Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nƣớc từ năm 1986 đến nay, Nhà nƣớc đã
xây dựng ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách quan trọng nhằm phát triển hệ thống
giáo dục bậc cao, trong đó có lĩnh vực giáo dục, đào tạo về NT-TDTT. Một trong những
cơ chế chính sách đang áp dụng thực hiện cho các trƣờng đào tạo nghệ thuật và thể thao
đƣợc xem nhƣ một bƣớc đột phá quan trọng, mở ra hƣớng đi mới cho các trƣờng, góp
phần nâng cao chất lƣợng giảng dạy, nghiên cứu của các trƣờng và đáp ứng yêu cầu
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nƣớc hiện
nay chính là cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.
Sau một thời gian thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính theo Nghị định
43/2006/NĐ-CP, các trƣờng NT-TDTT của Bộ VHTTDL đã thu nhận đƣợc những
kết quả thành công nhƣng cũng nhận thức đƣợc những vấn đề bất cập mà cơ chế tự
chủ tài chính này mang lại.
Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, luận án đã giải
quyết những nội dung cơ bản đƣợc đặt ra:
1. Đã bổ sung và hệ thống hóa cơ sở lý luận, làm rõ bản chất, phân tích các nhân
tố ảnh hƣởng đến TCTC, cơ chế TCTC; tổng kết bài học kinh nghiệm của khu vực và
thế giới về TCTC; đƣa ra các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cơ chế TCTC.
2. Luận án đã phân tích, đánh giá kết quả thực hiện cơ chế tự chủ ở các trƣờng NT-
TDTT, trong đó làm rõ kết quả thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP và một số cơ chế,
chính sách có liên quan đến quy định thực hiện tự chủ tài chính ở các trƣờng NT-TDTT
công lập trực thuộc Bộ VHTTDL.
3. Luận án đã đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế tự chủ góp
phần nâng cao chất lƣợng GDĐT đối với các trƣờng NT-TDTT; huy động và sử dụng có
hiệu quả nguồn lực của nhà nƣớc và xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nƣớc. Các giải pháp này tập trung vào những
khía cạnh sau: Đổi mới cơ chế học phí trong lĩnh vực đào tạo NT-TDTT; Đổi mới cơ
chế phân bổ NSNN đối với các đơn vị đào tạo công lập về NT-TDTT; Đổi mới cơ
chế tự chủ tài chính trong Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ; Đổi mới chính
sách đối với ngƣời học NT-TDTT.
263 trang |
Chia sẻ: Minh Bắc | Ngày: 16/01/2024 | Lượt xem: 542 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cơ chế tự chủ tài chính trong giáo dục đại học ở Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp các trường nghệ thuật, thể dục thể thao công lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà trƣờng và cơ sở giáo dục khác tổ chức nghiên
cứu, ứng dụng, phổ biến khoa học, công nghệ; kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa
học và sản xuất nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục, từng bƣớc thực hiện vai trò trung
tâm văn hóa, khoa học, công nghệ của địa phƣơng hoặc của cả nƣớc. Tuy nhiên, Bộ
trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện kiểm định chất
lƣợng giáo dục.
Nhà trƣờng đƣợc tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật và Điều lệ nhà
trƣờng. Điều lệ trƣờng đại học do Thủ tƣớng Chính phủ ban hành; Bộ trƣởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Thủ trƣởng cơ quan quản lý nhà nƣớc về dạy nghề ban hành
điều lệ nhà trƣờng ở các cấp học khác theo thẩm quyền.
Ở Việt Nam, Hội đồng trƣờng đối với trƣờng công lập, hội đồng quản trị đối
với trƣờng dân lập, trƣờng tƣ thục là tổ chức chịu ít có quyền tự chủ mà chủ yếu có
tính trách nhiệm về phƣơng hƣớng hoạt động của nhà trƣờng, huy động và giám sát
việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trƣờng, gắn nhà trƣờng với cộng đồng và xã
hội, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Hội đồng trƣờng có các nhiệm vụ nhƣ ban hành Quyết nghị về mục tiêu, chiến
lƣợc, các dự án và kế hoạch phát triển của nhà trƣờng; Quyết nghị về quy chế hoặc
sửa đổi, bổ sung quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trƣờng để trình cấp có thẩm
Pl.71
quyền phê duyệt; Quyết nghị về chủ trƣơng sử dụng tài chính, tài sản của nhà trƣờng;
Giám sát việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng trƣờng, việc thực hiện quy chế
dân chủ trong các hoạt động của nhà trƣờng. Thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức, quyền
hạn và nhiệm vụ cụ thể của hội đồng trƣờng đƣợc quy định trong điều lệ nhà trƣờng.
Thủ tƣớng Chính phủ là cấp quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của
Hiệu trƣởng; thủ tục bổ nhiệm, công nhận Hiệu trƣởng trƣờng đại học; đối với các
trƣờng ở các cấp học khác do Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định.
Nhà nƣớc dành riêng chỉ tiêu cử tuyển đối với những dân tộc thiểu số chƣa có
hoặc có rất ít cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp; có chính sách tạo nguồn
tuyển sinh trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi để học sinh các dân tộc này vào học
trƣờng phổ thông dân tộc nội trú và tăng thời gian học dự bị đại học.
Việc hợp tác đào tạo, mở trƣờng hoặc cơ sở giáo dục khác của ngƣời Việt Nam
định cƣ ở nƣớc ngoài, tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài, tổ chức quốc tế trên lãnh thổ Việt
Nam cũng do Chính phủ quy định. Việc công nhận văn bằng của ngƣời Việt Nam do
nƣớc ngoài cấp đƣợc thực hiện theo quy định của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
và điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Đến năm 2009, Luật Giáo dục có bổ sung quyền kiểm định chất lƣợng giáo
dục. Theo quy định, Nhà nƣớc quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lƣợng giáo dục;
quy trình và chu kỳ kiểm định chất lƣợng giáo dục ở từng cấp học và trình độ đào tạo;
nguyên tắc hoạt động, điều kiện và tiêu chuẩn của tổ chức, cá nhân hoạt động kiểm
định chất lƣợng giáo dục; cấp phép hoạt động kiểm định chất lƣợng giáo dục; cấp, thu
hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lƣợng giáo dục; Quản lý hoạt động kiểm định
chƣơng trình giáo dục và kiểm định cơ sở giáo dục; Hƣớng dẫn các tổ chức, cá nhân
và cơ sở giáo dục thực hiện đánh giá, kiểm định chất lƣợng giáo dục; Kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện các quy định về kiểm định chất lƣợng giáo dục.
Tổ chức kiểm định chất lƣợng giáo dục bao gồm: Tổ chức kiểm định chất
lƣợng giáo dục do Nhà nƣớc thành lập và có thêm Tổ chức kiểm định chất lƣợng giáo
dục do tổ chức, cá nhân thành lập. Tuy nhiên, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo lại
có quyền quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập tổ chức kiểm định chất lƣợng
giáo dục; quy định điều kiện thành lập và giải thể, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức
kiểm định chất lƣợng giáo dục. Bên cạnh tổ chức này Nhà nƣớc tiếp tục duy trì các cơ
quan thanh tra giáo dục gồm: Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo; Thanh tra sở giáo
Pl.72
dục và đào tạo.
