Luận án Đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Thuê tài chính đã trở thành một sự lựa chọn quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn diện với khu vực và thế giới, việc nâng cao khả năng cạnh tranh được đặt ra như một yêu cầu tất yếu khách quan. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp ở Việt Nam cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, đặc biệt huy động vốn trên thị trường CTTC để có thêm cơ hội tiếp cận, đổi mới khoa học kỹ thuật, công nghệ, từng bước hiện đại hóa sản xuất. Đồng thời, nếu sử dụng có hiệu quả, thuê tài chính sẽ giúp giải quyết những khó khăn tạm thời, tập trung vốn kinh doanh cho doanh nghiệp.

pdf170 trang | Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2094 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phương án quản trị hiệu quả. Với một chi phí thuê nhất định, nếu doanh nghiệp có sự quan tâm đến quá trình vận hành của tài sản thuê tài chính (ở nước ta chủ yếu là các động sản) thì sự hao mòn của tài sản, kể cả hao mòn vô hình và hữu hình sẽ được giảm thiểu, từ đó doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được vốn, giảm thiểu các chi phí phát sinh, nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.2.1.5. Chấp hành tốt kỷ luật thanh toán; công khai, minh bạch hệ thống báo cáo tài chính Tình hình tài chính thể hiện “sức khỏe” của các doanh nghiệp. Cũng như những cơ thể sống, các doanh nghiệp có “nhu cầu, khẩu vị và sức đề kháng” khác nhau. Một điều quan trọng và cần thiết là những vấn đề này phải được thể hiện trên các báo cáo tài chính. Chức năng cơ bản của BCTC là cung cấp thông tin cho các đối tượng quan tâm, đặc biệt là các đối tượng bên ngoài 146 doanh nghiệp nhằm hỗ trợ các đối tượng này đưa ra các quyết định tối ưu. Các đối tượng bên ngoài thường được nhắc tới là các nhà đầu tư, các ngân hàng, khách hàng, nhà cung cấp. Trong một nền kinh tế mà nguồn vốn chủ yếu huy động qua thị trường vốn thì vai trò của các nhà đầu tư được đặc biệt quan tâm. Việc cung cấp thông tin tài chính minh bạch cho các nhà đầu tư góp phần giảm thiểu rủi ro do “thông tin bất cân xứng”. Kết quả là các nhà đầu tư sẽ sẵn sàng chấp nhận mức lợi tức kỳ vọng thấp hơn, qua đó làm giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, vai trò của kế toán trong một nền kinh tế phát triển không chỉ giới hạn ở việc tuân thủ đúng các quy định hiện hành về tài chính - kế toán, mà yêu cầu giờ đây đã trở nên cao hơn: cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư. Để đáp ứng yêu cầu này, bộ phận kế toán trong doanh nghiệp phải nắm rất vững các quy định hiện hành về kế toán - tài chính để không chỉ tuân thủ đúng mà còn phải biết vận dụng các quy định này một cách linh hoạt, nhằm bảo đảm cung cấp những thông tin hữu ích nhất cho các nhà đầu tư. Trên thực tế ở Việt Nam, BCTC của các doanh nghiệp thời gian qua hầu hết đều chưa thực sự công khai, minh bạch ở một mức độ nhất định. Theo thống kê năm 2012, BCTC của hầu hết doanh nghiệp không trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi. Trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng, sức cầu suy giảm, hàng tồn kho trong doanh nghiệp tăng cao và nợ phải thu khó đòi cũng theo đó tăng vọt, thì một BCTC trung thực, chính xác phải phản ánh được những thực tế này. Tuy nhiên, trên báo cáo tài chính năm 2011 và BCTC bán niên, BCTC quý của hầu hết các doanh nghiệp công bố thời gian qua đã không thực hiện trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi. Đây là một sự vô lý. Chính vì vậy, để minh bạch hóa BCTC, làm cơ sở tạo dựng lòng tin cho nhà cung cấp dịch vụ CTTC, đòi hỏi các doanh nghiệp cần cần phải có sự 147 nghiên cứu nghiêm túc, kỹ lưỡng hệ thống chuẩn mực, chế độ kế toán để thực hiện đúng theo yêu cầu, gắn với tình hình thực tế để có những điều chỉnh linh hoạt, tránh vi phạm pháp luật. Có thể cụ thể hóa như: trong bối cảnh kinh tế khó khăn như năm nay, hàng tồn kho lớn, số doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể tăng vọt, các doanh nghiệp bắt buộc phải tính dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng rủi ro các khoản nợ phải thu khó đòi. Ngoài ra, doanh nghiệp bắt buộc phải tính khấu hao bất động sản đầu tư vì giá bất động sản đã giảm rất mạnh. Việc chấp hành kỷ luật thanh toán cho các đối tác, đặc biệt là bên cho thuê là yêu cầu quan trọng. Nếu không huy động được nguồn trả nợ, quan hệ tín dụng của doanh nghiệp sẽ không tốt, từ đó lịch sử tín dụng của doanh nghiệp có thể trở thành bất lợi cho các hoạt động tài chính trong tương lai của doanh nghiệp. Do đó, nguồn tiền trả nợ luôn phải được doanh nghiệp cân đối và ưu tiên. Thực hiện đồng bộ và nghiêm túc các giải pháp trên sẽ giúp doanh nghiệp minh bạch tình hình tài chính, đáp ứng các điều kiện thuê tài chính khi phát sinh nhu cầu thuê tài sản. 3.2.1.6. Nâng cao hiểu biết của doanh nghiệp về thuê tài chính Thuê tài chính đã xuất hiện ở Việt Nam được khoảng hơn 15 năm, nhưng hiện tại vẫn còn rất mới mẻ đối với nhiều đối tượng, đặc biệt là các doanh nghiệp. Xuất phát từ thực tế trong thời gian qua ở Việt Nam, có thể coi đây là một trong những giải pháp có tính trọng tâm. Doanh nghiệp và các nhà quản trị cần nhận biết rõ bản chất của CTTC, đó là một hình thức tín dụng trung và dài hạn. Còn về góc độ thuê tài chính, đây là một hình thức huy động vốn trung và dài hạn. Để đưa ra quyết định thuê tài chính, các doanh nghiệp cũng cần phải nắm vững những nguyên tắc cơ bản về việc lựa chọn tài sản thuê, hình thức thuê, phương thức trả tiền thuê... Những nguyên tắc này phải được vận dụng linh hoạt trong điều kiện của doanh nghiệp. Trên thực tế, xuất phát từ nhiều lý do, vẫn có nhiều doanh nghiệp nhầm lẫn các vấn đề này với 148 các hoạt động tín dụng hoặc hoạt động tài chính khác. Vì vậy, doanh nghiệp cần tìm hiểu đầy đủ về những lợi ích cũng như hạn chế của thuê tài chính để đưa ra quyết định đúng đắn và kịp thời, đảm bảo cung ứng đầy đủ vốn, tài sản đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước hết, doanh nghiệp có thể tổ chức những khóa học ngắn hạn mang tính chất giới thiệu về thuê tài chính cho đội ngũ cán bộ chuyên viên tài chính kế toán, do các giảng viên có trình độ và kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy. Mặt khác, doanh nghiệp có thể tham khảo kinh nghiệm từ các đơn vị bạn đã sử dụng hình thức này trên cơ sở tổng kết những mặt được và chưa được, rút ra kinh nghiệm cho nội bộ. Việc nâng cao nhận thức và hiểu biết về thuê tài chính đối với các doanh nghiệp thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà các hình thức tài trợ vốn khác đã bộc lộ nhiều hạn chế mà chưa thể có sự thay thế nào tốt hơn thuê tài chính. 