FDI ra nước ngoài của Trung Quốc đã gia tăng mạnh trong những năm
gần đây, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009.
Hiện nay, Trung Quốc đã trở nhà đầu tư lớn trên thế giới và đang có nhiều triển
vọng. Trong bối cảnh chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, đầu tư ra nước
ngoài đang trở thành một trong những động lực chính giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế Trung Quốc. Để thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, Trung Quốc đã hỗ trợ
mạnh mẽ cho các doanh nghiệp của mình thông qua hệ thống chính sách phê
duyệt, cấp phép, quản lý ngoại hối và hỗ trợ tài chính qua các ngân hàng chính
sách. Sự hỗ trợ mạnh mẽ đó đã giúp các doanh nghiệp Trung Quốc có được lợi
thế so sánh khi đầu tư ra nước ngoài, triển khai mậu dịch gia công, khai thác tài
nguyên, nhận thầu công trình quốc tế và mở rộng xuất khẩu lao động ở khắp mọi
nơi. Vì thế, đầu tư ra nước ngoài giúp Trung Quốc đẩy được những ngành sản
xuất đã bão hòa và những ngành có công nghệ thấp lạc hậu, gây ô nhiễm môi
trường, sử dụng nhiều lao động ra nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chuyển dịch ngành nghề, tái cấu trúc nền kinh tế Trung Quốc hiện nay. Ngoài ra,
Trung Quốc khuyến khích đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác tài nguyên của
thế giới để phục vụ cho sản xuất trong nước và dự trữ của Trung Quốc, mở rộng
thị trường cho hàng hóa của Trung Quốc, giúp quốc tế hóa đồng NDT, giảm
thiểu rủi ro do tích trữ quá nhiều ngoại tệ, gia tăng ảnh hưởng quốc tế và tạo việc
làm cho lao động dư thừa trong nước. Những mục tiêu đó được thể hiện khá rõ
trong dòng vốn FDI của Trung Quốc vào một số nước châu Phi và Mỹ Latinh.
169 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đầu tư trực tiếp của trung quốc vào một số nước châu phi và Mỹ Latinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quốc
là hoàn toàn cần thiết đối với Việt Nam hiện nay vì đầu tư của Trung Quốc có
tính hai mặt và mặt tiêu cực bộc lộ khá rõ nét. Đáng nói là, Việt Nam là nước
láng giềng đặc biệt với Trung Quốc và kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào
kinh tế Trung Quốc.
Thứ hai, phát huy việc đa dạng đối tác đầu tư dưới nhiều hình thức để
giảm thiểu tác động bất lợi của đầu tư từ Trung Quốc. Giống như ở các nước
châu Phi và Mỹ Latinh, FDI của Trung Quốc tập trung vào các ngành khai thác
tài nguyên và năng lượng ở nước ta. Việc các doanh nghiệp Trung Quốc thâu
tóm nhiều công ty khai thác tài nguyên và năng lượng của các nước châu Phi và
Mỹ Latinh trong thời gian qua đã gây nên mối lo ngại là các doanh nghiệp Trung
Quốc sẽ chi phối đến giá cả tài nguyên, năng lượng trên thế giới và thậm chí sử
dụng để chi phối đối với các vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư cũng
như các vấn đề trong khu vực và trên thế giới. Đối với Việt nam, Trung Quốc đã
đầu tư vào rất nhiều dự án khai thác tài nguyên trải dài từ Bắc đến Nam. Theo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 3/2016, Trung Quốc có 1.346 dự án còn
hiệu lực tại Việt Nam với số vốn đăng ký 10,4 tỷ USD. Tuy nhiên, các dự án của
Trung Quốc tập trung trong các ngành công nghiệp (sản xuất xi măng, sắt thép,
may mặc, giầy dép...) và khai thác tài nguyên (quặng, bô-xít, than ..) chiếm
khoảng trên 70% tổng số dự án và khoảng 60% tổng vốn đầu tư của Trung Quốc
vào Việt Nam. Những dự án đầu tư của Trung Quốc vào các ngành sản xuất xi
măng và sắt thép ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi
trường. Đáng chú ý, các dự án đầu tư của Trung Quốc vào khai thác tài nguyên,
đặc biệt là các loại quặng ở Việt Nam trải dài từ Bắc đến Nam. Tình hình này
gây nên sự xáo trộn trong quy hoạch ngành, vùng kinh tế của Việt Nam.
Trong gần 30 năm qua Việt Nam đã có nhiều thành công trong việc đa
dạng hóa đối tác đầu tư. Đến nay, Việt Nam đã thu hút nguồn vốn FDI từ hơn
100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa đó cũng
137
chính là làm cho ngày càng nhiều đối tác từ Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam.
Luồng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam có tính hai mặt. Do đó, Việt Nam
cần phải phát huy hơn nữa việc đa dạng đối tác đầu tư dưới nhiều hình thức như
tổ chức các diễn đàn đa biên trong đầu tư với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư
từ các quốc gia có uy tín như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinga-po, Đài Loan, vv.
giúp hạn chế tác động bất lợi từ đầu của Trung Quốc. Đây chính là quá trình lựa
chọn nhà đầu tư để tối đa hóa lợi ích của nước tiếp nhận. Vì nhà đầu tư từ các
nước có uy tín nêu trên nhận diện khá rõ bản chất và năng lực của nhà đầu tư
Trung Quốc. Điều đó sẽ tạo ra khả năng để hình thành thế trận hoặc đối trọng để
giảm bớt mối quan tâm đối với nhà đầu tư Trung Quốc. Đồng thời, những nhà
đầu tư từ các quốc gia cũng hình thành lực lượng chế ước lẫn nhau. Điều đó
cũng buộc doanh nghiệp Trung Quốc phải cải thiện hình ảnh, uy tín của mình và
hành động có trách nhiệm hơn khi họ muốn làm ăn lâu dài ở Việt Nam [6].
Thứ ba, cùng với việc thu hút, cần phải có cách phòng ngừa trong hợp
tác đầu tư với Trung Quốc. Cách tiếp cận này là cần thiết vì các đối tác Trung
Quốc luôn có thái độ nước lớn, thay đổi bất ngờ gây ra thua thiệt hoặc tin tưởng
nhau nửa vời. Trong khi đó, lợi ích của Trung Quốc luôn luôn được đề cao. Thí
dụ, tại Gabon, sự hoạt động không giấy phép của SINOPEC – một công ty dầu
khí quốc doanh lớn nhất của Trung Quốc – tại khu rừng nguyên sinh quốc gia
của nước này đã khiến môi trường tại đây bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tại Zambia,
điều kiện làm việc tại nhiều khu mỏ ở Zambia do các công ty Trung Quốc quản
lý không an toàn dẫn đến nhiều vụ cháy nổ như ở khu mỏ Chambishi của
Zambia hồi năm 2005 đã gây thiệt mạng cho tất cả hơn 50 người dân Zambia
đang làm việc ở đó. Hồi tháng 7/2006, các công nhân mỏ của một công ty hầm
mỏ Trung Quốc cũng tại khu mỏ Chambishi đã biểu tình bạo động vì môi trường
làm việc quá tệ hại và công ty không chịu trả lương cho họ. Những người giám
sát Trung Quốc đã bắn vào 6 người dân địa phương. Một vụ việc khác là năm
2010, giới chủ người Trung Quốc của mỏ than Collum ở phía nam Zambia đã xả
súng vào nhiều người biểu tình và đã làm 11 người bị thương khi họ biểu tình
đòi cải thiện điều kiện và chế độ làm việc. Tuy nhiên, khi những vấn đề này
được đưa ra đề nghị Chính phủ Trung Quốc giải quyết, thì Trung Quốc nhất định
138
không chịu can thiệp. Trong cuộc viếng thăm châu Phi hè năm 2009, Thủ tướng
Ôn Gia Bảo nói đây là những việc nội bộ của các nước Châu Phi và Trung Quốc
“tin tưởng hoàn toàn” nhân dân các nước châu Phi “có thể tự dàn xếp công việc
riêng của chính mình”. Chính vì không có sự can thiệp của chính quyền Trung
Quốc, Chính phủ Gabon hồi tháng 10/2009 đã buộc công ty SINOPEC phải
ngừng hoạt động để bảo vệ môi trường sinh thái của khu rừng nguyên sinh ở
nước này. Còn đối với vụ việc giới chủ Trung Quốc sả súng vào đoàn người biểu
tình làm 11 người bị thương, thì Chính phủ Zambia tuyên bố những người quản
lý của Trung Quốc sẽ bị xử phạt, nhưng cuối cùng thì vụ việc cũng bị chìm đi.
