KHUYẾN NGHỊ
1 – Kiến thức của cộng đồng về sức khỏe tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm
thần học sinh ở thành phố Thái Nguyên còn chưa tốt. Do vậy, ngành Y tế, ngành
Giáo dục và các ngành liên quan cần tăng cường công tác truyền thông giáo dục
nâng cao nhận thức của cộng đồng (đặc biệt là cha mẹ học sinh và giáo viên) về
chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh 6-15 tuổi nhằm làm giảm thiểu các yếu
tố nguy cơ, tăng cường các yếu tố bảo vệ cho học sinh.
2 - Mô hình can thiệp có hiệu quả tốt ở các trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ
và THCS Nguyễn Du thành phố Thái Nguyên nên cần được nghiên cứu nhân
rộng sang các trường khác trên địa bàn và các khu vực khác nhằm đáp ứng nhu
cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần của học sinh và tăng cường sự hưởng lợi của cộng đồng.
3 - Cần thực hiện thêm các nghiên cứu về chi phí hiệu quả để làm cơ sở
khuyến cáo cho phát triển các cơ chế, chính sách trong chăm sóc sức khỏe tâm thần học đường.
142 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện và can thiệp sớm rối loạn tâm thần ở học sinh từ 6 – 15 tuổi tại thành phố Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h cũng như việc đa số cha mẹ tham gia trả lời bảng phỏng vấn
sàng lọc sau can thiệp, chúng tôi nhận thấy đại đa số cha mẹ học sinh rất ủng
hộ việc can thiệp CSSKTT học sinh. Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến của cha
mẹ học sinh mong muốn công tác CSSKTT học sinh sẽ được triển khai sâu,
rộng hơn để con họ mặc dù có chuyển sang trường khác vẫn nhận được những
chăm sóc phù hợp, đặc biệt là đối với những cha mẹ có con mắc rối loạn sức
khỏe tâm thần cần phải can thiệp lâu dài. Từ đó có thể hiểu cha mẹ học sinh
ủng hộ công tác này nhưng cũng đặt ra một vấn đề là làm thế nào để duy trì và
phát triển được hoạt động này.
(b) Kết quả thay đổi KAP của giáo viên về CSSKTT học sinh sau can thiệp
Với những biện pháp can thiệp tích cực trên giáo viên, khi đánh giá KAP
giáo viên về CSSKTT học sinh chúng tôi nhận thấy: Có sự thay đổi tích cực rõ
rệt về KAP của giáo viên so với trước can thiệp và so sánh với trường đối
chứng ở cả kiến thức, thái độ cũng như thực hành CSSKTTHS (bảng 3.29,
105
3.30, 3.31, 3.32). 100% giáo viên các trường can thiệp có hiểu biết về
CSSKTTHS tốt trong khi đó, ở các trường đối chứng, hiểu biết về CSSKTTTE
của giáo viên là ở mức độ kém và trung bình. Giáo viên trường can thiệp cũng
có thái độ và thực hành đối với CSSKTTHS tốt hơn giáo viên ở trường đối
chứng và tốt hơn kết quả thu được ở lần khảo sát trước can thiệp. Ngược lại, ở
trường đối chứng, sự thay đổi lại có xu hướng kém đi hoặc không có thay đổi.
Như vậy, tương tự như với kết quả khảo sát trên phụ huynh học sinh, việc can
thiệp trên giáo viên của chúng tôi có kết quả tích cực. Các kết quả này cũng đã
phần nào giải thích được hiệu quả can thiệp trên sức khỏe tâm thần học sinh
dưới đây. Đây là kết quả rất đáng mừng vì can thiệp trên giáo viên thường có
kết quả lâu dài. Tuy không tách được rõ rệt bao nhiêu phần trăm tác động trên
học sinh là do giáo viên, bao nhiêu là do cha mẹ học sinh và bao nhiêu là do
các yếu tố khác nhưng kết quả trên cũng đã cho thấy ý nghĩa của việc tuyên
truyền, nâng cao nhận thức, thái độ và thực hành CSSKTTHS cho giáo viên.
Qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với cán bộ, giáo viên các trường can
thiệp chúng tôi nhận thấy: nhìn chung, các ý kiến đánh giá của cán bộ, giáo
viên nhà trường đều rất tích cực. Tất cả các cán bộ, giáo viên tham gia vào
chương trình can thiệp đều cho rằng những kiến thức thu nhận được về
CSSKTTHS rất có ích cho công tác dạy học và chăm sóc học sinh của bản thân
họ. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến giáo viên băn khoăn về việc thời gian của
lớp học bị ảnh hưởng khi giáo viên dành thời gian cho một số trẻ có vấn đề
SKTT. Thêm vào đó lớp đông học sinh cũng sẽ gây khó khăn cho công tác này.
Vẫn còn một số giáo viên cho rằng cần phải có các biện pháp phạt cứng rắn khi
trẻ phạm lỗi trên lớp mới có tác dụng giáo dục trẻ và duy trì được trật tự lớp
học. Vấn đề thành tích của lớp và mối liên quan trực tiếp của điều này với
thành tích của giáo viên cũng là mối lo ngại của các giáo viên. Những ý kiến
trên cho thấy mặc dù KAP của giáo viên có tốt sau can thiệp nhưng để cho
công tác CSSKTTHS của nhà trường thực sự có hiệu quả cần phải có các cơ
chế khuyến khích phù hợp, đồng bộ mới có thể duy trì được.
106
(c) Sự cải thiện về năng lực của giáo viên, CB y tế địa phương, y tế học đường
tham gia thực hiện mô hình
Một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả của mô hình là sự cải thiện
năng lực CSSKTT cho học sinh của giáo viên, CB y tế địa phương, y tế học
đường. Tác giả Nguyễn Thọ trong mô hình thử nghiệm CSSKTT cho học sinh
Đồng Nai nhận thấy: “Đa số giáo viên còn lúng túng trong phương pháp giải
quyết với các vấn đề của học sinh [22]. Đôi khi còn dùng hình thức kỷ luật đối
với học sinh lẽ ra có thể giải quyết bàng tâm lý và y học” [22]. Trong mô hình
nghiên cứu này, năng lực CSSKTT cho học sinh của giáo viên, CB y tế địa
phương, y tế học đường có vai trò rất quan trọng đảm bảo sự cho thành công của
mô hình. Trong 2 năm can thiệp, chúng tôi đã chú trọng nâng cao năng lực
CSSKTT cho học sinh của giáo viên, CB y tế địa phương, y tế học đường bằng
các hoạt động tập huấn, thảo luận, tham gia giao ban với Nhóm tham gia thực hiện
mô hình, hỗ trợ, tư vấn chuyên môn, giám sát, kiểm tra các hoạt động của Nhóm.
Do đó, sau 2 năm can thiệp, năng lực CSSKTT cho học sinh của giáo viên, CB y
tế địa phương, y tế học đường được cải thiện rõ rệt về khả năng sử dụng được
thang SDQ 25 sàng lọc các vấn đề SKTT (tăng 100,0%), năng lực truyền thông về
SKTT học sinh cho cha mẹ (tăng 95%), nhận biết một số biểu hiện rối loạn (chênh
87,5%), tư vấn CSSKTT học sinh cho cha mẹ (tăng 75%), theo dõi, hỗ trợ trẻ
(tăng 60%); p trước - sau can thiệp < 0,05 (bảng 3.33). Đây là một kết quả rất khả
quan cho thấy mô hình có thể hoạt động và có tính bền vững, có thể duy trì lâu dài
nếu có các cơ chế khuyến khích phù hợp tại các địa điểm can thiệp.