3.2.2. Các giải pháp điều kiện 3.2.2.1. Nhóm giải pháp đối với các công ty CTTC * Tăng cường tiềm lực vốn Để nâng cao khả năng cạnh tranh, một yếu tố quan trọng đó là tiềm lực vốn, tài sản. Trong bối cảnh như hiện nay, công ty CTTC không thể chỉ dựa vào nguồn vốn tự có hạn chế mà còn phải gia tăng sức mạnh tài chính của mình từ việc huy động tối đa các nguồn vốn trong xã hội và trên thị trường tài chính. Hoạt động CTTC của các công ty trong những năm qua chủ yếu dựa vào “bầu sữa mẹ” là nguồn vốn vay từ ngân hàng mẹ và một số ngân hàng thương mại khác. Việc này làm cho bản thân công ty bị phụ thuộc, xét ở một góc độ nào đó thì vẫn chưa phá vỡ được tính “truyền thống” trong việc huy động vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Chính vì vậy, các công ty cần nhanh chóng tăng vốn kinh doanh, khi đó cơ cấu nguồn vốn, vốn và các chỉ số an toàn trong hoạt động kinh doanh sẽ có sự thay đổi theo hướng tích cực. 149 Để thực hiện có hiệu quả vấn đề này, đòi hỏi các công ty CTTC cần có những biện pháp cụ thể như: (i) Huy động tiền gửi có kỳ hạn từ các tổ chức và dân cư thật hiệu quả, đồng thời tiếp cận với các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp lớn để tiếp cận được nguồn vốn dồi dào, ổn định, lãi suất ưu đãi. Một trong số đó là các công ty đầu tư tài chính, các doanh nghiệp bảo hiểm với nguồn vốn lớn từ các tầng lớp dân cư nhưng lại không được phép cấp tín dụng. Ngoài ra, công ty CTTC cũng cần tiếp cận các tổ chức tài chính quốc tế, những chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp mới, các DNNVV. (ii) Phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá với lãi suất linh hoạt. Việc thành công trong phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi hiện đối với các công ty CTTC là không cao bởi nhiều lý do như tên tuổi, uy tín, năng lực tài chính còn hạn chế và đặc biệt tâm lý người mua thường ưa thích kỳ hạn ngắn, cơ chế rút vốn linh hoạt, lãi suất cạnh tranh. (iii) Tận dụng nguồn vốn hình thành từ các khoản phải trả. Tiếp cận các đối tác có điều kiện, có thể cho công ty CTTC mua hàng trả chậm, trả góp, từ đó tranh thủ được nguồn vốn chi phí thấp này. (iv) Sáp nhập, mở rộng, hợp nhất công ty. Vừa qua, trên thực tế, việc hợp nhất 2 công ty CTTC của BIDV vào đầu năm 2012 đã làm tăng sức mạnh tài chính cũng như đơn giản hóa bộ máy quản lý, từ đó làm cơ sở nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong tương lai, với sự phát triển của thị trường tài chính, việc cổ phần hóa các công ty CTTC và huy động vốn trên thị trường chứng khoán cũng là một trong những lựa chọn tối ưu của doanh nghiệp khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết. * Đa dạng hóa phương thức CTTC Để đảm bảo đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu của khách hàng, các công ty CTTC cần lưu ý điều này. Nghiệp vụ CTTC có nhiều hình thức khác nhau để các chủ thể liên quan đến hợp đồng CTTC có thể lựa chọn. Hoạt động CTTC ngày càng phải đa dạng về hình thức thuê, cũng như linh hoạt trong việc sử dụng vốn. Hiện nay các công ty CTTC đang thực hiện cho thuê theo các hình 150 thức phổ biến là cho thuê thông thường, mua và cho thuê lại (hay còn gọi là bán và tái thuê). Tuy nhiên, theo quy định hiện nay các công ty CTTC chỉ được cho thuê với hạn mức dư nợ dưới 50% vốn pháp định, như vậy tối đa các công ty CTTC cũng chỉ có thể cho thuê dự án với tổng giá trị khoảng trên dưới 100 tỷ đối với một khách hàng. Điều này dẫn tới công ty có thể phải từ chối hoặc bỏ qua những dự án lớn, những tài sản lớn cần thuê mua. Vì vậy, công ty CTTC có thể đa dạng hóa các hình thức cho thuê theo từng hợp đồng và theo quy định của pháp luật như cho thuê liên kết, cho thuê bắc cầu... Hoặc theo Nghị định 16/2001/NĐ-CP và Thông tư 08 của NHNNVN đều cho phép nếu nhu cầu thuê tài sản của khách hàng vượt quá giới hạn CTTC, hoặc nếu khách hàng có nhu cầu thuê từ nhiều nguồn (để phân tán rủi ro, hoặc linh hoạt trong việc trả nợ) thì công ty CTTC có thể cho thuê hợp vốn theo quy định. Ở Việt Nam, trong thời gian tới nên đẩy mạnh hình thức bán và tái thuê, hay mua và cho thuê lại nếu xét ở góc độ CTTC. Hình thức thuê tài chính này sẽ giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV có thể giải quyết nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết trước mắt nhưng vẫn giữ được tính cân đối trong dài hạn, cụ thể là về tài sản cố định. Từ đó có thể tiết kiệm chi phí, thời gian, tập trung vốn cho sản xuất kinh doanh. * Tích cực quản trị rủi ro, giảm thiểu nợ xấu trong thời gian tới Rủi ro trong hoạt động CTTC có thể được hiểu là những sự bất trắc, không ổn định, những biến cố bất thường, không mong muốn, khi xảy ra có thể làm tổn thất, thiệt hại, mất mát tài sản, thu nhập, uy tín hay cơ hội kinh doanh của công ty CTTC. Nói một cách đơn giản hơn sẽ làm giảm hoặc mất đi giá trị của doanh nghiệp. Phải nói rằng, hiện nay rủi ro, đặc biệt là vấn đề nợ xấu đang là mối lo lắng hường trực, nỗi “ám ảnh” của các công ty CTTC, vốn còn hạn chế về nhiều mặt. Thời gian qua (2010 – 2012), dư luận đã xôn xao về vụ việc một công ty CTTC để lỗ hàng nghìn tỷ đồng, trong đó nguyên nhân chính là hạn chế trong việc lựa chọn khách hàng, thiếu sự quản lý, mất 151 khả năng thu hồi nợ cho thuê. Chính vì vậy, trong giai đoạn tiếp theo, việc quản trị rủi ro là yêu cầu rất cấp thiết đối với các công ty CTTC, nếu muốn cho lĩnh vực này thực sự tạo đựng được vị thế trên thị trường. Trước tiên là việc rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ phục vụ cho hoạt động CTTC, đảm bảo tính đồng bộ và an toàn. Cần thẩm định dự án chặt chẽ đầy đủ, chi tiết đối với từng loại khách hàng hoặc ngành nghề kinh doanh. Đây là yêu cầu hết sức quan trọng trong việc phòng ngừa các rủi ro. Muốn làm tốt điều này, công ty CTTC cần xem xét, đánh giá mục đích thuê của khách hàng? Khả năng tài chính của khách hàng? Thông qua những thông tin từ phía khách hàng, cả những thông tin bên trong, bên ngoài công ty CTTC sẽ thấy được đặc trưng ngành nghề, lĩnh