Để tạo điều kiện cho sản xuất và xuất khẩu gạo theo hướng nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững, luận án còn có một số kiến nghị với Chính phủ và các tỉnh ĐBSCL tiến hành nghiên cứu tổng kết các mô hình liên kết trong sản xuất và xuất khẩu gạo gắn với xây dựng “cánh đồng mẫu lớn", nghiên cứu thành lập “quỹ hỗ trợ sản xuất” “ngân hàng lúa gạo” để hỗ trợ đối với sản xuất và xuất khẩu gạo.
202 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giải pháp tài chính hỗ trợ xuất khẩu gạo của Đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g vùng nguyên liệu lúa hàng hoá chất lượng cao hàng chục đến hàng trăm hécta, xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam, làm tăng giá trị gia tăng, giúp nông dân và doanh nghiệp được hưởng lợi cao hơn”.
Như vậy hệ thống xuất khẩu gạo ở Việt Nam cho đến nay về cơ bản vẫn hoạt động mang tính tự phát, chưa hình thành được mô hình liên kết từ sản xuất đến thu mua, chế biến (bao gồm cả sơ chế như phơi sấy), bảo quản và tiêu thụ. Hoạt động thu mua gạo chủ yếu do tư thương trực tiếp mua lúa của nông dân, còn các doanh nghiệp, nhất là các công ty (tổng công ty) lương thực chưa thật sự trở thành nồng cốt trong việc xây dựng hệ thống xuất khẩu gạo đảm bảo lợi ích cho người trồng lúa cũng như lợi ích công ty và nhà nước.
Theo kết quả của Nhóm nghiên cứu thuộc Viện Kinh tế Việt Nam về “Mô hình liên kiết trong SX và tiêu thụ lúa gạo ở vùng ĐBSCL” đã chỉ ra hệ thống tiêu thụ lúa gạo vẫn theo “ chuỗi giá trị SX lúa truyền thống ở ĐBSCL là có quá nhiều thành phần tham gia, lợi nhuận bị phân tán và phân chia không đồng đều. Riêng việc tiêu thụ lúa, phần lớn nông dân đều lệ thuộc vào thương lái và “cò” tiêu thụ lúa”. Vì không có tính liên kết chặt chẽ giữa các khâu nên việc kiểm soát chất lượng lúa gạo trở thành bài toán khó. Trên thị thường có quá nhiều giống nhưng việc xử lý lúa gạo sau thu hoạch bị thả nổi đã dẫn đến hệ lụy là chất lượng gạo tiêu thụ nội địa và xuất khẩu của Việt Nam thấp và không ổn định. Từ thực tiễn phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo cho thấy chất lượng lúa gạo nằm ở khâu liên kết trong chuỗi sản xuất lúa gạo. Muốn phát triển thì trước hết nông dân và doanh nghiệp phải liên kết một cách tích cực, bền vững; sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng liên kết là hình thức tổ chức tiên tiến, là hướng đi đúng để đưa nông nghiệp đến một tầm phát triển cao mới.
Một số nghiên cứu về các doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu gạo đã có nhận định là các DN Việt Nam có bản lĩnh kinh doanh quá thấp và chưa có trách nhiệm với nông dân - người tạo ra nguyên liệu cho họ kiếm lợi nhuận. Các DN Việt Nam chưa có dự báo thị trường tốt. Đã xuất hiện thường xuyên tình trạng nếu giá gạo thế giới tăng cao thì chúng ta hạn chế xuất khẩu, khi giá thế giới hạ chúng ta lại ào ào bán ra. Bản lĩnh đàm phán giá tốt của thương nhân Việt Nam cũng quá kém do trình độ một phần nhưng quan trọng hơn là thiếu trách nhiệm với nông dân. Các DN thường ký hợp đồng xuất khẩu trước, sau đó về nước ép mua lúa của nông dân theo giá mình ký mà không làm ngược lại là căn cứ vào giá mua lúa của nông dân mà tìm thị trường bán ra. Chính vì vậy giá nào các DN cũng bán và sự sụt giảm về giá là dễ hiểu.