Điều đó cho thấy sự quan tâm của công chúng và hành động của Chính phủ
Zambia đối với các vụ việc liên quan đến các doanh nghiệp Trung Quốc tại quốc
gia châu Phi này là có khoảng cách rất lớn. Từ góc độ của Việt Nam cũng có thể
thấy, các loại máy móc, thiết bị và công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường
của Trung Quốc được đưa vào các dự án đầu tư ở Việt Nam và đặc biệt là vấn đề
lao động Trung Quốc trong các dự án đầu tư của nước này ở Việt Nam ngày
càng phức tạp. Do đó, cách tiếp cận phòng ngừa (dự kiến các khả năng tích cực
và tiêu cực có thể xảy ra, xây dựng các giải pháp tình huống giảm thiểu tác động
tiêu cực cũng như thẩm định, thanh tra và kiểm tra các dự án đầu tư sau đi vào
hoạt động) trong thu hút đầu tư của Trung Quốc là cần thiết đối với Việt Nam
hiện nay. Đặc biệt là, phải có đánh giá tác động môi trường một cách nghiêm túc
khoa học đối với mỗi dự án đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam và từ đó, đưa
ra yêu cầu cụ thể và chế tài ràng buộc đối với các nhà đầu tư. Trong trường hợp,
phía Việt Nam không đủ năng lực đánh giá tác động môi trường đối với các dự
án đầu tư của Trung Quốc, thì nhất thiết phải thuê bên thứ ba thuộc các nước
phát triển có đủ năng lực đánh giá trước khi thực hiện dự án [14],[102, tr. 27],
[12, tr. 251].
Thứ tư, phải công khai minh bạch và tăng cường hoạt động giám sát đối
với các dự án FDI của Trung Quốc. Như đã nêu ở trên, Chính phủ Peru và các
doanh nghiệp phải công bố chi tiết về các nguồn thu liên quan đến hoạt động
khai thác khoáng sản cho người dân và toàn xã hội quan tâm trên các trang mạng
thông tin điện tử. Ngoài ra, Chính phủ Peru còn yêu cầu tất cả các bộ, ngành
139
thực hiện các cam kết minh bạch của nhà nước. Điều đó giúp cho người dân
giám sát tốt hơn đối với các dự án đầu tư nước ngoài tại Peru, trong đó có các dự
án đầu tư của Trung Quốc. Đáng chú ý, nhiều nước châu Phi và Mỹ Latinh đã
triệt để khai thác các tổ chức xã hội để giám sát các dự án đầu tư của Trung
Quốc. Các tổ chức xã hội ở nhiều nước châu Phi và Mỹ Latinh đã lên tiếng phản
đối mạnh mẽ các dự án đầu tư của Trung Quốc có chất lượng thấp, tiêu chuẩn an
toàn lao động không đảm bảo cho người dân địa phương hoặc gây tổn hại đến
môi trường sinh thái ở nước nhận đầu tư. Nam Phi và Nigeria sử dụng liên đoàn
lao động và cộng đồng người dân địa phương để giảm sát việc sử dụng lao động
của các doanh nghiệp Trung Quốc tại các nước này. Do đó, các doanh nghiệp
của nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Trung Quốc buộc phải tuân thủ
những quy định về lao động, bảo vệ môi trường cũng như các quy định khác của
nước chủ nhà.
Đối với Việt Nam, vấn đề công khai minh bạch trong quá trình cấp phép
cũng như quản lý, giám sát các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt
Nam còn nhiều hạn chế. Mặc dù pháp luật về lao động, trong đó có Nghị định
102 mới được ban hành và thông tư 03 hướng dẫn nghị định có hiệu lực ngày
1/3/2014 vẫn khẳng định Việt Nam chỉ tuyển dụng những nhà quản lý, giám đốc
điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật, nhưng tình trạng lao động lao động
Trung Quốc không phép trong các dự án đầu tư của nước này tại Việt Nam khá
phổ biến. Điều đó không những gây ra mất trật tự an ninh và làm nảy sinh các
vấn đề xã hội mà còn dẫn tới hậu quả đẩy hàng ngàn người lao động Việt Nam
vào tình trạng thất nghiệp. Do đó, cần phải công khai minh bạch và tăng cường
các biện pháp giám sát các dự án đầu tư nước ngoài, trong đó đặc biệt chú ý đến
các dự án đầu tư của Trung Quốc. Theo chúng tôi, trước tiên phải đưa ra các quy
định rõ ràng trong việc phân cấp quản lý và quy trách nhiệm cho các cơ quan
ban, ngành cũng như các địa phương nơi có dự án đầu tư để tránh tình trạng đùn
đẩy trách nhiệm trong việc quản lý dự án đầu tư nước ngoài và lao động nước
ngoài vào Việt Nam làm việc như hiện nay. Cụ thể, phải có các quy định rõ ràng
trong việc phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan hải quan, công an và các sở lao động
thương binh xã hội trong việc quản lý người lao động nước ngoài vào Việt Nam
140
hiện nay. Nếu các cán bộ tiếp tay cho lao động Trung Quốc vào Việt Nam cần
phải bị xử lý trách nhiệm hình sự. Tiếp đến, phải thực thi các quy định kiểm tra,
giám sát dự án và lao động nước ngoài một cách nghiêm túc và minh bạch. Chủ
đầu tư phải bị xử phạt nghiêm minh nếu họ sử dụng lao động không có giấy phép
và lao động không có giấy phép cần phải được trục xuất khỏi Việt Nam ngay lập
tức.
Thứ năm, đưa ra những quy định mới kịp thời và thực thi một cách
nghiêm túc giúp hạn chế tác động tiêu cực từ dòng vốn FDI của Trung Quốc.
