Hoàn thiện cơ cấu chi NSNN là một lĩnh vực khá phức tạp về mặt thực tiễn thực hiện, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều ngành khác nhau, do vậy đòi hỏi phải được Chính phủ, các ngành, các cấp quan tâm, tập trung nghiên cứu để từng bước hoàn chỉnh.
157 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2140 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đổi mới cơ cấu chi ngân sách nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở CHDCND Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục thông qua chính sách đãi ngộ giáo viên, đổi mới chương trình giảng dạy, nghiên cứu phương pháp dạy mới,
Chi quản lý hành chính:
Đây là những khoản chi mang tính chất tương đối đều đặn, bảo đảm duy trì cho hoạt động của bộ máy Nhà nước. Mặc dù chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi ngân sách nhưng do thu ngân sách CHDCND Lào còn chưa đủ thỏa mãn các nhu cầu chi nên những năm qua, khoản chi này thường bị cắt xén để tập trung cho chi đầu tư phát triển.
Trong thời gian tới, công tác quản lý điều hành chi NSNN một mặt kiên quyết cắt giảm các khoản chi không thực sự cần thiết hoặc không hợp lý, mặt khác vẫn phải bảo đảm các nhu cầu cơ bản về chi quản lý hành chính để phát huy hiệu quả hoạt động bộ máy Nhà nước. Để phù hợp với yêu cầu về chi lương, trang thiết bị làm việc, tốc độ tăng hàng năm của chi quản lý hành chính nên tính bình quân khoảng 15-16%.
Chi sự nghiệp kinh tế:
Đây là các khoản chi chủ yếu cho các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất các ngành nông lâm nghiệp, chi vận hành và bảo trì nhằm duy trì sự hoạt động và phát huy có hiệu quả tài sản Nhà nước đã được đầu tư. Cũng như chi quản lý hành chính, các khoản chi về sự nghiệp kinh tế trước đây cũng thường xuyên bị cắt giảm khi cân đối ngân sách căng thẳng. Hiện nay, chi sự nghiệp kinh tế chủ yếu do NSNN đảm nhận, do vậy để có kinh phí duy trì hệ thống đường giao thông trong tỉnh bảo đảm hoạt động tốt, trong thời gian tới chi sự nghiệp kinh tế cần được sắp xếp ưu tiên trong cơ cấu chi NSNN với tốc độ tăng hàng năm bình quân khoảng 13%. Tỷ lệ của nội dung chi quản lý sự nghiệp kinh tế trong cơ cấu chi thường xuyên đề nghị giữ ổn định ở mức khoảng 16%.
Chi sự nghiệp khoa học công nghệ:
Đây là khoản chi chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ trong chi thường xuyên. Tuy nhiên, để thúc đẩy phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong giai đoạn tới không thể xem nhẹ vai trò mũi nhọn của khoa học công nghệ. Trong điều kiện hiện nay, mặc dù còn khó khăn nhưng chi ngân sách ở CHDCND Lào cũng cần cố gắng dành sự ưu tiên đáng kể cho việc đẩy mạnh thành lập các trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, các dịch vụ về công nghệ thông tin. Tỷ lệ của nội dung chi sự nghiệp khoa học công nghệ trong cơ cấu chi thường xuyên đề nghị nâng lên ở mức khoảng 2%.
Ngoài những nội dung đã trình bày nêu trên, các nội dung còn lại trong chi thường xuyên tùy thuộc tình hình thực tế và khả năng thu Ngân sách Nhà nước để sắp xếp bố trí cho phù hợp. Tuy nhiên, về nguyên tắc có thể sắp xếp theo thứ tự ưu tiên như: Chi sự nghiệp y tế, chi sự nghiệp văn hóa thông tin, chi sự nghiệp xã hội,
3.3.1.2. Quản lý và điều hành các nội dung chi NSNN một cách linh hoạt, cơ cấu chi NSNN luôn được điều chỉnh theo đòi hỏi của tình hình KT-XH từng giai đoạn
Ngân sách Nha nước giữ vai trò đảm bảo hoạt động cho bộ máy quản lý Nhà nước và phát triển KT-XH, công tác quản lý và điều hành chi NSNN phải tuân theo những nguyên tắc về xây dựng chiến lược, kế hoạch mang tính ổn định cao. Trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn, cơ cấu các khoản chi NSNN phải được xây dựng dựa trên những luận cứ khoa học, khả năng đáp ứng của thu NSNN và các mục tiêu phát triển KT-XH của Nhà nước. Tuy nhiên, việc điều hành cơ cấu chi NSNN không phải chỉ tuân theo một công thức, một khuôn mẫu đã được xác định sẵn, mà nó còn thể hiện tính linh hoạt, luôn được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài ra, trong cơ chế thị trường, chi từ NSNN không còn là kênh cấp phát duy nhất cho các hoạt động của nền kinh tế. Sự đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư vốn, tham gia vào gần như mọi hoạt động KT-XH. Với cơ chế mới, công tác hoạch định và điều hành chi NSNN cũng phải đổi mới cho phù hợp trên cơ sở vừa duy trì được tính ổn định cần thiết vừa thể hiện tính linh hoạt trong việc quản lý ngân sách Nhà nước.
Với vai trò là công cụ quan trọng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, chính sách chi NSNN tác động đến mọi lĩnh vực KT-XH; do vậy cơ cấu chi NSNN luôn luôn phải được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở tổng kết thực tế và dự báo về tình hình phát triển KT-XH của địa phương trong giai đoạn kế tiếp. Có như vậy, các chính sách chi NSNN của tỉnh mới phát huy đầy đủ vai trò thúc đẩy phát triển KT-XH.
3.3.1.3. Thực hiện quy chế dân chủ và công khai hóa cơ cấu chi NSNN
Thực hiện quy chế dân chủ và công khai tài chính nói chung nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cán bộ về kinh tế, đồng thời tạo điều kiện cho việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân, thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập, thực hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm chế độ quản lý tài chính.
Trong khâu lập dự toán chi NSNN, cơ quan quản lý ngân sách cấp trên phải công khai đối với cơ quan quản lý ngân sách cấp dưới và các ngành liên quan về các định mức tiêu chuẩn, các nguyên tắc và phương thức phân bổ kinh phí ngân sách theo từng lĩnh vực chi, nhiệm vụ chi, số bổ sung từ ngân sách cấp trên, tỷ lệ điều tiết. Cần xem trọng công tác hướng dẫn xây dựng dự toán theo từng nội dung chi thường xuyên và chi xây dựng cơ bản, dự lường đầy đủ các khoản chi chính đáng dự kiến sẽ phát sinh.