Trong báo cáo mới nhất của Oxfam, trong khi thu nhập từ xuất khẩu gạo của doanh nghiệp ngày càng tăng thì thu nhập của người trồng lúa ngày càng giảm. Thậm chí có ý kiến cho rằng, trong tất cả các ngành nghề, hình thức lao động ở Việt Nam, chỉ có nông dân, mà cụ thể ở đây là người trồng lúa, là thu nhập năm sau giảm hơn năm trước.
Vì vậy, về phía Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương cần nghiên cứu tổng kết mô hình liên kết tiêu thụ lúa gạo gắn với “cánh đồng mẫu lớn” để rút kinh nghiệm và có đề án xây dựng mô hình xuất khẩu gạo hoàn chỉnh, hiện đại.
Trong đề án xây dựng mô hình liên kết xuất khẩu gạo cần làm rõ một số vấn đề sau:
Một là, cơ chế đầu tư xây dựng mô hình “cánh đồng mẫu lớn”
Vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng hệ thống xuất khẩu gạo theo mô hình liên kết gắn với “cánh đồng mầu lớn” là tìm ra cơ chế đầu tư.
Xây dựng “cánh đồng mẫu lớn” gắn với các vùng quy hoạch về sản xuất lúa tập trung, quy mô lớn nên cần có sự chỉ đạo thống nhất của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với các tỉnh trong vùng ĐBSCL. Trên cơ sở các vùng đã quy hoạch Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần thống nhất với các tỉnh về xác định các danh mục do Nhà nước trung ương đầu tư, các danh mục do các địa phương đầu tư (tỉnh và huyện) và các danh mục do doanh nghiệp (các nhà máy chế biến, kho bảo quản) và các danh mục do nông dân tự đầu tư hoặc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nếu không xác định rõ trách nhiệm của từng tổ chức cũng như trách nhiệm của nhà nước trong đầu tư xây dựng “cánh đồng mẫu lớn” thì việc quy hoạch sản xuất lúa theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn hiện đại khó trở thành hiện thực được và việc xây dựng mô hình liên kết từ sản xuất đến chế biến, bảo quản và tiêu thụ khó có thể thực hiện được.
Hai là, cơ chế cộng đồng trách nhiệm và san sẻ rủi ro trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
- Về cơ chế cộng đồng trách nhiệm:
+ Trách nhiệm của các đơn vị thành viên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam là ký kết hợp đồng bao tiêu lúa hàng hóa cho nông dân và cung ứng các dịch vụ đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu.v.v và bảo lãnh cho nông dân vay tiền ngân hàng. Đây là vấn đề rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất ra gạo đạt năng suất và chất lượng cao và đảm bảo an toàn (gạo sạch). Mặt khác, đảm bảo cho người nông dân an tâm vì không phải lo đầu ra khi thu hoạch, nhất là khi giá thị trường xuống thấp. Là các doanh nghiệp chuyên kinh doanh lúa gạo, nhất là xuất khẩu, có tiềm lực mạnh nên các đơn vị thành viên của VFA cần đảm nhận trách nhiệm chế biến và dự trữ thóc, gạo. Hiện nay việc chế biến (xay xát lúa) chủ yếu vẫn do các cơ sở xay xát tư nhân, còn các nhà máy của các đơn vị thành viên của VFA chưa nhiều nên gạo xuất khẩu thường mua qua trung gian (các chủ vựa và các cơ sở xay xát) nên vừa gây khó khăn cho nông dân, vừa làm tăng chi phí thu mua và thiếu chủ động trong ký kết và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có lợi.