vực, uy tín trong kinh doanh cũng như tình hình hiện trạng của doanh nghiệp. BCTC là một trong những nguồn thông tin quan trọng, chủ yếu trong việc xem xét tình hình tài chính của công ty. Tuy nhiên, việc xem xét những báo cáo này cần đảm bảo tính khách quan, độc lập và nghiêm túc. Một trong những nội dung quan trọng của công tác quản trị rủi ro đối với CTTC, đó là quản trị về tài sản. Mặc dù việc tiếp nhận, sử dụng tài sản là của bên đi thuê (được coi như chủ sở hữu) nhưng với tư cách là chủ sở hữu và người bỏ vốn mua tài sản, công ty CTTC cần nắm bắt đầy đủ những thông tin cơ bản của tài sản, phục vục công tác quản lý. Ở đây, tác giả muốn đề cập đến việc xem xét tài sản trên các góc độ: nguồn hình thành, giá trị và giá trị sử dụng, thời gian và kế hoạch sử dụng, vấn đề khấu hao tài sản của doanh nghiệp đi thuê. Cụ thể: - Về nguồn gốc, xuất xứ, giá mua: Chủ động thiết lập và kiểm soát các mối quan hệ trong CTTC, đặc biệt với đối tác bên đi thuê và nhà cung cấp tài sản, bởi hiện nay ở Việt Nam, hình thức CTTC chủ yếu vẫn là CTTC 3 bên. Các công ty CTTC cần phải thận trọng vì đối tượng của họ thường là các DNNVV, nhiều trường hợp do năng lực tài chính, quản trị, uy tín thấp nên không thể tiếp cận vốn của ngân hàng. Với các tài sản lớn, nguyên giá và mức 152 khấu hao cần phải được thẩm định kỹ lưỡng. Trong quá trình kinh doanh, khâu kiểm tra giám sát giá mua của các loại tài sản cho thuê hết sức quan trọng. Đối với tài sản mới, cán bộ tín dụng cần xét kỹ lưỡng uy tín của nhà cung cấp, giá cả, hóa đơn chứng từ, nguồn gốc, xuất xứ.. của tài sản. Bên cạnh đó, cần đối chiếu giá mua với giá thị trường của tài sản. Còn với những tài sản đã qua sử dụng, thì song song với việc tiếp nhận hồ sơ về tài sản thì cần phải đánh giá lại (thông qua các chuyên gia kỹ thuật có kinh nghiệm) trước khi cho thuê. - Về nắm bắt thông tin sử dụng tài sản: Công tác quản lý việc thực hiện sử dụng tài sản đúng mục đích, đúng yêu cầu của hợp đồng. Đây là vấn đề rất khó, rất nan giải. Vì vậy cần có đội ngũ những cán bộ tín dụng, kỹ thuật tốt, thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng thuê tài chính. Thông qua đó, những thông tin về tài sản và việc sử dụng chúng sẽ được cập nhật thường xuyên, từ đó công ty có thể chủ động tư vấn, hỗ trợ cùng bên thuê giải quyết các vấn đề liên quan nếu phát sinh đến tài sản thuê. - Về thu hồi, xử lý tài sản cho thuê: Nợ xấu thực chất là những khoản đầu tư vào tài sản cho thuê đang nằm dưới dạng dư nợ cho thuê tài sản mà chưa hoặc không thể thu hồi. Đối với những khoản nợ xấu mới phát sinh, công ty CTTC cần có những biện pháp mạnh tay, xử lý dứt điểm trong việc thu hồi tài sản để bán thu hồi vốn hay cho đối tượng khác thuê lại. Tránh để tình trạng dây dưa khó đòi, chậm thu hồi, mất mát, thất thoát hoặc hư hỏng làm giảm hoặc mất đi giá trị của tài sản. Đối với những trường hợp đặc biệt, công ty CTTC cần có sự kết hợp và hỗ trợ của các cơ quan chức năng, nếu cần thiết phải khởi kiện ra Tòa án và yêu cầu xử lý dứt điểm. Như vậy mới tạo được lòng tin và uy tín đối với các chủ thể khác trong kinh doanh. Với đặc thù cung cấp các sản phẩm tín dụng, lại là tín dụng bằng tài sản thì việc áp dụng các công cụ quản trị rủi ro như mô hình kinh tế lượng, các công cụ phái sinh, phần mềm công nghệ quản lý hiện đại là hết sức cần thiết. 153 Ngoài ra, công ty CTTC nên có sự phân tán rủi ro bằng cách đa dạng hóa đầu tư cả về đối tượng và địa bàn, ngành nghề, không nên quá tập trung vốn tài sản có giá trị đối với một dự án nào đó, đặc biệt là dự án trong những lĩnh vực nhạy cảm về mặt pháp lý hay góc độ thị trường. Thực hiện trích lập đầy đủ và phát huy tính hiệu quả của quỹ dự phòng rủi ro, lành mạnh hóa tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, kết hợp với việc chọn lọc, đào tạo đội ngũ nhân viên sẽ giúp phòng ngừa rủi ro ngay từ những khâu đầu tiên trong hoạt động CTTC. * Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho thuê có chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp tốt Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Trong hoạt động CTTC, có lẽ vấn đề con người cần phải được chú tâm hàng đầu. Một lý do đầu tiên đó là phương thức CTTC thường có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, cùng với đó là các mối quan hệ kinh tế khác nhau được thiết lập. Các mối quan hệ này mặc dù đã được sự điều chỉnh của pháp luật nhưng thường đan xen, khá phức tạp do bị chi phối bởi ý thức, hành vi của con người. Ngay từ khâu tuyển chọn đầu tiên, công ty CTTC cần lựa chọn những người có trình độ và am hiểu về lĩnh vực này. Mặt khác, hoạt động CTTC là một trong những hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng cần tập trung đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Phần lớn các nhân viên thẩm định tín dụng của các công ty CTTC chủ yếu được đào tạo ở các trường chuyên ngành về tài chính - ngân hàng, do đó sự am hiểu về kỹ thuật, cơ chế vận hành, nói chung về tài sản còn rất hạn chế. Xuất phát từ yêu cầu đó, đòi hỏi các công ty CTTC thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, kiến thức thị trường, nghiệp vụ CTTC. CTTC là lĩnh vực liên quan đến tài chính ngân hàng, kế toán, vốn, tài sản.. những vấn đề hết sức nhạy cảm trong nền kinh tế. Vì vậy, bên cạnh yêu 154 cầu về chuyên môn, kinh nghiệm thì đạo đức nghề nghiệp nói chung, những đức tính cẩn thận, chắc chắn, trung thực, linh hoạt... cũng là tiêu chuẩn quan trọng để tuyển chọn, đánh giá đội ngũ cán bộ chuyên viên. Công ty cũng cần tổ chức thảo luận, tập huấn các vấn đề, các văn bản mới có liên quan đến hoạt động CTTC. Định kỳ có thể cử các cán bộ tham gia các khóa học trong và ngoài nước về lĩnh vực CTTC. Những động viên, khen thưởng kịp thời cả về tinh thần và vật chất cũng sẽ tạo động lực cho các cán bộ nhân viên gắn bó hơn với công ty CTTC trong bối cảnh kinh tế như hiện nay. * Quảng bá mạnh mẽ dịch vụ CTTC đến các doanh nghiệp Hình ảnh của một doanh nghiệp rất quan trọng. Ngoại trừ những thương hiệu lớn, mạnh, đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường thì các doanh nghiệp đều phải xây dựng cho mình chiến lược quảng bá hình ảnh, song song với chiến lược kinh doanh. Đó thực tế cũng chính là một phần trong tổng thể chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Tại Việt Nam, CTTC đối với nhiều người, doanh nghiệp