Braxin và Argentina đưa ra các quy đinh hạn chế việc mua lại đất đai đối với
người nước ngoài. Khi nhiều thương vụ mua lại và thuê đất đai của các doanh
nghiệp Trung Quốc ở các nước này diễn ra trong thời gian gần đây, thì người
dân và chính quyền của những nước này lo ngại về vấn đề an ninh quốc gia vì
các doanh nghiệp Trung Quốc thường đưa người Trung Quốc đến lập làng và
xây dựng trang trại theo mô hình của Trung Quốc như đã làm ở các nước châu
Phi. Do đó, những nước này đã đưa ra các quy định mới nhằm hạn chế việc mua
lại và thuê đất nông nghiệp đối với người nước ngoài. Điển hình là Bộ luật về
khai thác khoáng sản của Braxin và những quy định mới liên quan đến việc mua
lại đất đai đối với người nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2010. Sau
đó, Argentina (năm 2011) và các nước Mỹ Latinh khác cũng có những quy định
hạn chế việc mua lại đất đai đối với người nước ngoài. Những quy định này đã
hạn chế số lượng các dự án đầu tư của Trung Quốc vào mua lại và thuê đất nông
nghiệp ở những nước này. Một thí dụ khác là Ecuador đã đưa ra những quy định
mới về lao động. Quy định này yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài phải sử dụng
95% lao động không có kỹ năng và 90% lao động có kỹ năng là người dân bản
địa trong các dự án đầu tư khai thác tài nguyên. Những quy định đó đã hạn chế
được việc sử dụng lao động nước ngoài trong các dự án đầu tư của Trung Quốc
và sự khác biệt về điều kiện làm việc đối với lao động được thuê trực tiếp và lao
động trong các hợp đồng thầu phụ trong cùng một dự án đầu tư của Trung Quốc
ở quốc gia này. Đáng chú ý, Peru đã đưa ra quy định bảo vệ cộng đồng người
dân bản địa theo Công ước 196 của Tổ chức Lao động Quốc tế. Theo quy định
này, người dân bản địa được hỏi ý kiến đối với bất kỳ chính sách nào của nhà
141
nước trực tiếp ảnh hưởng đến họ, bao gồm có việc cấp phép cho dự án khai thác
tài nguyên trong vùng lãnh thổ của người dân bản địa.
Đối với Việt Nam, những vấn đề phát sinh từ các dự án FDI của Trung
Quốc như hiện tượng lao động Trung Quốc đang có mặt ở khắp các dự án FDI
của Trung Quốc tại Việt Nam, máy móc công nghệ cũ, lạc hậu của Trung Quốc
được nhập vào Việt Nam, vv. không phải là vấn đề ban hành chính sách mà là ở
vấn đề thực thi chính sách, gắn liền với trách nhiệm của các cơ quan quản lý.
Đầu tiên là cơ quan cấp phép dự án phải chịu trách nhiệm chính về giám sát các
dự án đầu tư. Tiếp đến là địa phương nơi có dự án đầu tư cũng phải chịu trách
nhiệm trực tiếp kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp nước ngoài theo
đúng hợp đồng và thỏa thuận đã ký kết. Do đó, cần phải thực hiện nghiêm túc và
minh bạch việc quản lý các dự án đầu tư nước ngoài, trong đó có các dự án của
Trung Quốc hiện nay giúp Việt Nam giảm được những tác động tiêu cực từ đầu
tư trực tiếp nước ngoài nói chung và đầu tư từ Trung Quốc nói riêng. Đặc biệt là,
Việt Nam có thể thu hút người dân và các tổ chức chính trị xã hội như (mặt trận
tổ quốc, hội cựu chiến binh, công đoàn, ) vào giám sát hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện các
quy định theo đúng hợp đồng và thỏa thuận đã ký kết sẽ giúp giảm tác động tiêu
cực từ các dự án đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư của Trung Quốc nói
riêng đối với các vấn đề môi trường, kinh tế xã hội của Việt Nam.
Thứ sáu, thức tỉnh người dân khiến phía Trung Quốc phải thay đổi.
Trong khi các dự án của các nước phương Tây ở châu Phi và Mỹ Latinh thường
sử dụng phần lớn nhân công là người dân bản địa, nhưng các doanh nghiệp
Trung Quốc lại đưa nhân công của mình sang làm việc, nếu có người dân bản địa
chỉ là những người đứng cuối bảng lương của họ. Dòng họ đông đảo từ Trung
Quốc sang châu Phi đã làm mất đi văn hóa bản địa, cướp đi việc làm của người
lao động địa phương và là nhân tố gây nên thảm họa môi trường ở một số nơi.
Chính vì vậy, đã xuất hiện nhiều sự phản ứng của người dân ở châu Phi và Mỹ
Latinh đối với đầu tư của Trung Quốc. Điều đó làm cho các nhà đầu tư Trung
Quốc cũng như Chính phủ nước này buộc phải thay đổi khi tiến hành các dự án
đầu tư ra nước ngoài. Thí dụ, hồi tháng 3/2007, công ty SINOPEC Trung Quốc
142
tập trung nguồn lực để mua lại cổ phần tại một lô thăm dò dầu khí ở vùng nước
sâu của Angola với trị giá 3,4 tỷ USD, nhưng công ty Sonagol – một công ty dầu
khí quốc doanh của Angola đã từ chối thỏa thuận này. Một thương vụ khác là
công ty Marathon của Angola đã từ chối bán 20% cổ phần cho hai công ty
Sinopec và công ty dầu khí quốc gia (CNPC) của Trung Quốc với giá 1,3 tỷ
USD hồi tháng 9/2009. Nguyên nhân là do những công ty dầu khí của Angola lo
ngại về việc ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc và đồng thời muốn đa dạng
hóa tài sản của họ. Từ đó, Trung Quốc phải từ bỏ chiến lược là nhà đầu tư duy
nhất hoặc chiếm cổ phần chủ yếu trong một dự án, mà chuyển sang chấp nhận
nắm giữ cổ phần thiểu số trong các dự án khai thác tài nguyên do các công ty
phương Tây nắm giữ để có thể tiếp cận được với những nguồn cung cấp nguyên
liệu thiếu hụt trong nước [66].
Trước những phản ứng của một số nước châu Phi và Mỹ Latinh, Chính
phủ Trung Quốc phải đưa ra các quy định mới đối với các dự án đầu tư của nước
này ở nước ngoài nhằm bảo vệ môi trường của nước nhận đầu tư và góp phần cải
thiện hình ảnh đối với các dự án đầu tư của Trung Quốc trong mắt người dân bản
địa. Điển hình là năm 2013, Bộ Thương mại và Cơ quan Bảo vệ Môi trường
Trung Quốc lần đầu tiên đưa ra những hướng dẫn tự nguyện khuyến khích các
công ty đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ luật pháp về bảo vệ môi trường của
nước nhận đầu tư, đánh giá tác động đến môi trường đối với các dự án của họ,
giảm thiểu tác động đối với các di sản của địa phương, quản lý chất thải, phù hợp
với các tiêu chuẩn quốc tế và lập các phương án đối với tình trạng khẩn cấp. Tuy
nhiên, đây chỉ là biện pháp xoa dịu tình hình trước phản ứng từ nước nhận đầu tư
mà thôi vì nó mang tính tự nguyên. Điều đó cũng có nghĩa là nhà đầu tư cũng có
thể không thực hiện theo hướng dẫn này. Nếu các doanh nghiệp Trung Quốc
không tuân thủ theo hướng dẫn này, thì Chính phủ nước này cũng chưa đưa ra
các hình thức xử phạt đối với những doanh nghiệp đó [100].
