Hiêṇnay, các nước theo mô hình này đều dần khẳng định Toà án Hiến
pháp là thiết chế có vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước , có vị trí độ c lâp̣,
không thuôc̣cơ cấucủahê ̣thống Toa ̀án tư pháp, không phảilàcơ quan thuôc̣
nhánh quyền lập pháp , hành pháp, tư pháp. Nhà Hiến pháp học người Pháp
L.Favoireu nhâṇxét: “Ngàynay , ở phần lớn các nước theo mô hình củ a
Kelsen đềuthừanhâṇhoaṭđôṇg bảohiếnnằm ngoàiba nhánh quyềnlưc̣, bảo
đảm sư ̣tuân thủcácquyềnhaṇcủamỗinhánh trong phaṃvi củamình”16.
Vềthẩm quyền, Toà án Hiến pháp là thiết chế được thành lập để thực
hiêṇchứcnăng bảohiếnvàmuc̣đích quan troṇg nhấtlànhằm bảođảm giátri ̣
tốithươṇg củaHiếnphápđốivớiNhànướcvàxa ̃hôị.Toà án Hiến pháp được
Hiếnpháptrao cho môṭsốthẩm quyềncu ̣thểnhư : 1) Giám sát tính hơp̣hiến
của các đạo luật, điềuướcquốctếvàtính hơp̣hiến, hơp̣phápcủacácvăn bản
quy phaṃphápluâṭkhác; 2) Giải thích Hiến pháp ; 3) Giải quyết các tranh
chấpvềthẩm quyềngiữacácnhánh quyềnlưc̣, giữachính quyền trung ương
và chính quyền địa phương ; 4) Giải quyết các khiếu kiện Hiến pháp ; 5) Giải
quyếtcáctranh chấpliên quan đếnbầucử,các cuộc trưng cầu ý dân; 6) Tham
gia luâṇtôịnguyên thủquốcgia vàcácquan chứcnh à nước; 7) Giám sát tính
hơp̣hiếntrong hoaṭđôṇg củacácđảng pháichính tri ̣,giải tán các đảng phái
chính trị.
336 trang |
Chia sẻ: Minh Bắc | Ngày: 16/01/2024 | Lượt xem: 176 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảm bảo quyền con người thông qua hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à hành động thích hợp. Mục tiêu chính của R&R là đảm bảo
tính thống nhất trong hệ thống pháp luật phân cấp.
10. Changhao Wei, Recording & Review: An Introduction to Constitutional Review with Chinese
Characteristics, truy cập tại https://npcobserver.com/2018/01/19/recording-review-an-introduction-to-
constitutional-review-with-chinese-characteristics/#Governing_Rules ngày 05/03/2022.
Văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động này gồm Chương V (Áp dụng,
ghi chép và rà soát) của Luật Lập pháp (Legislation Law); và Chương V (Ghi
chép và rà soát các văn bản quy phạm, của Luật Giám sát của Ủy ban Thường
vụ Đại hội đại biểu nhân dân các cấp (Oversight Law). Ngoài ra còn có nhiều
văn bản khác như Thủ tục ghi chép và kiểm tra các quy định hành chính, quy
định địa phương, quy định tự trị và các quy định riêng biệt, và các quy định
đặc khu kinh tế (Quy định Thủ tục R&R) (được Hội đồng Chủ tịch thông qua
vào năm 2000, và sửa đổi hai lần vào năm 2003 và 2005); Thủ tục lưu giữ và
rà soát các diễn giải tư pháp (Thủ tục diễn giải tư pháp R&R) (được Hội đồng
Chủ tịch thông qua năm 2005, không công khai); Quy trình làm việc tạm thời
của Ủy ban các vấn đề lập pháp (LAC) trực thuộc NPCSC về ghi chép và rà
soát các quy định và giải thích tư pháp (được thông qua vào năm 2014, không
công khai); Các biện pháp của LAC để đưa ra phản hồi cho công dân và tổ
chức gửi đề xuất để rà soát (được thông qua vào năm 2016, không công khai).
Về trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật: Luật pháp
quốc gia quy định hai phương thức kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là
kiểm tra thụ động và kiểm tra chủ động. Kiểm tra thụ động xảy ra khi NPCSC
rà soát văn bản quy phạm pháp luật của cấp thấp hơn theo yêu cầu của bên
thứ ba và kiểm tra chủ động là khi NPCSC tự thấy cần thiết phải thực hiện
hoạt động kiểm tra này. Ngoài ra còn tồn tại một chế độ thứ ba được gọi là
“kiểm tra đặc biệt”. Phương thức này được sử dụng khi NPCSC tập trung vào
một loại pháp luật cấp thấp cụ thể, thường là để đáp ứng một số mối quan tâm
xã hội rộng rãi hoặc để đảm bảo thực hiện các chính sách của Đảng.
Kiểm tra thụ động
Theo Luật Lập pháp và Luật Giám sát, nếu các thực thể được ủy
quyền cho rằng pháp luật cấp thấp hơn (không bao gồm các quy định về SEZ)
mâu thuẫn với Hiến pháp hoặc luật pháp quốc gia, họ có thể gửi yêu cầu hoặc
đề xuất bằng văn bản về việc kiểm tra cho NPCSC, cụ thể:
- Hội đồng Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Tòa án tối cao Trung
Quốc (Supreme Court of China - SPC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung
Quốc (Supreme People's Procuratorate of China - SPP) và các cơ quan lập
pháp cấp tỉnh có thể gửi yêu cầu kiểm tra bằng văn bản, sau đó được LAC
chuyển đến Ủy ban đặc biệt có liên quan để kiểm tra và đưa ra đề xuất
(Khoản 1 Điều 99 Luật Lập pháp và Khoản 1 Điều 32 Luật giám sát);
- Các cơ quan nhà nước khác, các nhóm xã hội, các doanh nghiệp và
tổ chức công cộng và công dân có thể gửi đề xuất bằng văn bản để kiểm tra.
Trước tiên, yêu cầu này sẽ được LAC nghiên cứu; và nếu LAC thấy cần thiết
thì sau đó sẽ chuyển đến Ủy ban đặc biệt có liên quan để kiểm tra và đưa ra đề
xuất. (Khoản 2 Điều 99 Luật Lập pháp và Khoản 2 Điều 32 Luật Giám sát).
Như vậy, Ủy ban đặc biệt của NPC có vai trò quan trọng trong hoạt
động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, các đề xuất có được
gửi đến Ủy ban đặc biệt của NPC hay không thì còn phụ thuộc vào quyết định
của LAC. Pháp luật Trung Quốc quy định LAC có chức năng nghiên cứu, tuy
nhiên thực tế nghiên cứu và kiểm tra có chức năng giống hệt nhau.
Theo LAC, rà soát hay nghiên cứu là một quá trình dài liên quan đến
việc thu thập ý kiến của tất cả các lĩnh vực có liên quan (bao gồm cả các cơ
quan chính quyền trung ương và địa phương, luật sư và học giả) và thậm chí
tiến hành nghiên cứu thực địa. Sau quá trình này, nếu Ủy ban đặc biệt hoặc LAC
tìm thấy một bộ luật cụ thể vi phạm Hiến pháp hoặc luật pháp quốc gia thì:
- Họ có thể đưa ra ý kiến bằng văn bản cho cơ quan ban hành luật đó
(Khoản 1 Điều 100 Luật Lập pháp).
- Trong vòng 02 tháng, cơ quan ban hành phải báo cáo lại cho Ủy ban
đặc biệt hoặc LAC cho dù họ có kế hoạch sửa đổi luật hay không.
- Nếu cơ quan ban hành sửa đổi luật phù hợp với ý kiến rà soát/nghiên
cứu thì kết thúc xét duyệt. Nếu cơ quan ban hành từ chối sửa đổi luật, Ủy ban
đặc biệt hoặc LAC phải đệ trình lên Hội đồng Chủ tịch một dự luật hoặc một
đề xuất: Bãi bỏ quy định trong câu hỏi (Khoản 3 Điều 100 Luật Lập pháp); hoặc
yêu cầu SPC hoặc SPP sửa đổi hoặc bãi bỏ việc giải thích tư pháp trong câu
hỏi, hoặc ban hành một giải thích lập pháp thay thế. (Điều 33 Luật Giám sát).
Ủy ban đặc biệt hoặc LAC thông báo cho đơn vị yêu cầu kiểm tra văn
bản luật về kết quả kiểm tra và có thể công bố kết quả đó cho công chúng
(Điều 101 Luật Lập pháp).