Thực hiện quy chế dân chủ trong chấp hành dự toán chi NSNN thể hiện thông qua việc ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong chi ngân sách một cách hợp lý, tiết kiệm và công bằng. Hạn chế việc chi ngoài dự toán đã duyệt đầu năm, mọi khoản chi phí phát sinh trong năm phải được sắp xếp chi trong kinh phí đã được bố trí cho cơ quan, đơn vị, trừ những khoản chi phát sinh khách quan, bất khả kháng.
Cơ quan quản lý ngân sách cấp dưới và các đơn vị thụ hưởng ngân sách cũng phải công bố công khai khối lượng, chất lượng, kết quả nhiệm vụ đã thực hiện. Thường xuyên tổ chức kiểm tra việc thực hiện công khai ngân sách gắn liền với thực hiện quy chế dân chủ ở các ngành, các cấp, các đơn vị.
3.3.2. Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội
3.3.2.1. Điều chỉnh tăng tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH và ưu tiên đầu tư tại các khu vực có lợi thế, tiềm năng khai thác.
Trong điều kiện xuất phát điểm thấp thì nhu cầu về vốn đầu tư xây dựng cơ bản của địa phương để phát triển KT-XH trong thời gian tới là rất lớn. Trong tình trạng tất cả các ngành, các lĩnh vực đều cần vốn, việc thiết lập thứ tự ưu tiên các khoản chi ngân sách về đầu tư xây dựng cơ bản phải tập trung ưu tiên cho các công trình trọng điểm của tỉnh có tính chất quyết định và tạo đà để thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH giai đoạn 2015-2020. Trong đó, các lĩnh vực được NSNN ưu tiên hàng đầu là vốn đầu tư các công trình về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Trong thời gian tới, Chính phủ CHDCND Lào cần xem xét, nghiên cứu tăng quy mô và tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong NSNN để tập trung đầu tư hạ tầng KT-XH, đảm bảo các nguồn lực nhằm thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, đặc biệt là các dự án thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo. Với cơ cấu chi đầu tư phát triển hiện nay, tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH là quá khiêm tốn (1/4 tổng chi đầu tư phát triển), trong khi tỷ trọng chi đầu tư cho vay và viện trợ lại chiếm tỷ trọng quá cao trong chi đầu tư phát triển (3/4 tổng chi đầu tư phát triển). Với mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng GDP không ít hơn 8%/ năm. Khu vực nông lâm nghiệp tăng trưởng ít nhất 3%/năm, chiếm 23% GDP; khu vực công nghiệp tăng 15% mỗi năm, chiếm 39% GDP; và khu vực dịch vụ tăng trưởng 6,5%/năm chiếm 38% GDP. GDP bình quân đầu người đạt 1.700 USD (với tỷ giá quy đổi 8.500 kíp/USD), Chính phủ CHDCND Lào cần điều chỉnh tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lên từ 5-6% GDP (hiện nay là khoảng 2-3% GDP).
Đối với CHDCND Lào, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng từ những năm qua đã và đang phát huy được tác dụng phục vụ sản xuất và dân sinh, góp phần phát huy nội lực của nhân dân địa phương và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Tuy nhiên, tại những khu vực trọng điểm mà CHDCND Lào chủ trương tập trung phát triển về công nghiệp, du lịch, nhìn chung về cơ sở hạ tầng còn chưa đáp ứng về yêu cầu, hệ thống đường giao thông chất lượng xấu, các dịch vụ cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc chưa có hoặc đã có nhưng chưa đồng bộ.
Định hướng ở CHDCND Lào trong thời gian tới là xây dựng được cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông lâm nghiệp, ngư nghiệp. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, vai trò của các khoản chi đầu tư từ NSNN chỉ nên định hướng, dẫn dắt, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia. Như vậy, NSNN không thể và cũng không nên tập trung vốn đầu tư trực tiếp xây dựng các khu công nghiệp, các dự án du lịch, các nhà máy chế biến nông sản tại khu vực nông thôn mà vai trò đó thuộc về chủ đầu tư các thành phần kinh tế khác. Vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ cần tập trung ở một số khâu then chốt nhất như: Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng một chính sách tài chính thông thoáng và hợp lý sẽ thu hút được các nhà đầu tư. Cụ thể về các khoản chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mà NSNN cần tập trung trong giai đoạn tới:
Thứ nhất, để phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, NSNN phải đảm nhận phần lớn kinh phí cải tạo và xây dựng mới hệ thống đường giao thông liên tỉnh để tạo thế liên hoàn phát triển, đẩy mạnh giao thương với các quốc gia láng giềng như: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam,NSNN phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các dịch vụ về điện, nước, bưu chính viễn thông đến các khu công nghiệp, các dự án du lịch. Nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đầu tư vốn vào các dự án dưới các hình thức chủ yếu như: BT, BTO, BOT, liên doanh liên kết. Vốn đầu tư để xây dựng các dự án công nghiệp, du lịch có quy mô lớn chủ yếu kêu gọi từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư từ các tỉnh khác.
Thứ hai, để thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH khu vực nông nghiệp ở các bản, NSNN cần tập trung đầu tư cho việc nâng cấp, mở rộng đường giao thông nông thôn, đầu tư các công trình thủy lợi, quy hoạch tổng thể các vùng nguyên liệu, hỗ trợ thông qua nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Vốn đầu tư để thực hiện phát triển KT-XH khu vực nông thôn chủ yếu kêu gọi từ nguồn nội lực trong dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
3.3.2.2. Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH
Để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong những năm tới đòi hỏi Chính phủ phải tăng vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH. Để đảm bảo có đủ lượng vốn này, việc đẩy mạnh huy động các nguồn vốn đầu tư đa dạng cho phát triển cơ sở hạ tầng được coi là giải pháp mang tính đột phá. CHDCND Lào có nhiều cơ hội để huy động đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng. Chủ trương của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển cơ sở hạ tầng, tập trung các nguồn lực để ưu tiên cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện năng, tăng tỷ trọng đầu tư phát triển hạ tầng giáo dục, y tế,...
Để thực hiện tốt mục tiêu đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
- Thứ nhất, cần đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, mở rộng các phương thức đầu tư. Vốn Nhà nước chỉ tập trung đầu tư cho công tác quy hoạch, hỗ trợ đầu tư các công trình hạ tầng trọng yếu, ngoài ra cần đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn ngoài Nhà nước với các phương thức đa dạng như: Phát hành trái phiếu Chính phủ áp dụng cho các công trình giao thông quan trọng, có quy mô lớn; đầu tư theo hình thức BOT áp dụng cho một số dự án có khả năng hoàn vốn, chủ yếu là các dự án đường bộ chiến lược, một số cầu lớn; đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu công trình áp dụng cho các dự án có khả năng hoàn vốn cao; đầu tư theo hình thức chuyển nhượng thu phí; đổi đất lấy hạ tầng áp dụng cho các tuyến đi qua đô thị; lập các quỹ bảo trì đường bộ, quỹ đầu tư phát triển đô thị, quỹ đầu tư phát triển nông thôn,... tạo vốn “mồi” để huy động các nguồn vốn khác từ các thành phần kinh tế trong xã hội.