+ Trách nhiệm của nông dân: là thực hiện sản xuất và bán lúa cho các đơn vị thành viên của VFA theo hợp đồng và tuân thủ quy trình sản xuất, nhất là quy trình sử dụng các loại hóa chất để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
+ Trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào việc xây dựng hệ thống xuất khẩu gạo theo mô hình “cánh đồng mẫu lớn” như ngân hàng, các viện, các trung tâm nghiên cứu về giống lúa, công nghệ sau thu hoạch.v.v. Trách nhiệm của các tổ chức này sẽ được ghi rõ trong các hợp đồng liên kết. Trên thực tế những tổ chức này tham gia vào quá trình sản xuất và xuất khẩu gạo gắn với mô hình cánh đồng mẫu lớn sẽ đem đến cho họ nhiều lợi ích hơn so với các phương thức hoạt động truyền thống, nhất là giảm thiểu được rủi ro do những tác động tiêu cực của thị trường vì được thực hiện trên cơ sở hợp đồng liên kết và có cơ chế san sẻ rủi ro.
Ngoài ra, để xây dựng hệ thống tiêu thụ theo mô hình “cánh đồng mẫu lớn” cần làm rõ trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội, của chính quyền các cấp một cách cụ thể và rõ ràng để tránh tình trạng trách nhiệm chung chung và gây khó khăn cho các chủ thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu gạo.
- Về cơ chế san sẻ lợi ích:
Đây là vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có tính toán cụ thể và có sự tham gia bàn bạc thống nhất của các bên có liên quan đến hoạt động xuất khẩu gạo. Trong phạm vi đề tài chỉ đưa ra một vài vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng cơ chế san sẻ rủi ro.
Hoạt động xuất khẩu gạo chịu sự tác động rất lớn của quy luật thị trường và những biến động về xã hội cũng như tác động của thiên tai. Tất cả những hiện tượng đó là khách quan và bất khả kháng đối với các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu gạo và người sản xuất ra gạo. Vì vậy, cần xây dựng cơ chế san sẻ rủi ro khi thị trường bất lợi cho xuất khẩu gạo, nhất là khi giá thị trường xuống thấp...Cơ chế san sẻ rủi ro có thể được thực hiện thông qua các hình thức sau:
+ Thông qua hợp đồng mà các doanh nghiệp kinh doanh lương thực ký kết với nông dân. Trong hợp đồng cần ghi rõ khi giá thị trường xuống thấp, khi lượng gạo tiêu thụ giảm do khách hàng không mua thì những thiệt hại đó sẻ san sẻ cho các bên liên quan theo tỷ lệ ra sao, khoản tiền bù đắp cho rủi ro đó lấy từ đâu cần được làm rõ.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước để bù đắp rủi ro nhất là rủi ro cho nông dân cần có sự hỗ trợ của nhà nước (như Thái lan gần đây chính phủ đã làm)....
Đối với Việt Nam, Chính phủ đang có chủ trương thí điểm xây dựng “quỹ hỗ trợ sản xuất cho nông dân”
Hiệp hội Lương thực Việt Nam – VFA cần phối hợp Bộ Tài chính đề xuất lên Chính phủ lập quỹ hỗ trợ sản xuất cho nông dân. Quỹ này sẽ hỗ trợ nông dân khi giá lúa xuống thấp, rót vốn cho DN mua gạo cho nông dân với giá cao. Và khi giá vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu) tăng cao, quỹ này sẽ có chức năng như quỹ bình ổn giá, bảo đảm cho nông dân mua được với giá hợp lý mà vẫn có lãi.
Khuyến khích thực hiện nghiêm túc chủ trương tiêu thụ lúa hàng hóa thông qua ký kết hợp đồng kinh tế. Tổ chức lại khâu bán buôn – nên hình thành và phát triển các cấp độ doanh nghiệp thương mại đầu mối tại địa phương nhằm giảm bớt chi phí trung gian không cần thiết, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, từng bước hình thành các trung tâm giao dịch, sàn giao dịch theo phương thức đấu giá đối với một số mặt hàng đã đạt trình độ sản xuất với khối lượng lớn và chất lượng đảm bảo, phối hợp thực hiện và tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao trình độ dân trí, mọi người sản xuất ý thức được lợi ích khi tham gia vào các hình thức giao dịch này.