Như đã đề cập ở trên, LAC (cơ quan viết Báo cáo R&R) thực hiện hầu
hết các đánh giá thông qua Văn phòng ghi chép và rà soát các quy định (Văn
phòng R&R), được thành lập vào năm 2004. Các ủy ban đặc biệt hiếm khi
tham gia vào quá trình này vì các cơ quan nhà nước trung ương và cơ quan
lập pháp cấp tỉnh hiếm khi yêu cầu kiểm tra, rà soát, do đó việc xem xét bắt
buộc của ủy ban đặc biệt không được kích hoạt và LAC giữ quyền quyết định
có nên chuyển tiếp các đề xuất rà soát, kiểm tra cho Ủy ban đặc biệt hay
không. Ngoài ra, thực tế là các Ủy ban đặc biệt thường thiếu nhân sự và
chuyên môn cần thiết để tiến hành thủ tục rà soát và kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật bởi Ủy ban đặc biệt được thành lập chỉ với vài chục thành
viên, chủ yếu là làm việc bán thời gian và thường không có chuyên môn pháp lý.
Theo Báo cáo R&R, không có cơ quan nhà nước nào gửi bất kỳ yêu
cầu hoặc đề xuất nào để kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trong NPC lần
thứ 12. Một học giả lập luận rằng các cơ quan nhà nước các cấp không muốn
làm như vậy bởi vì chính họ đã ban hành luật cấp thấp hơn, và bởi vì họ muốn
duy trì mối quan hệ làm việc tốt với các cơ quan nhà nước khác nên việc yêu
cầu xem xét lại luật pháp mà những cơ quan khác ban hành có thể gây nguy
hiểm cho mối quan hệ đó. Kết quả là, tất cả 1527 đề xuất mà NPCSC đã nhận
được kể từ tháng 3 năm 2013 đến từ các công dân hoặc tổ chức.
Trong số những đề xuất đã được gửi đến NPCSC, hơn 90% (1116 đề
xuất) nhằm mục tiêu giải thích tư pháp. Trong số này, hơn 80% (921 đề xuất)
đã được gửi chỉ riêng trong năm 2017. Hầu như tất cả những đề xuất đều đề
nghị rà soát, kiểm tra một cách giải thích tư pháp tại Điều 24 về Luật Hôn
nhân, có hiệu lực từ năm 2004. Điều khoản này quy định rằng khoản nợ phát
sinh của người vợ hoặc chồng trong cuộc hôn nhân nên được thanh toán
chung, trừ khi người kia có thể chứng minh rằng chủ nợ và con nợ đồng ý
rằng khoản nợ là cá nhân. Nhiều người ly dị đột nhiên rơi vào tình trạng khó
khăn về tài chính sau khi tòa án, trích dẫn Điều 24, ra lệnh cho họ trả khoản
nợ (thường là khoản nợ lớn) mà vợ chồng cũ của họ đã vay nợ trong thời gian
hôn nhân mà họ không biết. Chỉ trong một tuần, SPC đã thay thế Điều 24
bằng một cách giải thích tư pháp mới.
Kiểm tra chủ động
LAC đã tự mình thực hiện hoạt động kiểm tra, rà soát văn bản quy
phạm pháp luật kể từ đầu những năm 2000, mặc dù kiểm tra chủ động chỉ
được hệ thống hóa vào năm 2015 (Khoản 3 Điều 99 Luật Lập pháp). LAC đã
rà soát mọi giải thích tư pháp được gửi để lưu giữ từ năm 2006 và mọi quy
định hành chính kể từ năm 2010. Do khối lượng các quy định pháp luật cấp địa
phương là tương đối lớn, LAC chỉ tiến hành đánh giá “một cách tập trung”.
Trong quá trình kiểm tra chủ động, LAC tuân theo các thủ tục tương
tự như kiểm tra thụ động khi có ý kiến rằng một bộ luật được ban hành có
những điều khoản vi phạm Hiến pháp hoặc luật pháp quốc gia. Theo Báo cáo
R&R, kể từ tháng 3 năm 2013, LAC đã tìm thấy năm cách giải thích tư pháp
không phù hợp với pháp luật.
Kiểm tra đặc biệt
Như đã đề cập ở trên, kiểm tra đặc biệt được sử dụng để thực hiện các
quyết định chính sách lớn của Đảng, để đảm bảo rằng pháp luật cấp thấp hơn
kịp thời thích ứng với luật pháp quốc gia sửa đổi, thực hiện các kế hoạch giám
sát của NPCSC và để đáp ứng các vấn đề nóng trong xã hội. Trình tự, thủ tục
thực hiện kiểm tra đặc biệt chưa được quy định cụ thể. Báo cáo R&R của
LAC sử dụng hai trường hợp sau đây để minh họa việc sử dụng phương thức
kiểm tra đặc biệt:
- Sau khi NPCSC sửa đổi ba đợt các văn bản luật để loại bỏ khá nhiều
yêu cầu phê duyệt hành chính, LAC trong năm 2015 đã xem xét 107 quy định
địa phương có liên quan và thấy 30 quy định không phù hợp với luật đã được
sửa đổi.
- Đầu năm 2017, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã công khai kỷ luật
nhiều quan chức cấp cao ở tỉnh Cam Túc vì phải chịu trách nhiệm về sự suy
thoái môi trường trong Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia núi Qilian, một phần
là do các quy định của địa phương cố tình nới lỏng lệnh cấm của luật pháp
quốc gia đối với một số hoạt động trong khu bảo tồn thiên nhiên. Sau sự kiện
này, LAC đã tiến hành kiểm tra đặc biệt 49 quy định địa phương về khu bảo
tồn thiên nhiên.
Về thực tiễn thực thi, theo báo cáo R&R, có tổng cộng 1.310 quy định
hành chính, quy định địa phương và diễn giải tư pháp đã được đệ trình lên cơ
quan lập pháp hàng đầu của Trung Quốc để ghi lại và xem xét vào năm 2020.
Con số này đã được công khai trong phiên họp của Ủy ban Thường vụ Đại hội
Đại biểu Nhân dân Toàn quốc. Sau đó, LAC đã đệ trình một báo cáo về công việc
ghi chép và xem xét của cơ quan này vào năm 2020 lên phiên họp để xem xét.
Trong năm 2020, LAC đã khởi động 05 đợt rà soát tổng hợp đặc biệt
đối với các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể. Trong một
cuộc đánh giá được tiến hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi
Bộ luật Dân sự của Trung Quốc, Ủy ban đã xác định 2.850 văn bản quy phạm
cần được sửa đổi hoặc bãi bỏ. Theo báo cáo, tổng số 257 văn bản quy phạm
đã được sửa đổi trong khi 449 văn bản bị bãi bỏ11. LAC đã tiến hành kiểm tra
đặc biệt để xem xét kỹ lưỡng 26 quyết định do các cơ quan lập pháp cấp tỉnh
ban hành về phòng chống dịch COVID-19 để đảm bảo các biện pháp ứng phó
dịch bệnh tại địa phương dựa trên quy định của pháp luật. Báo cáo cho biết
LAC cũng đã nhận được 5.146 đề xuất xem xét từ các công dân và tổ chức
vào năm 2020.
Như vậy, có thể thấy, R&R là một cơ chế quan trọng trong công tác
kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật tại Trung Quốc. Phân tích ví
dụ dưới đây để thấy rõ được hiệu quả của cơ chế R&R trong việc bãi bỏ quy
11. Tân Hoa Xã (2021), 1,310 regulations filed with China's top legislature for review, truy cập tại
ngày
05/03/2022.
định về bắt buộc kiểm tra nguồn gốc/huyết thống như một công cụ để thực thi
hạn mức sinh đẻ12.
Từ năm 1980 đến năm 2021, Trung Quốc đã áp đặt một số hình thức hạn
ngạch sinh đẻ đối với dân số của mình. Chính sách một con đã được thực hiện
cho đến cuối năm 2013, sau đó được nới lỏng một phần để các cặp vợ chồng có
thể có hai con nếu cha hoặc mẹ là con một. Sau đó vào năm 2016, chính sách
một con sửa đổi đã được thay thế bằng chính sách hai con, lần lượt được thay thế
bằng chính sách ba con vào tháng 5 năm 2021. Mặc dù hạn ngạch sinh chính
thức vẫn còn sau lần thay đổi chính sách mới nhất, nhưng một sửa đổi theo luật
định vào tháng 8 đã loại bỏ tất cả các hình phạt từng gắn với vi phạm hạn ngạch,
chẳng hạn như tiền phạt nặng và chấm dứt việc làm. Trên thực tế, những cặp vợ
chồng vượt quá giới hạn ba con sẽ không bị phạt, mặc dù họ sẽ không đủ điều
kiện để được hưởng các quyền lợi như kéo dài thời gian nghỉ thai sản.