Từ góc độ của Việt Nam, người Việt Nam có những điểm tương đồng với
người Trung Quốc về thói quen tiêu dùng và văn hóa. Do đó, nhiều doanh
nghiệp Trung Quốc đã tận dụng những điểm tương đồng này để hối lộ, đút lót để
trúng thầu dự án, đưa máy móc thiết bị lạc hậu và lao động không có kỹ năng
143
vào Việt Nam. Thậm chí, các doanh nghiệp Trung Quốc còn đưa cả máy móc
thiết bị vào Việt Nam, ngay cả khi phía Việt Nam có thể đáp ứng được những
máy móc thiết bị đó. Vì lợi ích trước mắt, nhiều cá nhân và doanh nghiệp Việt
Nam đã tiếp tay cho các cá nhân và doanh nghiệp Trung Quốc để thực hiện mục
đích riêng của họ, sẽ tác động tiêu cực đến kinh tế của Việt Nam về lâu dài. Do
đó, tuyên truyền giáo dục ý thức của người dân cũng như doanh nghiệp về về lợi
ích quốc gia, dân tộc và bảo vệ cộng đồng người Việt Nam là hết sức cần thiết để
giảm tác động tiêu cực từ dòng vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam hiện
nay.
Thứ bảy, cần phải tỉnh táo để tránh rơi vào bẫy hiệu ứng giải công
nghiệp hóa sớm về lâu dài. Thực tế, các dự án FDI của Trung Quốc tập trung
nhiều vào khai thác tài nguyên sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
những nước nhận đầu tư. Giống như một số nước châu Phi và Mỹ Latinh, Việt
Nam sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ các dự án đầu tư của Trung Quốc tập trung
vào các lĩnh vực khai thác tài nguyên và năng lượng. Tuy nhiên, Việt Nam cũng
như một số nước giàu tài nguyên ở châu Phi và Mỹ Latinh cũng cần phải tỉnh táo
để tránh rơi vào bẫy hiệu ứng giải công nghiệp hóa sớm về lâu dài. Hiện nay,
Việt Nam có thể bị hấp dẫn bởi việc xuất khẩu tài nguyên, hàng hóa thô, sơ chế
sang Trung Quốc. Hậu quả là sản xuất công nghiệp của nền kinh tế sẽ bị thu hẹp
lại, hoặc thậm chí không thể phát triển được do bám chặt vào việc đầu tư khai
thác để xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản và hàng hóa sơ chế có hàm lượng kỹ
thuật thấp. Điều đó đặc biệt nguy hại khi sự bùng nổ phát triển các ngành khai
thác tài nguyên chỉ trong ngắn hạn và phá vỡ quy hoạch phát triển kinh tế của
Việt Nam. Ngoài ra, khi chỉ chú trọng đến phát triển các ngành khai thác tài
nguyên khoáng sản, thì đầu tư cho các ngành khai thác đó sẽ tăng lên. Điều đó sẽ
dẫn đến việc đầu tư cho các ngành kinh tế quan trọng khác sẽ bị giảm đi. Kết quả
là, đầu tư cho các ngành khai thác tài nguyên đang bùng nổ đó sẽ cướp đi cơ hội
tăng trưởng của các ngành công nghiệp tiềm năng khác. Về lâu dài, nền kinh tế
sẽ mất khả năng cải thiện năng suất do công nghiệp bị thui chột và thiếu tính đổi
mới, sáng tạo và thậm chí là sự di chuyển lao động từ ngành này sang ngành
khác. Điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của nền kinh
144
tế về lâu dài. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại, các
ngành khai thác tài nguyên, khoáng sản để xuất khẩu sang Trung Quốc cũng bị
ảnh hưởng nghiêm trọng do nhu cầu đối với các hàng hóa đó của Trung Quốc
giảm đi.
4.4. Một số kiến nghị để áp dụng kinh nghiệm của các nƣớc châu Phi và Mỹ
Latinh
Đối với nhà nước
Thứ nhất, cần thực hiện triệt để và nhất quán phương châm Việt Nam sẵn
sàng là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong công đồng quốc
tế như trong Văn kiện Đại hội ĐCS Việt Nam lần thứ XI. Do đó, việc tăng cường
quan hệ hợp tác đối tác chiến lược giữa Trung Quốc và Việt Nam cần phải diễn
ra chủ động, tích cực nhưng không loại trừ khía cạnh đấu tranh vì thực tế cho
thấy, dòng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam có tính hai mặt, song mặt
tiêu cực bộc lộ khá rõ và cần được giảm thiểu hoặc không chế cho phù hợp.
Thứ hai, cần phải đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính theo
hướng minh bạch, đơn giản và gọn nhẹ. Thủ tục hành chính minh bạch, đơn giản
và gọn nhẹ sẽ giúp các cơ quan ban, ngành cũng như người dân có thể tham gia
vào giám sát các dự án đầu tư nước ngoài nói chung và dự án đầu tư của Trung
Quốc nói riêng một cách dễ dàng. Đồng thời, thủ tục hành chính minh bạch, gọn
nhẹ sẽ giúp các cơ quan, các ban ngành phối hợp chặc chẽ và hiệu quả trong việc
triển khai và quản lý các dự án đầu tư của Trung Quốc. Trong đó, cần có những
chính sách đối xử cụ thể với đối tác Trung Quốc là những đối tác có những đặc
điểm đặc biệt trong quan hệ với Việt Nam.
Đối với các địa phương và Ban quản l khu công nghiệp
Thứ nhất, cần phải tuân thủ quy hoạch tổng thể trong thu hút đầu tư từ Trung
Quốc. Cụ thể, cần phải chú ý đến quy hoạch tổng thể của Nhà nước cũng như
những đặc điểm, đặc thù của địa phương như nhu cầu của địa phương về vốn đầu
tư từ các đối tác Trung Quốc.
Thứ hai, thường xuyên theo dõi hoạt động của các nhà đầu tư Trung Quốc,
đặc biệt là các vấn đề nhân sự, lao động Trung Quốc tại địa phương. Mối quan
hệ giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và mối quan hệ giữa lao động Trung Quốc
145
và Hoa Kiều ở địa phương cần được giám sát chặt chẽ vì người Trung Quốc có
tập quán sống theo cộng đồng để xây dựng hạt nhân văn hóa Trung Quốc và để
bảo vệ lợi ích của nhau.
Thứ ba, các vấn đề an ninh, quốc phòng gắn với hoạt động của các dự án
đầu tư cần được theo dõi và đánh giá thường xuyên để kịp thời phát hiện những
yếu tố gây ảnh hưởng bất lợi. Thường xuyên tổ chức gặp gỡ định kỳ với các nhà
đầu tư nước ngoài, trong đó có nhà đầu tư Trung Quốc để nắm bắt nhu cầu và
nguyện vọng của họ. Điều đó giúp các địa phương và Ban quản lý khu công
nghiệp quản lý, giám sát và kịp thời phát hiện những sai phạm của các nhà đầu
tư nước ngoài, giúp giảm thiểu tác động tiêu cực.
Đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, tích cực học hỏi kinh nghiệm của các nhà đầu tư nước ngoài để
xây dựng mô hình quản lý hiện đại và hiệu quả. Đồng thời, coi trọng đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao để đảm nhiệm được những nhiệm vụ trong quản
lý điều hành có khả năng thích nghi với những thay đổi và có khả năng thay thế
tốt hơn đầu tư của các đối tác Trung Quốc.
Thứ hai, chủ động liên kết và hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc. Chủ
động liên kết và hợp tác với doanh nghiệp Trung Quốc là cần thiết trong trường
hợp để học hỏi và tìm hiểu về các chiến lược, chiến thuật mà đối tác Trung Quốc
thường áp dụng để tư vấn và cung cấp thông tin quan trọng phục vụ việc hoạch
định chính sách và chiến lược điều hành của doanh nghiệp. Ngoài ra, chủ động
hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc có tiềm năng về công nghệ cao để tạo
ra sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp Việt Nam với các tập đoàn của Trung
Quốc trong việc sản xuất hàng hóa, sản phẩm có chất lượng cao. Điều này giúp
cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn
cầu.