4.2.2.2. Hiệu quả trên sức khỏe tâm thần học sinh
(a) Hiệu quả của quá trình can thiệp trên sức khỏe tâm thần chung của toàn bộ
học sinh các trường can thiệp
Sau can thiệp, chúng tôi tiến hành đánh giá lại về các RLTT & HV ở học
sinh nhận thấy: tỷ lệ học sinh có rối loạn SKTT ở các trường can thiệp giảm rõ
rệt so với trước can thiệp và so sánh đối chứng (p<0,001), chỉ số hiệu quả tại
trường can thiệp là 42,9% và hiệu quả can thiệp đạt 56,2%. trong khi đó ở
trường đối chứng không có sự khác biệt về tỷ lệ này (p>0,05) (bảng 3.34). Do
107
tính chất biến động học sinh ở các trường học trong thời gian can thiệp dài có
thể gây nhiễu nên để làm rõ hơn, nghiên cứu cũng phân tích hiệu quả trên
SKTT của nhóm học sinh lớp 3,4,5 và lớp 8,9 của các trường can thiệp. Đây là
nhóm học sinh được thực hiện can thiệp đủ 2 năm. Kết quả bảng 3.35 và 3.36
cũng cho thấy học sinh các trường can thiệp có tỷ lệ rối loạn SKTT giảm rõ rệt
so với trước can thiệp và so sánh đối chứng (p<0,05) Điều này chứng tỏ việc
can thiệp của chúng tôi là có hiệu quả làm giảm tỷ lệ hiện mắc các RLTT &
HV ở học sinh.
Paul Bolton và cs. (2009) trong nghiên cứu can thiệp rối loạn stress sau sang
chấn dựa vào trường học nhận thấy việc can thiệp dựa vào trường học đã làm
giảm đáng kể các triệu chứng rối loạn cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi bạo lực
chính trị [95]. Kimberly Hoagwood và cs. (1997) thực hiện một nghiên cứu
phân tích tổng quan các bài báo từ 1985 – 1995 về chăm sóc sức khỏe tâm thần
dựa vào trường học. Ba phương pháp chủ yếu được áp dụng can thiệp ở trường
học là liệu pháp nhận thức – hành vi; đào tạo các kỹ năng xã hội; và tư vấn giáo
viên. Các tác giả đã đưa ra các khuyến nghị: (a) Cần tiếp tục đánh giá hiệu quả
của các chương trình can thiệp với số trẻ có rối loạn lớn hơn; (b) Mở rộng các
kết quả liên quan đến các biến như vị trí các cơ sở y tế và bối cảnh gia đình; (c)
Đánh giá tác động của các dịch vụ này khi liên kết với các can thiệp dựa vào
gia đình [80]. Indurkhya A. và cs. (2004), thực hiện một nghiên cứu thuần tập
tiến cứu từ năm 1993 – 2000 ở học sinh từ lớp 1 đến lớp 6. Mô hình dịch vụ
sức khỏe tâm thần cho trẻ em và thanh thiếu niên dựa trên trường học do các
giáo viên, chuyên gia sức khỏe tâm thần học đường, và cha mẹ học sinh đảm
nhận việc theo dõi, báo cáo về nhu cầu và việc sử dụng dịch vụ tư vấn liên tục
với từng học sinh từ 1993 – 2000. Kết quả cho thấy việc duy trì chăm sóc sức
khỏe tâm thần học sinh dựa vào trường học dẫn đến cải thiện kết quả học tập,
làm giảm nhu cầu dịch vụ sức khỏe tâm thần sau này [71]. So sánh với kết quả
nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài (Indurkhya A. và cs. - 2004), thời
gian can thiệp của chúng tôi ngắn hơn có thể đã phần nào hạn chế kết quả đạt
được do việc chăm sóc các vấn đề sức khỏe tâm thần thường đòi hỏi phải diễn
ra liên tục trong một thời gian dài. Tuy nhiên, với những kết quả đạt được ban
đầu này, nếu mô hình tiếp tục được duy trì và phát triển thì có thể dự đoán
108
được những kết quả khả quan trong tương lai. Như vậy, tương tự như nghiên
cứu của Indurkhya A. và cs. (2004) việc CSSKTT học sinh dựa vào trường học
là rất cần thiết, một công việc không quá khó, phức tạp nhưng mang lại hiệu
quả cao, giúp cho trẻ không mắc bệnh, giảm gánh nặng bệnh tật cho gia đình và
xã hội. Đây là điều khuyến cáo cho ngành Y tế, ngành Giáo dục, gia đình có
chủ trương, giải pháp phù hợp trong công tác CSSKTT cho học sinh.
(b) Kết quả tư vấn, chữa trị ở nhóm học sinh có rối loạn tại các trường can thiệp
Trong số 107 học sinh có bệnh ban đầu được tư vấn, chữa trị (bảng 3.37), có
55 học sinh khỏi hoàn toàn chiếm 51,4%; 26 học sinh thuyên giảm nhiều chiếm
24,3%; Có 3 học sinh không thuyên giảm chiếm 2,8%. Trong số 107 học sinh
này có 17 học sinh không hoàn thành đợt theo dõi, điều trị do chuyển cấp
chiếm 15,9%. Các học sinh có kết quả điều trị không tốt là những học sinh mắc
một số vấn đề phức tạp như chậm phát triển tâm thần, tăng động giảm chú ý,
rối loạn hành vi ứng xử và thêm nữa những học sinh này thường mắc nhiều rối
loạn phối hợp. Khi so sánh với một số nhà nghiên cứu nước ngoài như Paul
Bolton và cs. (2009), các tác giả này đã thực hiện một chương trình can thiệp
dựa vào trường học cho 495 học sinh từ 7 – 15 tuổi có rối loạn stress sau sang
chấn do bị ảnh hưởng bởi bạo lực chính trị tại 14 trường được chọn ngẫu nhiên
ở Poso, Central Sulawesi, Indonesia. Việc can thiệp được tiến hành qua 2 giai
đoạn. Giai đoạn đầu là 5 tuần can thiệp bằng các liệu pháp tâm lý nhóm (tương
tác cá nhân, khiêu vũ, âm nhạc, đóng kịch, hành vi nhận thức). Giai đoạn 2
được tiếp theo bằng các can thiệp dựa vào trường học trong 6 tháng. Kết quả
cho thấy can thiệp đã làm giảm các triệu chứng của rối loạn stress sau sang
chấn và làm duy trì sự hy vọng ở các trẻ này [95]. Indurkhya A., và cs. (2004),
thực hiện một nghiên cứu thuần tập tiến cứu từ năm 1993 – 2000 ở học sinh từ
lớp 1 đến lớp 6. Kết quả cho thấy việc duy trì chăm sóc sức khỏe tâm thần học
sinh dựa vào trường học dẫn đến cải thiện kết quả học tập, làm giảm nhu cầu
dịch vụ sức khỏe tâm thần sau này [71]. Như vậy, thời gian can thiệp của chúng
tôi trên nhóm học sinh có rối loạn phải kéo dài hơn tác giả Paul Bolton và cs.
(2009) bởi chúng tôi can thiệp trên nhóm học sinh có nhiều rối loạn khác nhau,
có những rối loạn phải đòi hỏi cần thời gian can thiệp dài mới có thể có được
những thay đổi (như rối loạn hành vi ứng xử, tăng động giảm chú ý, ám sợ...).
109
Tuy nhiên, nếu so sánh với thời gian can thiệp của Indurkhya A. và cs. (2004)
và một số tác giả khác trên thế giới thì thời gian can thiệp của chúng tôi lại
ngắn hơn nhiều. Điều này có thể giải thích cho những trường hợp kém thuyên
giảm hoặc thất bại trong quá trình can thiệp trên nhóm có bệnh [71], [95], [96].