Nhà nước phải tạo ra một khung pháp lý thống nhất, đồng bộ; cần nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho việc thực hiện xã hội hóa đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Chính phủ cần ban hành Nghị định về xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng tăng cường phân cấp cho các địa phương, khu vực tư nhân, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp trong đầu tư và sản xuất kinh doanh; Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý, quy hoạch, kế hoạch, ban hành các chính sách, tổ chức thực hiện kiểm tra và giám sát.
Để tạo được các nguồn vốn bền vững và đa dạng, công tác quy hoạch phải luôn đi trước một bước, vì vậy, cần phải đổi mới công tác quy hoạch. Các Bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương cần sớm rà soát, lập quy hoạch và đề ra cơ chế, ban hành các danh mục đầu tư cơ sở hạ tầng để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này.
- Thứ hai, cần nâng cao chất lượng sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng hơn nữa, huy động vốn theo chiều sâu. Theo quan điểm này, Chính phủ cần xem xét thứ tự ưu tiên trong đầu tư. Tuy nhiên, nếu việc lựa chọn thứ tự ưu tiên này là có ích cho toàn xã hội thì nó lại có thể gây tổn hại tới lợi ích của một khu vực hay một bộ phận nào đó, do đó, để có thứ tự ưu tiên đúng đắn thì phải vượt qua được các lợi ích cục bộ. Đây không phải là một điều dễ dàng. Muốn vậy phải có phương pháp luận đúng đắn để đánh giá cụ thể và khách quan hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của các dự án đầu tư phát triển cở sở hạ tầng, từ đó mới có cơ sở xác định thứ tự ưu tiên của các dự án một cách hợp lý và có sức thuyết phục.
- Thứ ba, cần có sự phối hợp cân đối giữa chi tiêu cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và chi tiêu thường xuyên cho bảo dưỡng, sửa chữa các công trình hạ tầng. Sự thiếu phối hợp này sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư. Phần lớn các công trình khi mới xây dựng xong đưa vào sử dụng, nhu cầu chi phí bảo dưỡng là chưa đáng kể. Tuy nhiên, qua một thời gian nhu cầu chi phí này sẽ tăng lên nhiều, nếu không kịp đáp ứng thì công trình sẽ nhanh chóng xuống cấp, gây lãng phí trong đầu tư.
3.3.3. Về thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng CNH-HĐH cần lựa chọn các ngành ưu tiên tập trung phát triển
Vấn đề lựa chọn các ngành cần tập trung ưu tiên phát triển luôn là vấn đề được đặt ra trong nghiên cứu cơ cấu kinh tế. Nhìn chung, các Nhà nghiên cứu đã thống nhất với quan điểm của việc lựa chọn là xuất phát từ trạng thái nguồn lực của đất nước, yêu cầu về tính hiệu quả trong khuôn khổ những mục tiêu tăng trưởng cao, đòi hỏi chiến lược cơ cấu trong giai đoạn đầu phải có tính ưu tiên cho những ngành sử dụng nhiều lao động, có năng lực dịch chuyển cao một khi các tương quan về nguồn lực thay đổi và có tính hướng ngoại rõ rệt. Cả hai khía cạnh này của chiến lược phát triển đều nhằm khai thác một cách có hiệu quả các lợi thế tương đối mà đất nước sẵn có trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu.
Trong thời gian tới, CHDCND Lào cần tiếp tục tập trung khai thác và phát triển các ngành có tiềm năng cao để tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế như:
- Ngành Nông nghiệp: Tập trung công nghiệp hóa và hiện đại hóa cho nơi có điều kiện, nhất là sự biến đổi của nông nghiệp, phát triển sản xuất công nghiệp thực phẩm (trồng lúa gạo, trồng cây thực phẩm, rau sạch, chăn nuôi trang trại sử dụng công nghệ cao) để cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu, cây công nghiệp (theo tiềm năng thực tế của từng địa phương).
- Ngành công nghiệp: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế và cạnh tranh cao chẳng hạn như thủy điện, năng lượng nhiệt than, công nghiệp khoáng chất (vàng, đồng và ka li, sắt, bốc xít,...), công nghiệp chế biến (sản phẩm chế biến nông lâm nghiệp, khai thác mỏ,...), công nghiệp hàng may mặc để xuất khẩu, hàng dệt may thủ công, sản xuất công nghiệp vật liệu xây dựng (xi măng, tôn lợp, gạch, cáp dây điện, sắt thép), phụ tùng máy móc cho thị trường trong nước và xuất khẩu,...
- Ngành dịch vụ: Tập trung vào phát triển công nghiệp du lịch, dịch vụ quá cảnh, dịch vụ tổ chức hội nghị của khu vực và quốc tế, việc giao thông vận tải trong và ngoài nước, ngân hàng,...
Việc phát triển ngành có tiềm năng trên đây phải tạo ra thành dự án lớn và dự án vừa, phát triển một ngành công nghiệp trụ cột đối với việc công nghiệp hóa và hiện đại hóa của đất nước cùng với việc thực hiện chiến lược tạo điều kiện thuận lợi cho việc thương mại vạch ra trở thành hiện thực.
Xuất phát từ định hướng phát triển từng ngành kinh tế trên, về nguyên tắc vốn đầu tư phải tập trung ưu tiên cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên, trong thực tế, xu hướng vốn đầu tư ngoài khu vực ngân sách chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp, dịch vụ, là những ngành thu được lợi nhuận cao hơn. Do vậy, để các ngành phát triển cân đối, cơ cấu vốn đầu tư phát triển từ khu vực NSNN cho từng ngành kinh tế có thể phân bổ theo tỷ trọng như sau:
- Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp xây dựng chiếm khoảng 40% tổng chi đầu tư phát triển trong nước;
- Vốn đầu tư cho ngành dịch vụ chiếm khoảng 40% tổng chi đầu tư phát triển trong nước;
- Vốn đầu tư cho ngành nông lâm nghiệp chiếm khoảng 20% tổng chi đầu tư phát triển trong nước.
3.3.4. Về xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội
3.3.4.1. Gắn mục tiêu xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội với mục tiêu tăng trưởng và phát triển KT-XH
Trong điều kiện hiện nay xóa đói giảm nghèo là điều kiện cần thiết, đảm bảo cho việc ổn định chính trị. Thành công của xóa đói giảm nghèo sẽ là nhân tố rất quan trọng, củng cố bảo vệ chế độ chính trị và giữ vững ổn định chính trị. Mọi biện pháp lớn nhỏ để xóa đói giảm nghèo đều phải được nhìn nhận từ chính trị, từ việc bảo vệ quyền làm chủ chế độ, làm chủ xã hội của nhân dân lao động.
Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào, là yếu tố quan trọng đảm bảo sự ổn định, phát triển KT-XH, đó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề của toàn Đảng và toàn dân Lào.
Xóa đói giảm nghèo không chỉ dừng lại ở việc thực hiện các chính sách xã hội, không chỉ việc riêng của ngành lao động xã hội hay một số ngành khác mà nó là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi cán bộ Đảng, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ và có sự tham gia của toàn thể cộng đồng.
Đẩy mạnh cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, coi đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn xã hội. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao hơn nữa nhận thức của mọi cán bộ Đảng viên ở tất cả các ngành, các cấp trong các tầng lớp dân cư về ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội của vấn đề xóa đói giảm nghèo, với tầm cỡ to lớn và khó khăn phức tạp của nó xóa đói giảm nghèo không thể chỉ dừng ở các chủ trương, đường lối chung, mà phải có sự phối hợp đồng bộ, nhất quán từ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, các chính sách, biện pháp cụ thể của Nhà nước các cấp đến sự nỗ lực của mỗi gia đình, mỗi cá nhân trong xã hội.
Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện phương châm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh,có thể nói đây là định hướng và mục tiêu xuyên suốt của công cuộc đổi mới mở cửa và chương trình xóa đói giảm nghèo ở CHDCND Lào. Trong văn kiện Đại hội IX giai đoạn từ 2011-2015 có nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về phân phối và phát triển sản xuất: “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả.” “Phân phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2011 của nhân dân các bộ tộc Lào vừa qua cũng tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi sản xuất. Sở dĩ Đảng và Nhà nước xác định phân phối theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu vì đây là hình thức phân phối hợp lý và công bằng nhất so với các hình thức phân phối khác. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng đã thực hiện các hình thức phân phối khác như phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực sản xuất và phân phối thông qua phúc lợi nhằm phát huy tính tích cực lao động của người dân và nâng cao thêm mức sống của người dân, đặc biệt là với những người có thu nhập thấp và khó khăn. Để đạt được mục tiêu từng bước thu hẹp và xóa bỏ sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển sức sản xuất, hoàn thiện chính sách tiền lương, điều tiết thu nhập dân cư nhằm hạn chế sự chênh lệnh quá đáng về mức thu nhập, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Với quan điểm như vậy, có thể nhận thấy, chính sách phân phối của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua thiên nhiều theo hướng song song với phát triển kinh tế cố gắng đảm bảo công bằng xã hội, cố gắng tối đa thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Kinh nghiệm ở CHDCND Lào cho thấy, để giải quyết thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư, trước hết CHDCND Lào thực hiện chiến lược đầu tư mạnh cho những vùng miền, ngành nghề lĩnh vực có khả năng phát triển và đảm bảo được hiệu quả đầu tư cao, sau đó thông qua các chính sách như: Thuế, ưu đãi đầu tư, hợp tác tài chính để điều tiết thu nhập giữa vùng giàu với vùng nghèo, giữa nông thôn và thành thị, giữa các cá nhân trong xã hội, ngoài ra CHDCND Lào còn thực hiện phân bổ nguồn lực tài chính tương đối đồng đều cho các vùng, đồng thời có phần ưu tiên cho các vùng nghèo, vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên cách làm ở CHDCND Lào đã dẫn tới tình trạng đầu tư tràn lan, mỗi nơi một chút, hiệu quả thấp. Trong khi đó khoảng cách giàu nghèo vẫn ngày càng rộng hơn, mặc dù giảm nghèo trên diện rộng, song CHDCND Lào vẫn đang phải đối phó với tình trạng khoảng cách chênh lệnh giữa các tầng lớp dân cư có chiều hướng doãng ra. Hiện nay thu nhập của 10% dân số có thu nhập cao nhất cao gấp 6 lần so với 10% dân số có mức thu nhập thấp nhất. Trong khi đó, số dân xấp xỉ ngưỡng nghèo là rất lớn. Chính vì thế, trong thời gian tới, để giảm bớt khoảng cách chênh lệnh giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư, Đảng và Nhà nước nên điều chỉnh chênh lệnh giàu nghèo giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư thông qua biện pháp gián tiếp chẳng hạn như: Là thuế, điều phối ngân sách,không nên thông qua các giải pháp trực tiếp kinh nghiệm đầu tư xây dựng nhà máy chế biến nông sản ở bản Tha Ngon thủ đô Viêng Chăn,tràn lan trong những năm qua đã cho thấy điều đó.
Gắn giáo dục với xóa đói giảm nghèo; để người nghèo có thể tiếp cận với giáo dục cần giải quyết được các vấn đề là phải giảm chi phí cho việc đi học của người nghèo và nâng cao lợi ích của việc giáo dục, có nghĩa là tạo ra những hiệu quả thiết thực nhận được từ giáo dục của người nghèo. Các giải pháp để giải quyết các vấn đề đó ở CHDCND Lào.
Xóa bỏ tình trạng bản trắng về cơ sở giáo dục, xóa mù chữ, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học cho các hộ nghèo, phổ cập nghề phổ thông cho các thanh niên không có điều kiện. Tăng cường đầu tư để nhanh chóng củng cố và phát triển đến bản hoặc cụm bản hệ thống tổ chức giáo dục, đào tạo đảm bảo hầu hết các bản nghèo có đủ các phòng học cấp tiểu học và trung học cơ sở, đa dạng hóa các hình thức dạy và học; nâng cấp cơ sở vật chất các trường nội trú hiện có và mở thêm một số trường ở những nơi cần thiết cho con em đồng bào dân tộc để tạo nguồn và khuyến khích các cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước tham gia giáo dục miễn phí cho các hộ nghèo, người nghèo.
Nâng cao chất lượng giáo dục và các cấp học cơ sở ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng sa biên giới, đảm bảo đủ đội ngũ giáo viên. Có chính sách trợ cấp và học bổng để tạo điều kiện cho con em các gia đình nghèo được tới trường. Có chính sách ưu đãi đối với giáo viên lên dạy học ở vùng sâu, vùng xa,
Gắn đào tạo nghề nghiệp với xóa đói giảm nghèo; các hộ nghèo đói phần lớn là không có nghề, không biết cách làm ăn và thiếu kinh nghiệm là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra nghèo đói. Phần lớn người nghèo có trình độ văn hóa thấp hầu như không hoặc ít được đào tạo về nghề nghiệp và do những yếu kém về thể chất, hạn chế về vốn, về tư liệu sản xuất cho nên hầu hết người nghèo thiếu kiến thức sản xuất kinh doanh, không biết sử dụng hợp lý các nguồn lực và điều kiện sẵn có để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy cần phải đào tạo nghề cho người nghèo.
Đào tạo các nghề có nhu cầu phát triển nhất là cách sơ chế, chế biến các sản phẩm từ nông, công nghiệp và các loại nghề thủ công có ở trong vùng mình để người nghèo có việc làm thêm mới có thể có đủ thu nhập trang trải hàng ngày.