Thứ ba, phải tích cực đổi mới để sản xuất sản phẩm có chất lượng và uy tín
đối với người tiêu dùng. Đồng thời với việc quảng bá sản phẩm hàng Việt Nam
để tạo thói quen ưu tiên tiêu dùng hàng Việt Nam thay thế hàng Trung Quốc
cùng loại, doanh nghiệp cần phải tích cực đổi mới để sản xuất sản phẩm có chất
lượng và uy tín đối với người tiêu dùng. Có như vậy, thì các nhà đầu tư của Việt
146
Nam mới có thể hình thành được động lực phát triển về lâu dài để cạnh tranh
được với các nhà đầu tư Trung Quốc trong cùng ngành.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4
Trên cơ sở chương này, luận án rút ra một số kết luận chính như sau:
Tình hình FDI của Trung Quốc vào Việt Nam trong thời gian qua cũng
tương tự như dòng vốn này vào một số nước châu Phi và Mỹ Latinh. Các dự án
FDI của Trung Quốc cũng tập trung nhiều vào khai thác tài nguyên ở Việt Nam,
lao động Trung Quốc đi theo các dự án vào Việt Nam cũng là vấn đề gây bức
súc. Thậm chí, trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán Hiệp định TPP, FDI của
Trung Quốc vào Việt Nam còn cho thấy các doanh nghiệp Trung Quốc đang cố
gắng chớp thời cơ để tăng đầu tư vào ngành dệt may và giầy dép để được hưởng
những ưu đãi mà Hiệp định này sẽ dành cho Việt Nam.
Qua việc nghiên cứu FDI của Trung Quốc vào một số nước châu Phi và
Mỹ Latinh, chúng ta có thể thấy FDI của Trung Quốc vào hai khu vực này có
những điểm giống như ở Việt Nam. Do đó, chúng có thể nêu lên một số gợi ý
cho Việt Nam như: cần hiểu rõ mục đích đầu tư của Trung Quốc, từng bước đưa
ra biện pháp hạn chế tác động tiêu cực của dòng vốn này đối với Việt Nam, tiếp
tục đa dạng hóa đối tác đầu tư dưới nhiều hình thức như thông qua các diễn đàn
đa phương để tránh phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc cả về mặt kinh tế và
chính trị, thậm chí cần phải có các biện pháp phòng ngừa vì các đối tác Trung
Quốc có thái độ nước lớn, thay đổi bất ngờ. Ngoài ra, chúng ta cần phải thực thi
nghiêm túc việc thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với các dự án của Trung
Quốc và thậm chí xử phạt nghiêm minh đối với doanh nghiệp Trung Quốc vi
phạm pháp luật của Việt Nam. Đồng thời, thức tỉnh người dân để người dân và
các doanh nghiệp nhận thức rõ hậu quả tiêu cực về lâu dài có thể xảy ra nếu
chúng ta tiếp tục tiếp tục tập trung vào việc thu hút đầu tư của Trung Quốc vào
khai thác tài nguyên và năng lượng tràn lan. Khi nền kinh tế bị hấp dẫn bởi việc
khai thác tài nguyên, năng lượng để xuất khẩu nguyên liệu thô và hàng hóa sơ
chế có hàm lượng kỹ thuật thấp cho Trung Quốc, thì sản xuất công nghiệp của
nền kinh tế về lâu dài sẽ bị thu hẹp lại, hoặc thậm chí không thể phát triển được.
147
KẾT LUẬN
FDI ra nước ngoài của Trung Quốc đã gia tăng mạnh trong những năm
gần đây, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009.
Hiện nay, Trung Quốc đã trở nhà đầu tư lớn trên thế giới và đang có nhiều triển
vọng. Trong bối cảnh chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, đầu tư ra nước
ngoài đang trở thành một trong những động lực chính giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế Trung Quốc. Để thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, Trung Quốc đã hỗ trợ
mạnh mẽ cho các doanh nghiệp của mình thông qua hệ thống chính sách phê
duyệt, cấp phép, quản lý ngoại hối và hỗ trợ tài chính qua các ngân hàng chính
sách. Sự hỗ trợ mạnh mẽ đó đã giúp các doanh nghiệp Trung Quốc có được lợi
thế so sánh khi đầu tư ra nước ngoài, triển khai mậu dịch gia công, khai thác tài
nguyên, nhận thầu công trình quốc tế và mở rộng xuất khẩu lao động ở khắp mọi
nơi. Vì thế, đầu tư ra nước ngoài giúp Trung Quốc đẩy được những ngành sản
xuất đã bão hòa và những ngành có công nghệ thấp lạc hậu, gây ô nhiễm môi
trường, sử dụng nhiều lao động ra nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chuyển dịch ngành nghề, tái cấu trúc nền kinh tế Trung Quốc hiện nay. Ngoài ra,
Trung Quốc khuyến khích đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác tài nguyên của
thế giới để phục vụ cho sản xuất trong nước và dự trữ của Trung Quốc, mở rộng
thị trường cho hàng hóa của Trung Quốc, giúp quốc tế hóa đồng NDT, giảm
thiểu rủi ro do tích trữ quá nhiều ngoại tệ, gia tăng ảnh hưởng quốc tế và tạo việc
làm cho lao động dư thừa trong nước. Những mục tiêu đó được thể hiện khá rõ
trong dòng vốn FDI của Trung Quốc vào một số nước châu Phi và Mỹ Latinh.
Đối với khu vực châu Phi và Mỹ Latinh, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc
vào các nước ở hai khu vực này cũng tăng mạnh trong thời gian qua. Bên cạnh
những đóng góp tích cực, FDI của Trung Quốc vào một số nước châu Phi và Mỹ
Latinh đã bộc lộ nhiều những hạn chế. Như chúng ta thấy, chiến lược “đi ra
ngoài” do Nhà nước Trung Quốc phát động và là chủ thể, sự tham gia của doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế. Ngoài ra, Trung Quốc
luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Do đó, đầu tư vào các nước châu
Phi và Mỹ Latinh chủ yếu vẫn là khai thác tài nguyên, tìm kiếm lợi nhuận, tranh
thủ xuất khẩu thiết bị và lao động dư thừa của Trung Quốc. Do vậy, lòng tin của
các nước đối với FDI của Trung Quốc càng ngày càng suy giảm. Đáng nói là,
148
công nghệ của Trung Quốc so với các nước phát triển còn quá chênh lệch, phần
đa các dự án đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc không nằm ngoài mục đích di
chuyển công nghệ lạc hậu sang các nước nhận đầu tư ở châu Phi và Mỹ Latinh.
Do vậy, càng ngày các nước châu Phi và Mỹ Latinh không mặn mà với đầu tư
của Trung Quốc. Nhiều quốc gia ở châu Phi và Mỹ Latinh đã có một số biện
pháp để hạn chế tác động tiêu cực từ FDI của Trung Quốc. Trong số các biện
pháp đó, có những quy định thắt chặt đầu tư để kiểm soát ô nhiễm môi trường,
xử lý các vi phạm ở những mức độ khác nhau đối với FDI của Trung Quốc và
từng bước đa dạng hóa đầu tư để tránh phụ thuộc vào Trung Quốc cũng như thức
tỉnh người dân để buộc phía Trung Quốc phải có những thay đổi và đưa ra những
biện pháp minh bạch để người dân và các tổ chức xã hội tham gia giám sát các
dự án đầu tư của Trung Quốc.