Vào đầu những năm 2000, để tạo điều kiện thực thi giới hạn sinh, ít
nhất sáu tỉnh của Trung Quốc đã ban hành luật, theo đó đã ủy quyền cho các
cơ quan kế hoạch hóa gia đình bắt buộc kiểm tra huyết thống cho những cá
nhân bị nghi ngờ có một hoặc nhiều ca sinh vượt hạn mức. Luật pháp của Quý
Châu (Điều 70) và Trùng Khánh (Điều 24, 47) còn phạt tiền từ 10.000 đến
50.000 Nhân dân tệ nếu các bên từ chối gửi xét nghiệm.
Vào tháng 6 năm 2021, một công dân giấu tên đã yêu cầu NPCSC
xem xét tính hợp pháp của các điều khoản kiểm tra bắt buộc của Trùng
Khánh. Đây không phải là lần đầu tiên các hạn chế kiểm soát sinh đẻ tại địa
phương được thách thức thông qua quá trình ghi chép và đánh giá của
NPCSC. Trong năm 2017 và 2019, các công dân đã nhận được các quyết định
thuận lợi từ LAC rằng luật pháp địa phương có thể không yêu cầu người sử
dụng lao động - cho dù khu vực tư nhân hay khu vực công - sa thải nhân viên
vì sinh con vượt hạn mức.
12. Changhao Wei (2021), Recording & Review: Invalidating Compulsory Parentage Testing as a Tool to
Enforce Birth Quotas, truy cập tại https://npcobserver.com/2021/12/22/recording-review-invalidating-
compulsory-parentage-testing-as-a-tool-to-enforce-birth-quotas/ ngày 05/03/2022.
Trong một báo cáo mới được đệ trình lên NPCSC, LAC đã kết luận
rằng các điều khoản kiểm tra bắt buộc như của Trùng Khánh cũng không hợp
lệ. LAC giải thích ngắn gọn quyết định của mình như sau:
“Sau khi xem xét, chúng tôi cho rằng mối quan hệ cha mẹ - con cái
bao hàm nhân phẩm, danh tính và quyền riêng tư của công dân cũng như sự
hòa thuận và ổn định của gia đình; đó là quyền và lợi ích cơ bản của công
dân, được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Các quy định của địa phương quy
định nội dung kiểm tra huyết thống bắt buộc là không phù hợp và họ cũng
không nên đưa ra các hình phạt hành chính, chế tài hoặc biện pháp xử lý
tương ứng. Sau khi liên lạc, cơ quan ban hành, tức là cơ quan lập pháp Trùng
Khánh, đã sửa đổi các điều khoản liên quan”.
Các quy định của Hiến pháp và pháp luật quốc gia đã quy định về
quyền con người liên quan đến vụ việc này được LAC dẫn chiếu bao gồm:
Khoản 3 Điều 33: Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền con người
Điều 38: Nhân phẩm của công dân nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa là bất khả xâm phạm.
Điều 49: Hôn nhân, gia đình, bà mẹ và trẻ em được Nhà nước bảo hộ.
LAC cũng nêu rõ: “trừ khi được công dân yêu cầu tự nguyện hoặc luật
pháp quốc gia bắt buộc, cơ quan công quyền không nên bắt công dân phải
kiểm tra huyết thống, do đó can thiệp vào mối quan hệ cha mẹ - con cái”.
LAC kết luận rằng vì bản thân nhiệm vụ kiểm tra huyết thống không hợp lệ,
do đó, các khoản tiền phạt kèm theo đối với việc từ chối kiểm tra theo các
nguyên tắc của luật hành chính cũng không hợp lệ.
Theo quyết định của LAC, nhiều tỉnh như Quý Châu, Trùng Khánh,
Hồ Nam, Hồ Bắc, Vân Nam, Quảng Tây, đã bãi bỏ các điều khoản kiểm tra
bắt buộc tại địa phương mình.
Từ ví dụ trên có thể thấy rằng, R&R và các phương thức kiểm tra các văn
bản quy phạm pháp luật đã giải quyết hiệu quả các trường hợp quy định pháp luật
trái với hiến pháp và các văn bản pháp luật quốc gia khác. Như đã đề cập ở trên,
hầu hết những đề xuất sửa đổi đều đến từ công dân, bởi những quy định này trực
tiếp xâm phạm quyền con người, quyền cơ bản của công dân, do đó, công tác rà
soát, kiểm tra các quy định pháp luật kể trên đã thúc đẩy việc sửa đổi những quy
định vi hiến, góp phần đắc lực vào việc đảm bảo quyền lợi cơ bản của người dân.
Tuy nhiên, pháp luật Trung Quốc trong rà soát văn bản quy phạm
pháp luật thực chất vẫn chưa hoàn thiện bởi quy trình R&R và quy trình rà
soát tính hợp hiến là khác nhau. Quy trình R&R được thực hiện bởi NPCSC
có phạm vi hẹp hơn so với rà soát tính hợp hiến bởi quy trình R&R chỉ rà soát
các văn bản pháp lý dưới luật. Trong khi đó, rà soát tính hợp hiến có phạm vi
rộng hơn, bao gồm việc rà soát cả các luật, nghị quyết được ban hành bởi
NPCSC
13
. Mặc dù vậy, pháp luật Trung Quốc hiện chưa quy định trình tự, thủ
tục cụ thể của rà soát tính hợp hiến.
II. MÔṬ SỐ MÔ HÌNH CƠ CHẾ BẢO VÊ ̣HIẾN PHÁP TRÊN THẾ GIỚI
14
1. Mô hiǹh Toà án Hiến pháp
1.1. Lịch sử hình thành
Nhà luật học Hans-Kensel là người khởi xướng ý tưởng Ý tưởng thành
lâp̣ Toà án Hiến pháp, sau tranh luâṇ trong nhiều năm (từ năm 1910 đến 1920) ở
trường Đaị hoc̣ Viên (Áo). Sau đó, đề nghị thanh lập Toà án Hiến pháp đã dược
ghi nhâṇ trong Hiến pháp năm 1920 của Côṇg hoà Áo. Bản Hiến pháp này đã
gây ảnh hưởng tới nhiều hê ̣thống pháp luâṭ ở các quốc gia khác. Theo đó, nhiều
nước đa ̃thành lâp̣ Toà án Hiến pháp với tư cách là “người bảo vê ̣Hiến pháp”
trong cơ cấu tổ chức nhà nước của mình như Italia (1948), Côṇg hoà liên bang
Đức (1949), Ấn Độ (1949), Bỉ, Siri (1950), Sip (1960), Thổ Nhi ̃Kỹ (1961), Tây
13. https://npcobserver.com/2018/01/26/npcsc-now-researching-expansion-of-constitutional-review/, truy cập
lần cuối ngày 10/3/2022.
14. PGS.TS Nguyêñ Như Phát (chủ biên), “Tài phán Hiến pháp : Môṭ số vấn đề lý luâṇ cơ bản , kinh nghiêṃ
quốc tế và khả n ăng áp duṇg cho Viêṭ Nam ”, Hà Nội , Nxb Khoa hoc̣ xa ̃hôị , 2011; GS.TS. Nguyêñ Đăng
Dung, “Luâṭ Hiến pháp đối chiếu ”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh , 2001; Viêṇ Khoa hoc̣ pháp lý , “Nghiên
cứu lý luâṇ và thưc̣ tiêñ hoàn thiêṇ cơ chế bả o hiến theo tinh thần Hiến pháp năm 2013”, Ts. Nguyêñ Văn
Cương (chủ nhiệm), Hà Nội, 2017; Nguyêñ Đức Lam , “Cơ quan bảo vê ̣Hiến pháp ở các nước ”, Nghiên cứu
lâp̣ pháp, Văn phòng Quốc hôị , 2001, số 7; ThS. Lê Tuấn Sơn , Tào Thị Quyên, “Toà án Hiến pháp với việc
bảo vệ các quyền cơ bản của con người ”, Đặc san Nghề luật (Học viện Tư pháp ), số 8/2004; Bùi Ngọc Sơn ,
“Hâụ quả phán quyết của cơ quan tài phán Hiến pháp ”, tham luâṇ taị Hôị thảo về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
do Ban công tác lâp̣ pháp của Uỷ ban thường vu ̣Quốc hôị tổ chức , Thành phố Vinh, tháng 3/2005.