Hướng dẫn kỹ thuật canh tác làm ruộng, vườn, chăn nuôi gia súc, gia cầm và các vật nuôi khác với những tiến bộ kỹ thuật và điều kiện đang có sẵn trong địa phương mình để tăng năng suất và hiệu quả sản xuất cho người nghèo, hộ nghèo.
Hướng dẫn các tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ doanh nghiệp quy mô gia đình cho phù hợp với điều kiện thực tế với yêu cầu của thị trường.
Cách hướng dẫn, giúp đỡ người nghèo đói cần phải theo một quy trình nhất định thống nhất, bắt đầu từ khâu điều tra, nắm thực trạng nguyên nhân nghèo đói, vạch ra kế hoạch và các giải pháp giúp đỡ thiết thực, phân công trách nhiệm, kiểm tra đánh giá kết quả, đưa ra các giải pháp, cần sáng tạo với cách làm phù hợp với đối tượng,
Cần phải tổ chức một cách rộng rãi việc dạy nghề cho các hộ nghèo, người nghèo, chủ yếu là cho các ngành nghề về sản xuất nông lâm nghiệp với những tiến bộ mới về công nghệ sinh học,đồng thời cũng phải quan tâm đào tạo có trọng điểm cho các lực lượng lao động trẻ, các ngành tiểu thủ công nghiệp và những nghề mới phù hợp với thị trường.
Gắn chăm sóc y tế với xóa đói giảm nghèo; tạo điều kiện để người nghèo được cung cấp các dịch vụ y tế, được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng với giá cả phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và mức thu nhập của các cá nhân trong xã hội. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhất là người nghèo, hộ nghèo và các đối tượng chính sách,...các hộ nghèo do sức khỏe yếu kém, không có sức lao động, dễ bị mắc bệnh thì các cấp chính quyền trung ương, tỉnh, huyện, bản nên thực hiện chính sách ưu đãi xã hội cho hộ nghèo, người nghèo cần phải xem xét từng hộ nghèo đói để áp dụng các chính sách xã hội cho phù hợp với thực tiễn chẳng hạn: Chính sách ưu đãi, trợ cấp xã hội và các hình thức khác,đồng thời cũng nên quan tâm tới các đối tượng hộ nghèo, người nghèo nói chung.
3.3.4.2. Hoàn thiện cơ chế định mức phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước sát với mục tiêu xóa đói giảm nghèo
Xây dựng một định mức phân bổ ngân sách nhà nước phù hợp với mục tiêu xóa đói giảm nghèo và phải đơn giản, cụ thể cho các huyện và bản thực hiện. Điều đó, sẽ giúp cho các địa phương lập và thực hiện dự toán dễ dàng hơn, xác định được nhu cầu sử dụng ngân sách của địa phương mình, tự chủ, tự chịu trách nhiệm quản lý ngân sách đó. Từ đó, góp phần thiết thực cho xóa đói giảm nghèo. Những định mức Ngân sách có thể được áp dụng thống nhất ở các cấp chính quyền khác nhau không có nghĩa là thẩm quyền về ngân sách của các tỉnh, thành phố bị mất đi mà nó tạo ra cơ chế cho quan hệ theo thứ bậc giữa tỉnh, thành phố với các huyện và bản hoạt động theo hướng minh mạch và công bằng hơn. Cải tiến cơ chế huy động, phân bổ và quản lý nguồn lực theo hướng đa nguồn, coi trọng tại chỗ của từng địa phương; có chính sách phù hợp để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào miền núi, nhất là ưu đãi về đất, thuế; kêu gọi sự hỗ trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, tạo lực mạnh về tài chính cho các vùng nghèo.
Tập trung ưu tiên nguồn lực cho các bản miền núi, bản có tỷ lệ hộ nghèo cao và đảm bảo công bằng giữa các vùng, miền có điều kiện như nhau, phân bổ theo số đối tượng của địa phương, miền Bắc tập trung số hộ nghèo chiếm số lượng cao trong cả nước, tình hình kinh tế giữa ba miền Bắc, Trung và Nam không đồng đều do đặc thù vị trí địa lý giữa ba miền rất khác nhau, cho nên cần có định mức phân bổ phù hợp cho các bản đặc biệt khó khăn.
3.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU CHI NSNN
3.4.1. Hoàn thiện quy trình thực hiện chi NSNN trên cơ sở cải cách thủ tục hành chính
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là các thủ tục hành chính trong khâu cấp phát, thanh toán vốn.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị trong hệ thống ngành tài chính ở địa phương để không có sự chồng chéo trong quản lý tài chính và ngân sách, mặt khác tạo sự kết hợp đồng bộ giữa các đơn vị để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý ngân sách ở địa phương. Hoàn thiện các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị thụ hưởng NSNN chủ động trong sử dụng kinh phí, khắc phục tình trạng kinh phí NSNN phải đi vòng vèo qua các khâu trung gian không cần thiết. Thực hiện triệt để nguyên tắc cấp phát thanh toán trực tiếp qua hệ thống Kho bạc Quốc gia cho mọi đối tượng sử dụng ngân sách, mục đích là để hạn chế tối đa tồn đọng kinh phí ngân sách ở tài khoản hoặc quỹ tiền mặt của các đơn vị, qua đó kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng kinh phí NSNN đúng mục đích.
Cơ quan tài chính duyệt dự toán chi tiết cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách và hướng dẫn định mức các khoản chi tiêu. Dự toán và định mức chi được thông báo cho các đơn vị ra lệnh chuẩn chi kèm theo hồ sơ gửi Kho bạc để cấp phát thanh toán trực tiếp.
3.4.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công tác quản lý thu, chi NSNN
Trên cơ sở rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, cơ quan Tài chính các cấp, Kho bạc Quốc gia cần tiến hành sắp xếp lại bộ máy tổ chức hiện có đảm bảo nguyên tắc gọn nhẹ, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, bộ phận trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao; hạn chế thấp nhất các thủ tục hành chính không cần thiết. Thành lập Vụ phân tích và Dự báo thuộc Bộ Tài chính để thực hiện nhiệm vụ phân tích và dự báo sự biến động của các chỉ số kinh tế phục vụ cho công tác quản lý và điều hành NSNN.
Bên cạnh đó cần không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý NSNN để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin và các thiết bị hiện đại trong quản lý kinh tế.
Việc kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng đào tạo cán bộ là những yếu tố mang tính quyết định cho sự thành công của một hệ thống thu, chi NSNN.
Trên cơ sở thực trạng cán bộ thực thi công tác quản lý NSNN ở CHDCND Lào hiện nay, mặc dù đã được đào tạo, bồi dưỡng khá nhiều. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ ở CHDCND Lào chưa thực sự phù hợp với yêu cầu hiện tại.