Giống như các nước châu Phi và Mỹ Latinh, đầu tư của Trung Quốc vào
Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với cả nền kinh tế và các vấn đề môi
trường xã hội. Vì thế, qua việc nghiên cứu đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào
một số nước châu Phi và Mỹ Latinh, Luận án nêu lên một số gợi ý cho Việt Nam
để có cách ứng phó phù hợp với dòng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam
hiện nay.
149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Đỗ Huy Thưởng (2012), Những yếu tố tác động đến FDI của Trung Quốc
vào Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, Số 5
(193).
2. Đỗ Huy Thưởng (2012), Kinh nghiệm phát triển công nghiệp phụ trợ của
một số nước châu Á: Bài học cho Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế
và Chính trị Thế giới, Số 10 (198).
3. Đỗ Huy Thưởng (2013), Phát triển khoa học và công nghệ ở Trung Quốc
sau cải cách, mở cửa: Thực trạng và kinh nghiệm, Tạp chí Những vấn đề
Kinh tế và Chính trị Thế giới, Số 6 (206).
4. Đỗ Huy Thưởng (2014), Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Braxin, Tạp
chí Châu Mỹ ngày nay, Số 9 (198).
5. Đỗ Huy Thưởng (2015), Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Nam Phi,
Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, Số 5 (117).
6. Đỗ Huy Thưởng (2015), Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh
tế và kinh doanh, Tập 31, Số 4.
7. Đỗ Huy Thưởng (2016), FDI của Trung Quốc vào một số nước châu Phi và
Mỹ Latinh, Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, Số 1 (125).
8. Đỗ Huy Thưởng (2016), Phản ứng của một số nước châu Phi và Mỹ Latinh
đối với tác động tiêu cực từ FDI của Trung Quốc: Hàm ý cho Việt Nam,
Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Số 5 (218).
150
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Hoàng Thế Anh (2011), Một số vấn đề nổi bật trong lĩnh vực kinh tế - xã hội
nổi bật của Trung Quốc trong 10 năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, Số 5 (117) – 2011.
2. Nguyễn Xuân Bách (2016), Đầu tư nước ngoài của Trung Quốc ở châu Phi
trong thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, Số 2 (126).
3. Bộ Công Thương (2015), Tăng trưởng kinh tế của khu vực Mỹ Latinh và
Caribe năm 2014 và dự báo cho năm 2015;
tuc/4660/tang-truong-kinh-te-khu-vuc-my-latinh-va-caribe-nam-2014-va-du-
bao-cho-nam-2015.aspx.
4. Đỗ Minh Cao (2005), Chiến lược năng lượng của Trung Quốc những năm
đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 5 (63).
5. Cục Đầu tư Nước ngoài (2016), Tình hình đầu tư nước ngoài 12 tháng năm
2015;
thang-nam-2015.
6. Cục Đầu tư Nước ngoài (2016), Tình hình hợp tác đầu tư Việt Nam – Trung
Quốc;
Nam-Trung-Quoc.
7. Trần Đình Cung – Nguyễn Toàn Thắng (2015), Kinh tế Việt Nam lệ thuộc
hàng hóa Trung Quốc nhiều nhất Đông Nam Á, Viện Nghiên cứu Kinh tế
Trung ương;
quoc-nhieu-nhat-dong-nam-a-20151203141148888.htm.
8. Nguyễn Xuân Cường – Nguyễn Đình Liêm (2015), Doanh nghiệp Trung
Quốc đi ra ngoài trong tiến trình chuyển đổi phương thức phát triển, Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc, Số 6.
9. Ngô Thu Hà (2008), Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Trung
Quốc và khả năng vận dụng tại Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, bảo vệ cơ
sở tại Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
151
10. Nguyễn Thu Hằng (2012), Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam: tác
động và một số vấn đề đặt ra, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, bảo vệ tại cơ sở Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nôi.
11. Hoàng Xuân Hòa và Trần Thị Thanh Nga (2006), Đầu tư ra nước ngoài:
Chính sách phát triển mới của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc,
Số 3 (67).
12. Nguyễn Thanh Hiền (2011), Châu Phi: một số vấn đề kinh tế và chính trị nổi
bật từ sau chiến tranh lạnh và triển vọng, Nxb. Khoa học Xã hội.
13. Nguyễn Thanh Hiền (2007), Trung Quốc và Nhật Bản, hai cường quốc Châu
Á tăng cường ảnh hưởng ở Châu Phi, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính
trị thế giới, Số 4 (132).
14. Nguyễn Thường Lạng (2014), Một số giải pháp và kiến nghị đối với đầu tư
trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Số 8
(156) – 2014.
15. Trần Quang Lâm – Như Hải An (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.
16. Nguyễn Đình Liêm (2014), đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam
sau hơn 20 năm nhìn lại, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Số 8 (156) – 2014.
17. Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư quốc tế, Nxb. Giáo Dục.
18. Vũ Chí Lộc (2012), Giáo trình đầu tư quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội.
19. Bùi Thị Lý (2011), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty xuyên
quốc gia Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp Việt Nam,
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 1(125) – 2012.
20. Lê Đăng Minh (2005), Trung Quốc: tác động của việc gia nhập WTO tới
ngành công nghiệp, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Số 6 (65) – 2005.
21. Nguyễn Đình Ngân (2013), Chính sách ngoại giao dầu mỏ của Trung Quốc,
Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Số 3 (203).
22. Phạm Bích Ngọc (2012), Thực trạng quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, Số 411 – tháng 8/2012.
152
23. Phùng Xuân Nhạ (2001), Giáo trình Đầu tư Quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội.
24. Trần Thùy Phương (2009), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số nước châu
Phi, Nxb. Khoa học Xã hội.
25. Trần Thọ Quang (2009), Quan hệ chiến lược Trung Quốc – Châu Phi nhìn từ
khía cạnh kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 12 (100) -2009.
26. Phạm Thái Quốc (2010): Kinh tế Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI: Hai
bức tranh tương phản, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 6 (106) - 2010.
27. Phạm Thái Quốc (2011), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc,
Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Số 10 (186), Tr. 36 - 48.
28. Phạm Thái Quốc (2015), Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và tác động đến
các nước ASEAN, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Số 1
(225), Tr. 43 – 50.
29. Phạm Thái Quốc và Nguyễn Mạnh Tuân (2010): Kinh tế Trung Quốc thập
niên đầu thế kỷ XXI và triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 4 (383).
30. Chu Phương Quỳnh (2015), Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam:
Hiện trạng và giải pháp, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới,
Số 4 (228) – 2015.
31. Đỗ Tiến Sâm (2009), Trung Quốc sau 5 năm gia nhập WTO, Nxb. Từ điển
Bách khoa Hà Nội.
32. Đinh Hữu Thiện (2012), Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc ở Thái Lan cuối
thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến đầu thập niên thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, Số 2 – 2012.
33. Nguyễn Quang Thuấn (2015), Cải cách kinh tế của Trung Quốc sau đạt hội
XVIII và tác động, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 6 – 2015.
34. Nguyễn Quốc Trường (2015), FDI của Trung Quốc vào Việt Nam trong bối
cảnh nước này chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, Tạp chí nghiên cứu
Trung Quốc, Số 7 – 2015.
35. Hà Thị Hồng Vân (2009), Đặc khu kinh tế mới ở Trung Quốc: trường hợp
Trùng Khánh, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 12 (100) – 2009.