Ban Nha (1978), Bồ Đào Nha (1976), Hàn Quốc 1988, Thái Lan (1997) Ở
môṭ số nước thuôc̣ khối xa ̃hôị chủ nghĩa trước đây , măc̣ dù bi ̣ chi phối bởi
nguyên tắc tâp̣ trung thống nhất trong tổ chức quyền lưc̣ nhà nước, nhưng Toà án
Hiến pháp cũng đa ̃đươc̣ thành lâp̣ ở Séc và Slô -va-kia (1968), Ba Lan (1982),
Liên Xô (1988). Sau năm 1990, phần lớn các quốc gia thuôc̣ Liên Xô (cũ) và các
nước Đông Âu như Lát -vi-a, Croa-ti-a, U-krai-na, Liên bang Nga, Slô-vê-nia,
Séc đều đã thành lập Toà sn Hiến pháp. Theo Laszio Solyom, Chủ tịch Toà án
Hiến pháp Hung -ga-ri “ở các nước xa ̃hôị chủ nghiã cũ , viêc̣ quy điṇh thẩm
quyền bảo hiến đa ̃trở thành biểu tươṇg của nhà nước pháp quyền”15. Viêc̣ thành
lâp̣ Toà án Hiến pháp ở các quốc gia này dưạ trên hai tiêu chí cơ bản là i) quyền
lưc̣ mang tính tâp̣ trung và ii) hiêụ lưc̣ chi phối của các quyết điṇh về sư ̣vi hiến.
Với những ưu điểm của môṭ thiết chế bảo vê ̣Hiến pháp tâp̣ trung và
sức maṇh của các phán quyết Tư pháp , Toà án Hiến pháp được chứng minh là
môṭ trong nhữn thiết chế bảo hiến hiêụ quả nhất . Chính vì vậy , mô hình này
đươc̣ nhiều quốc gia trên thế giới lưạ choṇ . Hiêṇ nay có khoản hơn 60 quốc
gia, chủ yếu là ở châu Âu , môṭ số nước châu Á đang áp duṇg mô hình bảo vê ̣
Hiến pháp thông qua Toà án Hiến pháp.
1.2. Đặc trưng mô hình
a) Vị trí pháp lý
Hiêṇ nay, các nước theo mô hình này đều dần khẳng định Toà án Hiến
pháp là thiết chế có vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước , có vị trí độ c lâp̣ ,
không thuôc̣ cơ cấu của hê ̣thống Toà án tư pháp, không phải là cơ quan thuôc̣
nhánh quyền lập pháp , hành pháp , tư pháp . Nhà Hiến pháp học người Pháp
L.Favoireu nhâṇ xét : “Ngày nay , ở phần lớn các nước theo mô hình củ a
Kelsen đều thừa nhâṇ hoaṭ đôṇg bảo hiến nằm ngoài ba nhánh quyền lưc̣ , bảo
đảm sư ̣tuân thủ các quyền haṇ của mỗi nhánh trong phaṃ vi của mình”
16
.
15. ThS. Lê Tuấn Sơn, Tào Thị Quyên, “Toà án Hiến pháp với việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người ”,
Đặc san Nghề luâṭ (Học viện Tư pháp), số 8/2004.
16. Nguyêñ Đức Lam , “Cơ quan bảo vê ̣Hiến pháp ở các nước” , Nghiên cứu lâp̣ pháp , Văn phòng Quốc hôị ,
2001, số 7
Về thẩm quyền , Toà án Hiến pháp là thiết chế được thành lập để thực
hiêṇ chức năng bảo hiến và muc̣ đích quan troṇg nhất là nhằm bảo đảm giá tri ̣
tối thươṇg của Hiến pháp đối với Nhà nước và xa ̃hôị . Toà án Hiến pháp được
Hiến pháp trao cho môṭ số thẩm quyền cu ̣thể như : 1) Giám sát tính hơp̣ hiến
của các đạo luật, điều ước quốc tế và tính hơp̣ hiến , hơp̣ pháp của các văn bản
quy phaṃ pháp luâṭ khác ; 2) Giải thích Hiến pháp ; 3) Giải quyết các tranh
chấp về thẩm quyền giữa các nhánh quyền lưc̣ , giữa chính quyền trung ương
và chính quyền địa phương ; 4) Giải quyết các khiếu kiện Hiến pháp ; 5) Giải
quyết các tranh chấp liên quan đến bầu cử , các cuộc trưng cầu ý dân; 6) Tham
gia luâṇ tôị nguyên thủ quốc gia và các quan chức nh à nước; 7) Giám sát tính
hơp̣ hiến trong hoaṭ đôṇg của các đảng phái chính tri ̣ , giải tán các đảng phái
chính trị.
b) Cơ cấu tổ chức
Tổ chức của Toà án Hiến pháp bao gồm:
(1) Thẩm phán Toà án Hiến pháp : Được hình thành thông qua bầu cử ,
bổ nhiêṃ hoăc̣ kết hơp̣ giữa bầu cử với bổ nhiêṃ . Thẩm phán Toà án Hiến
pháp được lựa chọn phải bảo đảm các điều kiện về tư cách công dân (phải là
công dân của nước đó ), điều kiêṇ về đô ̣tuổi , về kiến thức chuyên môn , kinh
nghiêṃ nghề nghiêp̣, không làm viêc̣ kiêm nhiêṃ và điều kiêṇ về tư cách đaọ
đức. Số lươṇg thẩm phán Toà án Hiến pháp của các nước thường từ 7 đến 19
thẩm phán17. Nhiêṃ kỳ của thẩm phán Toà án Hiến pháp của các nước thường
từ 5 đến 19 năm. Để đảm bảo điạ vi ̣ đôc̣ lâp̣ cho Thẩm phán Toà án Hiến
pháp, Hiến pháp và pháp luâṭ các nước có những quy điṇh cu ̣thể nhằm taọ
điều kiêṇ thuâṇ lơị để thẩm phán toàn tâm , toàn ý và khách quan , đôc̣ lâp̣
trong viêc̣ thưc̣ hiêṇ nhiêṃ vu ̣ , quyền haṇ của mình như : thẩm phán Toà án
Hiến pháp có quyền bất khả xâm phaṃ giống như các nghi ̣ sỹ , có quyền
không phải chiụ bất kỳ sư ̣giám sát hành chính (công vu )̣ nào; quyền không
17. Toà án Hiến pháp của Nga có 19 thẩm phán; của Đức có 16; Italia, Ba lan, Thái Lan có 15; Nam phi có 11;
Hàn Quốc có 9 thẩm phán.
thể bi ̣ baĩ nhiêṃ nếu không có các căn cứ do luâṭ quy điṇh ; đươc̣ đảm bảo
quyền miêñ trừ tư pháp như đối với thẩm phán Toà án tối cao
(2) Hôị đồng thẩm phán Toà án Hiến pháp : bao gồm tất cả các thẩm
phán của Toà án , hoạt động theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số .
Hôị đồng thẩm phán quyết điṇh viêc̣ bầu Chánh án , Phó Chánh án hoặc đề
nghị Tổng thống bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án, quyết điṇh các vấn đề về
nhân sư ̣cảu Toà án Hiến pháp , các vấn đề liên quan đến việc tạm đình chỉ
thưc̣ hiêṇ nhiêṃ vu ̣baĩ nhiêṃ , miêñ nhiêṃ thẩm phán Toà án Hiến pháp ;
quyết điṇh các ván đề về tài chính và ngân sách của Toà án Hiến pháp.
(3) Chánh án, Phó Chánh án Toà án Hiến pháp: Chánh án có vai trò rất
quan troṇg và đươc̣ quy điṇh cu ̣thể trong hầu hết các Hiến pháp và Luâṭ về
Toà án Hiến pháp của các nước . Chánh án, Pó Chánh án có thể do Hộ i đồng
thẩm phán bầu ra hoăc̣ do Nghi ̣ viêṇ , nguyên thủ quốc gia (Tổng thống hoăc̣
Nhà vua) bổ nhiêṃ hoăc̣ theo nguyên tắc lưạ choṇ thẩm phán cao tuổi nhất .
Chánh án, Phó Chánh án có nhiệm kỳ nhất định (khoảng 2 năm đến 3 năm) và
có thể được bầu, bổ nhiêṃ laị.
(4) Tổng thư ký Toà án Hiến pháp : Là người lãnh đạo bộ máy hành
chính của Toà án , có trách nhiệm giúp Chánh án về công tác hành chính , văn
bản, tài liệu, lưu trữ, lâp̣ kế hoac̣h , phụ trách hoạt động nghiên cứu , điều tra,
đối ngoaị, chuẩn bi ̣ các phiên hop̣, công bố, tống đaṭ các công văn, giầy tờ của
Toà án Hiến pháp.