còn khá mới mẻ. Thậm chí một số đối tượng còn chưa biết CTTC là gì, hoặc nhầm lẫn với tín dụng thông thường, hoặc cho thuê hoạt động... Nhiều doanh nghiệp muốn tiếp cận hình thức này trong quyết định huy động vốn, nhưng lại phải bỏ thời gian công sức ra để tìm hiểu những lợi ích và bất lợi, cũng như thủ tục... về phương thức CTTC. Hiện nay, các website về các công ty CTTC ở Việt Nam còn rất đơn điệu, chưa cung cấp được nhiều thông tin cho người quan tâm. Trong thời đại xã hội thông tin như hiện nay, các công ty CTTC cần thiết lập các chi nhánh, văn phòng đại diện rộng khắp, đặc biệt cần khai thác tối đa hiệu ứng của công nghệ thông tin... nhằm giới thiệu rộng rãi hình ảnh và lợi ích của hình thức này. Thời gian tới, khi thị trường tài chính thực sự ổn định, để có thể tăng sức cạnh tranh, cần có thương hiệu mạnh về CTTC ở Việt Nam. Muốn được như vậy, các công ty CTTC cần chủ động áp dụng các hình thức marketing hiệu 155 quả, độc đáo, để lại dấu ấn tốt cho các DNNVV. Và đặc biệt, các công ty phải thực sự hoạt động có hiệu quả, đó mới chính là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng và giữ vững thương hiệu trong quá trình hội nhập. 3.2.2.2. Các giải pháp vĩ mô về phía Nhà nước * Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý về thuê tài chính và CTTC Trong thời gian qua, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp quy có tính chất quy định, điều chỉnh, hướng dẫn hoạt động CTTC tại Việt Nam. Về cơ bản, hệ thống pháp lý này rất quan trọng vì nó làm cơ sở, giúp định hướng và quản lý các đối tượng, các chủ thể trên thị trường dịch vụ CTTC. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với quốc tế, việc hoàn thiện các văn bản pháp lý về lĩnh vực tài chính, trong đó có CTTC là một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận một thực tế là thời gian qua còn có nhiều DNNVV chưa “mặn mà” với hoạt động này. Sự vắng bóng khách hàng trên thị trường CTTC hoàn toàn dễ hiểu, bởi nó chưa thể in một dấu ấn lớn như các kênh cung vốn truyền thống là NHTM. Mặt khác, nó còn tồn tại nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản chính là sự thiếu đồng bộ và những “khoảng trống” trong các văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì vậy, việc tạo môi trường pháp lý thống nhất sẽ giúp cho hoạt động CTTC được thuận lợi hơn, đồng hành tốt hơn cùng với các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Để góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động CTTC và công ty CTTC, theo tác giả cần có một số biện pháp cụ thể như sau: Thứ nhất, tăng cường tiềm lực tài chính cho các công ty CTTC. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, vấn đề huy động vốn cũng là một vấn đề quan trọng bậc nhất. Với các công ty CTTC ở Việt Nam hiện nay, vấn đề này càng trở nên cấp bách. Theo thống kê của Bộ Tài chính, chỉ có khoảng 156 20% DNNVV tìm đến dịch vụ CTTC. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do quy mô vốn của công ty rất khiêm tốn. CTTC chủ yếu được thực hiện bằng nguồn vốn đi vay trung và dài hạn để tài trợ cho các tài sản dài hạn. Đây lại là nguồn vốn tín dụng có lãi suất cao nhất của các tổ chức tín dụng. Nếu các công ty CTTC không được sự hỗ trợ của nhà nước thì thì bắt buộc phải cho thuê với lãi suất cao để cân bằng tài chính. Như vậy càng làm cho phương thức này có khoảng cách xa hơn với DNNVV, nhất là trong bối cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay. Chính vì thế các công ty CTTC rất cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua NHNN hoặc các định chế tài chính khác. Cụ thể là dành cho thị trường này một bộ phận vốn ưu đãi nhằm làm giảm giá thuê, thu hút khách hàng. Thông qua hệ thống văn bản pháp quy, Nhà nước cần nới lỏng các điều kiện về huy động vốn đối với công ty CTTC, để công ty CTTC có thể huy động vốn dưới mọi hình thức, trên cơ sở đã tính tới mức độ an toàn trong cân đối tài chính. Đặc biệt, việc NHNN có thể tạo điều kiện cho các công ty CTTC tham gia thị trường liên ngân hàng sẽ nâng cao khả năng huy động vốn, bởi nếu chỉ với nguồn vốn huy động từ các khoản vốn có kỳ hạn trên 1 năm, e rằng rất khó để công ty CTTC có thể cạnh tranh được với các tổ chức tài chính tín dụng khác, đặc biệt là NHTM. Thứ hai, mở rộng quy định về chủ thể tham gia thị trường CTTC. Theo Nghị định 95/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP thì: “Công ty CTTC là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam. Công ty CTTC được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau: (i) Công ty CTTC trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. (ii)Công ty CTTC trách nhiệm hữu hạn một thành viên. (iii) Công ty CTTC cổ phần” và sửa đổi thêm: “1. Công ty cho thuê tài chính liên doanh là công ty cho thuê tài chính được thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp của Bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh 157 nghiệp Việt Nam) và Bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Công ty cho thuê tài chính liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. 2. Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là công ty cho thuê tài chính được thành lập tại Việt Nam với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu của một hoặc một số tổ chức tín dụng nước ngoài. Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn”. Như vậy theo quy định đó, các ngân hàng, các doanh nghiệp bất động sản không được tham gia vào thị trường dịch vụ này. Thiết nghĩ, để tận dụng triệt để những ưu thế về vốn, trình độ kỹ thuật công nghệ và mạng lưới khách hàng, cần đa dạng hóa hơn nữa các loại chủ thể tham gia thị trường CTTC. Chẳng hạn, cho phép các ngân hàng, các doanh nghiệp lớn tham gia vào thị trường với mức độ giới hạn nhất định về quy mô vốn trên tổng vốn tự có để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, tránh lấn át về mặt thị phần và các lợi thế kinh doanh đối với các doanh nghiệp khác. Đồng thời cho phép các công ty kinh doanh bất động sản thực hiện nghiệp vụ CTTC. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản lớn đều thực hiện xây nhà và cho thuê dài hạn, những giao dịch này xét về mặt nội dung kinh tế là giao dịch cho thuê tài chính, song không chịu sự chi phối bởi pháp luật CTTC dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh với các công ty CTTC. Chính vì vậy, việc mở rộng quy định tăng số lượng chủ thể tham gia vào thị trường CTTC là cần thiết, nhưng cần phải đặt trong sự giám sát chặt chẽ của các cơ quản lý. Thứ ba, bổ sung thêm các điều khoản quy định các loại tài sản được phép CTTC theo hướng cho thuê bất động sản. Pháp luật hiện hành chỉ cho phép các công ty CTTC tiến hành cho thuê các loại máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo 158 hợp đồng CTTC (Điều 1, Chương 1 Nghị định 16//2001/NĐ-CP). Tuy nhiên, việc quy định như vậy có phần hạn chế vì một số loại tài sản hữu hình và vô hình khác chưa được xem là tài sản cho thuê., điều này làm cho công ty CTTC có thể không đáp ứng được nhu cầu của thị trường, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay ở Việt Nam, các doanh nghiệp, nhất là các DNNVV có nhu cầu bất động sản khá lớn. Các DNNVV thường không có đủ điều kiện để mua, xây dựng hay sở hữu mặt bằng, nhà xưởng, công trình, văn phòng lớn để hoạt động nên đều phải đi thuê. Việc đi thuê đó thường gây khó khăn cho DNNVV bởi thiếu sự ổn định về kết cấu, giá thuê thường cao, thời gian thuê thường ngắn, DNNVV khó có thể yên tâm, chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, nếu cung cấp thêm loại hàng hóa này, công ty CTTC có thể giải quyết được những khó khăn đó của các DNNVV, tạo điều kiện để các DNNVV có thể ổn định hoạt động kinh doanh. Bất động sản cho thuê thường là những tài sản có giá trị, nên có thể được cung ứng từ nhiều nguồn khác nhau, có thể là từ thị trường bất động sản. Khi khách hàng, DNNVN có nhu cầu thuê bất động sản, có thể chủ động lựa chọn và đàm phán với các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản, sau đó tiến hành giao dịch, ký hợp đồng với công ty CTTC. Công ty CTTC sẽ cung ứng vốn cho bên kinh doanh bất động sản thi công xây dựng hoặc chuyển giao bất động sản có sẵn. Và như vậy, bất động sản sẽ đứng tên bên cho thuê và sẽ chuyển giao cho bên đi thuê khi kết thúc hợp đồng CTTC. Ngoài ra, việc cho thuê bất động sản còn có thể linh hoạt bằng hình thức mua và cho thuê lại (lease back), tức là bên cho thuê mua lại bất động sản của doanh nghiệp, rồi vẫn để cho doanh nghiệp đó sử dụng dưới hình thức một hợp đồng CTTC. Đây còn gọi là một hình thức bổ sung vốn lưu động, giúp DNNVV có thể chuyển hóa một tài sản cố định (bất động sản) thành khả năng sẵn sàng thanh 159 toán, mà lại không làm giảm năng lực trang bị tài sản, kỹ thuật của doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với DNNVV. * Nhà nước cần xây dựng, điều chỉnh các chính sách thuế và lãi suất phù hợp với hoạt động thuê tài chính và CTTC Thuế là một trong những nhân tố có tác động cơ bản đến hoạt động CTTC, đặc biệt đối với các công ty CTTC xét trên bình diện vĩ mô. Ở Việt Nam hiện nay, nói chung các doanh nghiệp đều muốn có những ưu đãi nhất định về thuế, bởi nó sẽ có thể làm giảm chi phí, tăng lợi ích cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp và nguồn thu chủ yếu của ngân sách, Nhà nước cần phải phát huy vai trò điều tiết, định hướng vĩ mô của mình. Đối với hoạt động CTTC hiện nay, là một kênh dẫn vốn quan trọng và thiết thực đối với các doanh nghiệp, trong đó chiếm trên 90% là các DNNVV, điều này càng trở nên hết sức cần thiết. Điều 22 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC ghi rõ “Thuế đối với máy móc, thiết bị, các phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà công ty cho thuê tài chính mua trong nước hoặc nhập khẩu để cho thuê được áp dụng như trường hợp bên thuê trực tiếp mua hoặc nhập khẩu các tài sản này”. Như vậy, trong bối cảnh khó khăn, việc ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với các dây chuyền, máy móc, thiết bị đi thuê nhằm mục đích sản xuất hàng xuất khẩu hoặc gia công hàng xuất khẩu cũng cần được xem xét. Việc miễn, giảm thuế nhập khẩu có thể căn cứ vào hoạt động của người thuê và mục đích sử dụng các thiết bị đó. Để khuyến khích các doanh nghiệp CTTC mở rộng quy mô kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh thì một mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi cũng là một vấn đề cần xem xét từ góc độ vĩ mô. Có ý kiến cho rằng, mức thuế hiện nay là cao, các cơ quan hữu quan dường như đang phản ứng theo kiểu “thắt chặt” trước rồi “buông lỏng” dần tùy theo mức độ “kêu 160 ca” của các doanh nghiệp và kết quả là hệ thống thuế quá phức tạp với những ưu đãi tràn lan. Và cho rằng cần triệt để loại bỏ tất cả các ưu đãi thuế, tối ưu hóa hệ thống thuế một cách đơn giản và bình đẳng. Trên thực tế, với những doanh nghiệp thực hiện hoạt động CTTC, một lĩnh vực hỗ trợ vốn – yếu tố quan trọng bậc nhất của doanh nghiệp lại đang gặp những trở ngại nhất định từ phía thị trường tài chính, thì việc ưu đãi thuế là cần thiết. Đối với những công ty CTTC chuyên hoạt động trong các ngành, vùng miền cần được khuyến khích đầu tư phát triển, hay những tài sản thuê được đầu tư vào những dự án cần khuyến khích thì Nhà nước nên có quy chế ưu đãi nhất định như: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp những năm đầu hoạt động và giảm thuế những năm sau đó. Trường hợp các công ty CTTC sử dụng lợi nhuận tái đầu tư vào tài sản cho thuê cũng nên được xem xét hoàn lại thuế. Nhà nước cần quy định rõ các ưu đãi về thuế đó là được áp dụng cho chủ sở hữu hợp pháp của tài sản là bên cho thuê hay chủ sở hữu kinh tế của tài sản là bên đi thuê. Ở nước ta hiện nay sẽ là hợp lý hơn nếu để cho các doanh nghiệp đi thuê hưởng mức ưu đãi này, đặc biệt là các DNNVV còn hạn chế về vốn và tài sản. Tuy nhiên, các chính sách trên chỉ nên áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định và đặc biệt cần có sự quản lý hết sức chặt chẽ, tránh nảy sinh tiêu cực từ những khe hở pháp luật. Về lãi suất, đây cũng là một yếu tố luôn có sự điều chỉnh của nhà nước, mặc dù lãi suất kinh doanh là do doanh nghiệp cân đối và đưa ra. Theo quy định, công ty CTTC là tổ chức tín dụng phi ngân hàng nên các chủ trương, chính sách của Nhà nước về hỗ trợ lãi suất trước và sau đầu tư đều chưa chú ý đến các công ty CTTC. Đơn cử, Nghị định 151 của Chính phủ năm 2006 về hỗ trợ lãi suất sau đầu tư quy định, khi khách hàng sử dụng dịch vụ thuê tài chính sẽ không được hưởng ưu đãi lãi suất trung, dài hạn dù dự án đó thuộc loại được hỗ trợ lãi suất và ở vùng sâu, vùng xa. Hoặc các quy định về chính sách thuế và hoàn thuế đối với công ty và các khách