153
II. Tiếng Anh
36. Abdelghaffar, N. et al (2016), Leveraging Chinese FDI For Diversified
Growth In Zambia, The report for The Woodrow Wilson School Graduate
Policy Workshop, Princeton University.
37. American Enterprise Institute (2016), China Global Investment Tracker;
38. Ayenagbo, K. (2015), Sino – African Economic and Chinese Foreign
Investment in Africa on bilateral trade relations, Journal of African Studies
and Development, Vol 7 (7), pp.172 -182.
39. Babatunde, Musibau Adetunji (2013), Sino – African Investment Relations:
The good, The bad and The urgly, Asia Pacific and Globalization Review,
Vol. 3, No.1 – 2013.
40. Basada et al (2008), China’s growing activity in Africa, NBER working paper
# 14024.
41. Bernasconi, N., Johnson, L. và Zhang, J. (2013): Chinese Outward
investment: An emerging policy framework;
42. BBC (2012), Zambian miners kill Chinese manager during pay protest;
www.bbc.co.uk/news/world-africa-19135435.
43. Brautigam, D. et al (2010), China’s investment in African special economic
zones: prospects, challenges and opportunities, Economic Premise No 5, The
world bank.
44. Brautigam, D. (2011), Aid with Chinese characteristics: Chinese Foreign Aid
and Development Finance meet the OECD – DAC aid regime, Journal of
International Development, Published on line in Wiley Online Library.
45. Broadman, H. G. (2007), Africa’s Silk Road: china and india’s new
economic frontier, Washington D. C., The world bank.
46. Brookes, P. (2007), Into Africa: China’s grab for influence and oil, Heritage
Hecture, the Heritage Foundation, No 1006.
154
47. Buckley et al (2007), The determinants of Chinese Outward direct foreign
investment, University of Westminster, UK.
_2_final_author_version.pdf
48. Cai K.G. (1999), Outward Foreign Direct Investment: A Novel Dimension of
China’s integration into The Regional and Global Economy, The China
Quarterly, Volume 160, pp. 856 – 880.
49. Chen, Taotao (2013), Chinese Foreign Direct Investment in Latin America
and the Caribbean, World Economic Forum, Abu Dhabi.
50. Cheung, Y. W. et al (2012): China’s Outward Direct Investment in Africa,
Review of International Economics, Volume 20, Issue 2, pp. 201 – 220.
51. Child, J. and Rodrigues, S. B. (2005), The internalization of Chinese firms: A
case study for Theoritical Extensions, Management and Organisation
Review, 1 (3), pp. 381 – 410.
52. China - Brazil Business Council (2011), Chinese Investments in Brazil: A
new phrase in the China – Brazil Relationship, The publication of CBBC.
53. China - Brazil Business Council (2013), Chinese Investment in Brazil (2007 –
2012): A review of recent trends, The publication of CBBC.
54. China – Brazil Bussiness Council (2014), Chinese Investment in Brazil 2012
– 2013, the publication of CBBC.
55. China’s Ministry of Commerce (2015), Statiscal Bulletin of China’s Outward
Foreign Direct Investment.
56. Claassen et al (2012): Chinese Foreign direct investment in Africa: Making
sense of a new economic reality, African Journal of Business Management,
Vol. 6 (47), pp. 11583 – 11597.
57. Davies, K. (2013), China Investment Policy: An update, OECD working
papers on International Investment, OECD Publishing.
58. Davies, K. (2012), Outward FDI from China and its policy context, Colombia
FDI Profiles, Vale Colombia Centre on Sustainable International Investment,
New York.
155
59. Davies, K. (2010), Inward FDI in China and its policy context, Colombia
FDI Profile; .
60. Deloitte (2014), Greater China Outbound M&A Spotlight, Chinese Services
Group, The United Kingdom;
https://www2.deloitte.com/content/dam/Deloitte/xe/Documents/About-
Deloitte/me_csg_2014-china-outbound.pdf.
61. Dong, B. and Guo, G. (2011), The model of China’s export Strengthening
Outward FDI, Institute of international economy – University of
International busisness and economics, Beijing, China.
62. Dunning, John H. (2001), The eclectic OLI Paradigm of International
Production: Past, Present and Future, International Journal of The economics
of Business, Vol.8, No.2, pp. 173 – 190.
63. ECLAC (2013), Foreign Direct Investment in Latin America and the
Caribean, Production Development Series No. 195, United Nations
Publication.
64. ECLAC (2015), Latin American and the Caribbean and China: Towards a
new era in economic cooperation, United Nations Publication.
65. ECLAC (2016), Foreign Direct Investment in Latin America and the
Caribbean, United Nations Publication.
66. Ellis, R. Evan (2013), The Strategic Dimension of Chinese Engagement with
Latin America, Perry Paper Series No.1, William J. Perry Center for
Hemispheric Defence Studies, Washington D.C.
67. Elshehawy, M. A. et al (2014), China’s relations with North Africa: Trade
and Investment, International Journal of Social Science and Humanities
Research, Vol. 2, Issue, pp. 187-192.
68. FDIintelligence (2015), The African Investment Report 2015;
Africa-Investment-Report-2015-fDi-Intelligence-Report.pdf.
156
69. Hanauer, Larry and Morris, Lyle J. (2013), Chinese Engagement in: drivers,
reactions and implications for U.S. policy, the international security and
defense policy center of the RAND National Defense Research Institute;
www.rand.org/pubs/permissions.html
70. Henley, J. et al (2008), Foreign Direct Investment from China, India and
South Africa in sub-Saharan Africa: A new or Old Phenomenon?, Working
paper 2008/24, World Institute for Development Economics Research of the
United Nations University.
71. Herrero, A. G. et al (2015), Chinese Outbound Foreign Direct Investment:
How much goes where after round – tripping and off-shore?, Working paper
No 15/17, BBVA Research.
72. Hilton, Isabel (2013), China in Latin America: Hegemonic Challenges?,
NOREF Expert Analysis, Norwegian Peaceful Building Resource Centre,
pp.1-5;
73. Human Rights Watch (2011), Labor Abuses in Zambia’s Chinese State-
owned Copper Mines; https://www.hrw.org/sites/default/files/reports.
74. IBP.inc (2015), South American Countries Mineral Industry Handbook,
Volume 1, Strategic Information and Regulations, International Business
Publication, USA.
75. IMF (1993), Balance of Payments Fifth Edition, Washington, D.C., pp. 235.
76. Jingli, Aloysius Newenham – Kalindi (2011), Foreign Direct Investment in
Natural Resource Industries in Africa: Chinese Versus Western Models,
Working paper, Jack Austin Center for Asia Pacific Business Studies, Simon
Fraser University.
77. MacFarlane, Philiph J. (2014), U.S. and Chinese Investment Treaties in Latin
America: Convergence or Competition?, Houston Journal of International
Law, Vol. 37: 3;
78. Mares, D. R. (2011), China’s investment in Latin American Energy
Resources: Comparative Asian Perspectives, The James A. Baker III Institute
157
for Public Policy;
RiseOfChinaMares-120211-WEB.pdf.
79. Marukawa, T., Ito, A. and Zhang, Y. (2014), China’s outward direct
investment data, ISS Contemporaty Chinese Research Series No.15, Institute
of Social Science, University of Tokyo, Japan.
80. Meibo, H. và Peiqiang, R. (2013), A study on the employment effect of
Chinese Investment in South Africa, The Center for Chinese Studies,
Stellenbosch University, South Africa.