Nhằm đảm bảo các quy định của nhà nƣớc về giáo dục đại học có thể thực hiện
đƣợc, Luật Giáo dục quy định xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự về vấn đề vi phạm trong việc thành lập cơ sở giáo dục hoặc
tổ chức hoạt động giáo dục; vi phạm các quy định về tổ chức, hoạt động của nhà
trƣờng, cơ sở giáo dục khác; vi phạm thêm, bớt số môn học, nội dung giảng dạy đã
đƣợc quy định trong chƣơng trình giáo dục; xuất bản, in, phát hành sách giáo khoa
trái phép; làm thất thoát kinh phí giáo dục; lợi dụng hoạt động giáo dục để thu tiền sai
quy định; gây thiệt hại về cơ sở vật chất của nhà trƣờng, cơ sở giáo dục khác
Năm 2012, Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam ban hành Luật Giáo dục đại
học với những quy định mới. Vấn đề tự chủ bộ máy tổ chức của các cơ sở giáo dục
đại học một lần nữa lại đƣợc nhắc đến. Luật quy định Tổ chức Đảng Cộng sản Việt
Nam trong cơ sở giáo dục đại học đƣợc thành lập và hoạt động theo quy định của
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Đoàn thể,
tổ chức xã hội trong cơ sở giáo dục đại học đƣợc thành lập và hoạt động theo quy
định của Hiến pháp, pháp luật và điều lệ của đoàn thể, tổ chức xã hội. Cơ sở giáo dục
đại học có trách nhiệm tạo điều kiện cho tổ chức Đảng, đoàn thể và tổ chức xã hội
đƣợc thành lập và hoạt động theo quy định. Việc bổ sung vai trò của tổ chức Đảng và
Đoàn thể trong tổ chức trƣờng đại học cho thấy quyền tự chủ tiếp tục đƣợc giới hạn
bởi quy trình ra quyết định gián tiếp.
Bên cạnh cơ cấu tổ chức này, trƣờng cao đẳng, trƣờng đại học thành viên của đại
học có cơ cấu tổ chức theo quy định trong Quy chế tổ chức và hoạt động của đại học với
bộ khung gồm: Hội đồng đại học; Giám đốc, phó giám đốc; Văn phòng, ban chức năng;
Trƣờng đại học thành viên; viện nghiên cứu khoa học thành viên; Trƣờng cao đẳng thành
viên; khoa, trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ; Tổ chức phục vụ đào tạo,
nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; Phân
hiệu (nếu có); Hội đồng khoa học và đào tạo, các hội đồng tƣ vấn.
Luật Giáo dục đại học lần đầu tiên đƣa ra quy định thực hiện phân tầng cơ sở
giáo dục đại học. Phân tầng cơ sở giáo dục đại học một mặt nhằm phục vụ công tác
quy hoạch mạng lƣới cơ sở giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội và xây dựng kế hoạch đầu tƣ phát triển, nâng cao năng lực đào tạo và nghiên
cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện quản lý nhà nƣớc. Mặt khác việc
Pl.73
xếp hạng nhằm đánh giá uy tín và chất lƣợng đào tạo; phục vụ công tác quản lý nhà
nƣớc và ƣu tiên đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc.
Các tiêu chí phân tầng và xếp hạng đại học theo các tiêu chí: Vị trí, vai trò
trong hệ thống giáo dục đại học; Quy mô, ngành nghề và các trình độ đào tạo; Cơ cấu
các hoạt động đào tạo và khoa học công nghệ; Chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu
khoa học; Kết quả kiểm định chất lƣợng giáo dục đại học.
Luật quy định có 3 loại phân tầng: Cơ sở giáo dục đại học định hƣớng nghiên
cứu; Cơ sở giáo dục đại học định hƣớng ứng dụng; Cơ sở giáo dục đại học định
hƣớng thực hành. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng quy định tiêu chuẩn phân tầng cơ sở
giáo dục đại học; ban hành khung xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học theo mỗi tầng
và tiêu chuẩn của từng hạng trong khung phục vụ công tác quản lý nhà nƣớc và ƣu
tiên đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc cho giáo dục đại học.
Về quyền xếp hạng đại học, Luật Giáo dục đại học quy định Thủ tƣớng Chính
phủ có quyền công nhận xếp hạng đối với đại học, trƣờng đại học; Bộ trƣởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo công nhận xếp hạng đối với trƣờng cao đẳng; căn cứ kết quả xếp
hạng cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền quyết định kế hoạch ƣu tiên đầu tƣ,
giao nhiệm vụ và cơ chế quản lý đặc thù đối với các cơ sở giáo dục đại học phù hợp
với nhu cầu nhân lực và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc trong từng giai
đoạn. Căn cứ kết quả xếp hạng, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng nơi cơ sở giáo dục đại học đặt trụ sở hoặc
có tổ chức hoạt động đào tạo để hỗ trợ cơ sở giáo dục đại học tƣ thục về đất đai, tín
dụng và đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ.
Thủ tƣớng Chính phủ có quyền quyết định thành lập đại học, học viện, trƣờng đại
học công lập; quyết định cho phép thành lập trƣờng đại học tƣ thục và cơ sở giáo dục đại
học có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định thành lập
trƣờng cao đẳng công lập; quyết định cho phép thành lập trƣờng cao đẳng tƣ thục. Ngƣời
có thẩm quyền quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học thì
có thẩm quyền quyết định sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học.
Theo Luật Giáo dục đại học, các trƣờng đƣợc phép tổ chức các hình thức hợp
tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học nhƣ Liên kết đào tạo; Thành lập văn phòng đại
diện của cơ sở giáo dục đại học nƣớc ngoài tại Việt Nam; Hợp tác nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ, tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học; Tƣ vấn, tài trợ,
Pl.74
đầu tƣ phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị; Bồi dƣỡng, trao đổi giảng viên, nghiên
cứu viên, cán bộ quản lý và ngƣời học; Liên kết thƣ viện, trao đổi thông tin phục vụ
hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ; cung ứng chƣơng trình đào tạo; trao đổi
các ấn phẩm, tài liệu và kết quả hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ; Tham gia
các tổ chức giáo dục, khoa học, hội nghề nghiệp khu vực và quốc tế; Mở văn phòng
đại diện cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam ở nƣớc ngoài; Các hình thức hợp tác
khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo là
cấp có thẩm quyền ban hành quy chế đào tạo và liên kết đào tạo.
Trên cơ sở Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học đã ban hành, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp công lập. Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày
9/8/2006 hƣớng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối
với đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư số 113/2007/TT-BTC ngày 24 tháng 09 năm
2007 sửa đổi bổ sung Thông tƣ số 71/2006/TT-BTC ngày 09/08/2006; Thông tư số
81/2006/TT-BTC ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn chế độ
kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Liên Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-
GDĐT-BNV ngày 15 tháng 4 năm 2009 hƣớng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự
nghiệp công lập giáo dục và đào tạo.
Đối với hoạt động khoa học và công nghệ của các Tổ chức nghiên cứu khoa
học (thuộc trƣờng đại học), cơ chế tự chủ tài chính đƣợc thực hiện theo Nghị định số
115/2005/NĐ-CP đƣợc Chính phủ ban hành ngày 05/09/2005 quy định cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Thông tƣ Liên
tịch số 12/TTLT/BKHCN-BTC-BNV đƣợc Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính
và Bộ Nội vụ ban hành ngày 05/06/2006 hƣớng dẫn thực hiện Nghị định
115/2005/NĐ-CP.
Để tăng cƣờng phát triển giáo dục đại học, Quốc hội sau đó còn đƣa ra hành
Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 về chủ trương, định hướng đổi mới một
Pl.75
số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học
2014 – 2015; Chính Phủ xây dựng và ban hành Chiến lược phát triển giáo dục Việt
Nam 2009-2020; Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng tại Hội nghị lần thứ 6 khóa XI đã
có Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”...
Từ năm 2006 đến nay, tất cả các trƣờng đại học công lập đã đƣợc Nhà nƣớc
phân loại và giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy, biên chế và tài chính theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP. Điểm nổi bật của
Nghị định 43/2006/NĐ-CP là xác định căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, đơn vị sự
nghiệp (các trƣờng đại học công lập) để phân loại thực hiện quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tài chính, từ đó đƣa ra quy định cụ thể về quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho từng loại trƣờng.
Từ những quy định về chính sách, pháp luật trên đây, chúng ta thấy rằng các
trƣờng đại học Việt Nam bị hạn chế rất nhiều về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm so
với các trƣờng đại học ở châu Âu, Bắc Mỹ và một số nƣớc khu vực châu Á nhƣ Hàn
Quốc, Nhật Bản. Trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, vai trò của Nhà nƣớc là
rất lớn, chi phối đến toàn bộ hoạt động giảng dạy – học tập, cũng nhƣ nghiên cứu của
các cơ sở giáo dục đại học.