(c) Kết quả công tác theo dõi, phát hiện và can thiệp sớm tại các trường can thiệp
Trong số các RLTT & HV trẻ em và thanh thiếu niên, bên cạnh các rối loạn
thường xuất hiện sớm, rõ rệt và mang tính chất cố định, ít thay đổi và thường
liên quan đến các yếu tố sinh học, còn có một số rối loạn liên quan đến các yếu
tố tâm lý, môi trường thường dễ thay đổi, có thể xuất hiện ở bất kỳ giai đoạn nào
trong cuộc đời của một đứa trẻ (ví dụ: trầm cảm, lo âu, các rối loạn do stress tâm
lý). Costello E. Jane và cs. 2003 (Hoa Kỳ) đã tiến hành một nghiên cứu dọc
tại cộng đồng để đánh giá tỷ lệ và sự phát triển của các RLTT & HV của ở trẻ
em từ 9 – 16 tuổi. Nghiên cứu thực hiện trên 1420 trẻ từ 9 – 13 tuổi và việc
đánh giá các RLTT theo các tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-IV được thực hiện
định kỳ cho đến khi trẻ 16 tuổi. Kết quả cho thấy tỷ lệ trung bình 3 tháng của
bất kỳ rối loạn nào là 13,3% (95% CI, 11.7% - 15.0%). Trong suốt thời gian
nghiên cứu, 31% trẻ gái và 42% trẻ trai có ít nhất một RLTT. Một số rối loạn
như ám sợ xã hội, cơn hoảng sợ, trầm cảm, lạm dụng chất gây nghiện có xu
hướng tăng lên trong khi một số rối loạn khác như: lo sợ bị chia cắt, tăng động
giảm chú ý lại giảm đi [47].
Theo WHO – 2005, chỉ có 10 - 22% trẻ em và thanh thiếu niên có vấn đề
SKTT được phát hiện bởi các nhân viên chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Đa số còn
lại không được phát hiện sớm và không nhận được sự chăm sóc thích hợp về
mặt y tế. Bên cạnh đó, còn rất nhiều trẻ có vấn đề về SKTT nhưng chưa đủ tiêu
chuẩn chẩn đoán (các rối loạn dưới ngưỡng) và các rối loạn dưới ngưỡng này
có nguy cơ cao phát triển thành các rối loạn rõ rệt khi gặp các điều kiện bất lợi
của môi trường sống [119].
Do vậy, việc theo dõi dọc là rất cần thiết để phát hiện sớm các rối loạn.
Trong nghiên cứu này, trong 2 năm thực hiện việc theo dõi, phát hiện sớm các
dấu hiệu bất thường của học sinh tại các trường can thiệp, đã có 56 học sinh
được phát hiện. Trong số này, có 29 học sinh đã được xác định có các rối loạn
đủ tiêu chuẩn chẩn đoán. Trong khi đó, ở các trường đối chứng, chỉ 1 học sinh
110
có trầm cảm rõ rệt có ý tưởng tự sát được phát hiện bởi giáo viên và gia đình
(bảng 3.38).
Tại các trường can thiệp trong nghiên cứu này, sau khi phát hiện học sinh có
các biểu hiện bất thường, chúng tôi đã thực hiện việc can thiệp sớm bằng cách
phối hợp với giáo viên, y tế học đường tư vấn, hỗ trợ cá nhân, tư vấn cho cha
mẹ. Trong số 56 học sinh được phát hiện và can thiệp sớm, có 46 học sinh đã
trở lại bình thường, 10 học sinh khác được tư vấn và hỗ trợ nên vẫn tiếp tục
duy trì học tập, không có học sinh phải nghỉ học. Tại các trường đối chứng, có
1 học sinh phải nghỉ học đi điều trị tại bệnh viện và sau đó phải xin nghỉ học và
chuyển trường do rối loạn nặng không thể học tiếp (bảng 3.39). Như vậy, kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc theo dõi phát hiện sớm đã giúp phát
hiện được các trường hợp có dấu hiệu bất thường để kịp thời can thiệp, tránh để
phát triển thành các rối loạn nặng, khó can thiệp chữa trị. Tại các trường đối
chứng, do không có các biện pháp theo dõi, phát hiện sớm nên không phát hiện
được các học sinh có dấu hiệu bất thường và chỉ khi các rối loạn trở nên nặng
nề, ảnh hưởng đến sinh hoạt và học tập của học sinh thì học sinh đó mới được
đưa đi khám và điều trị. Điều này đã làm ảnh hưởng đến việc học của học sinh
buộc học sinh đó phải nghỉ học. Với các rối loạn tâm thần và hành vi ở học
sinh, thời gian theo dõi 2 năm chưa thể gọi là dài. Nếu có điều kiện theo dõi
trong trong một khoảng thời gian lâu hơn, có thể các số liệu còn cho thấy hiệu
quả rõ rệt hơn trong tác động đến sức khỏe tâm thần học sinh.
4.2.2.3. Vấn đề tính bền vững và khả năng duy trì, phát triển của mô hình
Để đánh giá về tính bền vững của mô hình, khả năng duy trì của mô hình,
chúng tôi đã tiến hành thăm dò ý kiến của cán bộ, giáo viên, cha mẹ học sinh
các trường can thiệp và cán bộ y tế cơ sở qua các cuộc thảo luận nhóm và
phỏng vấn sâu các đối tượng liên quan. Bảng 3.40 tổng hợp các ý kiến về kết quả
thảo luận nhóm cho thấy nhìn chung, đại đa số người tham dự cho rằng các nội
dung công việc trong mô hình can thiệp là cần thiết (95,5%), các hoạt động này
có thể thực hiện được (95,5%), các hoạt động can thiệp có ích và hiệu quả
(90,9%), mô hình nghiên cứu đã giúp họ có cái nhìn đúng hơn về vấn đề SKTT
học sinh và qua đó họ được nâng cao năng lực CSSKTT cho trẻ và các hoạt động
này có thể duy trì được (79,5%).
111
Tuy nhiên, một trong những điều khiến chúng tôi băn khoăn là vấn đề cơ chế,
chính sách và kinh phí chi trả cho những người làm công tác CSSKTT học sinh
để duy trì hoạt động này tại các trường học. Trong thời gian thực hiện thí điểm
mô hình nghiên cứu, những người tham gia đã nhận được kinh phí cho công tác
này dù là không lớn. Sau khi nghiên cứu này kết thúc, kinh phí cho hoạt động
này không còn được hỗ trợ, sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến việc duy trì mô hình. Khi
phỏng vấn, các ý kiến của lãnh đạo nhà trường, giáo viên cũng bày tỏ băn khoăn
về vấn đề này và cho rằng, để thực hiện và thực hiện công tác này một cách lâu
dài và hiệu quả, cần có các chế độ, chính sách khuyến khích cho những người
trực tiếp tham gia. Băn khoăn này của chúng tôi cũng đã được nhiều tác giả
trong và ngoài nước đề cập. Nguyễn Thọ - 2007 nhận thấy để thực hiện mô hình,
cần có các thẩm quyền của cơ chế hành chính nhà nước tạo điều kiện thuận lợi
cho tổ chức mô hình [22]. Tại Hoa Kỳ, Kutash K. và cs. (2006) cho rằng tài
chính cho các chi phí CSSKTT học sinh trong mô hình dựa vào trường học có
vai trò quan trọng liên quan đến hiệu quả của hoạt động này và chi phí trung
bình tính trên một học sinh một năm vào khoảng 172 Đô la Mỹ. Chính phủ, các
tổ chức xã hội là những người trang trải các chi phí CSSKTT học sinh [84].