Trong thời gian tới cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
- Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ trực tiếp, kể cả về chuyên môn và nghiệp vụ khác như: Máy vi tính, ngoại ngữ,
- Cần tổ chức và sắp xếp lại các cán bộ của các cơ quan cho đúng với chuyên môn nghiệp vụ thực mà các cán bộ đã từng học đồng thời bổ sung cán bộ mới có trình độ chuyên môn cao vào làm việc, các cán bộ đó phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tế của cơ cấu tổ chức hiện hành và phù hợp với khả năng thực tiễn của họ nhằm phát huy triệt để tiềm năng, sở trường của cán bộ, tinh giảm biên chế đối với một số trường hợp yếu kém, mất phẩm chất không còn phù hợp với yêu cầu quản lý hiện nay, tránh tình trạng nhận cán bộ không đúng chuyên môn.
- Cải cách chế độ tiền lương, thưởng và các chế độ đãi ngộ, phúc lợi xã hội đối với cán bộ, đảm bảo cho những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của các cán bộ công nhân viên trong ngành, có như vậy mới đảm bảo cho họ thực sự yên tâm trong công tác, tránh được những nguy cơ phát sinh các hiện tượng tiêu cực.
Hàng năm cần thiết phải tổ chức cuộc thi tuyển chọn, sát hạch về chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ trên cơ sở đánh giá phân loại cán bộ theo các tiêu chuẩn đề ra.
3.4.3. Nâng cao kỹ năng khai thác và nuôi dưỡng nguồn thu
Khai thác nguồn thu được hiểu là việc xác định đúng các lợi thế của địa phương về tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, vật lực để tận dụng đưa vào phát triển kinh tế, tăng thu cho NSNN, phù hợp với pháp luật của Nhà nước.
Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động quản lý khai thác thu NSNN là ngay từ khi lập dự toán, nhà quản lý phải đánh giá, phân tích kỹ lưỡng những tiềm năng và thế mạnh của địa phương, dự báo được tính khả thi của các nguồn thu bằng những căn cứ xác đáng để không tạo khoảng cách giữa việc lập dự toán với các khoản thực thu. Điều đó đòi hỏi: Những phân tích, đánh giá yếu tố ảnh hưởng, tác động nhiều mặt đến khai thác tiềm năng của địa phương phải chính xác, đảm bảo đánh giá tiềm năng, lợi thế của địa phương không thấp hơn thực tế để không bỏ sót nguồn thu và cũng không được cao hơn thực tế, để các nguồn thu đã chỉ ra phải chắc chắn thu được.
Việc khai thác nguồn thu phải gắn với nuôi dưỡng, phát triển nguồn thu, không vì mục tiêu trước mắt, tận thu làm cạn kiệt nguồn thu, mất đi nguồn thu lâu dài. Khi tiến hành khai thác, nuôi dưỡng nguồn thu NSNN, chủ thể quản lý cần tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: Xác định đầy đủ phạm vi các nguồn thu hiện có;
- Bước 2: Làm rõ thế mạnh của những nguồn thu có khả năng khai thác mở rộng;
- Bước 3: Có những hỗ trợ kịp thời bằng chính vai trò của chính quyền Nhà nước nhằm tăng cường khả năng mở rộng nguồn thu tiềm năng.
Việc phân loại, đánh giá các nguồn thu là cần thiết; nhưng điều kiện đủ là đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh, thành phố cần sử dụng tổng hợp các kỹ năng hỗ trợ khai thác thu để hoạt động tổ chức khai thác thu NSNN thực sự có hiệu quả. Cụ thể là:
- Thứ nhất: Lập kế hoạch xác định đúng những vấn đề trọng tâm trong khai thác nguồn thu Ngân sách:
+ Xác định rõ mục đích của từng khoản thu là gì? Làm thế nào để cho mọi người dân trong mỗi tỉnh, thành phố có thể hiểu và nhất trí với mục đích của từng khoản thu;
+ Chính quyền cấp tỉnh, thành phố cần quan tâm đến cách thức công khai cho mọi người dân về các vấn đề ngân sách. Tuy nhiên, cần chú ý tính ưu, nhược điểm của từng cách thức để có phương án kết hợp tốt, đạt hiệu quả quản lý thu ngân sách;
+ Tổ chức cho nhân dân có thể tham gia quyết định các mức thu và cách thu đối với các khoản thu đóng góp tự nguyện;
- Thứ hai: Xúc tiến các hoạt động hỗ trợ khai thác nguồn thu NSNN:
+ Tuyên truyền, vận động làm rõ ý nghĩa của việc huy động, vai trò của người dân trong sự đóng góp cho Ngân sách tỉnh, thành phố làm cho họ hiểu và thấy được lợi ích từ sự đóng góp của họ;
+ Có kế hoạch, chính sách kêu gọi đầu tư cho quê hương, hỗ trợ tổ chức họp hội đồng hương để quyên góp hỗ trợ người nghèo và xây dựng quê hương. Xây dựng chính sách thu hút đầu tư như khuyến khích đầu tư, xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính;
+ Có chính sách đấu thầu đúng quy định, thông báo và bỏ thầu công khai, rộng rãi nhằm thu hút được nhiều nhà thầu, tăng sức cạnh tranh để định giá cao nhất đối với các hoa lợi, công sản;
+ Đánh giá đúng những tiềm năng và lợi thế của địa bàn để có chính sách phù hợp, tạo cơ sở hạ tầng tốt hỗ trợ cho ngày càng nhiều cá nhân, đơn vị kinh doanh tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời thu hút các nhà đầu tư nước ngoài;
+ Đưa các nguồn vật lực, tài nguyên, đất đai vào sử dụng, hạn chế tối đa tình trạng bỏ hoang;
+ Thực hiện trùng tu đình chùa, sửa chữa nâng cấp các khu vui chơi giải trí, danh lam thắng cảnh,thu hút khách tham quan nhằm tăng các khoản thu từ các khoản phí;
+ Chuyển đổi hình thức sử dụng đất đai, đầm hồ, cơ cấu kinh tế địa phương theo chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, khai thác tiềm năng, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống;
Khai thác và nuôi dưỡng nguồn thu NSNN một cách hợp lý là một vấn đề khó khăn, đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh, thành phố phải quan tâm đến đời sống của người dân, tạo được lòng tin đối với dân trong quản lý, sử dụng có hiệu quả ngân sách. Mặt khác, thu phải công bằng đối với mọi người và phải đảm bảo yếu tố bền vững của nguồn thu.
3.4.4. Công tác tuyên truyền
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin để các cấp, ngành có liên quan và đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước nhận thức đúng đắn về ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của quá trình cải cách hoạt động thu, chi NSNN để có những biện pháp thiết thực thực góp phần cân đối NSNN, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm lần thứ VII ở CHDCND Lào.