Do cách tiếp cận chính sách giáo dục đại học từ trên xuống và những quy định
giới hạn quyền tự chủ của các trƣờng đại học từ trƣớc đến nay của hệ thống luật pháp
Nhà nƣớc khiến cho việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở các trƣờng chƣa đem lại
nhiều chuyển biến thực sự cho giáo dục đại học, trong đó có lĩnh vực đào tạo về NT-
TDTT. Cho đến nay, chất lƣợng giáo dục vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển của
đất nƣớc trong thời kỳ mới và so với trình độ của các nƣớc có nền giáo dục tiên tiến
trong khu vực, trên thế giới. Chƣa giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển số lƣợng
với yêu cầu nâng cao chất lƣợng; năng lực nghề nghiệp của học sinh, sinh viên tốt
nghiệp chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của công việc. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã
hội của cơ sở giáo dục chƣa đƣợc quy định đầy đủ, sát thực điều này đƣợc thể hiện rõ
nhất ở Chiến lƣợc phát triển Giáo dục 2011-2020 ban hành theo Quyết định số
711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tƣớng Chính phủ.
Pl.76
PL16: Các xu hƣớng và yêu cầu trong phát triển lĩnh vực giáo dục, đào
tạo nhân lực NT-TDTT ở nƣớc ta trong giai đoạn tới
1. Tác động của bối cảnh quốc tế đến phát triển đào tạo NT-TDTT
Trên thế giới những năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học-công nghệ tiếp tục
có những bƣớc tiến nhảy vọt, thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển, tác động tới tất cả
các lĩnh vực và các nƣớc, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và
tinh thần của xã hội. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sâu
rộng hơn, cuốn hút tất cả các quốc gia, dân tộc tham gia trong thế vừa hợp tác vừa
phải cạnh tranh, vừa tạo ra cơ hội, vừa đƣa lại nhiều thách thức đối với sự phát triển
giáo dục đào tạo về NT-TDTT.
Nền kinh tế tri thức phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ cấu
và sự phát triển kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia vào
phân công lao động toàn cầu; đồng thời mỗi biến động của nền kinh tế thế giới đều tác
động đến nền kinh tế của các quốc gia, nhiều hay ít tùy thuộc vào mức độ hội nhập và
trình độ thích ứng của nền kinh tế mỗi nƣớc. Những hoạt động mang tính kinh tế trong
lĩnh vực nghệ thuật (công nghiệp điện ảnh, nghe nhìn; công nghiệp phát thanh, truyền
hình; công nghiệp vui chơi giải trí...), trong TDTT (kinh tế dịch vụ thể dục, thể thao giải
trí; môi giới, truyền thông thể dục, thể thao) không nằm ngoài những tác động đó. Yếu tố
này tác động nhiều mặt đến nhu cầu đào tạo phát triển lĩnh vực NT-TDTT ở nƣớc ta.
Các quốc gia hiện nay đều nhận thức rằng văn hóa NT-TDTT trở thành động
lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội, do đó cần lấy phát triển nguồn lực con ngƣời làm
mục tiêu trung tâm trong phát triển đất nƣớc. Phát triển NT-TDTT đƣợc gắn kết chặt
chẽ với việc xây dựng lối sống, nhân cách, tính nhân văn, bản lĩnh, trí tuệ, lòng yêu
quê hƣơng đất nƣớc của mỗi cá nhân.
Quan hệ song phƣơng, đa phƣơng giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong
kinh tế và VHNT, thể thao... Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế với việc hình thành các
khối, các tổ chức hợp tác đa phƣơng, song phƣơng đã thúc đẩy sự di chuyển lao động
quốc tế phát triển mạnh, trong đó có các tổ chức mà Việt Nam chính thức tham gia. Sự
hợp tác và liên kết giữa các nƣớc trong khối ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác
ngày chặt chẽ và toàn diện Mối quan hệ Á-Âu ngày càng phát triển và sự hợp tác giữa
hai khối sẽ đảm bảo cho sự ổn định, an ninh và phát triển kinh tế. Châu Á-Thái Bình
Dƣơng vẫn là khu vực phát triển năng động, có vai trò ngày càng lớn. Để đáp ứng yêu
Pl.77
cầu hợp tác chung và hợp tác VHNT, TDTT đòi hỏi Việt Nam phải có nhân lực chất
lƣợng cao. Nó cũng đòi hỏi công tác đào tạo phát triển nhân lực NT-TDTT phải đƣợc
quốc tế hóa, đa phƣơng, đa chiều để hội nhập.
Trong xu thế phát triển chung, hoạt động giao lƣu và hội nhập quốc tế về NT-
TDTT sẽ tiếp tục diễn ra thuận lợi và nhanh chóng. Quá trình giao lƣu, hội nhập quốc tế
về NT-TDTT có khả năng tạo ra những biến đổi lớn về diện mạo, đặc điểm, loại hình
NT-TDTT; đồng thời, sự bùng nổ của các phƣơng tiện truyền bá sản phẩm nghệ thuật,
công nghệ giải trí, TDTT hiện đại cũng tạo nên những tác động mạnh mẽ đến đời sống
xã hội và công chúng. Yếu tố này thúc đẩy, đòi hỏi phải nâng cao khả năng cạnh tranh
trong quá trình GDĐT về NT-TDTT giữa Việt Nam và các nƣớc.
Trong thế giới vừa hợp tác, vừa cạnh tranh gay gắt, bắt buộc các quốc gia vƣơn tới
chiếm lĩnh càng nhiều càng tốt công nghệ nguồn và thông tin kinh tế. Việc mở cửa thị
trƣờng lao động tạo sự dịch chuyển lao động giữa các nƣớc đòi hỏi các quốc gia phải
nâng cao chất lƣợng nhân lực của mình. Để làm đƣợc những việc này, đòi hỏi phải có
nhân lực chất lƣợng cao, yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Do đó
ngành giáo dục đào tạo có yêu cầu đẩy mạnh đổi mới giáo dục, đào tạo và khoa học công
nghệ trong phát triển nhân lực NT-TDTT để có thể đáp ứng năng động hơn, hiệu quả
hơn và trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nƣớc.
2. Xu hướng và yêu cầu phát triển lĩnh vực giáo dục, đào tạo NT-TDTT
Văn hóa NT-TDTT là những yếu tố quan trọng để tạo nên bản sắc, sức mạnh
tinh thần và vật chất phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Các quốc gia hiện nay đều
coi việc giáo dục, đào tạo nhân lực nhằm bảo vệ và giữ gìn đƣợc bản sắc văn hóa dân
tộc là nhiệm vụ sống còn của mỗi quốc gia. Là một đất nƣớc có kho tàng nghệ thuật
phong phú và rất độc đáo, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn
trong việc GDĐT nhằm bảo tồn những giá trị truyền thống, phát huy sự đa dạng văn
hóa trong khi phải ƣu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế.
Xu thế cạnh tranh và phát triển trong các lĩnh vực đào tạo nghệ thuật, thể thao sẽ
dựa trên tính độc đáo và sáng tạo của sản phẩm, dịch vụ; giá trị độc đáo của bản sắc văn
hóa và chất lƣợng môi trƣờng thay vì dựa trên các yếu tố đầu vào hay vốn đầu tƣ nhƣ
thời kỳ trƣớc. Những giá trị mới đƣợc thiết lập trên cơ sở giá trị văn hoá dân tộc (tính
độc đáo, nguyên bản), giá trị tự nhiên (tính nguyên sơ), giá trị sáng tạo và công nghệ cao
(tính hiện đại) là những xu hƣớng lựa chọn trong nhu cầu cuộc sống.