Theo WHO-2005, chỉ có 34 quốc gia (7% các quốc gia trên thế giới) đã có các
chính sách rõ ràng về SKTT trong đó có SKTT trẻ em và các chính sách này đã
có tác động tích cực rõ rệt đến SKTT trẻ em và thanh thiếu niên. Đây là một
điều bất lợi vì các chính sách về SKTT trẻ em và thanh thiếu niên có thể cải
thiện được chất lượng và khả năng tiếp cận dịch vụ CSSKTT của nhóm đối
tượng này [119]. Như vậy, để làm tốt và duy trì công tác CSSKTT học sinh tại
các trường học, vẫn cần những cơ chế, chính sách và chế tài hợp lý để hoạt
động này được duy trì và phát triển. Tương tự, theo kết quả nghiên cứu và phân
tích của chúng tôi, mô hình can thiệp “Đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện,
can thiệp sớm các rối loạn tâm thần và hành vi ở học sinh từ 6 – 15 tuổi tại
thành phố Thái Nguyên” đã có hiệu quả tốt trên SKTT học sinh cũng như hiệu
quả tích cực về mặt xã hội là nâng cao nhận thức của cha mẹ, giáo viên về công
tác CSSKTT học sinh và nâng cao năng lực CSSKTT học sinh cho các đố i
tượng liên quan. Tuy nhiên, cũng giống như mọi hoạt động khác, công tác này
cũng cần có kinh phí để hoạt động. Trong tình hình hiện có tại Việt Nam nói
chung và Thái Nguyên nói riêng, không có nguồn kinh phí nào chi cho hoạt
112
động này. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến tính bền vững và khả năng duy trì
hoạt động của mô hình. Theo tôi, trước mắt, để duy trì hoạt động trên cơ sở
kinh phí hạn hẹp hoặc không có kinh phí riêng, cần có các chính sách lồng
ghép và khuyến khích phi kinh tế với các hoạt động khác như lồng ghép và đưa
vào chỉ tiêu đánh giá thi đua trong các hoạt động thường xuyên của các trường
như công tác y tế học đường, công tác giáo viên chủ nhiệm, tổ chức đoàn thể
trong trường, thường xuyên lồng ghép công tác truyền thông cho cha mẹ học
sinh như một hoạt động thường kỳ trong các buổi họp cha mẹ học sinh, kết hợp
chặt chẽ với y tế địa phương trong việc kiểm tra và giới thiệu học sinh đi khám
chuyên khoa. Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, nâng cao năng lực công
tác CSSKTT học sinh cho y tế học đường và giáo viên như một hoạt động bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hàng năm có kiểm tra, đánh giá và có cơ chế
khuyến khích khen thưởng động viên kịp thời đối với những cán bộ, giáo viên
có kết quả tốt. Nếu làm được các hoạt động trên thì có thể duy trì và phát triển
mô hình này để CSSKTT học sinh có hiệu quả mà không quá tốn kém về chi
phí và nhân sự.
4.3. Một số hạn chế của quá trình can thiệp
- Do các điều kiện hạn chế về kinh phí, thời gian, nhân lực và can thiệp trên
cỡ mẫu lớn nên kết quả can thiệp có phần nào bị hạn chế.
- Một số học sinh không được hưởng thời gian can thiệp và theo dõi đầy đủ
do chuyển cấp hoặc mới nhập học.
- Giáo viên tuy hiểu và có thái độ phối hợp tốt trong việc can thiệp, tuy
nhiên do lớp đông, phải chạy theo chương trình học nên thời gian quan tâm đặc
biệt đến các cháu có vấn đề nhiều khi không triệt để.
- Thời gian can thiệp đối với một số bệnh lý tâm thần là chưa đủ để có kết
quả tốt.
- Chưa có điều kiện thực hiện một nghiên cứu đánh giá chi phí hiệu quả của
mô hình can thiệp để có thể xem xét về lợi ích kinh tế của mô hình.
113
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Về thực trạng và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ tâm thần học sinh 6-15 tuổi
tại thành phố Thái Nguyên
Tỷ lệ chung của học sinh có rối loạn tâm thần và hành vi là 8,2%. Rối loạn
gặp nhiều nhất là trầm cảm, tăng động giảm chú ý và các rối loạn phối hợp.
- Lứa tuổi, stress tâm lý, kiến thức, thái độ của cha mẹ về chăm sóc sức khỏe
tâm thần học sinh là các yếu tố có liên quan đến các rối loạn tâm thần và hành vi.
- Khảo sát KAP của cha mẹ đối với sức khỏe tâm thần học sinh:
+ Kiến thức: chủ yếu ở mức độ kém (77,8%).
+ Thái độ: chủ yếu ở mức độ chưa tốt (57,5%).
+ Thực hành: chủ yếu là thực hành chưa tốt (98,6%).
- Khảo sát KAP của cán bộ, giáo viên đối với sức khỏe tâm thần học sinh:
+ Kiến thức: chủ yếu ở mức độ kém (86,9%), không có mức độ tốt.
+ Thái độ: chủ yếu ở mức độ chưa tốt (56%).
+ Thực hành: chủ yếu ở mức độ chưa tốt (84,5%).
- Hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh tại các trường chưa được
triển khai.
- Các ý kiến của cán bộ, giáo viên và cha mẹ học sinh qua thảo luận nhóm và
phỏng vấn sâu đều cho thấy nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh cao.
2. Xây dựng và đánh giá hiệu quả mô hình chăm sóc sức khỏe tâm thần cho
học sinh 6-15 tuổi thành phố Thái Nguyên
2.1 Xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh
- Đã thành lập được Ban chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh trực thuộc
phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Thái Nguyên và do Trưởng phòng Giáo
dục và Đào tạo làm trưởng ban, với hiệu trưởng các trường làm ủy viên.
- Đã thành lập Đội chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh thuộc các trường can
thiệp do hiệu trưởng các trường làm các Nhóm trưởng, với sự tham gia của cán
bộ nghiên cứu, nhân viên y tế học đường, y tế địa phương, các giáo viên chủ
nhiệm, cán bộ đoàn thể của trường.
114
- Đã tổ chức hội thảo, xây dựng được cơ cấu tổ chức, kế hoạch làm việc,
cách thức hoạt động của các thành phần trong mô hình nghiên cứu.
- Đã có 2400 lượt phụ huynh lượt cha mẹ được truyền thông.
- Đã tư vấn cho 163 phụ huynh trẻ bệnh với số lượt tư vấn là 585 lượt.
- Truyền thông cho 2400 lượt cha mẹ học sinh.
- Can thiệp sớm bằng các biện pháp cho 163 học sinh có vấn đề SKTT.
- Giám sát mô hình: đã tham gia 18 lần giao ban, giám sát hoạt động truyền
thông cho cha mẹ: 4 lần, giám sát chung hoạt động của mô hình 6 lần tại mỗi
trường can thiệp.
2.2. Hiệu quả mô hình sau can thiệp chăm sóc sức khỏe tâm thần
Hiệu quả thay đổi KAP của cha mẹ học sinh, giáo viên
- Về KAP của cha mẹ học sinh: có sự cải thiện rõ rệt sau khi can thiệp. Hiệu
quả can thiệp về kiến thức đạt 680,1%; thái độ đạt 77%; thực hành đạt 85,5%.
- Về KAP của cán bộ, giáo viên: có sự cải thiện rõ rệt sau khi can thiệp. Toàn
bộ các giáo viên được can thiệp đều có kiến thức tốt; hiệu quả can thiệp thái độ
đạt 77,8% và thực hành đạt 341,4%.
- Có sự cải thiện rõ rệt về năng lực chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh của
giáo viên, cán bộ y tế địa phương, y tế học đường.
Hiệu quả can thiệp trên học sinh
- Hiệu quả trên sức khỏe tâm thần học sinh: trường can thiệp có tỷ lệ học sinh
có rối loạn sức khỏe tâm thần giảm rõ rệt so với ở trường không can thiệp và so
với trước can thiệp. Chỉ số hiệu quả tại trường can thiệp là 42,9% và hiệu quả
can thiệp đạt 56,2%.