Trong công tác tập trung các khoản thu NSNN có kịp thời đầy đủ và có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào ý thức tự giác chấp hành các quy định về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, về thời hạn, quy định thu NSNN của các đối tượng nộp.
Kinh nghiệm ở hầu hết các nước cho thấy, yếu tố cơ bản để thực hiện thành công một sắc thuế mới không chỉ phụ thuộc vào hệ thống văn bản pháp luật mà còn rất cần có sự hiểu biết sâu sắc, kỹ lưỡng ý thức tự giác chấp hành của mỗi cán bộ thuế và của quảng đại quần chúng nhân dân, đặc biệt là của những người nộp thuế. Cần giải thích để họ hiểu rằng bản chất thuế dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là của dân, do dân, vì dân, Nhà nước thu thuế để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, phát triển KT-XH để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng văn minh, vì vậy, nộp thuế là trách nhiệm của toàn dân. Cần phải coi công tác tuyên truyền, giải thích về quyền lợi, trách nhiệm của người nộp thuế là một công việc quan trọng cần được thực hiện thường xuyên. Cơ quan thuế cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan thông tin tuyên truyền đại chúng để tiến hành các công việc cụ thể sau:
- Soạn thảo, phổ biến rộng rãi các tài liệu giải thích, tuyên truyền về thuế cho mọi người dân biết để họ có hiểu biết đầy đủ, tường tận về chính sách thuế, phương pháp kê khai thuế, cách tính thuế và thời hạn nộp thuế,... qua đó giúp các đối tượng thực hiện tốt hơn nghĩa vụ nộp thuế của mình. Thực hiện đôn đốc tuyên truyền và giải thích những thắc mắc về các chính sách thuế tại các địa điểm tập trung đông dân cư và phát hành các tờ rơi tài liệu có liên quan đến chính sách thuế đồng thời kết hợp sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền giải thích chính sách thuế (Đài phát thanh, đài truyền hình, sách báo, tạp chí,...). Lập trang web về thuế trên mạng Internet để các tổ chức, cá nhân có thể khai thác tìm hiểu về chính sách thuế và các thủ tục về thuế, cài đặt hệ thống giải đáp thắc mắc về thuế qua mạng Internet, điện thoại.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính sách thuế, viết bài tuyên truyền về thuế, chiến dịch tuyên truyền về thuế.
- Thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế sâu rộng tới các tầng lớp dân cư thông qua các tổ chức đoàn thể như: Trung tâm xúc tiến thương mại đầu tư, phòng công nghiệp và thương mại, Hiệp hội doanh nghiệp trẻ. Đưa giáo dục về thuế vào chương trình giảng dạy ở các trường học, đưa ra quy định mọi tổ chức, cá nhân trước khi kinh doanh đều phải được cấp chứng chỉ đã qua lớp tập huấn, hướng dẫn về thuế.
- Thành lập trung tâm tư vấn giải đáp thắc mắc, trả lời các vấn đề liên quan đến chính sách thuế miễn phí cho mọi đối tượng.
Ngoài ra, cơ quan thuế cần tổ chức các buổi tọa đàm, đối thoại với nhân dân, với các cơ sở kinh doanh để thăm dò nguyện vọng của nhân dân, kịp thời giúp đỡ cơ sở sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc chấp hành chính sách thuế, qua đó phản ánh kịp thời các bất cập của cơ chế hiện hành lên cơ quan quản lý cấp trên để có những sửa đổi, bổ sung nhằm làm cho chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập trung ngày càng nhiều nguồn thu cho NSNN.
3.4.5. Tăng cường trang thiết bị hiện đại hoá phục vụ công tác quản lý thu, chi NSNN
Xuất phát từ bản chất, các cơ quan Thuế, Kho bạc Quốc gia các cấp là cơ quan công quyền thực hiện chức năng của Nhà nước, do vậy thường xuyên tiếp xúc với hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, trụ sở các cơ quan này phải được đầu tư thoả đáng, đảm bảo tính nghiêm minh của cơ quan Nhà nước. Mạng lưới các cơ quan thực thi và quản lý NSNN từ Trung ương đến Địa phương cần phải khang trang bề thế đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đối tượng trong việc giao dịch với các cơ quan.
Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động của các cơ quan Thuế, Kho bạc Quốc gia; trong đó, ưu tiên đầu tư sử dụng các phần mềm tiên tiến trên thế giới phù hợp với yêu cầu quản lý tài chính và ngân sách trong tình hình mới và theo thông lệ quốc tế.
Huy động các nguồn lực tài chính để thực hiện đầu tư cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Chú trọng thu hút nguồn vốn ngoài nước cho các dự án hiện đại hoá, tập trung vào dự án hệ thống thông tin quản lý thu, chi NSNN của giai đoạn hiện nay và hướng mở rộng của dự án các năm tới.
3.4.6. Về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin phục vụ cho việc lập dự toán và quản lý, điều hành NSNN theo dự toán
Để thực hiện việc xây dựng dự toán theo khuôn khổ chi tiêu trung hạn và thực hiện quản lý, điều hành NSNN theo dự toán, hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin thu, chi NSNN đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bộ Tài chính cần tiến hành xây dựng các chỉ tiêu báo cáo thống nhất để làm cơ sở cho việc thu thập, tổng hợp số liệu, đồng thời cần xây dựng một hệ thống lưu trữ số liệu thu, chi NSNN hoàn chỉnh. Trên cơ sở các mạng thông tin cục bộ hiện có (mạng thông tin của cơ quan thu, của kho bạc quốc gia), ngành tài chính cần sớm xây dựng một trung tâm cơ sở dữ liệu và truyền thông thống nhất của toàn ngành. Hệ thống này được sử dụng để lưu trữ toàn bộ các thông tin có liên quan đến thu, chi NSNN; tiến độ tập trung nguồn thu; tiến độ chi; tồn quỹ NSNN hiện có để cơ quan tài chính và kho bạc quốc gia có thể chủ động điều hành NSNN trong mọi tình huống. Các dữ liệu được lưu trữ một cách có hệ thống tại trung tâm này cũng là những căn cứ quan trọng để các bộ phận có chức năng tổng hợp, phân tích, dự báo các thông số kinh tế vĩ mô và các biến động có thể ảnh hưởng đến kế hoạch NSNN phục vụ cho việc xây dựng dự toán và quản lý, điều hành NSNN.
3.4.7. Nâng cao trình độ thanh toán cho nền kinh tế
Trình độ công nghệ thanh toán của nền kinh tế trong đó có công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng và Kho bạc Quốc gia có tác động trực tiếp đến hiệu quả quản lý chi NSNN nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn nói chung của toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ cần có các giải pháp cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống công nghệ thanh toán hiện đại nhằm hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong các quan hệ thanh toán; tiến tới sử dụng phổ biến hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm góp phần tiết kiệm chi phí xã hội và nâng cao hiệu quả quản lý NSNN của Nhà nước.