Pl.78
Khi tham gia nền kinh tế thị trƣờng, NT-TDTT đƣợc coi nhƣ những sản phẩm
hàng hóa đặc thù và tất yếu bị đẩy vào quá trình thƣơng mại hóa. Quá trình thƣơng
mại hóa ấy sẽ tạo ra những thay đổi nhất định đối với sự phát triển các loại hình NT-
TDTT của đất nƣớc cũng nhƣ nhu cầu giáo dục, đào tạo NT-TDTT nhằm đáp ứng
nhu cầu của thị trƣờng, của xã hội. Nó cũng giúp hình thành những nhu cầu đào tạo
các loại hình, bộ môn NT-TDTT hiện đại và đi kèm với các sản phẩm công nghiệp,
dịch vụ hiện đại. Quan niệm nghệ thuật, thể thao thuần túy ngày càng nhanh chóng
thay đổi theo hƣớng nghệ thuật, thể thao kinh doanh; nghệ thuật, thể thao chuyên
nghiệp, đặc biệt ở những môn nghệ thuật và thể thao có khán giả, có thị trƣờng. Bên
cạnh đó, xu hƣớng thƣơng mại hóa sẽ gây nên sự mất cân đối trong cạnh tranh phát
triển một số bộ môn nghệ thuật và thể thao "truyền thống".
Ngành công nghiệp dịch vụ văn hoá nghệ thuật, thể thao ngày càng phát triển
với tốc độ nhanh chóng cả về quy mô và công nghệ. Cũng vì thế sự cạnh tranh về sản
phẩm văn hoá nghệ thuật càng trở nên khốc liệt hơn, không chỉ là cạnh tranh giữa các
sản phẩm trong cùng một ngành, mà còn cạnh tranh với các sản phẩm bổ sung và
thay thế. Mức đóng góp của tri thức, nghệ thuật, thể thao đối với tăng trƣởng kinh tế
ngày càng lớn. Do đó, cơ cấu đầu tƣ để phát triển lực lƣợng sản xuất, yếu tố con
ngƣời đòi hỏi phải có những thay đổi rất lớn về công tác giáo dục, đào tạo nhằm tạo
ra nhiều giá trị gia tăng cho xã hội.
Với tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, đô thị hoá hiện nay, Việt Nam đang
diễn ra những thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu văn hoá NT-TDTT. Quá trình thay đổi
nghề nghiệp, môi trƣờng sống của các cộng đồng dân cƣ dẫn đến những thay đổi về
thị hiếu, lối sống, hệ giá trị, chuẩn mực đòi hỏi các lĩnh vực hoạt động văn hoá nghệ
thuật, thể thao phải đƣợc xây dựng và phát triển phù hợp. Việt Nam phải giải quyết
tốt mối quan hệ giữa phát triển khu vực đô thị, khu công nghiệp và nông thôn; giữa
vùng trung tâm và vùng ngoại vi; giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại.
Quá trình hiện đại hoá các trang thiết bị và phƣơng tiện đào tạo nghệ thuật, thể
thao đã làm cho chất lƣợng đào tạo đƣợc nâng cao và kết quả đào tạo đƣợc phổ biến
nhanh chóng hơn. Quá trình liên kết và phổ biến thông tin, viễn thông, kỹ thuật số là xu
hƣớng lớn của thời đại, góp phần thúc đẩy trao đổi hoạt động đào tạo NT-TDTT giữa
các quốc gia. Hàm lƣợng khoa học công nghệ không ngừng tăng lên, trở thành nhân tố
quan trọng để nâng cao thành tích. Việt Nam sẽ phải cố gắng thay đổi phƣơng thức tổ
Pl.79
chức tuyển chọn và đào tạo, huấn luyện SV để có thể ứng dụng rộng rãi khoa học -
công nghệ, đặc biệt khoa học, công nghệ tổng hợp liên ngành nhƣ sinh lý, sinh hóa,
khoa học quân sự, khoa học vật liệu, khoa học phục hồi chức năng, khoa học dinh
dƣỡng, khoa học chế tạo thiết bị...
Sự tranh đua giành thứ hạng cao trong các giải đấu quốc gia, khu vực và châu
lục ngày càng gay gắt. Các quốc gia đều coi trọng thành tích, xếp hạng trong Thế vận
hội, trong các Đại hội thể thao khu vực, vì vậy đều tăng cƣờng đầu tƣ. Các nƣớc đều
chọn nhóm môn thể thao có ƣu thế tập trung phát triển. Hầu hết các quốc gia đều chú
trọng phƣơng thức huấn luyện tập trung cao độ và đều thành lập số ít trung tâm huấn
luyện đa chức năng. Sự trao đổi giao lƣu vận động viên xuất sắc ngày càng mở rộng ở
những môn thể thao có thị trƣờng. Huấn luyện viên tài năng thƣờng thay đổi hợp
đồng huấn luyện ở nhiều quốc gia khác nhau. Sự thay đổi môn thi đấu trong Thế vận
hội, tăng các môn thể thao cho nữ giới cũng sẽ tạo nên sự biến động về thành tích và
thứ hạng của các quốc gia. Luật thi đấu của các môn thay đổi cũng sẽ ảnh hƣởng tới
thành tích thi đấu. Các quốc gia đều phải thay đổi hệ thống, chế độ thi đấu. Mật độ thi
đấu tăng cao làm thay đổi quan điểm huấn luyện truyền thống, chu kỳ huấn luyện.
Sắp sếp chu kỳ huấn luyện mới ra đời (chu kỳ ngắn), coi thi đấu là một bộ phận cấu
thành của huấn luyện, hình thành những thủ đoạn, phƣơng pháp huấn luyện gắn liền
với năng lực thi đấu thực tế.
Việt Nam sẽ từng bƣớc đăng cai tổ chức các hoạt động thể thao mang tầm quốc tế.
Một số tỉnh, thành phố, ban ngành trong toàn quốc chú trọng, tăng cƣờng đầu tƣ cho TDTT,
tạo sự cạnh tranh quyết liệt vừa là động lực, vừa là thách thức đối với TDTT vùng miền.
Nhu cầu đào tạo các môn thể thao thành tích cao, có tính quốc tế hóa cao dẫn đến sự thay đổi
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, huấn luyện thể thao tại các trƣờng TDTT.
TDTT trƣờng học đƣợc đặc biệt coi trọng. Việt Nam cũng nhƣ nhiều quốc gia
trên thế giới tiếp tục tăng cƣờng đầu tƣ cho TDTT trƣờng học, đƣa ra những chỉ tiêu
cụ thể cho TDTT trƣờng học. Nội dung TDTT quần chúng sẽ phát triển phong phú
hơn, đặc biệt là thể thao giải trí, TDTT đối với ngƣời cao tuổi. Thể thao giải trí, thể
dục vì sức khỏe đƣợc đƣa vào chƣơng trình giảng dạy chính thức của nhiều trƣờng
Đại học TDTT trên thế giới, ngay cả châu Á. Do sự phát triển mạnh mẽ của thể thao
giải trí, thể dục vì sức khỏe, thể thao ở ngƣời cao tuổi, các hình thức tổ chức TDTT
quần chúng có nhiều sự thay đổi. Bên cạnh duy trì các hình thức tổ chức cơ sở TDTT
Pl.80
phúc lợi truyền thống, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh dịch vụ thể thao giải trí,
thể dục vì sức khỏe, mở ra thị trƣờng dịch vụ thể thao lớn. Để đáp ứng nguồn nhân
lực cho xu hƣớng phát triển này, các trƣờng TDTT buộc phải đổi mới hệ thống
chƣơng trình, phƣơng pháp đào tạo các môn TDTT.
Hệ thống quản lý tổ chức và đào tạo thể thao thành tích cao ở nƣớc ta sẽ có sự
cải thiện rõ rệt theo hƣớng phát triển một cách cơ bản, tập trung hơn. Các cơ sở huấn
luyện thể thao tập trung ở quốc gia và ở một số tỉnh thành sẽ cải thiện rõ rệt, mở ra
những khả năng mới để ứng dụng khoa học công nghệ cao, chuẩn bị cho bƣớc phát
triển mới sau năm 2020. Có thể dự báo từ nay đến 10-20 năm tới là giai đoạn xây
dựng cơ bản của thể thao thành tích cao gắn liền với nền tảng TDTT trƣờng học, một
số ít mặt có sự phát triển đột biến trong ASIAD và Olympic.