- Trong 107 học sinh được tư vấn, chữa trị, có 55 học sinh khỏi hoàn toàn
chiếm 51,4%; 26 học sinh thuyên giảm nhiều chiếm 24,3%; Có 3 học sinh không
thuyên giảm chiếm 2,8%.
Kết quả phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm cho thấy mô hình bước đầu
được cộng đồng chấp nhận và có tính bền vững.
115
KHUYẾN NGHỊ
1 – Kiến thức của cộng đồng về sức khỏe tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm
thần học sinh ở thành phố Thái Nguyên còn chưa tốt. Do vậy, ngành Y tế, ngành
Giáo dục và các ngành liên quan cần tăng cường công tác truyền thông giáo dục
nâng cao nhận thức của cộng đồng (đặc biệt là cha mẹ học sinh và giáo viên) về
chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh 6-15 tuổi nhằm làm giảm thiểu các yếu
tố nguy cơ, tăng cường các yếu tố bảo vệ cho học sinh.
2 - Mô hình can thiệp có hiệu quả tốt ở các trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ
và THCS Nguyễn Du thành phố Thái Nguyên nên cần được nghiên cứu nhân
rộng sang các trường khác trên địa bàn và các khu vực khác nhằm đáp ứng nhu
cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần của học sinh và tăng cường sự hưởng lợi của
cộng đồng.
3 - Cần thực hiện thêm các nghiên cứu về chi phí hiệu quả để làm cơ sở
khuyến cáo cho phát triển các cơ chế, chính sách trong chăm sóc sức khỏe tâm
thần học đường.
116
CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đàm Thị Bảo Hoa, Nguyễn Thị Phương Loan (2012), “Nghiên cứu thực
trạng các rối loạn lo âu, trầm cảm ở học sinh Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ
Thành phố Thái Nguyên”, Tạp chí khoa học công nghệ Đại học Thái Nguyên, 89
(1)/2, tr. 71-75.
2. Đàm Thị Bảo Hoa, (2012), “Nghiên cứu thực trạng các rối loạn hành vi ở
học sinh tiểu học Thành phố Thái Nguyên”, Tạp chí Thông tin Y Dược, 11, tr.
37-40.
3. Đàm Thị Bảo Hoa, Nguyễn Văn Tư, Trần Tuấn (2013), ”Thực trạng và
một số yếu tố liên quan đến các rối loạn tâm thần – hành vi của học sinh thành
phố Thái Nguyên”, Tạp chí Y học thực hành, Bộ Y tế, Số 7 (875), tr.14-17.
4. Đàm Thị Bảo Hoa, Nguyễn Văn Tư (2013), “Kết quả can thiệp sớm các rối
loạn tâm thần ở học sinh từ 6-15 tuổi tại Thành phố Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa
học công nghệ Đại học Thái Nguyên, 107 (7), tr. 173-178
117
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bệnh viện Tâm thần Trung ương (2013), "12 năm triển khai Dự án Bảo vệ
sức khỏe Tâm thần cộng đồng",
c= newsdetail&newsid=744&CatID=83&MN=26 ngày 04/03/2013.
2. Trần Văn Cường và cs. (2002), Điều tra dịch tễ học lâm sàng một số bệnh tâm
thần thường gặp ở các vùng kinh tế – xã hội khác nhau của nước ta hiện nay,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Mã số: BY 2000 - 18, tr. 1-92.
3. La Đức Cương (2011), "Tổng quan về dự án bảo vệ sức khỏe tâm thần
cộng đồng: Kết quả hoạt động giai đoạn 2006 - 2010, kế hoạch hoạt động
năm 2011", Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học kỷ niệm 20 năm
thành lập Viện Sức khỏe tâm thần Quốc gia, tr. 27-31.
4. Lê Thị Ngọc Dung, Phạm Thị Phương Loan, Lê Thị Thanh Tâm và cs.
(2009), "Thực trạng sức khỏe tinh thần trẻ em thành phố Hồ Chí Minh -
nghiên cứu trường hợp trẻ vị thành niên ở một số trường phổ thông trung
học", Viện Nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh, tr. 15-92.
5. Đàm Bảo Hoa, Bùi Đức Trình và cs. (2008), "Thực trạng rối loạn tâm
thần và hành vi của học sinh trường Trung học cơ sở Quang Trung –
thành phố Thái Nguyên", Tạp chí Y học Thực hành, 11/2008, tr.18 - 21.
6. Lưu Ngọc Hoạt (2008), Thống kê - Tin học ứng dụng trong nghiên cứu Y
học, NXB Y học, Hà Nội.
7. Đinh Đăng Hoè (2000), "Nhận xét về yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng đến
sức khoẻ tâm thần của trẻ em và thanh thiếu niên", Nội san tâm thần số 4,
tr. 41 - 42.
8. Hội Nhi khoa Việt Nam (2006), Rối loạn tâm thần ở trẻ em: Phát hiện và
điều trị, Hội thảo cập nhật kiến thức Nhi khoa lần VII, Hà Nội
05/10/2006, tr. 1-52.
9. Ngô Thanh Hồi và cs. (2007), "Khảo sát sức khỏe tâm thần học sinh
trường học thành phố Hà Nội", Hội thảo quốc tế Phòng ngừa và can thiệp
cho trẻ có vấn đề về sức khỏe tâm thần ở Việt Nam, Hà Nội
13,14/12/2007, tr. 4-7.
118
10. Trần Văn Hô (2012), Nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học
sinh tiểu học tại một số trường trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội, Luận văn ThS ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên,
Trường Đại học Giáo dục, tr. 40-58.
11. Bùi Thế Khanh, Phan Tiến Sỹ và cs. (2011), "Đánh giá hiện trạng hệ
thống chăm sóc sức khỏe tâm thần các tỉnh, thành phố phía Nam, đề xuất
một số giải pháp", Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học kỷ niệm 20
năm thành lập Viện Sức khỏe tâm thần Quốc gia, tr. 63-69.
12. Nguyễn Tùng Lâm, Nguyễn Ngọc Diệp và cs. (2007), "Mô hình can thiệp
sức khoẻ tinh thần học đường bước đầu thử nghiệm tại trường THPT Đinh
Tiên Hoàng", Kỷ yếu hội thảo khoa học Chăm sóc sức khoẻ tinh thần, Hội
khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam, tr. 127-135.
13. Đặng Hoàng Minh (2008), "Can thiệp sức khoẻ tinh thần tại một số nước
Châu á và Phương Tây", Kỷ yếu hội thảo khoa học Chăm sóc sức khoẻ
tinh thần, Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam, tr. 393-400.
14. Đặng Hoàng Minh (2002), "Đánh giá các hành vi cảm xúc của 36 trẻ ở
Hồng Kỳ huyện Sóc sơn-Hà Nội", Nội san tâm thần số 7, tr. 94 - 98.
15. Nguyễn Cao Minh (2012), Điều tra tỉ lệ trẻ em và vị thành niên ở miền
Bắc có các vấn đề sức khỏe tâm thần (bản tóm tắt), Luận văn Thạc sĩ
ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên, Trường Đại học
Giáo dục, tr. 11-16.
16. Ngành Tâm thần học Việt Nam (2001), Chăm sóc sức khoẻ tâm thần tại
cộng đồng cho các bệnh loạn thần nặng mãn tính, Hà Nội, tr. 3-53.
17. Trần Viết Nghị và cs. (2003), Cơ sở của lâm sàng tâm thần học, NXB Y
học, (tài liệu dịch), tr. 345-378.
18. Trần Viết Nghị, Nguyễn Viết Thiêm và cs. (2001), "Nghiên cứu dịch tễ
lâm sàng rối loạn hành vi tại một phường thành phố Thái Nguyên", Nội
san tâm thần số 5, tr. 86-88.
19. Dương Đình Thiện, Phạm Ngọc Khái và cs. (1999), Dịch tễ và thống kê
ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, NXB Y học, Hà Nội, tr. 17-45.