3.4.8. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý, điều hành NSNN
Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Tài chính, Thuế, Hải quan, Kho bạc Quốc gia nhằm đẩy nhanh việc tập trung các khoản thu NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN. Cơ quan Tài chính, Kho bạc Quốc gia thường xuyên trao đổi thông tin để nắm bắt kịp thời các số liệu về thu, chi, tồn quỹ NSNN để có biện pháp điều hành linh hoạt trong từng tình huống cụ thể. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Tài chính, Kho bạc Quốc gia với ngân hàng trong việc tổ chức thanh toán, chi trả các khoản chi của NSNN và bố trí nguồn đáp ứng các nhu cầu chi tiêu khi tồn quỹ NSNN bị thiếu hụt tạm thời.
Trong công tác chống thất thu thuế, cơ quan Thuế tuy là nòng cốt nhưng không thể một mình chống thất thu có hiệu quả được mà phải dựa vào các tầng lớp dân cư, đặc biệt là các cấp các ngành, các cơ quan có chức năng như:
- Văn phòng bản: cơ quan Thuế nên phối hợp một cách thường xuyên và chặt chẽ với tổ chức này để nắm bắt được những đặc điểm riêng biệt của từng hộ kinh doanh và cũng có thể phát hiện ra được những hộ nào mới ra kinh doanh từ đó hướng dẫn cho các hộ này đi đăng ký kinh doanh và cấp mã số thuế cho họ, hoặc có thể phối hợp với Văn phòng bản để tổ chức những buổi gặp mặt giữa đội tuyên truyền thuế và các hộ kinh doanh trong bản từ đó cán bộ thuế có thể tuyên truyền, hướng dẫn và giải đáp những vướng mắc về thuế để cho các hộ kinh doanh có thể hiểu biết được sâu rộng hơn đối với quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với cơ quan Thuế.
Ngoài ra phối hợp với Văn phòng bản cũng có thể biết được kịp thời những hộ đang có ý định chuyển đi kinh doanh nơi khác có nợ đọng thuế hay không, tránh tình trạng các đơn vị có nợ đọng trốn đi kinh doanh nơi khác mà không trả tiền thuế trước.
- Phòng Tài chính: Phòng thuế cũng cần thường xuyên phối hợp với các phòng Tài chính của huyện và các bản để có thể biết được nhu cầu chi tiêu và tiêu dùng trong phạm vi huyện, bản của mình.
- Bộ phận quản lý thị trường: để có thể biết được tình hình biến động về giá cả thị trường của từng mặt hàng, ngành nghề, cơ quan Thuế cần phối hợp với bộ phận này một cách chặt chẽ để từ đó có thể ấn định được doanh số cho các đơn vị nộp thuế theo phương pháp ấn định doanh thu và các hộ khoán. Ngoài ra còn có thể phát hiện ra những mặt hàng chưa dán tem và thông báo cho cơ quan Thuế đến dán tem,
- Phối hợp với cơ quan Công an (đặc biệt là Công an kinh tế): để xử lý và điều tra những vụ trốn lậu thuế hoặc điều tra những hộ có nợ đọng lớn không nộp tiền thuế rồi trốn đi kinh doanh ở các nơi khác mà không báo lại với cơ quan Thuế.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng khác để có thể theo dõi được sát sao và kịp thời về mọi mặt biến đổi về số lượng, quy mô kinh doanh,trên địa bàn của các đơn vị kinh doanh từ đó mới có thể quản lý và thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và chính xác.
Kết luận chương 3:
Trong chương 3, trên cơ sở các mục tiêu, định hướng phát triển KT-XH ở CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030, luận án đã trình bày các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào với những nội dung chủ yếu như sau:
- Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH trong giai đoạn 2015-2020 ở CHDCND Lào;
- Các quan điểm chung về hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào nhằm mục tiêu phát triển KT-XH giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030;
- Trình bày hệ thống các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào và các giải pháp hỗ trợ cần thực hiện nhằm tao điều kiện tốt nhất cho việc thực hiện các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào thời gian tới.
Toàn bộ các giải pháp trên được cấu thành như một hệ thống, có quan hệ mật thiết với nhau. Chính vì vậy, để hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào trong giai đoạn tới cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp. Mặt khác không được xem nhẹ các giải pháp hỗ trợ vì đây là những điều kiện cần thiết để hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào.
KẾT LUẬN
Cùng với quá trình phát triển KT-XH đất nước, thời gian qua công tác quản lý điều hành chi NSNN ở CHDCND Lào đã đạt được nhiều tiến bộ nhất định. Cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào đã cơ bản đảm bảo được các nhu cầu chi tiêu tối thiểu của bộ máy Nhà nước, từng bước gắn với các mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, những hạn chế, tồn tại trong cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào đòi hỏi phải sớm được khắc phục và hoàn thiện trong thời gian tới.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đánh giá tác động của cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào đến đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội, nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn 2030, Luận án đã hoàn thành được các nội dung chủ yếu như sau:
- Về lý luận, Chương 1 đã hệ thống hóa những lý thuyết cơ bản về NSNN và cơ cấu chi NSNN với phát triển KT-XH. Trong đó các nội dung đã tổng hợp và trình bày theo hệ thống về khái niệm, bản chất, cơ cấu, chức năng, và các tác động của cơ cấu chi NSNN tới phát triển KT-XH, biểu hiện thông qua các lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội.
- Về thực tiễn, Chương 2 đã tập trung liệt kê, trình bày diễn biến cơ cấu chi ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào giai đoạn 2001-2012, qua đó trình bày các tác động của cơ cấu chi NSNN tới đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội. Qua đó, đánh giá những thành tựu, hạn chế, phân tích nguyên nhân khách quan và chủ quan của những tồn tại, hạn chế đó.
- Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, Chương 3 đã đề xuất một hệ thống các giải pháp, các kiến nghị cụ thể để tiếp tục hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào trong giai đoạn tới góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH của đất nước.
Hoàn thiện cơ cấu chi NSNN là một lĩnh vực khá phức tạp về mặt thực tiễn thực hiện, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều ngành khác nhau, do vậy đòi hỏi phải được Chính phủ, các ngành, các cấp quan tâm, tập trung nghiên cứu để từng bước hoàn chỉnh.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Cơ cấu chi NSNN-Kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam bài học cho CHDCND Lào, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 01 (114) -2013, từ trang 68-70.
Cơ cấu chi ngân sách CHDCND Lào giai đoạn 2001- 2012, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 02 (115) - 2013, từ trang 62-64.
Tác động của cơ cấu chi NSNN đối với tăng trưởng kinh tế và phát tiển kinh tế xã hội ở CHDCND Lào, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 03 (128) - 2014, từ trang 55-58.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_ts_sua_chua_sau_co_nhan_xet_2_pb_kin_6189.doc