Các cơ sở phúc lợi TDTT vẫn tiếp tục đƣợc mở rộng, nhƣng đặc biệt các cơ sở
dịch vụ TDTT sẽ tăng lên rõ rệt do nhận thức của xã hội đối với TDTT và đời sống
nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Nhờ chƣơng trình nâng cao thể lực và tầm vóc ngƣời
Việt Nam bằng giải pháp dinh dƣỡng và TDTT của Chính phủ, TDTT trƣờng học
đƣợc cải thiện rõ rệt.
Các bộ môn nghệ thuật, thể thao thành tích cao tiếp tục phát triển theo hƣớng kinh
doanh chuyên nghiệp hoá; các môn nghẹ thuật, thể thao có khán giả, có thị trƣờng sẽ có
sự phát triển mới; các loại hình ngày càng có sự gắn kết tƣơng hỗ với nhau phát triển.
Hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng sẽ phát triển mạnh mẽ trong những năm tới theo
hƣớng mở rộng nhu cầu hoạt động vận động và giải trí của nhân dân, tạo nên nguồn cầu
mạnh mẽ về đào tạo.
Xu hƣớng phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo NT-TDTT tiếp tục nâng cao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và
tài chính. Nhà nƣớc tập trung nguồn lực đầu tƣ xây dựng hệ thống các trƣờng trọng
điểm; dành nguồn ngân sách hỗ trợ phát triển các lĩnh vực đào tạo NT-TDTT bên cạnh
quá trình tăng cƣờng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đào tạo lĩnh vực này. Nhà nƣớc sẽ
điều chỉnh cơ chế học phí cho phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy quá trình phân quyền cho các trƣờng, giảm dần vai trò
của Nhà nƣớc trong việc điều hành công tác giáo dục đào tạo.
Xác định xây dựng và phát triển nghệ thuật, TDTT là sự nghiệp của toàn dân, Đảng
và Nhà nƣớc ta tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hoá về các lĩnh vực này; coi đây là một
Pl.81
giải pháp lớn của trong việc huy động mọi nguồn lực xã hội để phát triển nghệ thuật, thể
thao. Các giải pháp xã hội hóa các mô nghệ thuật hiện đại, thể thao thành tích cao, đặc
biệt đối với các môn thể thao có khán giả, có thị trƣờng sẽ có tác dụng tốt hơn. Do đó,
ngày càng có nhiều tầng lớp xã hội, thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia
vào quá trình phát triển giáo dục, đào tạo NT-TDTT. Sự đóng góp của các thành phần
này tất yếu sẽ đem lại những tác động tích cực trong việc mở rộng quy mô và nâng cao
chất lƣợng hoạt động đào tạo của các lĩnh vực NT-TDTT trên địa bàn cả nƣớc.
Mạng lƣới giáo dục, đào tạo NT-TDTT công lập liên quan từ bậc phổ thông đến
đến đại học và sau đại học đƣợc thiết lập những năm trƣớc đây tiếp tục khẳng định
vai trò cung cấp nhân lực đƣợc giáo dục hƣớng nghiệp VHNT, giáo dục thể chất, đào
tạo chuyên sâu để từng bƣớc đáp ứng nhu cầu nhân lực cho đất nƣớc. Hệ thống cơ sở
đào tạo tiếp tục đƣợc tăng cƣờng cả về số lƣợng và năng lực. Tỷ lệ nhân lực đƣợc đào
tạo, bồi dƣỡng chuyên môn ngày càng cao; chất lƣợng đào tạo đƣợc cải thiện thể hiện
ở tỷ lệ tìm đƣợc việc làm đúng chuyên ngành sau tốt nghiệp ngày càng cao.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, đặc biệt là đào tạo kỹ năng tại các cơ
sở chuyên nghiệp đào tạo NT-TDTT tiếp tục nằm trong nhiệm vụ trọng tâm phát triển
của ngành VHTTDL. Hệ thống chƣơng trình khung các ngành, chuyên ngành ở các
trình độ đƣợc xây dựng và áp dụng thống nhất sẽ đẩy nhanh quá trình đào tạo. Yêu
cầu đặc thù trong đào tạo NT-TDTT từng bƣớc đƣợc đáp ứng.
Đội ngũ giáo viên, GV, huấn luyện viên ngày càng tăng về số lƣợng và trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ, kiến thức, kỹ năng hội nhập, tâm huyết và trách nghiệm với
nghề. Liên kết trong nƣớc và quốc tế, các chƣơng trình mục tiêu quốc gia, các diễn đàn
trao đổi chuyên môn liên tục đƣợc tiến hành để xây dựng đội ngũ giáo viên, GV, huấn
luyện viên lớn mạnh cả về lƣợng và chất. Sự đam mê cống hiến của các thế hệ giáo
viên, GV, huấn luyện viên, nghệ sĩ, nghệ nhân, vận động viên (cả khi đã nghỉ hƣu)
trong đào tạo, bồi dƣỡng NT-TDTT, đặc biệt là đào tạo năng khiếu, huấn luyện thành
tích cao là yếu tố mang tính quyết định đến chất lƣợng đào tạo.
Đào tạo, phát triển tài năng trẻ, đào tạo năng khiếu, phát triển nhân tài và huấn
luyện thành tích cao tiếp tục đƣợc quan tâm. Nhiều thành tích, kết quả kiệt xuất, huân
huy chƣơng, danh hiệu cao quí trong NT-TDTT đều có dấu ấn vai trò của phát hiện,
bồi dƣỡng, đào tạo, huấn luyện gieo mầm ngay từ tuổi thơ khi phát hiện tài năng và
trong suốt quá trình đào tạo, huấn luyện. Sự quyết tâm của thầy và trò trong đào tạo
Pl.82
năng khiếu và huấn luyện thành tích cao là một trong những điểm mạnh nổi bật,
truyền thống cao quí tiếp tục đƣợc các nhà trƣờng phát huy. Sự năng động và đa dạng
hóa các hình thức đào tạo, quá trình thúc đẩy xã hội hóa nhằm huy động nhiều nguồn
lực cho đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực NT-TDTT, đặc biệt là đào tạo tại chỗ, tự đào tạo
và truyền nghề sẽ giúp khắc phục đáng kể sự hẫng hụt, yếu kém về kiến thức, kỹ
năng chuyên nghiệp ở một số lĩnh vực và các vùng, miền. Nhân dân tiếp tục quan tâm
đầu tƣ nhiều mặt cho con em đi học về NT-TDTT nhất là những loại hình, bộ môn có
ƣu thế phát triển trong nền kinh tế thị trƣờng.
Kinh nghiệm phát triển nhân lực trong nƣớc và quốc tế đƣợc chuyển giao và
tiếp thu có chọn lọc, nhanh chóng thông qua nhiều dự án phát triển mà ngành
VHTTDL đang thực hiện hoặc thông qua dự án đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài; khả năng
tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật, cộng nghệ, kiến thức của ngƣời Việt Nam nói chung
và sự đóng góp, cống hiến của kiều bào ta ở nƣớc ngoài vào sự nghiệp phát triển NT-
TDTT và đào tạo NT-TDTT ngày càng thể hiện rõ nét khi Việt Nam hội nhập sâu và
toàn diện với khu vực và thế giới.
Trong giai đoạn vừa qua, Đảng và Nhà nƣớc đã xây dựng và ban hành khá đồng
bộ hệ thống quan điểm, đƣờng lối, chiến lƣợc, quy hoạch, chƣơng trình, đề án, cơ
chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển giáo dục, đào tạo về NT-TDTT.
Trong đ :
- Các văn bản đề cập về chủ trƣờng, quan điểm, đƣờng lối của Đảng đáng chú ý
có Nghị quyết Hội Nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá VIII
(năm 1998) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; Kết luận Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ 10 khoá IX
(năm 2004); Nghị quyết 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về
“Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới; Nghị quyết
số 08-NQ/TW, ngày 01/12/2011, của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
(khóa XI) về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, tạo bƣớc phát triển mạnh mẽ về thể
dục, thể thao đến năm 2020.