20. Nguyễn Thọ (2003), "Khảo sát các vấn đề sức khoẻ tâm thần trong học sinh
trung học cơ sở ở Thành Phố Biên Hoà", Nội san tâm thần số 14, tr. 5-12.
119
21. Nguyễn Thọ (2005), "Khảo sát về vấn đề rối loạn phát triển tâm lý, hành
vi và cảm xúc ở học sinh phổ thông", Kỷ yếu công trình NCKH-BV Tâm
thần Trung ương II, tr. 48-54.
22. Nguyễn Thọ (2007), "Nghiên cứu thành lập mô hình chăm sóc sức khoẻ
tâm thần cho học sinh phổ thông ở Đồng Nai", Kỷ yếu hội thảo khoa học
Chăm sóc sức khoẻ tinh thần, Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam,
tr. 254-265.
23. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 84/1998/QĐ-TTg ngày
16/4/1998; số 196/1998/QĐ-TTg ngày 10/10/1998 và số 224/1998/QĐ-
TTg ngày 17/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương
trình mục tiêu Quốc gia thanh toán một số bệnh xã hội và bệnh dịch nguy
hiểm; bổ xung mục tiêu Bảo vệ sức khoẻ tâm thần cộng đồng; mục tiêu
Phòng chống Sốt xuất huyết; mục tiêu Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ
em vào Chương trình quốc gia thanh toán một số bệnh xã hội và bệnh
dịch nguy hiểm.
24. Tổ chức Y tế thế giới (1992), Mô tả lâm sàng và các nguyên tắc chỉ đạo
chẩn đoán, Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và
hành vi, Viện sức khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Tâm thần trung ương, (Tài
liệu dịch), tr. 214-292.
25. Tổ chức Y tế thế giới (1993), Tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu,
Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi, Hội
Tâm thần Việt nam – Viện sức khoẻ Tâm thần, (Tài liệu dịch), tr. 177-181.
26. Chu Văn Toàn (2008), Nghiên cứu các rối loạn tâm thần và hành vi ở trẻ
em ở Thanh Hóa, Báo cáo đề tài NCKH Cấp Tỉnh, Mã số: KX-17/D-2007,
tr. 57-63.
27. Trang Nhung (2013), "Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bệnh
nhân", BáoThái Nguyên Online,
cao-chat-luong-cham-soc-suc-khoe-cho-benh-nhan-206076-85. html, ngày
23/1/20913.
28. Bùi Đức Trình và cs. (1989), "Bước đầu tìm hiểu các nhân tố tâm lý xã
hội trong các rối loạn tâm thần và hành vi ở trẻ em từ 10 – 17 tuổi tại một
phường thuộc thành phố Thái Nguyên", Kỷ yếu các công trình nghiên cứu
khoa học 1980 – 1990, tr. 290-298.
120
29. Bùi Đức Trình, Đàm Bảo Hoa và cs. (2009), Nghiên cứu thực trạng các
rối loạn tâm thần và hành vi và thử nghiệm can thiệp bằng giáo dục ở
nhóm tuổi từ 11 – 15 tại thành phố Thái Nguyên, Báo cáo nghiệm thu đề
tài nghiên cứu cấp Bộ, Mã số: B2007-TN 05-02, tr. 42-48.
30. Bùi Đức Trình (chủ biên) (2010), Giáo trình Tâm thần học , NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên, tr. 5-9.
31. Hoàng Cẩm Tú (2006), "Một số vấn đề tổn thương sức khoẻ tâm thần học
đường", Rối loạn tâm thần ở trẻ em – phát hiện và điều trị, Hội Nhi khoa
Việt nam, Hà Nội, tr. 41-46.
32. Trần Tuấn (2006), Đánh giá độ nhạy và độ đặc hiệu của bộ câu hỏi
SDQ25 sử dụng trong chẩn đoán sàng lọc rối nhiễu tâm trí trên đối tượng
trẻ em 4-16 tuổi tại Việt Nam, Báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu cấp
Bộ số 779/QĐ-LHH ngày 15/2/2005, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam, tháng 3/2006, tr. 3-22.
33. Trần Tuấn (2011), "Bàn về Rối nhiễu Tâm trí và Bệnh Tâm thần nêu trong
Đề án 1215", Tài liệu phục vụ phát triển nghề công tác xã hội trong chăm
sóc y tế, Trung tâm Nghiên Cứu và Đào Tạo Phát Triển Cộng Đồng
(RTCCD), Hà Nội. 2011.
34. Nguyễn Kim Việt, Lê Công Thiện, Dương Minh Tâm và cs. (2011),
"Đánh giá hiểu biết, thái độ đối với trầm cảm và điều trị trầm cảm ở một
số quần thể người Việt nam", Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học
kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Sức khỏe tâm thần Quốc gia, tr. 81-88.
35. WHO - Văn phòng đại diện Việt nam (2013), "Sức khỏe Vị Thành niên",
dex.html.
Tiếng Anh
36. Alexandra Hilt-Panahon et al (2007), "School-based Interventions for
Students with or at Risk for Depression: A Review of the Literature,
Advances in School Mental Health Promotion", The Clifford Beers
Foundation & University of Maryland, pp. 3-11.
37. Asma A. Al-Jawadi, Abdul-Rhman S. (2007), "Prevalence of childhood
and early adolescence mental disorders among children attending primary
121
health care centers in Mosul, Iraq: a cross-sectional study", BMC Public
Health 2007, 7:274 doi:10.1186/1471-2458, pp. 7-274.
38. Bacbara Fadem (2004), Behavioral Science in Medicine, Lippincott
Williams & Wilkins, Baltimore, Maryland, U.S.A., pp. 63-87.
39. Bearsley-Smith C., Chesters J., Sellick K., et al (2008), "Preparing for a
clinical trial in a rural child and adolescent mental health service",
Australas Psychiatry, 16 (6), pp. 457-8.
40. Bela Shah, Rashmi Parhee, Narender Kumar et al (2005), Mental Health
Research in India, Indian Council Of Medical Research, pp. 24-37.
41. Bjertnaes O. A., Garratt A., Helgeland J., et al (2008), "Parent assessment
of outpatient child and adolescent mental health services", Tidsskr Nor
Laegeforen, 128 (9), pp. 1041-5.
42. Bjorngaard J. H., Wessel Andersson H., Osborg Ose S., et al (2008),
"User satisfaction with child and adolescent mental health services:
impact of the service unit level", Soc. Psychiatry Psychiatr Epidemiol, 43
(8), pp. 635-41.
43. Burstein M., Ginsburg G. S. (2010), "The effect of parental modeling of
anxious behaviors and cognitions in school-aged children: an
experimental pilot study", Behav. Res. Ther., 48 (6), pp. 506-15.
44. Bush A., Chapman F., Drummond M., et al (2009), "Development of a child,
adolescent and family mental health service for Pacific young people in
Aotearoa/New Zealand", Prac. Health Dialog., 15 (1), pp. 138-46.
45. Cecile Delamare, Patricia Ibeziako (2013), "A Comparison of Child
Mental Health Systems in France and the United States", Adolescent
Psychiatry, 3 (1), pp. 5-10.
46. Charlotte W., Shepherd C. (2002), Prevalence of Mental Disorders in
Children and Youth, (A Research Update Prepared for the British
Columbia Ministry of Children and Family Development), MHECCU,
UBC, October 2002.
47. Costello E. J., Sarah M., Alaattin E., et al (2003), "Prevalence and
Development of Psychiatric Disorders in Childhood and Adolescence",
Arch. Gen. Psychiatry, 60, pp. 837-44.
122
48. Costello E. J., Egger H., Angold A. A., et al (2005), "10-Year Research
Update Review: The Epidemiology of Child and Adolescent Psychiatric
Disorders: I. Methods and Public Health Burden", J. Am. Acad. Child
Adolesc. Psychiatry, 44 (10), pp. 972-86.