(5) Các tổ chức hành chính , nghiêp̣ vu ̣khác : Để phuc̣ vu ̣cho chức
năng chính của mình , Toà án Hiến pháp có thể thành lập thêm các tổ chức
hành chính , nghiêp̣ vu ̣khác như các phòng , ban chuyên môn phu ̣trách các
lĩnh vực khác nhau thuộc thẩm quyền của Toà án , văn phòng Toà án, thư viêṇ,
trung tâm thông tin, trung tâm nghiên cứu khoa hoc̣
c) Phương thức hoaṭ đôṇg
Toà án Hiến pháp thực hiện quyền giám sát Hiến pháp theo một thủ
tục đặc biệt , khác với thủ tục giải quyết các vụ án thường . Pháp luật của các
nước đều có những điều khoảng quy định về thủ tục xem xét và giải quyết vụ
viêc̣ taị Toà án Hiến pháp. Có hai loại thủ tục chung và thủ tục đặc biệt.
Thủ tục chung bao gồm: i) Đê ̣đơn lên Toà án Hiến pháp do chủ thể có
thẩm quyền thưc̣ hiêṇ , ii) Xem xét sơ bô ̣để chấp nhâṇ hay từ chối thu ̣lý đơn ,
iii) Tổ chức găp̣ gỡ đaị diêṇ của nguyên đơn và bi ̣ đơn, iv) Thu thâp̣ thông tin,
chứng cứ cần thiết , v) Mời nhân chứng , giám định, vi) Xem xét vu ̣viêc̣ , biểu
quyết thông qu a quyết điṇh của Toà án , vii) Công bố quyết điṇh của Toà án ;
viii) Xem xét laị vu ̣viêc̣ trong trường hơp̣ cần thiết , ix) Giải quyết các vấn đề
liên quan đến án phí và môṭ số vấn đề khác.
Thủ tục đặc biệt liên quan đến ch ủ thể có quyền yêu cầu Toà án Hiến
pháp xem xét một vấn đề nào đó , thủ tục xem xét vấn đề đó và hâu quả đặc
thù của quyết định của Toà án.
Trên thưc̣ tế không có sư ̣phân biêṭ môṭ cách rac̣h ròi giữa thủ tuc̣
chung và thủ tục đặc biệt . Viêc̣ phân biêṭ này chỉ có ý nghiã nhấn maṇh hơn
hoạt động của Toà án Hiến pháp . Mỗi vu ̣viêc̣ đươc̣ xem xét taị Toà án Hiến
pháp đều trải qua các quy trình gồm các bước : thụ lý , xem xét sơ bô ̣ , quyết
điṇh (phán quyết).
d) Hê ̣quả pháp lý và hiêụ lưc̣ phán quyết của Toà án Hiến pháp
Căn cứ vào nôị dung , tính chất của từng vụ việc và đối tượng được
đưa ra xem xét , Toà án Hiến pháp có thể xác định các hệ quả pháp lý khác
nhau. Cụ thể:
(1) Về tính hơp̣ hiến của các văn bản quy phaṃ pháp luâṭ : Trường hơp̣
xét thấy văn bản pháp luật có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp thì Toà án Hiến
pháp có thể ra một trong những quyết định như : i) Trưc̣ tiếp huỷ bỏ văn bản
quy phaṃ pháp luâṭ ; ii) Đình chỉ thi hành văn bản quy phaṃ pháp luâṭ , đồng
thời đề nghi ̣ cơ quan ban hành vi phaṃ Hiến pháp ra quyết điṇh huỷ bỏ .
Ngoài ra, pháp luật một số nước còn có quy định trong trườ ng hơp̣ phát hiêṇ
môṭ số đaọ luâṭ vi hiến , Toà án Hiến pháp thông báo cho Nghị viện và Nghị
viêṇ đươc̣ dành môṭ thời gian nhất điṇh để sửa đổi đaọ luâṭ đó cho phù hơp̣
với Hiến pháp; hết thời haṇ này , các quy định của đaọ luâṭ bi ̣ tuyên là vi hiến
đương nhiên hết hiêụ lưc̣.
(2) Về những tranh chấp thẩm quyền : Trong trường hơp̣ có tranh chấp
thẩm quyền giữa các cơ quan , Toà án Hiến pháp phải phán quyết rõ thẩm
quyền thuôc̣ về cơ quan nào và t uyên vô hiêụ những văn bản vi phaṃ những
quy điṇh về thẩm quyền đa ̃đươc̣ ban hành trước đó.
(3) Về các hành vi vi phaṃ Hiến pháp : Trong trường hơp̣ có khiếu
kiêṇ về hành vi vi phaṃ Hiến pháp , Toà án Hiến pháp có thể xem xét v à đưa
ra kết luâṇ về sai phaṃ của công chức nhà nước , đề nghị xử lý kỷ luật đối với
công chức vi phaṃ , đề nghị truy tố hình sự nếu có hành vi vi phạm pháp luật
hình sự. Trong trường hơp̣ cần thiết , có quyền ra quyết đị nh điều tra , khởi tố
vụ án , kết luâṇ về biêṇ pháp chấn chỉnh các sai phaṃ của công chức nhà
nước. Ngoài ra, hê ̣quả pháp lý mà cá nhân phải gánh chiụ còn có thể là bồi
thường thiêṭ haị do hành vi vi hiến của mình gây ra.
(4) Về viêc̣ giải thích Hiến pháp : cơ quan bảo hiến xác điṇh phải hểu
môṭ quy điṇh của Hiến pháp như thế nào cho đúng và sư ̣“giảng giải” này có
tính chất bắt buộc cho từng vụ kiện hoặc cho tất cả các vụ tương tự chứ không
đơn thuần là làm sáng tỏ quy điṇh của Hiến pháp.
(5) Viêc̣ giám sát kết quả bầu cử, trưng cần ý dân: Pháp luật một số nước
quy điṇh Toà án Hiến pháp có quyền tuyên bố về tính hơp̣ hiến của cuôc̣ trưng
cầu ý dân. Bên caṇh đó, viêc̣ Toà án Hiến pháp giám sát kết quả bầu cử cũng
đươc̣ tiến hành ở nhiều quốc gia bằn những hoaṭ đôṇg như: giải quyết tranh chấp
về bầu cử, giám sát quá trình bầu cử từ chuẩn bị bầu cử, bầu cử và công bố kết
quả bầu cử, đảm bảo cho cuôc̣ bầu cử đươc̣ tiến hành môṭ cách hơp̣ pháp. Quyết
điṇh của Toà án Hiến pháp có hiêụ lưc̣ thi hành ngay sau khi đươc̣ công bố, có
giá trị bắt buộc với mọi đối tượng và thường không được kháng cáo, kháng nghị.
2. Mô hiǹh Hôị đồng Hiến pháp
2.1. Lịch sử hình thành
Lịch sử hình thành và phát triển của mô hình Hội đồng Hiến pháp gắn
với sư ̣ra đời và phát triển của Hôị đồng Hiến pháp ở Pháp . Ở Pháp, các quy
điṇh về giám sát Hiến pháp đa ̃sớm đươc̣ ghi nhâṇ trong Hiến pháp năm 1799 và
Hiến pháp 1852. Năm 1958, cùng với sự ra đời của Hiến pháp mới , Hội đồng
Hiến pháp đa ̃đươc̣ thành lâp̣. Hôị đồng Hiến pháp đươc̣ coi là môṭ sáng tạo lớn
của các nhà lập pháp thuộc nền Cộng hoà thứ V . Kể từ đó, mô hình Hôị đồng
Hiến pháp của pháp trở thành môṭ mô hình giám sát Hiến pháp tiêu biểu của
chân Âu mà các nhà luâṭ hoc̣ thường goị là mô hình giá m sát Hiến pháp kiểu
Pháp. Dưạ trên mô hình này, nhiều quốc gia đa ̃thành lâp̣ Hôị đồng Hiến pháp
của mình như: Ka-dắc-xtan, an-giê-ri, Li-băng, Mô-dăm-bic, Cam-pu-chia
2.2. Đặc trưng mô hình
a) Vị trí pháp lý
Măc̣ dù Côṇg hoà Pháp là quốc gia đầu tiên thành lập Hội đồng Hiến
pháp và dành tới 22 điều trong Hiến pháp quy điṇh về Hôị đồng này nhưng
trong suốt môṭ thời gian dài vâñ còn nhiều ý kiến khác nhau về vi ̣ trí pháp lý ,
vai trò của cơ qu an này. Hiêṇ nay , trong giới luâṭ hoc̣ tồn taị hai quan điểm
khsac nhau về vi ̣ trí của Hôị đồng Hiến pháp . Quan điểm thứ nhất cho rằng ,
đây là cơ quan bán tư pháp, chủ yếu dựa trên lý lẽ về các thủ tục tố tụng, thiếu
sư ̣tr anh luâṇ và yếu tố công khai . Quan điểm thứ hai cho rằng , Hôị đồng
Hiến pháp là cơ quan chuyên trách , đôc̣ lâp̣ , không phu ̣thuôc̣ vào bất cứ
nhánh quyền lực nào . Song dù nhìn từ góc đô ̣nào , chúng ta vẫn vẫn phải căn
cứ vào mục đích thành lập cơ quan này để đánh giá đúng vị trí của nó trong
bô ̣máy nhà nước . Ban đầu, Hôị đồng Hiến pháp đươc̣ thành lâp̣ để bảo đảm
sư ̣cân bằng quyền lâp̣ pháp và quyền hành pháp ; nhưng từ khi đươc̣ thành lâp̣
đến nay, Hôị đồng Hiến pháp ngày càng khẳng điṇh vai trò quan troṇg trong
viêc̣ bảo đảm sư ̣ổn điṇh của Hiến pháp và toàn bô ̣hê ̣thống pháp luâṭ , bảo
đảm sư ̣cân bằng và ổn điṇh của cơ cấu quyền lưc̣ nhà nước18.