81. Moottatarn, M. (2012), China’s role in the re-agriculturaliztion in Latin
America economies: Blessing or Curse? A study of potential Chinese Foreign
Investment in Argentine soybean sector, the Keck Center for International
and Strategic Studies, Claremont McKenna College, Argentina.
82. MOFCOM (2010), Statistical Bulletin of China’s Outward Foreign Direct
Investment, Ministry of Commerce of People’s Republic of China.
83. MOFCOM (2013), Statistical Bulletin of China’s Outward Foreign Direct
Investment, Ministry of Commerce of People’s Republic of China.
84. MOFCOM (2016), Official of the Department of Outward Investment and
Economic Cooperation of the Ministry of Commerce Comments on China’s
Outward Investment and Economic Cooperation in 2015, Ministry of
Commerce of People’s Republic of China.
85. Moran, T. et al (2012), Chinese Investment in Latin American Resources:
The good, The bad and The ugly, Working Paper No. 12 -3, Peterson Institute
for International Economics.
86. Myers, M. and Jie, G. (2015), China’s Agricultural Investment in Latin
America: A Critical Assessment, The Dialogue’s China and Latin American
Program.
Agricultural-Investment-in-Latin-America.pdf.
87. Namasaka, Martin (2014), The China – African relationship and what Africa
can do to profit, Working paper No. 3 – 2014, London School of Economics
and Political Science.
158
88. National Bureau of Statistics of China (2004 – 2014), China Statistical Year
Book;
89. National Bureau of Statistics of China (2015), China Statistical Year Book
2015;
90. OECD (2008), Investment policy review: China 2008, OECD Publication.
91. OECD (2009), Eco-Innovation Policies in the People’s Republic of China,
Environment Directorate, OECD Publication.
92. OECD (2008), Benchmark Definition of Foreign Direct Investment, Fourth
Edition 2008.
93. Pahuamba, A. M. et al (2015), Latin America Development under Chinese
Investment Hegemony, International Journal of Management Science and
Business Administration, Volume 1, Issue 5, April 2015, pp. 38-50.
94. Peter, Enrique Dussel (2012), Chinese FDI in Latin America: Does
Ownership Matter?, Discussing paper No 33, Working Group on
Development and Environment in the Americas.
95. Ray, R. et al (2015), China in Latin America: Lessons for South – South
Cooperation and Sustainable Development, Global Economic Governance
Initiative, Boston University.
96. Ray, R. and Gallagher, K. (2015), China – Latin America Economic Bulletin,
Discussion Paper, Global Economic Governance Initiative, Boston
University.
97. Rosen, D. and Hanemann, T. (2009), China’s changing outbound foreign
direct investment profile: Drivers and policies implication, Peterson Institute
for International Economics.
98. Sauvant, Karl P. (2014), China’s Regulatory Framework for Outward Foreign
Investment, China Economic Journal, No 7 (1) 2014, pp. 141 – 163.
99. Shen, Xiaofang (2013), Private Chinese Investment in Africa: Myths and
Realities, Policy Research Working Paper 6311, World Bank.
159
100. Shinn, David H. (2015), The Environmental Impact of China’s Investment
in Africa, International Policy Digest Organisation;
101. Sun, Y. (2014), Africa in China’s Foreign Policy, the Brookings Institution.
102. Sutton, Brook (2010), the bad good deal: the challenge of Chinese Foreign
Direct Investment in Africa, African Law and Development.
_in_africa_1.pdf.
103. Tiezzi, S. (2013), Why Taiwan’s Allies are Flocking to Beijing, The
Diplomat;
to-beijing/ (accessed June 6, 2014).
104. Tiruned, Dawit Tadesse (2014), An analysis of Chinese FDI in Sub-
Saharan Africa, with a particular focus on Ethopia, 14th EADI general
conference from 23rd to 26th June, 2014, Bonn;
105. TUSIAD (2013), China Business Insight, Turkish Industry and Business
Association;
beijing-office/china-business-insight/china-business-insight--february-
2013/.
106. UNCTAD (1996), World Investment Report 1996, United Nation
Pubication.
107. UNCTAD (2011), World Investment Report 2010, United Nation
Pubication.
108. UNCTAD (2014), World Investment Report 2014, United Nation
Publication.
109. UNCTAD (2015), World Investment Report 2015, United Nation
Publication.
110. UNCTAD (2016), World Investment Report 2015, United Nation
Publication.
160
111. UNCTAD (2016), Investment Policy: Bilateral Investment Treaties,
Unnited Nation;
112. U.S. Energy Information Administration (2014), A full report on China’s
energy,
113. U.S. Energy Information Administration (2014), Annual Energy Outlook
2014;
114. Vernon, R. (1996), International Investment and International Trade in the
product cycle, Quarterly Journal of Economics, pp.199 – 207
115. Voss, H., et al (2008), Thirty years of Chinese outward foreign direct
investment, CEA (UK) conference: Three Decades of Economic Reform.
116. Wang, J. Y. (2007), What drives China’s role in Africa? IMF Working
paper 07/211, IMF, Washington, D.C.
117. Wenbin, H. & Wilkes, A. (2011), An analysis of China’s overseas
investment policies, Working paper 79, World Agroforestry Centre, China
and East Asia Node, Beijing.
118. Wong, J. (2003), China’s Outward direct Investment: Expanding
Worldwide, International Journal, Vol.1, No 2, pp. 273-310.
119. World Bank (2016), Doing Business 2016: Measuring Regulatory Quality
and Efficiency, Washington D.C.
120. World Bank (2016), Indicators;
121. Xinh, Y. (2010), China’s Overseas Foreign Direct Investment and the Role
of the Government, Asian Development Bank Institute, Tokyo, Japan.
122. Ye, Liming (2012), Climatic change Impact on China Food Security in
2050, IMF, Washington, D.C.
123. Zhan, James Xiaoning (1995), Transnationalisation and outward
investment: the case of Chinese firms.
III. Tiếng Trung Quốc
124. Guang dong sheng hai wai jia he cai ji fen xi zhong xin (2016),
Zhong fei he zuo mai kai zhuan xing sheng ji xin bu fa;
161
125. Linda Calabrese (2016), Zhong fei guan xi yi qu cheng shu? Fa zhan, bian
qian yu hui fu.
126. Ning Sheng Nan (2015), Zhong guo yu lamei: “Ming yun gong tong ti” jin
xing shi, Zhuo zhe, Zhong guo guo ji wen ti yan jiu yuan fa zhan zhong guo
jia yan jiu suo: Gong ting.
127. Qing Tian (2016), Zhong guo de la mei zheng duo zhan: Qu nian xiang la
mei zhu zi shu shi yi mei yuan, teng xun cai jing;
5/032605.htm
128. Quo Jie (2015), Zhong guo zai la mei de jing ji cun zai: da bu neng dao?,
Bei jing da xue guo ji guan xi xue yuan fu jiao shou, bei jing 100872.
129. Shang wu bu guo ji mao yi jing ji he zuo yan jiu yuan shang wu bu tuo zi cu
jin shi wu ju (2015), Gang guo min zhu gong he guo, dui wai tuo zi he zuo
guo bie (di qu) zhi nan.
130. Yan Huan (2016), La Mei zai Zhong guo jing ji xin chang tai zhong mi xin
ji zhu ba xi ji zhe, ren min ri bao;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dau_tu_truc_tiep_cua_trung_quoc_vao_mot_so_n_oc_chau_phi_va_my_latinh_1422.pdf