49. Degotardi V. A. (2008), "Current models of child and adolescent mental
health service delivery", Med. J. Aust., 189 (9), pp. 507-8.
50. Demir T., Karacetin G., Demir D. E., et al (2011), Epidemiology of
depression in an urban population of Turkish children and adolescents,
University of Istanbul, Cerrahpasa Medical Faculty, Department of Child
and Adolescent Psychiatry, Istanbul, Turkey, pp. 5-12.
51. Donald W., Spady M., et al (2001), "Prevalence of Mental Disorders in
Children Living in Alberta, Canada, as Determined From Physician
Billing Data", Arch. Pediatr. Adolesc. Med., 155, pp. 1153-59.
52. Dorothy Stubbe (2007), Child and Adolescent Psychiatry, Lippincott
Williams & Wilkins, pp. 59-85.
53. Einar H., Kjell M. S., Astri J. L., et al (2007), "Psychiatric Disorders in
Norwegian 8 to 10 Year Olds: An Epidemiological Survey of Prevalence,
Risk Factors, and Service Use", J. Am. Acad. Child Adolesc. Psychiatry,
46 (4), pp. 52-7.
54. Eisenberg L., Belfer M. (2009), "Prerequisites for global child and adolescent
mental health", J. Child Psychol. Psychiatry, 50 (1-2), pp. 26-35.
55. Faravelli C., Sauro C. L., Castellini G., et al (2009), "Prevalence and
correlates of mental disorders in a school-survey sample", Clinical
Practice and Epidemiology in Mental Health, 5 (1), pp. 1-8.
56. Fegert J. M.,Vitiello B. (2008), "Child and Adolescent Psychiatry and
Mental Health - development of a new open-access journal", Child
Adolescent Psychiatry Mental Health, 2 (1), pp. 22.
57. Gabel S. (2009), "Telepsychiatry, public mental health, and the workforce
shortage in child and adolescent psychiatry", J. Am. Acad. Child
Adolescent Psychiatry, 48 (11), pp. 1127-8.
58. Garralda E. M. (2009), "Accountability of specialist child and adolescent
mental health services", Br. J. Psychiatry, 194 (5), pp. 389-91.
123
59. Gillian P. (2010), "Attitudes to Mental Illness 2010, National Statistic",
Research Report, J. N. 207028 March 2010., pp. 6-11.
60. Graham B., Carolyn B., Mary G., et al (2003), Needs Assessment Report
on Child and Adolescent Mental Health, Final report – May 2003, Public
Health Institute of Scotland, pp. 15-31.
61. Halpern R., Figueiras A. C. (2004), "Environmental influences on child
mental health", J. Pediatr. (Rio J.). , 80 (2), pp. 104-10.
62. Harper G., Cetin F. C. (2008), "Child and adolescent mental health policy:
promise to provision", Int. Rev. Psychiatry, 20 (3), pp. 217-24.
63. Havighurst S. S., Downey L. (2009), "Clinical reasoning for child and
adolescent mental health practitioners: the mindful formulation", Clin
Child Psychol Psychiatry, 14 (2), pp. 251-71.
64. Helmut R., Myron B. (2005), "Mental health care for children and
adolescents worldwide: a review", World Psychiatry 4(3), pp. 147-153.
65. Heneghan A., Garner A. S., Storfer-Isser A., et al (2008), "Pediatricians'
role in providing mental health care for children and adolescents: do
pediatricians and child and adolescent psychiatrists agree?" J. Dev. Behav.
Pediatr., 29 (4), pp. 262-9.
66. Howard M. (2007), "Childhood Mental Disorders in Great Britain: An
Epidemiological Perspective", Child Care in Practice, 13 (4), pp. 313-26.
67. Howard M., Gatward R., et al (2000), "The mental health of children and
adolescents in Great Britain", London: The Stationery Office, pp. 3-25.
68. Hunter L., Hoagwood K., Evans S., et al (2005), Working Together to
Promote Academic Performance, Social and Emotional Learning, and
Mental Health for All Children, New York: Center for the Advancement
of Children's Mental Health at Columbia University.
69. Huong Thanh Nguyen, Michael P. D., and Anh Vu Le (2006), "Multiple
types of child maltreatment and adolescent mental health in Viet Nam",
Bulletin of the World Health Organization, 88 (1, January 2010), pp. 1-80.
70. Ibitayo K. (2009), "Your global impact on child and adolescent mental
health: the ICN 24th Quadrennial Congress", J. Child Adolesc. Psychiatr.
Nurs., 22 (4), pp. 173-4.
124
71. Indurkhya A., Basu J., Yu J., et al (2004), "Which Dimensions of
Continuity of Mental Health Care Lead to Improved School Outcomes?"
Abstr. Academy Health Meet, 21 (abstract no. 1082).
72. Isabel A. B., Cristiane S. D., Clovis A. P., et al (2009), "Severe physical
punishment: risk of mental health problems for poor urban children in
Brazil", Bull World Health Organ., 87, pp. 336-44.
73. Janice L. C., Aratani Y., Jane K., et al (2008), The Status of hildren’s
Mental Health Policy in the United States, Report of The National Center
for Children in Poverty (NCCP) – U.S., pp. 5-12.
74. Jessica A. R., Margaret H.S., William E.P., et al (2011), "The Estimated
Annual Cost of ADHD to the U.S. Education System", School Mental
Health 3(3), pp. 169-177.
75. Judi K., Ricardo A., Jenny D., et al (2012), "The Effect of the School
Environment on the Emotional Health of Adolescents: A Systematic
Review", Pediatrics, pp. 1-27.
76. Judith A., Cohen M. D., Michael S., et al (2009), "Post-traumatic stress
disorder diagnosis in children: challenges and promises, PTSD diagnosis
in children", Cohen and Scheeringa Dialogues in Clinical Neuroscience,
11 (1), pp. 37-42..
77. Kaslow N. J., Broth M. R., Smith C. O., Colins M. H. (2012), "Family-
based interventions for child and adolescent disorders", J. Marital Fam.
Ther., 38 (1), pp. 82-100.
78. Kathleen R. M., Jian-ping H., Burstein M., et al (2010), "Lifetime
Prevalence of Mental Disorders in U.S. Adolescents: Results from the
National Comorbidity Survey Replication– Adolescent Supplement (NCS-
A)", J. Am. Acad. Child Adolesc. Psychiatry, 49 (10), pp. 980-89.
79. Kathleen R. M., Erin F. N., Ronald C. K. (2009), "Epidemiology of
mental disorders in children and adolescents", Epidemiology of mental
disorders in children - Merikangas et al Dialogues in Clinical
Neuroscience, 11 (1), pp. 62-67.
80. Kimberly H., Holly D. E. (1997), "Effectiveness of School-Based Mental
Health Services for Children: A 10-year Research Review", Journal of
Child and Family Studies, 6 (4), pp. 435-51.
125
81. Kleintjes S., Flisher A. J., Fick M., et al (2006), "The prevalence of
mental disorders among children, adolescents and adults in the western
Cape, South Africa", S. Afr. Psychiatry Rev., 9, pp. 157-160.
82. Koller J. R., Bertel J. M. (2006), "Responding to today's mental health
needs of children, families and schools: revisiting the preservice training
and preparation of school-based personnel", West Virginia University
Press, University of West Virginia, 29 (2), pp. 11-16.
83. Krista K. (2007), Understanding School-based Mental Health Services for
Students who are Disruptive and Aggressive: What Works for Whom?
Proceedings of Persistently Safe Schools: The 2007 National Conference on
Safe Schools and Communities, U.S. Department of Justicem, pp. 11-8.
84. Kutash K., Duchnowski A. J., and Lynn N. (2006), "School-based mental
health: An empirical guide for decision-makers", Louis de la Parte Florida
Mental Health Institute Publication #236, Tampa, Florida, pp. 61-71.