Thưc̣ chất , Hôị đồng Hiến pháp không chỉ là môṭ cơ quan tham vâñ
mà còn có vai trò như một Toà án đưa ra các phán quyết có tính hiệu lực tuyệt
đối. Hôị đồng Hiến pháp không bi ̣ chi phối bởi bất kỳ cơ quan nào , từ Nghi ̣
18
. Đặng Văn Chiến, “Cơ chế bảo hiến”, Nxb Tư pháp, Hà nội, 2005, tr 47-48.
viêṇ cho đến Chính phủ hay các cơ quan nhà nước khác . Cũng giống như mô
hình Toà án Hiến pháp , Hôị đồng Hiến pháp là cơ quan chuyên trách về giám
sát Hiến pháp , hoạt động độc lập và không thuộc hệ thống cơ quan tư pháp ,
hành pháp hay lâp̣ pháp. Chức năng cơ bản của Hôị đồn Hiến pháp là bảo đảm
cho ba nhánh quyền lưc̣ trên hoaṭ đôṇg trong phaṃ vi thẩm quyền theo đúng quy
điṇh của Hiến pháp . Hôị đồng Hiến pháp điều phối sư ̣cân bằng và ổn điṇh
quyền lưc̣, hạn chế sự chuyên quyền của cơ quan lập pháp, sư ̣laṃ duṇg quyền
lưc̣ của cơ quan hành pháp , phân điṇh ranh giới quyền lưc̣ trong các trường
hơp̣ có tranh chấp, bảo đảm điều hoà quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Về thẩm q uyền: tuỳ thuộc vào tình hình chính trị , kinh tế - xã hội ,
truyền thống lâp̣ pháp, pháp luật của từng nước mà Hội đồng Hiến pháp được
giao những thẩm quyền nhất điṇh . Nhìn chung , thẩm quyền của Hôị đồng
Hiến pháp nhiề u nước tương tư ̣như thẩm quyền của Hôị đồng bảo hiến của
Pháp, cụ thể gồm các thẩm quyền về : 1) Giải thích Hiến pháp và xem xét tính
hơp̣ hiến của các đaọ luâṭ ; 2) Giải quyết tranh chấp về bầu cử và trưng cầu ý
dân; 3) Thẩm quyền tư vấn; 4) Giám sát Hiến pháp trong việc giải quyết tranh
chấp về thẩm quyền ban hành văn bản giữa Nghi ̣ viêṇ và Chính phủ ; 5) Giám
sát Hiến pháp về vấn đề quyền con người.
b) Cơ cấu tổ chức
Hôị đồng Hiến ph áp gồm các thành viên đương nhiên là cựu Tổng
thống, có nhiệm kỳ không xác định và các thành viên do bầu cử hoặc bổ
nhiêṃ có nhiêṃ vu ̣nhất điṇh . Số lươṇg các thành viên của Hôị đồng Hiến
pháp thường từ 6 đến 12 thành viên. Tuỳ thuộc vào pháp luật từng nước mà
thành viên của Hội đồng Hiến pháp được tái bổ nhiệm hoặc chỉ được bổ
nhiêṃ duy nhất môṭ kỳ.
Thủ tục lựa chọn thành viên Hội đồng Hiến pháp ở các nước tương
đối giống nhau. Thông thường có sư ̣phân công , phối hơp̣ giữa Tổng thống và
Nghị viện (Thươṇg viêṇ và Ha ̣viêṇ ) cùng một số cơ quan cao cấp khác trong
viêc̣ lưạ choṇ thẩm phán . Theo đó , mỗi cơ quan có quyền lưạ choṇ môṭ số
thành viên Hội đồ ng Hiến pháp nhất điṇh , bảo đảm nguyên tắc phân quyền
trong tổ chức và hoaṭ đôṇg của bô ̣máy nhà nước . Chủ tịch Hội đồng Hiến
pháp có thể do Tổng thống bổ nhiệm hoặc do Hội đồng Hiến pháp bầu trong
số thành viên đương nhiên và thành viên đươc̣ bầu hoăc̣ bổ nhiêṃ.
Về tiêu chuẩn thành viên Hôị đồng Hiến pháp : Theo nguyên tắc
chung, mọi công dân có đầy đủ các quyền dân sự , chính trị đều có thể được
bầu hoăc̣ bổ nhiêṃ làm thành viên Hôị đồng bảo hiến. Song trên thưc̣ tế , chỉ
những người có trình đô ̣ , khả năng thực sự đặc biệt trong lĩnh vực pháp lý ,
chính trị và có uy tín , kinh nghiêṃ mới cá khả năng đươc̣ bổ nhiêṃ . Đó
thường là các thẩm phán Toà án Tối cao , luâṭ sư,̣ luâṭ gia, nhà ngoại giao, nhà
kinh tế , giáo sư các trườn đại học danh tiếng đã có nhiều năm kinh nghiệm
trong liñh vưc̣ pháp luật.
Để đảm bảo tính đôc̣ lâp̣ của các thành viên Hôị đồng Hiến pháp, pháp
luâṭ quy đi ṇh thành viên Hôị đồng Hiến pháp có nhiêṃ kỳ 9 năm và không
đươc̣ tái bổ nhiêṃ . Cứ 3 năm môṭ lần , thành viên Hội đồng Hiến pháp pháp
lại được thay đổi 1/3. Trong trường hơp̣ có thành viên từ trần hoăc̣ từ chức ,
môṭ thành viên mới đươc̣ bổ nhiêṃ để hoàn thành phần còn laị của nhiêṃ kỳ ;
nếu phần còn laị này ít hơn 3 năm thì thành viên này đươc̣ tiếp tuc̣ làm viêc̣
đủ nhiêṃ kỳ 9 năm.
Hôị đồng Hiến pháp có khoảng 50 nhân viên, có thể được tuyển choṇ
từ những người làm viêc̣ trong các cơ quan của Chính phủ hoăc̣ theo hơp̣
đồng, Tổng thống bổ nhiêṃ Tổng thư ký Hôị đồng Hiến pháp trên cơ sở đề
nghị của Chủ tịch Hội đồng . Tổng thư ký là người trưc̣ tiếp quản lý cá c liñh
vưc̣ thông tin , tư liêụ, thư viêṇ, Internet, hành chính, tài chính và quan hệ đối
ngoại. Ban thư ký duy trì hoaṭ đôṇg thường nhâṭ của Hôị đồng bảo hiến , nhâṇ
các đơn yêu cầu, tổ chức công viêc̣, chuẩn bi ̣ và công bố báo cáo hàng năm về
hoạt động của Hội đồng bảo hiến.
c) Phương thức hoaṭ đôṇg
Tính độc lập khách quan của các thành viên Hội đồng Hiến pháp được
thể hiêṇ ở các quy điṇh về nhiêṃ kỳ , nghĩa vụ, chế đô ̣không kiêm nhiêṃ và
các lợi ích vật chất mà họ được hưởng khi là thành viên Hội đồng . Hiến pháp
các nước thường quy định cho thành viên Hội đồng Hiến pháp quyền miễn trừ
tương tư ̣như đối với nghi ̣ sỹ và chế đô ̣lương bổng , lơị ích vâṭ chấ t tương
đương với các quan chức cao cấp nhất của nhà nước.
Về chủ thể có quyền yêu cầu giám sát Hiến pháp : Pháp luật của hầu
hết các nước theo mô hình này đều quy điṇh quyền yêu cầu giám sát Hiến
pháp thuộc về các qua n chức cao cấp của Nhà nước như Tổng thống , Nhà
vua, Thủ tướng , Chủ tịch Nghị viện . Ở Pháp , theo quy điṇh của Hiến pháp
1958, các chủ thể có quyền đề nghị Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp
hiến của môṭ văn bản gồm : Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Thượng viện và
Chủ tịch Hạ viện . Đến năm 1976, Hiến pháp đươc̣ sửa đổi và quy điṇh này
đươc̣ mở rôṇg hơn , các Thượng nghị sỹ và Hạ nghị sỹ đều được quyền đề
nghị Hội đồng xem xét tính hơp̣ hiến của các đaọ luâṭ với điều kiêṇ tối thiểu
phải có 60 Thươṇg nghi ̣ sỹ hoăc̣ 60 Hạ nghị sỹ yêu cầu.