- Các bộ Luật có liên quan đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo NT-TDTT đáng
chú ý có Luật giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật TDTT... kèm theo các Nghị
định hƣớng dẫn thi hành Luật.
- Các chiến lƣợc, quy hoạch, chƣơng trình, đề án có liên quan đến nội dung đào
Pl.83
tạo NT-TDTT nhƣ Chiến lƣợc phát triển Văn hóa đến năm 2020, Chiến lƣợc phát
triển TDTT Việt Nam đến năm 2020; Chiến lƣợc phát triển giáo dục giai đoạn 2009-2020;
Quy hoạch phát triển nhân lực nhóm ngành văn hóa, thể thao giai đoạn 2011-2020; Quy
hoạch mạng lƣới trƣờng đại học và cao đẳng giai đoạn 2011-2020; Quy hoạch mạng lƣới
các trƣờng đào tạo chuyên nghiệp về VHNT giai đoạn 2011-2020.
- Các văn bản pháp luật liên quan đến cơ chế, chính sách đặc thù, nâng cao quyền
tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính và xã hội hóa có liên
quan đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo NT-TDTT nhƣ Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy
định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tƣ liên tịch số
07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ Giáo dục – Đào tạo và
Bộ Nội vụ hƣớng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập GDĐT; Nghị định số
69/2008/NĐ-CP, ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa
đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi
trƣờng; Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ
Chính trị về Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã
hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công; Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14
tháng 5 năm 2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập
và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 – 2015...
Những quan điểm, đƣờng lối, chính sách, pháp luật trên đây đã xác định đƣợc tính
chất, mục tiêu cơ bản phát triển lĩnh vực NT-TDTT; tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho
việc triển khai mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo về NT-TDTT của đất nƣớc. Đây cũng
là những căn cứ quan trọng để các trƣờng NT-TDTT đẩy mạnh xây dựng cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về đào tạo NT-TDTT trong thời gian tới.
Trong giai đoạn sắp tới, đất nƣớc tiếp tục thực hiện cơ chế, chính sách phát triển
kinh tế, xã hội hóa, đặc thù trong lĩnh vực đào tạo, phát triển nhân lực NT-TDTT.
Chú trọng chính sách phát triển giáo dục, đào tạo ƣu tiên cho các đối tƣợng chính
sách, có hoàn cảnh khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số; trong quá trình thực hiện cơ
chế, chính sách phát triển giáo dục, đào tạo NT-TDTT cần chú ý có sự phân biệt về
nhu cầu sử dụng, mục tiêu đào tạo, lộ trình, mức độ tự chủ giữa các trƣờng, các bộ
Pl.84
môn, loại hình đào tạo nhằm đảm bảo tính khả thi. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc tập trung
hoàn thiện một số cơ chế, chính sách của Nhà nƣớc chƣa thực sự phù hợp yêu cầu
thực tiễn, đặc biệt là các cơ chế, chính sách đối với đào tạo NT-TDTT.
Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ đào tạo NT-TDTT mặc dù đƣợc đầu tƣ những
vấn còn còn kém phát triển, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu đào tạo nhân lực NT-TDTT
của đất nƣớc. Do đó, yêu cầu xây dựng nâng cấp cơ sở vật chất là hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó, công tác xã hội hóa đào tạo NT-TDTT cần phải đẩy mạnh hơn để huy
động nguồn lực toàn xã hội, nhằm bù đắp và hỗ trợ nguồn lực đầu tƣ của Nhà nƣớc
về đào tạo NT-TDTT vốn hết sức khó khăn.
Do nhu cầu đào tạo NT-TDTT có xu hƣớng tăng về số lƣợng và chất lƣơng nên
các trƣờng cần tập trung thực hiện giải pháp nhằm bổ sung, nâng cao tiêu chuẩn
nguồn cán bộ GV có trình độ, đồng thời đẩy mạnh quốc tế hóa đào tạo NT-TDTT.
Cùng với những thay đổi chính sách giáo dục đào tạo đại học, Nhà nƣớc tiếp tục
cải thiện các thủ tục đầu tƣ, quản lý NT-TDTT nhằm tạo ra môi trƣờng kinh doanh dịch
vụ theo hƣớng lành mạnh, hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực của cơ chế thị trƣờng dẫn tới
thƣơng mại hóa trong hoạt động sáng tạo và phát triển tài năng cũng nhƣ lĩnh vực đào
tạo NT-TDTT.
PL17: Quan điểm, định hƣớng của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
các trƣờng đại học công lập
1. Nhà nước cần giao quyền tự chủ tài chính ở mức độ cao cho trường đại học
công lập
Ở phạm vi quốc gia cũng nhƣ quốc tế thì sự tồn tại của một trƣờng ĐH sẽ có ba
nhiệm vụ chính, đó là: 1) cung cấp các khóa đào tạo; 2) thực hiện NCKH; 3) cung cấp
cho cộng đồng, cho xã hội các dịch vụ khoa học, tƣ vấn về KHCN.
Sau đổi mới, nền kinh tế nƣớc ta đã có những chuyển biến rất tích cực, đạt đƣợc
nhiều thành tựu to lớn, ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, trong đó,
GDĐH đã không ngừng phát triển về qui mô, loại hình đào tạo. Nhƣng một bất cập lớn
nảy sinh khi đại chúng hóa GDĐH là sự giảm sút về chất lƣợng. Nguyên nhân là do
nguồn NSNN đầu tƣ cho GDĐH tăng không đáng kể, dẫn tới nhiều trƣờng không có đủ
nguồn lực tài chính để duy trì, nâng cao chất lƣợng và sức cạnh tranh với các trƣờng ĐH
khác trong khu vực và quốc tế.
Để cải thiện tình hình trên, đòi hỏi Nhà nƣớc ta cần đổi mới cơ chế quản lý, giao
quyền TCTC ở mức độ cao cho các trƣờng ĐHCL. Có nhƣ vậy, các trƣờng mới nâng
Pl.85
cao quyền tự chủ một cách đầy đủ để quản lý nhà trƣờng tốt hơn. Các khoản thu chi
trong nhà trƣờng sẽ đƣợc công khai, dân chủ hóa hơn, thực hành tiết kiệm chi tiêu, chống
lãng phí, nâng cao đời sống vật chất cho đội ngũ CBVC, thúc đẩy nâng cao chất lƣợng
toàn diện của nhà trƣờng.
Ở góc độ trách nhiệm của trƣờng ĐH đƣợc giao quyền TCTC là phải chủ động
tìm kiếm, sử dụng nguồn tài chính hợp lý; sắp xếp lại biên chế, bố trí tổ chức lao
động một cách khoa học; mở rộng hoặc sắp xếp lại cơ cấu đào tạo, NCKH và các
hoạt động khác cho phù hợp với khả năng, năng lực của nhà trƣờng [29].
2. Đổi mới nhận thức về vai trò, địa vị pháp lý, môi trường hoạt động của trường
đại học công lập trong nền kinh tế thị trường định hướng x hội chủ nghĩa
Từ năm 1986, nền kinh tế nƣớc ta chuyển sang hoạt động theo nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN, mọi hoạt động đào tạo, NCKH của các trƣờng ĐHCL
không chỉ phục vụ cho các cơ quan, thành phần kinh tế nhà nƣớc mà còn đáp ứng nhu
cầu của tất cả các thành phần kinh tế khác. Nó đóng vai trò cung cấp dịch vụ về tri
thức ở bậc ĐH cho cá nhân và cả xã hội. Nó chính là lực lƣợng sản xuất trực tiếp
trong quá trình tạo ra một hàng hoá đặc biệt là con ngƣời có trình độ tri thức cao.
Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, các trƣờng
ĐHCL thực sự là những “trạm dịch vụ XH”, có sứ mạng phục vụ cả nhiệm vụ chính
trị và phục vụ nhu cầu của xã hội trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế. Vì vậy, các trƣờng
ĐHCL luôn luôn chịu sự tác động, chi phối của 5 loại qui luật, nguyên tắc khác nhau,
bao gồm: quy luật, nguyên tắc sƣ phạm; quy luật, nguyên tắc quản lý hệ thống xã hội;
quy luật hài hoà lợi ích trong xã hội; các quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trƣờng;
các quy luật, nguyên tắc của hoạt động KHCN [31].
Dƣới góc độ quản lý và môi trƣờng phát triển KT-XH của một quốc gia và cả
thế giới cho thấy nếu chúng ta xem xét trƣờng ĐHCL nhƣ một đơn vị sự nghiệp có
thu thì đây là cách hiểu giản đơn nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị mà chƣa coi
trọng nhiệm vụ cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu XH. Chính điều này đã vô tình
thu hẹp các hoạt động của các nhà trƣờng trong thời kỳ hội nhập quốc tế về GDĐH.
Bởi vì, khi các trƣờng ĐHCL cung cấp dịch vụ GDĐH cho cả khu vực tƣ nhân
trong nƣớc và nhu cầu của quốc tế dẫn tới tỷ trọng thu nhập từ các nguồn kinh phí
ngoài NSNN cấp ngày càng tăng. điều này đã làm cho các trƣờng phải cạnh tranh
gay gắt với các trƣờng ĐH khác trong nƣớc, ngoài nƣớc để giành các nguồn lực
Pl.86
tài chính. Vì thế, Nhà nƣớc phải căn cứ vào cả tính “lợi ích” hay “lợi nhuận” để có
cơ chế quản lý phù hợp (nếu trƣờng ĐHCL hoạt động chỉ vì “lợi ích” của mình thì
nhànƣớc không cần phải đầu tƣ ngân sách).
Những kết luận trên đã đƣợc minh chứng qua ý kiến trả lời của 132 nhà quản lý
GDĐH (bảng 12). “85% ý kiến (giá trị trung bình M=3,13)” rất đồng ý và đồng ý
cho rằng trong phạm vi quản lý nhà nƣớc thì cần phải cân nhắc yếu tố phi lợi nhuận
của trƣờng ĐH; 96% ý kiến (M=3,37) cho rằng sự cạnh tranh giữa bản thân các
trƣờng ĐH trong nƣớc và với các trƣờng ĐH nƣớc ngoài ngày càng tăng; 98% ý kiến
(M=3,26) cho rằng các trƣờng ĐH Việt Nam chịu tác động của thị trƣờng.
Bảng 4.2: Tầm nhìn về quản lý giáo dục đại học
Mục khảo sát
Kết
quả
Trung
bình
(M)
Độ
lệch
chu n
(SD)
Tần xuất trả lời
(%)
4 3 2 1
Quản lý nhà nƣớc cần cân nhắc đến
yếu tố lợi nhuận của trƣờng Đại học
Đ 3.13 0.71 30 55 12 3
Cạnh tranh giữa các trƣờng trong
nƣớc và giữa các trƣờng Việt Nam
và các trƣờng nƣớc ngoài đến 2019
G 3.37 0.56 41 55 4 0
Tác động của thị trƣờng đến các
trƣờng đến 2019
G 3.26 0.47 27 71 2 0
Nguồn: [23, tr. 139]; kiểu trả lời, (đ) là đồng ý; G: Gia tăng, (F): Tần suất trả
lời, trong đó: 4 là tích cực nhất, 1 là không tích cực nhất
Hiện nay, trên thế giới nhiều nƣớc coi hoạt động của trƣờng ĐH nhƣ hoạt động
của một công ty. Ở ĐH quốc gia Seoul (Hàn Quốc), khi hỏi ý kiến về biện pháp cải
thiện tính cạnh tranh quốc tế thì 96% giáo sƣ đã đồng tình chuyển hoạt động của
trƣờng theo mô hình công ty. Năm 1999, nội các Nhật xác định việc chuyển đổi ĐH
quốc gia thành công ty quản trị độc lập là một yêu cầu tất yếu. ĐH Queensland
Australia (UQ) - năm 2007 xếp hạng 33 thế giới, là trƣờng ĐH nghiên cứu hàng đầu
của Australia luôn khẳng định mình là DN 1 tỷ Úc kim [62].
Nhƣ vậy, ở khía cạnh thị trƣờng cũng nhƣ ở lĩnh vực tài chính cho thấy hoạt động
của các trƣờng giống nhƣ hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất là làm ra những sản
phẩm phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính trị, KT-XH. điều này đồng nghĩa với việc các
trƣờng ĐHCL phải TCTC, tự chịu trách nhiệm, phải cạnh tranh về chất lƣợng và chi phí
đào tạo đối với các sản phẩm của nhà trƣờng tƣơng tự nhƣ việc các DN phải tự chủ, tự
Pl.87
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động SXKD của mình. Ở nƣớc ta, về luật pháp, bƣớc đầu
trƣờng ĐHCL có vai trò nhƣ DN đã đƣợc thừa nhận.
3. Nhận thức lại vai trò Nhà nước trong việc tạo nguồn tài chính cho các trường
ĐHCL hoạt động và nâng cao chất lượng đào tạo.
Thế kỷ XXI, kỷ nguyên của tri thức và toàn cầu hóa, GDĐH có vai trò rất to lớn
trong việc thúc đẩy sự phát triển KT-XH của một quốc gia và cả thế giới. Vì vậy,
Chính phủ các nƣớc thƣờng xuyên đầu tƣ NS và rất quan tâm tới việc tạo ra những
trƣờng ĐH đỉnh cao, có uy tín về chất lƣợng đào tạo và NCKH.
Theo Salmi (2008), có 3 nhân tố tạo ra sự thành công của các trƣờng ĐH đẳng
cấp quốc tế, đó là: “nguồn lực dồi dào, tập trung tài năng, và cơ chế quản trị thuận
lợi”. điều này có nghĩa muốn tạo ra một trƣờng ĐH có chất lƣợng, có thƣơng hiệu thì
phải có cơ chế đảm bảo cho nhà trƣờng đó có một nguồn lực “rất lớn” và chúng ta
cần loại bỏ quan điểm “chi phí thấp, chất lƣợng cao”; muốn có “chất lƣợng cao thì
phải bỏ chi phí cao”. Ví dụ, ngân sách hoạt động hàng năm của ĐH Harvard (Mỹ) là
3,464 tỷ USD; ĐH quốc gia Seoul (hàn Quốc) là gần 1 tỷ USD [27].
Vì vậy, Nhà nƣớc cần giao quyền TCTC ở mức độ cao để các trƣờng có đƣợc sự
bình đẳng, chủ động tham gia vào các hoạt động cung cấp dịch vụ GDĐH cho xã hội.
Nhà nƣớc chỉ nên giữ vai trò tạo môi trƣờng, khuôn khổ pháp lý, vai trò giám sát
(oversee), quản lý các trƣờng ở tầm vĩ mô mà không trực tiếp tham gia vào việc thực
hiện chính sách, không làm thay chức năng, nghiệp vụ của các trƣờng. Việc giao
quyền TCTC ở mức độ cao không có nghĩa buông lỏng quản lý mà phải gắn với trách
nhiệm giải trình; đảm bảo công bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ thực hiện, buộc các
trƣờng phải tồn tại bằng chất lƣợng.
4. Hoàn thiện cơ chế TCTC theo hướng tạo lập môi trường, thúc đẩy đào tạo theo
nhu cầu XH và hội nhập quốc tế
Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng, nguồn nhân lực là tài sản
chung, ngƣời lao động có thể làm bất kỳ công việc nào, ở bất kỳ đâu nếu họ có
đủ tiêu chuẩn yêu cầu. Xu hƣớng quốc tế hoá GDĐH là một tất yếu khách quan
không loại trừ bất cứ một nƣớc nào trên thế giới.
Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế TCTC các trƣờng ĐHCL cần tiếp cận với các tiêu
chuẩn của thế giới. Ngoài ra, Nhà nƣớc cần phải tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các
trƣờng trong nƣớc và nƣớc ngoài. Hiện nay, các trƣờng nƣớc ngoài đƣợc ƣu tiên, đƣợc tự
do tổ chức hoạt động đào tạo mà không chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Bộ GDĐT về
chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp giảng dạy... trong khi đó các trƣờng trong nƣớc
Pl.88
phải thực hiện theo khung chƣơng trình có sẵn và bị khống chế về chế độ chi tiêu, tuyển
dụng, đầu tƣ.
Thực tiễn cho thấy trong XH có nhiều thành phần kinh tế, nhiều đối tƣợng có
nhu cầu lĩnh vực, bậc học và các mô hình, thời gian, chất lƣợng khác nhau. Do vậy,
các trƣờng ĐHCL phải đƣợc quyền trong việc đáp ứng các nhu cầu học tập đa dạng
của xã hội. Ví dụ, các trƣờng có thể xây dựng chƣơng trình và mở lớp đào tạo MBA
với thời gian đào tạo 1 năm giống nhƣ mô hình đang áp dụng tại các nƣớc tiên tiến
nhƣ Australia, Singapore trong khi đó, ở nƣớc ta hiện nay vẫn là 2 năm.
5. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nhằm đổi mới nhận thức, tạo sự đồng thuận
x hội, xác định chi cho GDĐH là chi đầu tư phát triển.
Cuộc cách mạng KHCN đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên thế giới đã làm đảo
lộn vai trò của các yếu tố truyền thống trong sản xuất và cạnh tranh. KHCN trở thành
"lực lƣợng sản xuất trực tiếp", trí tuệ là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển của một
quốc gia. Vì vậy, ở nƣớc ta cần nâng cao chất lƣợng các trƣờng ĐHCL. đảm bảo mỗi
nhà trƣờng thực sự là một trung tâm sản sinh ra tri thức mới đáp ứng nhu cầu phát triển
KT-XH của đất nƣớc.
Song tri thức của một nhà trƣờng không ngẫu nhiên mà có, nó chỉ đƣợc tạo ra
khi giải quyết đƣợc đồng thời ba vấn đề: đội ngũ cán bộ, GV phải vừa hồng vừa
chuyên? Phƣơng pháp đào tạo, CSVC; giáo trình, giáo án, bài giảng phải cập nhật
những công nghệ, kiến thức mới đáp ứng yêu cầu của các đơn vị, DN sử dụng sản
phẩm đào tạo? tuyển ngƣời học có đủ trình độ, năng lực và say mê với ngành nghề
đƣợc đào tạo? Ba vấn đề trên có sự gắn kết hữu cơ với nhau, nó đƣợc giải quyết khi
nhà trƣờng có đủ nguồn lực tài chính, đặc biệt là có cơ chế TCTC linh hoạt, phù hợp
với hoàn cảnh, thời điểm cụ thể
Trong điều kiện Nhà nƣớc còn khó khăn về NS đầu tƣ cho GDĐH thì XHH là
một yêu cầu khách quan, đảm bảo GDĐH có cơ hội phát triển, hội nhập quốc tế. Ở
cấp độ vĩ mô, Nhà nƣớc cần tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trên các
phƣơng tiện thông tin truyền thông để thay đổi nhận thức của toàn thể cộng đồng là
đầu tƣ GDĐH là đầu tƣ cho sự phát triển.
6. Đổi mới cơ chế TCTC phải g n với thúc đẩy tạo ra nhiều cơ hội cho người học.
Đổi mới cơ chế TCTC các trƣờng ĐHCL phải theo hƣớng có nhiều con đƣờng
học khác nhau cho ngƣời học. Ví dụ nhƣ mô hình của Úc đƣợc xây dựng giữa các bậc
học có sự liên thông theo chiều dọc, chiều ngang, thậm chí liên thông chéo với nhiều
Pl.89
cách thức khác nhau. đào tạo từ trình độ công nhân cho phép học thẳng lên trình độ
tiến sĩ. Mặc dù tỷ lệ này chỉ chiếm vài %, nhƣng đây cũng là cách thức để giải phóng
nhu cầu cá nhân, khuyến khích ngƣời học tự lựa chọn mô hình, con đƣờng đi thích
hợp với khả năng, điều kiện của riêng mình.
Xuất phát từ những lý do trên, đòi hỏi cơ chế TCTC trƣờng ĐHCL phải đảm
bảo tính mềm dẻo, linh hoạt trong cách thu, chi; mức thu học phí cho các đối tƣợng
không bị ràng buộc, không bị khống chế theo trần mà nƣớc ta đang thực hiện.
7. Đổi mới cơ chế TCTC cần tiến hành đồng bộ, song hành với đổi mới các qui
trình khác để tạo ra tính hiệu quả, tính khả thi
Một là, gắn TCTC với tự chủ đại học và tự chịu trách nhiệm, có nhƣ vậy mới
tạo môi trƣờng, điều kiện để các trƣờng chủ động giải trình trách nhiệm về chất lƣợng
đào tạo, NCKH trong quá trình tìm kiếm, khai thác nguồn tài chính.
Hai là, công tác quản lý, tuyển dụng, nâng bậc lƣơng của CBVC... nên giao
hoàn toàn cho nhà trƣờng thực hiện; khoa chuyên môn có thể ký hợp đồng, gửi giấy
mời giảng, trả tiền công cho mỗi GV khi thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao.
Ba là, thay đổi cơ chế quản lý NCKH, các trƣờng có quyền lựa chọn, tự chịu
trách nhiệm về lĩnh vực, đề tài; đƣợc tự do lựa chọn hợp đồng NCKH, chuyển giao
công nghệ trên nguyên tắc hiệu quả.
ốn là, trong hợp tác quốc tế, giao quyền chủ động cho các trƣờng. Chẳng hạn
nhà trƣờng và khoa chuyên môn đƣợc phép gửi thƣ mời trực tiếp tới giáo sƣ, nhà
khoa học nƣớc ngoài đến làm việc và trả lƣơng... không cần qua nhiều cấp quản lý
xét duyệt, kiểm soát, tránh làm cản trở việc giao lƣu, học hỏi và tự do học thuật.
Năm là, cần đổi mới cơ chế quản lý đầu tƣ XDCB nên phân quyền cho các
trƣờng đƣợc xây dựng qui hoạch tổng thể và phê duyệt các dự án đầu tƣ theo yêu cầu
nhiệm vụ phát triển nhà trƣờng trên cơ sở chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc.
8. Đẩy mạnh việc xây dựng, thành lập doanh nghiệp và tiến hành cổ phần hóa một
số bộ phận phục vụ trong nhà trường.
Xây dựng, thành lập DN là nhằm đổi mới chức năng, nhiệm vụ của trƣờng ĐHCL,
đó là vừa đào tạo, vừa NCKH và tham gia phục vụ SXKD. Thành lập các DN sẽ là cầu
nối thúc đẩy việc chuyển giao các công trình nghiên cứu vào cuộc sống, nó làm cho các
trƣờng trở nên năng động hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu của XH.
Ở nƣớc ngoài, việc thành lập DN trong nhà trƣờng là một tất yếu nhƣng ở nƣớc ta nó vẫn
Pl.90
là một khái niệm xa lạ. Vì vậy, về phía các trƣờng cần mạnh dạnh thành lập DN với
nhiệm vụ tƣ vấn, chuyển giao KHCN, SXKD các sản phẩm phục vụ đời sống XH. Về
phía Nhà nƣớc cần có chính sách hỗ trợ nhƣ miễn, giảm thuế cho các DN trong nhà
trƣờng. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các trƣờng tập trung vào nhiệm vụ chính là đào
tạo, NCKH thì Nhà nƣớc nên cho phép cổ phần hoá một số khâu cung cấp dịch vụ nhƣ
bộ phận ký túc xá, in ấn, thƣ viện, đào tạo ngắn hạn... trong đó, CBVC đƣợc ƣu tiên mua
cổ phần... nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả quản lý thúc đẩy CBVC tận tuỵ
với sự phát triển của nhà trƣờng.