
Câu hỏi 9. Trên thực tế Cơ quan THTT có tạo điều kiện cho ngƣời bị buộc tội thực 
hiện các quyền mới của mình theo BLTTHS 2015 không? Ví dụ: quyền không buộc 
phải đƣa ra chứng cứ chống lại mình, quyền đƣợc hỏi ngƣời tham gia tố tụng tại 
phiên tòa nếu chủ tọa đồng ý? 
  Có 
 167 
  Không 
Câu hỏi 10. Trong quá trình thực hiện hoạt động nghiên cứu hồ sơ, Ông/Bà đánh giá 
nhƣ thế nào về mức độ đáp ứng của Cơ quan tiến hành tố tụng đối với các yêu cầu 
của luật sƣ về đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án? 
(chỉ lựa chọn 01 đáp án) 
  Đáp ứng toàn bộ 
  Đáp ứng một phần 
  Không đáp ứng 
Câu hỏi 11. Ông/Bà đánh giá nhƣ thế nào về quy định thù lao bào chữa của NBC? 
1. Mức thù lao bào chữa thấp hợp lý cao 
2. Thủ tục thanh toán thù lao đơn giản hợp lý phức tạp 
3. Mức trần thù lao hợp lý không hợp lý 
 Khác:........................................................................................ 
Câu hỏi 12. Tại phiên tòa, HĐXX có điều hành phiên tòa theo đúng tinh thần tranh 
tụng của BLTTHS 2015 không? 
  Có 
  Không 
Đề nghị Ông (Bà) vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân: 
- Tuổi:................................................................................................................... 
- Giới tính:  Nam  Nữ 
- Thời gian hành nghề:.............................năm 
- Số lượng vụ án đã tham gia bào chữa:...............................vụ 
Xin trân trọng cảm ơn Ông/ Bà đã nhiệt tình hợp tác, giúp đỡ ! 
 168