Về quy trình ra quyết điṇh của Hôị đồng Hiến pháp : Hôị đồng Hiến
pháp tổ chức các phiên họp để xem xét và ra qu yết điṇh, trên cơ sở đơn gửi
đến. Thành viên của Hội đồng Hiến pháp làm việc tập thể và quyết định theo
đa số . Các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp được coi là hợp lệ khi có sự
tham gia của đa số thành viên (thường là 2/3 số thành viên ). Hôị đồng Hiến
pháp thực hiện quyền giám sát Hiến pháp theo các trình tự , thủ tục khác nhau
đối với từng loaị vu ̣viêc̣ cu ̣thể theo quy điṇh của pháp luâṭ . Trình tự, thủ tục
làm việc có thể được chi t hành thủ tục xem xét tính hợp hiến của đạo luật ,
điều ước quốc tế , công bố kết quả bầu cử , trưng cầu dân ý . Thủ tục cụ thể
đươc̣ quy điṇh trong Luâṭ về tổ chức và hoaṭ đôṇg hoăc̣ Nôị quy hoaṭ đôṇg
của Hội đồng Hiến pháp. Thời haṇ ra quyết điṇh thường là 1 tháng kể từ ngày
nhâṇ đươc̣ yêu cầu.
d) Hê ̣quả pháp lý và hiêụ lưc̣ phán quyết của Hội đồng Hiến pháp
Hê ̣quả pháp lý trong phán quyết của Hôị đồng Hiến pháp thể hiêṇ qua
các trường hơp̣ sau:
(i) Hôị đồng Hiến pháp tuyên bố đaọ luâṭ bi ̣ xem xét là có môṭ hoăc̣
môṭ số điều khoản trái với Hiến pháp và các điều khoản này là phần không
thể tách rời của đaọ luâṭ thì đaọ luâṭ đó se ̃không đươc̣ phép công bố; nếu các
điều khoản này là phần có thể tách rời của đaọ luâṭ thì đaọ luâṭ đó se ̃vâñ có
thể đươc̣ công bố nhữn điều khoản vi hiến se ̃bi ̣ loaị trừ . Tổng thống cũng có
thể yêu cầu Nghi ̣ viêṇ thảo luâṇ laị về các điều khoản đó.
(ii) Trường hơp̣ quy chế hoaṭ đôṇg của Nghi ̣ viêṇ có điều khoản vi
hiến thì Nghi ̣ viêṇ phải sửa đổi , bổ sung điều khoản vi hiến đó hoăc̣ phải ban
hành một quy chế mới để thay thế.
(iii) Trường hơp̣ điều ước quốc tế c ó quy định trái Hiến pháp thì việc
gia nhâp̣ hoăc̣ phê chuẩn điều ước quốc tế đó không thể đươc̣ thưc̣ hiêṇ cho
đến khi Hiến pháp được sửa đổi.
(iv) Trường hơp̣ bầu cử Tổng thống, bầu cử Nghi ̣ viêṇ hay trưng cầu ý
dân không hơp̣ lê ̣thì phải tổ chức bầu cử laị theo quy điṇh của pháp luâṭ.
Khi Hôị đồng Hiến pháp quyên bố môṭ đaọ luâṭ là hơp̣ hiến thì Tổng
thống phải công bố luâṭ trong thời haṇ pháp luâṭ quy điṇh. Thời gian Hôị đồng
Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của đạo luật không tính vào thời hạn này.
Về hiêụ lưc̣ của phán quyết:
Quyết điṇh của Hôị đồng bảo hiến là quyết điṇh chung thẩm , không
thể bi ̣ xem xét hay xét xử laị bởi bất cứ cơ quan , tổ chức, cá nhân nào và có
hiêụ lưc̣ pháp lý bắt buôc̣ đối với tất cả các bên có liên quan . Điều 62 của
Hiến pháp nước Côṇg hoà pháp 1958 quy điṇh: “Môṭ điều khoản bi ̣ tuyên bố
là không hợp hiến thì không thể được ban bố hoặc đưa ra thi hành. Các quyết
điṇh của Hôị đồng Hiến pháp không thể bi ̣ kháng nghi ̣ . Các cơ quan hành
chính và tư pháp có nghĩa vụ phải chấp hành” 19 Quyết điṇh của Hôị đồng
Hiến pháp phải có chữ ký của Chủ tic̣h Hôị đồng , Tổng thư ký và các bên có
liên quan. Quyết điṇh của Hôị đồng Hiến pháp đươc̣ công bố , đăng trên Công
báo và thông báo cho các bên có liên quan . Ngoài ra , trong môṭ số trường
hơp̣, quyết điṇh còn đươc̣ gửi cho Tổng thống, Nghị viện và Chính phủ.
19. GS.TS. Nguyêñ Đăng Dung , “Luâṭ Hiến pháp đối chiếu”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr. 568.
3. Mô hiǹh Toà án thƣờng thƣc̣ hiêṇ cơ chế bảo vê ̣Hiến pháp
3.1. Lịch sử hình thành
Các quốc gia trao thẩm quyền bảo hến cho Toà án tư pháp , còn gọi là
toà án thẩm quyền chung, cao nhất là Toà án tối cao, là các nước áp dụng triệt để
học thuyết phân chia quyền lực “cứng” giữa các nhánh quyền lập pháp , hành
pháp và tư pháp, điển hình là Mỹ. Theo đó, hê ̣thống các cơ quan Toà án không
chỉ có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của công dân mà còn có
quyền kiểm soát, hạn chế quyền lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp nhằm
bảo đảm cơ chế “kìm chế và đối trọng” giữa các nhánh quyền lực nhà nước (các
Toà án có quyền kiểm hiến các đạo luật của Nghị viêṇ). Hiêṇ nay, trên thế giới
có khoảng 70 nước áp duṇg mô hình bảo hiến này , như: các nước Châu Mỹ
(Mỹ, Canada, Brazin, Argentina, Mexico), Châu Á (Nhâṭ Bản , Philippine),
môṭ số nước Châu Âu (Na uy, Thuỵ Điển, Đan Mac̣h, Thuỵ Sĩ và Úc).
3.2. Đặc trưng mô hình
a) Vị trí pháp lý
Cơ quan tư pháp làm nhiêṃ vu ̣bảo hiến cũn có nhữn thẩm quyền
ương tư ̣như thẩm quyền của cơ quan bảo hiến chuyên trách , đó là: (i) Xem
xét tính h ợp hiến của các đạo luật do Nghị viện ban hành , (ii) Giải quyết
những tranh chấp về thẩm quyền giữa các chủ thể trong nhà nước liên bang ,
giữa chính quyền trung ương và chính quyền điạ phương , giữa các cơ quan
trong bô ̣máy nhà nước , (iii) Giải thích Hiến pháp và các đạo luật , (iv) Bên
cạnh các thẩm quyền trên đây , trong liñh vưc̣ bảo hiến , các Tòa án tư pháp
còn được trao những thẩm quyền khác căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội,
truyền thống pháp lý của mỗi quốc gia . Ở Nhật Bản , môṭ số quyền khác
cũng thuộc phạm vi giám sát Hiến pháp được trao cho Toà án tối cao thực
hiêṇ gồm: xem xét khả năng đảm nhiêṃ chức vu ̣của các quan chức cao cấp
của Nhà nươc, tham gia thủ tuc̣ luâṇ tôị các quan chức cao cấp của nhà nước ,
giải quyết tranh chấp về thẩm quyền , giám sát tính hợp hiến , hơp̣ pháp của
các cuộc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân Tuy nhiên , các thẩm quyền này bao
giờ cũng g ắn với những vụ việc cụ thể và được thực hiện song song với các
thẩm quyền khác của cơ quan tư pháp.
b) Cơ cấu tổ chức
Mô hình này trao quyền kiểm tra tính hơp̣ hiến của các đaọ luâṭ cho tất
cả các thẩm pháp của Toà á n tư pháp gồm Toà án tối cao và Toà án điạ
phương. Các thẩm phán được lựa chọn thông qua bầu cử hoặc bổ nhiệm.