85. Linda Wilmshurst (2005), Essentials of Child Psychopathology,
JohnWiley & Sons, Inc. Hoboken, New Jersey, pp. 220-30.
86. Marc S., Lutz G., Jakob N., et al (2008), "Prevalence of mental disorders
among adolescents in German youth welfare institutions", Child and
Adolescent Psychiatry and Mental Health, 2 (2), pp. 58-64.
87. Mark J. D., Wietse A. T., Ivan H. K., et al (2010), "Development of a
multi-layered psychosocial care system for children in areas of political
violence", International Journal of Mental Health Systems 2010, 4:15
doi:10.1186/1752-4458-4-15, pp. 2-11.
88. Menelik D., et al (2008), Epidemiology of child psychiatric disorders in Addis
Ababa, Ethiopia, From the Division of Child and Adolescent Psychiatry,
Department of Clinical Sciences, Umeå University, Umeå, Sweden, New
Series No 1155 - ISSN 0346-6612 - ISBN 978-91-7264-511-0, pp. 13-21.
89. Mitchell-Lowe M., Eggleston M. (2009), "Children as consumer
participants of child and adolescent mental health services", Australas
Psychiatry, 17 (4), pp. 287-90.
90. Moataz M. A., Abdel-Rahman A. A., Saeed M. A., et al (2004),
"Emotional and Behavioral Problems Among Male Saudi Schoolchildren
126
and Adolescents Prevalence and Risk Factors", German Journal of
Psychiatry, ISSN 1433-1055. pp. 32-6.
91. Montiel-Nava C., Peña J. A. (2008), "Epidemiological findings of pervasive
developmental disorders in a Venezuelan study", Autism, 12 (2), pp. 191-202.
92. Mousa Thabet A. A., Vostanis P. (2001), "Epidemiology of child mental
health problems in Gaza Strip", 7 (3), pp. 403-12.
93. Mullick M., Goodman R. (2005), "The prevalence of psychiatric disorders
among 5-10 year olds in rural, urban and slum areas in Bangladesh, An
exploratory study", Soc. Psychiatry Psychiatr. Epidemiol., 40, pp. 663-71.
94. Paula G., Kelleher I., Jennifer M., et al (2010), "Assessment of the mental
health of Irish adolescents in the community", Royal College of Surgeons
in Ireland Student Medical Journal, 3 (1), pp. 33-35.
95. Paul B., Laura M., and Judith B. (2009), "School based intervention
improves PTSD symptoms in children affected by political violence",
Evid. Based Ment. Health, 12 (47), pp. 47.
96. Peter F., Stuart W. T., Eric M. V., et al (2009), "A cluster randomized
controlled trial of child-focused psychiatric consultation and a school
systems-focused intervention to reduce aggression", Journal of Child
Psychology and Psychiatry 50 (5), pp. 607-16.
97. Rima T. N., Hala A., Pascale H., et al (2011), "Process evaluation of a
community-based mental health promotion intervention for refugee
children", Oxford University Press, , pp. 23-8.
98. Sadock B. J., Sadock V. A. (2007), Kaplan & Sadock's Synopsis of
Psychiatry: Behavioral Sciences, "Clinical Psychiatry", 10th Edition,
Lippincott Williams & Wilkins, pp. 1128-1300.
99. Satku K. (2010), "Healthy minds, Healthy communities - National Mental Health
Blueprint Singapore 2007 - 2012", Singapore Ministry of Health, pp. 8-9.
100. Sawyer M. G., Arney F. M., Baghurst P. A., et al (2000), Mental Health of
Young People in Australia, Mental Health and Special Programs Branch,
Commonwealth Department of Health and Aged Care, pp. 6-13.
101. Sharon S., Anna W., Nancy L., et al (2012), "Do School-Based
Clinicians’ Knowledge and Use of Common Elements Correlate with
Better Treatment Quality?" School Mental Health 4(3), pp. 170-180.
127
102. Shoba S., Preeti K., et al (2010), "Epidemiology of child and adolescent
mental health disorders in Asia", Current Opinion in psychiatry, 23 (4),
pp. 330-36.
103. Srinath S., Satish C. G., Gururaj G., et al (2005), "Epidemiological study
of child and adolescent psychiatric disorders in urban & rural areas in
Bangalore, India", Indian J. Med. Res. 122, pp. 67-79.
104. The National Institute for Health Care Management Research and
Educational Foundation (2009), "Strategies to support the intergration of
mental health into pediatric Primary Care", NIHCM Foundation,
Washington D.C. 20036, (Issue Paper - August 2009), pp. 6-28.
105. The U.S. Surgeon General’s (2000), Report of the Surgeon General's
Conference on Children's Mental Health, A National Action Agenda, The
U.S.SurgeonGeneral’s, Washington D.C., U.S.A., 50-220.
106. The National Institute for Health Care Management Research and
Educational Foundation (2005), Children’ mental health: An Overview
and Key Considerations for Health System Stakeholders, NIHCM
Foundation, Washington D.C. 20036., pp. 5-9.
107. The National Institute for Health Care Management Research and
Educational Foundation (2005), children’ mental health: New
developments in policy and programs, NIHCM Foundation, Washington,
DC 20036, pp. 5-17.
108. Tran Duc Thạch, Tran Thu Ha, Tran Tuan, et al (2007), "Need
Assessment: Baseline Survey Round 1, 2006", Report from RTCCD to
VVAF, the project of “Assessing and Modelling Community Mental
Health in Da Nang and Khanh Hoa Provinces”. Hanoi, January, 2007,
pp.1-6.
109. Tran Tuan, Jane R. W. Fisher, Meena Cabral de Mello et al (2005),
Workshop on primary mental health care for mothers and children in
Vietnam; Hanoi, 6-10 June 2005, pp. 7.
110. Tran Tuan, Trudy Harpham, Nguyen Thu Huong, et al (2005),
"Measuring social capital and mental health in Viet Nam: A validity study
Young Lives- An International Study on Childhood Poverty", Working
Paper No. 12. London, UK.
128
111. WHO - Regional Office for the Eastern Mediterranean (2010), "Maternal,
child and adolescent mental health: challenges and strategic directions
2010–2015", Regional Committee for the Eastern Mediterranean, Fifty-
seventh Session, pp. 2-9.
112. William M. K., Jerald L. K. (2005), Clinical Child Psychiatry, John Wiley
& Sons Ltd., pp. 25-88.
113. Williams R., Hazell P. (2009), "Implementing guidance and guidelines for
developing and delivering equitable child and adolescent mental health
services", Curr. Opin. Psychiatry, 22 (4), pp. 339-44.
114. World Health Organization (2011), "10 fact on mental health", World Health
Organization, Geneva,
115. World Health Organization (2003), Caring for children and adolescents
with mental disorders : setting WHO directions, World Health
Organization, Geneva, pp. 3-23.
116. World Health Organization (2009), "Improving health systems and
services for mental health", WHO Press, 20 Avenue Appia, 1211 Geneva
27, Switzerland., pp. 7-12.
117. World Health Organization (2011), "Mental health atlas 2011", WHO
Press, 20 Avenue Appia, 1211 Geneva 27, Switzerland, pp. 1-13.
118. World Health Organization (2001), "Mental health problems: the
undefined and hidden burden", World Health Organization, Geneva, Fact
sheet No. 218 (November 2001), pp. 12-29.
119. World Health Organization (2005), Mental health: facing the challenges,
building solutions, Report from the WHO European Ministerial
Conference, 20 Avenue Appia, 1211 Geneva 27, Switzerland, pp. 7-23.
i
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_mo_hinh_phat_hien_va_can_thiep_som_roi_loan_tam_than_o_hoc_sinh_tu_6_15_tuoi_tai_t.pdf