hàng của các công ty 161 CTTC đều cao hơn và khó khăn hơn so với các khu vực tín dụng khác. Hay Quyết định số 34 năm 2008 của NHNN về việc khống chế tỷ lệ cấp tín dụng của ngân hàng mẹ cho các công ty CTTC cũng là một lực cản về nguồn vốn với các công ty CTTC. Trên thị trường tài chính Việt Nam, lãi suất CTTC thường cao hơn so với các loại hình tín dụng khác, nên chưa có sức cạnh tranh. Mặt khác, xét về bản chất thì công ty CTTC đã cung cấp một lượng vốn tín dụng trung và dài hạn cho DNNVV, nên đây cũng là phương thức hỗ trợ vốn gián tiếp hữu hiệu cho DNNVV mà Nhà nước cần xem xét để hỗ trợ . Bởi phương thức ưu đãi lãi suất này được thực hiện gián tiếp thông qua các định chế trung gian tài chính, mà không hề ảnh hưởng đến vấn đề bảo hộ của nền kinh tế hay quốc gia trong vấn đề cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Vì vậy, có thể nói rằng, một chính sách lãi suất có tính đến việc tạo điều kiện cho các công ty CTTC thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh của mình là rất quan trọng và cần thiết trong tình hình hiện nay. * Nhà nước cần tăng cường giám sát, quản lý có hiệu quả hoạt động CTTC Bên cạnh việc hoàn thiện các hành lang pháp lý về CTTC, cũng như điều chỉnh những chính sách, chế độ có lợi cho loại hình dịch vụ hỗ trợ các DNNVV này, thì việc tăng cường giám sát, kiểm tra (nói chung là công tác quản lý) cần được đẩy mạnh. Quản lý đang là một hạn chế lớn hiện nay đối với lĩnh vực CTTC, đòi hỏi cần có sự tham gia kết hợp của các cấp liên ngành, các cơ quan chức năng. Trong đó, vai trò chủ yếu thuộc về NHNN. Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát các chủ thể tham gia thị trường CTTC theo hướng chuyển từ trực tiếp sang xây dựng thiết lập hệ thống thông tin quản lý, cảnh báo sớm, giúp các cơ quan giám sát toàn diện và có hiệu quả, giảm thiểu các thủ tục hành chính. Việc kiểm tra giám sát các hoạt động này phải dựa trên hệ thống các chuẩn mực về tài chính, kế toán, tín dụng, ngân hàng. Các cơ quản 162 lý phải giám sát sự tuân thủ của các công ty CTTC trong việc chấp hành các quy định, chuẩn mực nghề nghiệp. Muốn vậy, quá trình kiểm tra giám sát phải tập trung thực hiện đồng bộ cả bốn khâu: cấp phép hoạt động, giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ và xử lý vi phạm. Tuy nhiên việc kiểm tra giám sát cần thực hiện đúng nguyên tắc, tránh can thiệp trực tiếp vào nội bộ của công ty CTTC. Đồng thời nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện các chỉ tiêu giám sát thị trường, chuẩn hóa các tiêu chí, các kỹ năng quản lý thích hợp, thanh kiểm tra đúng quy chế quy định. Việc ứng dụng và công khai, minh bạch hóa thông tin về kiểm tra giám sát cũng có những tác dụng hết sức quan trọng đối với công tác quản lý hoạt động CTTC. NHNN cần hoàn thiện bộ máy kiểm tra theo hướng nâng cao chất lượng. Các công ty CTTC là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng nhưng các hoạt động cho thuê lại là hoạt động tín dụng trung và dài hạn. NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính trong việc giám sát, phân tích tình hình tài chính và hệ thống cảnh báo rủi ro đối với các hoạt động CTTC. Theo Nghị định 65/2005/NĐ-CP ban hành ngày 19/5/2005, đã sửa đổi Điều 19 và Khoản 1 Điều 28 Nghị định 16/2001/NĐ-CP thì, khi bên thuê vi phạm hợp đồng các công ty CTTC “có quyền thu hồi ngay lập tức tài sản cho thuê mà không cần sự phán quyết của Tòa án...; Trong thời gian tối đa là 60 ngày bên cho thuê phải xử lý xong tài sản cho thuê...”. Nhưng trên thực tế, điều này rất khó thực hiện vì khi đã vi phạm hợp đồng thì bên thuê luôn tìm cách để không trả lại thiết bị. Việc xử lý, thanh lý tài sản không đơn giản bởi còn tùy thuộc vào nhu cầu của thị trường và giá bán của bên cho thuê. Công ty CTTC cũng không có cách nào lấy lại tài sản nếu không có sự hỗ trợ của cơ quan pháp luật. Với thực trạng CTTC như thời gian qua, cần có sự tham gia vào cuộc của các cơ quan chức năng khác như Bộ Tư pháp, Bộ Công an, chính quyền các cấp trong việc xử lý các trường hợp vi phạm quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng, thu hồi tài sản cho thuê. Có như vậy, 163 mới có thể đảm bảo cho thị trường CTTC vận hành một cách thông suốt và phát triển theo hướng lành mạnh, có hiệu quả về lâu dài. * Định hướng, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung một số chương trình đào tạo; gia tăng thời lượng các môn học trong lĩnh vực tài chính phi ngân hàng, đặc biệt là thuê tài chính. Tài chính là một trong những khoa học sinh động và phức tạp. Trong đó, nghiên cứu về thuê tài chính có nhiều nội dung khó. Hiện nay, các cơ sở đào tạo (trường đại học, học viện, viện nghiên cứu) khối kinh tế đã có nhiều chuyển biến trong việc đổi mới chương trình, nội dung các môn học về tài chính, ngân hàng trong quá trình đào tạo. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động này tại nhiều cơ sở đào tạo, ngay cả ở những khu vực trung tâm kinh tế, giáo dục lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn những hạn chế nhất định. Tại một số cơ sở đào tạo, nội dung học các môn về tài chính, đặc biệt tài chính phi ngân hàng còn cũ và thiếu, chưa bắt kịp sự tiên tiến trong xu thế hội nhập với khu vực và quốc tế. Trong thời gian tới, các cơ sở đào tạo cần đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình học, đặc biệt nhấn mạnh lĩnh vực tài chính ngân hàng (thêm các chương trình, đề mục), trong đó có thuê tài chính đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh các nội dung về lĩnh vực tài chính ngân hàng, cần phải bổ sung (nếu chưa có), hoặc tăng thời lượng cho các nội dung tài chính phi ngân hàng, các định chế tài chính (hiện đang rất thiếu trong việc nghiên cứu đối với học viên, sinh viên các cấp). Ví dụ, đối với môn Tài chính doanh nghiệp của Đại học Kinh tế quốc dân hay Học viện Tài chính, Học viện Ngân hàng, Đại học Ngoại thương có thể nghiên cứu, thiết kế nguyên một chương về thuê tài chính; giáo trình, sách chuyên khảo các môn Nghiệp vụ ngân hàng và các tổ chức tín dụng, thị trường tài chính có thể thêm ít nhất một chương về 164 nghiệp vụ của các công ty CTTC, từ đó dễ dàng làm cơ sở đối chiếu, hoàn thiện cho các nội dung khác. Bên cạnh đó, trong thời gian tới việc kết hợp tổ chức hoặc xen kẽ nội dung về thuê tài chính đối với các doanh nghiệp là một giải pháp hết sức quan trọng. Cần