c) Phương thức hoaṭ đôṇg
Theo mô hình này , Toà án không có thủ tục đặc biệt để xem xét tính
hơp̣ hiến của các ăn bản luâṭ hoăc̣ giải quyết nhữn vu ̣viêc̣ liên quan đến Hiến
pháp theo thẩm quyền . Thưc̣ tiêñ cho thấy , viêc̣ kiểm tra tính hơp̣ hiến của
luâṭ hoăc̣ các hành vi công quyền chỉ là môṭ trong số những công viêc̣ mà toà
án thực hiêṇ bên caṇh viêc̣ giải quyết tranh chấp , xét xử , giải thích các đạo
luâṭ và phát triển án lê .̣ Toà án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất và cuối cùng
các vụ việc về Hiến pháp . Các phán quyết của Toà án tối cao trở thành án lệ
cho các vu ̣viêc̣ tương tư.̣ Viêc̣ xét xử các vu ̣viêc̣ Hiến pháp cũng có quy trình
giống như viêc̣ giải quyết các vu ̣viêc̣ hành chính, hình sự, dân sư.̣
Mô hình này áp duṇg viêc̣ bảo hiến thông qua các vu ̣viêc̣ c ụ thể :
Theo đó, trong môṭ vu ̣viêc̣ giải quyết (hành chính, hình sự, dân sư,̣) tại toà,
các bên có quyền đề nghị kiểm tra tính hợp hiến của một đạo luật áp dụng để
giải quyết vụ việc đó . Khi đươc̣ đề nghi ̣ xem xét tính hơp̣ hiến của môṭ đaọ
uâṭ, thẩm phán taṃ đình chỉ vu ̣viêc̣ đang giải quyết để chuyển sang vu ̣viêc̣
kiểm hiến. Điều này cũng hàm ý rằng, bất cứ ai là môṭ bên trong vu ̣kiêṇ trước
toà đều có thể nêu vấn đề hợp hiến hay v i hiến của quy phaṃ pháp luâṭ (hoăc̣
văn bản chứa quy phaṃ pháp luâṭ đó) áp dụng để giải quyết vụ việc của mình.
Mô hình này thưc̣ hiêṇ bảo hiến bằng viêc̣ từ chối không áp duṇg đaọ
luâṭ vi hiến: Các Toà án kiểm hiến các đạo luật áp dụng trong vụ việc cụ thể, tức
các đạo luật đang có hiệu lực pháp luật (vì vậy mà gọi đó là bảo hiến). Khi Toà
án xác định đạo luật vi hiến, toà án sẽ không áp dụng đạo luật đó để giải quyết
vụ việc. Toà án không có thẩm quyền tuyên bố huỷ bỏ đạo luật vi hiến vì lập
pháp là chức năng của Nghị viện. Trong hê ̣thống án lê ̣, viêc̣ không áp duṇg môṭ
điều luâṭ của Toà án trở thành án lê ̣nên măc̣ dù đaọ luâṭ vâñ còn giá trị về mặt hình
thức nhưng không còn giá tri ̣ trên thưc̣ tiêñ vì các toà án không áp duṇg nó nữa.
d) Hê ̣quả pháp lý và hiêụ lưc̣ phán quyết của Tòa án thường thực
hiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp
Hê ̣quả pháp lý cuối cùng của những phán quyết của Toà án trong liñh
vưc̣ bảo hiến dâñ tới sư ̣vô hiêụ của môṭ đaọ luâṭ nào đó trên thưc̣ tế . Tuy
nhiên, khác với phán quyết của các cơ quan bảo hiến chuyên trách , các đạo
luâṭ bi ̣ tuyên bố là không hơ ̣ p hiến nhưng về măṭ hình thức vâñ tiếp tuc̣ có
hiêụ lưc̣ , chỉ là toà án sẽ không áp dụng đạo luật đó trong hoạt động xét xử
nữa. Hâụ quả thưc̣ tế là các cơ quan hành pháp không thể đưa văn bản vi hiến
đó áp duṇg vào cuộc sống khi nó không được Toà án công nhận. Vì vậy, Nghị
viêṇ thường phải quyết điṇh baĩ bỏ hoăc̣ thay thế văn bản đó.
Phán quyết của cơ quan tư pháp liên quan đến việc xác định tính hợp
hiến của các đaọ luâṭ có hiêụ lưc̣ bắt buôc̣ đối với các bên có liên quan đến vu ̣
viêc̣ và đối với các vu ̣viêc̣ tương tư.̣ Điều này xuất phát từ quan niêṃ môṭ đaọ
luâṭ vi hiến không chỉ gây thiêṭ haị cho môṭ chủ thể cu ̣thể, trong trường hơp̣ cu ̣
thể mà còn có thể gây ảnh hưởng đến các chủ thể khác và trong các trường hơp̣
khác tương tư .̣ Đồng thời, đaọ luâṭ đó cũng phá vỡ trâṭ tư ̣pháp luâṭ quốc gia .
Tuy nhiên, trong hê ̣thống này , phán quyết của Toà án cấp dưới có thể k hông
đươc̣ công nhâṇ và bi ̣ toà án cấp trên sửa đổi hoăc̣ huỷ bỏ . Về măṭ thứ bâc̣ ,
phán quyết của Toà án tối cao có hiệu lực bắt buộc đối với Toà án các cấp.
Xuất phát từ quan niêṃ coi kiểm tra tư pháp là môṭ hoaṭ đôṇ g bình
thườn của Toà án nên viêc̣ nghi ngờ về tính hơp̣ hiến của môṭ đaọ luâṭ chỉ
đươc̣ đăṭ ra khi có khiếu kiêṇ . Toà án Mỹ chỉ kiểm tra tính hợp hiến của một
đaọ luâṭ khi có môṭ vu ̣án hay môṭ vu ̣tranh chấp cu ̣thể . Điều này dẫn tới hậu
quả tất yếu là hiệu lực của những phán quyết đối với các đạo luật chỉ giới hạn
trong những vu ̣viêc̣ cu ̣thể và cũng chỉ dừng ở viêc̣ tuyên bố không áp duṇg
cho môṭ đaọ luâṭ trong trường hơp̣ cu ̣thể đó.
Tuy nhiên, có một nguyên tắc bổ sung cho sự thiếu hụt này là nguyên
tắc xác điṇh viêc̣ giải thích Hiến pháp của Toà án tối cao liên quan đến tất cả các
toà án cấp dưới. Sau khi phán quyết của Toà án tối cao về sư ̣không hơp̣ hiến của
môṭ đaọ luâṭ đươc̣ ban hành trong môṭ vu ̣viêc̣ cu ̣thể , bất cứ môṭ vu ̣kiêṇ nào
khác có liên quan đến đạo luật tương tự đều nhận được một phán quyết tương tự.
Sư ̣từ chối áp duṇg môṭ đaọ luâṭ không hơp̣ hiến trong trường hơp̣ cu ̣thể của Toà
án trên thực tế đã làm vô hiệu hoá đạo luật đó. Với truyền thốn tôn troṇg án lê ̣,
trong những trườn hơp̣ tương tư,̣ nếu đương sư ̣khiếu naị ra đaọ luâṭ đa ̃bi ̣ Toà
án tuyên bố là không hợp hiến thì Toà án thụ lý vụ việc sẽ từ chối áp dụng.
4. Mô hiǹh cơ quan bảo hiến đồng thời là cơ quan lâp̣ hiến
Đây là mô hình đang đươc̣ áp duṇg ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba
và một số nước khác không có cơ quan bảo hiến chuyên biệt. Các nước này đều
có quan điểm chung là Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân, không những là cơ quan lập hiến, lập pháp duy nhất mà còn là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất Quốc hội phải tự quyết định tính hợp hiến của một đạo luật. Nếu Quốc hội
trao quyền này cho một cơ quan khác phán quyết thì Quốc hội không còn là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất nữa. Quan điểm trên đây có hạt nhân hợp lý
của nó, tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng nếu một cơ quan vừa lập pháp vừa tự
mình phán quyết đạo luật do mình làm ra có vi hiến hay không thì cũng chẳng
khác gì tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Ngay từ thời kỳ La Mã người ta
đã khẳng định rằng “Nemo jus sibi dicere potest” nghĩa là không ai có thể tự
mình phán xét mình được. Không phải chỉ riêng ở nước ta, mà ở bất kỳ nước nào
cũng vậy, mỗi đạo luật được ra đời là một đứa con tinh thần của cơ quan lập
pháp. Cơ quan lập pháp phải ấp ủ bởi phải mang nặng, đẻ đau những đứa con
tinh thần của mình. Người mẹ do quá yêu quý đứa con của mình nên dễ bỏ qua
những khuyết tật của nó. Thiết nghĩ rằng, việc thiết lập một cơ quan bảo hiến
độc lập với Quốc hội để xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và một số văn
bản dưới luật là rất cần thiết cho Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.