phổ biến, trao đổi, chia sẻ kiến thức cơ bản và thực tế về thuê tài chính đối với các nhà quản trị doanh nghiệp thông qua các lớp, các buổi hội thảo chuyên đề, chuyên sâu về tài chính doanh nghiệp và thuê tài chính. Các lớp này được tổ chức bằng sự kết hợp giữa các cơ sở đào tạo và các tổ chức Hiệp hội chuyên ngành, cơ quan hữu quan như Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị với các Bộ, Ngành có liên quan * Về phía Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính: Xuất phát từ tình hình thực tế, thời gian tới các cơ quan hữu quan, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính... cần phải có những chủ chương chính sách lớn, tập trung đầu tư, phát triển mạnh các dịch vụ tài chính phi ngân hàng, trong đó CTTC là một trọng tâm. Việc quản lý các hoạt động của các công ty CTTC, cũng như thuê tài chính tại các doanh nghiệp cần chặt chẽ hơn nữa, quy định rõ trách nhiệm của các đối tượng có liên quan. Các định chế tài chính phi ngân hàng như CTTC ra đời và phát triển song hành cùng với sự phát triển của hệ thống NHTM, sẽ giúp giải tỏa nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, từ đó san sẻ trách nhiệm, gánh bớt rủi ro cho hệ thống NHTM, thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát sinh nhiều hạn chế. Nhà nước cần đặc biệt tạo điều kiện để phát triển ngành cho thuê tương xứng với tiềm năng của dịch vụ này. Nhà nước cần phải có những cơ chế, chính sách cụ thể hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là DNNVV huy động vốn bằng thuê tài chính. 165 * Đối với Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông vận tải: Tạo điều kiện đăng ký quyền sở hữu các loại tài sản thuê tài chính, việc lưu hành các tài sản thuê là phương tiện giao thông được thuận lợi. Có những hỗ trợ pháp lý cần thiết cho các doanh nghiệp đi thuê tài chính. Ngoài ra, cần quy định rõ trách nhiệm các tổ chức, cá nhân nếu để xảy ra những thất thoát và tiêu cực tại các doanh nghiệp trong hoạt động thuê tài chính. * Đối với Bộ Công an, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao: Xử lý nghiêm các vi phạm về thuê tài chính, đặc biệt những vụ việc nghiêm trọng gây thất thoát, chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn. Đưa ra ánh sáng những cá nhân, tập thể, doanh nghiệp có sự cấu kết, trục lợi trên danh nghĩa huy động vốn bằng thuê tài chính. 3.3.2. Kiến nghị với Chính phủ - Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, trên cơ sở tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trước pháp luật. - Có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn bằng thuê tài chính. - Nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật cho thuê. 166 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam vừa là mục tiêu, động lực; vừa là nhiệm vụ của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là từ phía các cơ quan quản lý. Việc phát triển các hình thức huy động vốn, cũng như các kênh dẫn vốn đối với doanh nghiệp phải nằm trong chiến lược phát triển thị trường tài chính và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đã được nêu ở chương 2, chương 3 đã đề cập đến những giải pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh huy động vốn bằng hình thức thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn, công nghệ trong xu thế hội nhập, cạnh tranh toàn diện như hiện nay. Các giải pháp được đưa ra và phân tích ở chương 3 tiếp tục hoàn thiện, bổ sung cho các giải pháp đã áp dụng trong quá trình đánh giá hiệu quả hoạt động thuê tài chính từ trước đến nay. Trong đó nhấn mạnh giải pháp đối với các doanh nghiệp đi thuê tài chính. Để có thể thực hiện mục tiêu đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động thuê tài chính ở Việt Nam trong thời gian tới, các giải pháp đã được tác giả luận giải theo hai hướng: Đó là các giải pháp từ phía Nhà nước như tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh tế thuận lợi cho các doanh nghiệp. Mặt khác, các giải pháp cũng hướng đến các chủ thể cơ bản nhất trên thị trường CTTC, trong đó đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng hình thức thuê tài chính như xác định đúng và đủ nhu cầu vốn, chủ động lựa chọn tài sản thuê, tổ chức sử dụng vốn, minh bạch báo cáo tài chính, v.v... Muốn nâng cao chất lượng và thu hút được nhiều doanh nghiệp thuê tài chính hơn nữa trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ và có hiệu quả thực tế các giải pháp trên. 167 KẾT LUẬN Thuê tài chính đã trở thành một sự lựa chọn quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn diện với khu vực và thế giới, việc nâng cao khả năng cạnh tranh được đặt ra như một yêu cầu tất yếu khách quan. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp ở Việt Nam cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, đặc biệt huy động vốn trên thị trường CTTC để có thêm cơ hội tiếp cận, đổi mới khoa học kỹ thuật, công nghệ, từng bước hiện đại hóa sản xuất. Đồng thời, nếu sử dụng có hiệu quả, thuê tài chính sẽ giúp giải quyết những khó khăn tạm thời, tập trung vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc huy động vốn trên thị trường CTTC của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế. Hạn chế xuất phát từ bản thân các doanh nghiệp đi thuê, hoặc từ các chủ thể khác có liên quan trên thị trường. Số lượng doanh nghiệp đi thuê tài chính còn ít và có xu hướng giảm. Một số vụ việc tiêu cực lớn có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực thuê tài chính trong thời gian qua cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh của loại hình dịch vụ này. Từ đó làm cho khoảng cách giữa các doanh nghiệp và thuê tài chính trở nên xa hơn. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp đi thuê hiện nay vẫn đang “loay hoay” trong vòng quay của các khoản nợ: không thu hồi được các khoản phải thu, sẽ rất khó thanh toán chi phí thuê tài chính. Đây là một thực tế sinh động, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn, tồn kho của các doanh nghiệp ở mức cao, rủi ro tài chính luôn tiềm ẩn. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế và thực tế hoạt động của các doanh nghiệp, đề tài luận án: “Đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam” đã góp phần giải quyết một số vấn đề cơ bản như: 168 Thứ nhất, hệ thống hóa, củng cố và hoàn thiện đầy đủ hơn cơ sở lý luận về tài chính doanh nghiệp và thuê tài chính của doanh nghiệp. Thứ hai, xem xét và phân tích một cách toàn diện về thực trạng đi thuê tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, đặt trong bối cảnh kinh tế của đất nước. Từ đó nhấn mạnh những mặt đạt được, những vấn đề tồn tại và xác định các nguyên nhân cơ bản. Thứ ba, nhìn nhận và đề xuất các giải pháp, hướng đến các chủ thể khác nhau nhưng đều ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng của hoạt động thuê tài chính. Trong đó, nhấn mạnh những giải pháp đối với các doanh nghiệp đi thuê tài chính. Cuối cùng, thông qua những nghiên cứu về thuê tài chính - một vấn đề còn mới mẻ và đang có thực trạng phức tạp ở Việt Nam, hi vọng lớn nhất của tác giả là được đóng góp một phần nhỏ bé vào sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp, cũng như hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong tương lai. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp để có thể hoàn thiện và trưởng thành hơn. Tác giả xin trân trọng cảm ơn! MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng, biểu Danh mục các sơ đồ, hình, hộp MỞ ĐẦU .............................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH..................................................14 1.1. Vốn và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.............................................14 1.1.1. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp........................................................................14 1.1.2. Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp.........................................17 1.1.3. Nguyên tắc cơ bản hoạch định cơ cấu nguồn vốn cho doanh nghiệp................21 1.2. Huy động vốn của doanh nghiệp trên thị trường CTTC.................................25 1.2.1. Một số vấn đề cơ bản về thuê tài chính đối với doanh nghiệp............................25 1.2.2. Sự cần thiết phải huy động vốn trên thị trường CTTC........................................41 1.2.3. Tác động của thuê tài chính đến hoạt động của doanh nghiệp...........................43 1.3. Căn cứ và nhân tố ảnh hưởng đến quyết định thuê tài chính của doanh nghiệp....47 1.3.1. Căn cứ lựa chọn, ra quyết định thuê tài chính ......................................................47 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định huy động vốn của doanh nghiệp trên thị trường CTTC......................................................................................................................54 Kết luận chương 1 ...........................................................................................................62 Chương 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA .......................................................................................................................63 2.1. Tổng quan về tình hình tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua .......63 2.1.1. Bối cảnh kinh tế.......................................................................................................63 2.1.2. Tình hình tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam...........................................70 2.1.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của CTTC tại Việt Nam ........................80 2.2. Thực trạng huy động vốn trên thị trường CTTC của các doanh nghiệp Việt Nam ....85 2.2.1. Điều kiện và quy trình thực hiện thuê tài chính của doanh nghiệp ....................85 2.2.2. Thực trạng huy động vốn trên thị trường CTTC của các doanh nghiệp Việt Nam ..... 87 2.2.3. Đánh giá thực trạng huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam............................................................................................................. 105 2.3. Kinh nghiệm huy động vốn trên thị trường cho thuê tài chính của các doanh nghiệp tại một số quốc gia trên thế giới và bài học đối với các doanh nghiệp Việt Nam .......................................................................................................................................... 122 2.3.1. Thuê tài chính của các doanh nghiệp tại một số quốc gia trên thế giới .......... 122 2.3.2. Một số bài học kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp Việt Nam.................. 127 Kết luận chương 2 ........................................................................................................ 129 Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HUY ĐỘNG VỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM................................................................................................................................ 130 3.1. Yêu cầu và định hướng phát triển thị trường CTTC ở Việt Nam.............. 130 3.1.1. Yêu cầu khách quan phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam.................................................................................... 130 3.1.2. Định hướng phát triển thị trường CTTC tại Việt Nam..................................... 137 3.1.3. Những cơ hội và thách thức khi huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam .................................................................. .139 3.2. Giải pháp đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam........................................................................................141 3.2.1. Nhóm giải pháp đối với các doanh nghiệp đi thuê tài chính............................ 141 3.2.2. Các giải pháp điều kiện........................................................................................ 148 3.3. Một số kiến nghị .................................................................................................... 164 3.3.1. Kiến nghị với các Bộ, Ngành có liên quan........................................................ 164 3.3.2. Kiến nghị với Chính phủ ..................................................................................... 165 Kết luận chương 3 ........................................................................................................ 166 KẾT LUẬN.........................................................................................................................8 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 168

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_3072.pdf
Luận văn liên quan