Do sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ nên sản lượng thường tăng đột biến vào mùa thu hoạch gây nên tình trạng cung vượt quá cầu đã làm cho giá cả giảm mạnh trên thị trường tiêu thụ. Thông qua hình thức mua bán thoả thuận trước bằng hợp đồng, đã hình thành một thị trường tiêu thụ mới, người ta gọi là thị trường giao sau (TTGS). TTGS được hiểu là nơi mà ở đó người ta có thể mua bán trao đổi với nhau không phải là hàng hoá sản phẩm trực tiếp, giao nhận ngay, mà chỉ thông qua các hợp đồng cam kết mua bán, còn việc giao hàng và trả tiền thực hiện trong tương lai. Số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức giao nhận hàng được quy định cụ thể trong hợp đồng vào thời điểm ký kết.
Xây dựng mô hình liên kết tiêu thụ lúa gạo gắn với xây dựng “cánh đồng mầu lớn” sẽ giúp người nông dân tránh được những rủi ro trong những lúc cung vượt cầu và những khó khăn khi phải vận chuyển sản phẩm của mình đến nơi tiêu thụ. Còn đối với người mua có thể chủ động được lượng hàng hoá kinh doanh và tăng cường được lợi ích mỗi khi hàng hoá trở nên khan hiếm. Cùng với nền kinh tế ngày càng phát triển, việc lưu thông hàng hoá ngày càng được đẩy mạnh nên yêu cầu tiêu thụ hàng hoá ngày càng cao. Việc hình thành thị trường giao sau hỗ trợ tiêu thụ hàng hoá là yêu cầu cấp thiết. Cần nhanh chóng hoàn thiện cơ sở vật chất – kỹ thuật của thị trường giao sau bằng cách ứng dụng, hiện đại hoá phương thức giao dịch và các hệ thống sàn giao dịch điện tử được kết nối trực tuyến với các hệ thống sàn giao dịch điện tử lớn hiện nay như là EUREX hay GLOBEX nhằm mở rộng giao dịch quốc tế.
3.4.2. Giải pháp về chính sách tín dụng cho vay tạm trữ:
Để giải quyết khó khăn về vốn cho nhu cầu mua tạm trữ thóc, gạo, Ngày 4-7, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có văn bản số 4713/NHNN-TD về việc giảm lãi suất các khoản vay mua thóc, gạo tạm trữ vụ hè thu năm 2013. Theo đó, NHNN quy định lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của tổ chức tín dụng đối với 5 lĩnh vực ưu tiên (trong đó có lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn) là 9%/năm.
Như vậy, vấn đề quan trọng ở đây không phải là có vốn hay không để cho vay mà điều quan trọng là cho vay như thế nào để các doanh nghiệp cũng như người nông dân sản xuất ra gạo có lợi và ngân hàng không gặp phải rủi ro khi cho vay vốn. Do tính đặc thù của sản xuất cũng như sản phẩm sau thu hoạch nên cần vận dụng các phương thức cho vay phù hợp với từng đối tượng vay vốn phục vụ cho xuất khẩu gạo.
Về sản xuất: Sản xuất lúa cũng giống như nhiều loại cây trồng khác là có tính thời vụ. Vì vậy vào thời vụ thu hoạch cung lúa hàng hóa tăng lên rất nhanh và người sản xuất cần phải bán thóc ngay (nếu không có điều kiện phơi sấy và bảo quản) để giảm tổn thất và thu hồi vốn để tái đầu tư cho vụ sản xuất tiếp theo, cũng như phục vụ cho chi tiêu trong gia đình.
Về sản phẩm: Lúa sau khi thu hoạch là sản phẩm tươi nên không thể để lâu được mà cần phải phơi sấy và loại bỏ thóc lép, thóc lửng và các tạp chất mới có thể đưa vào bao quản hoặc chế biến phục vụ nhu cầu xã hội.
Với tính đặc thù về sản xuất và sản phẩm sau thu hoạch đó mà các đối tượng được vay vốn cũng như phương thức vay vốn phải gắn với hệ thống tiêu thụ theo mô hình liên kết. Trung tâm của mối quan hệ liên kết trong xuất khẩu gạo là các cơ sở sản xuất lúa mà chủ yếu là các hộ nông dân, các trang trại trồng lúa gắn với các vùng sản xuất lúa tập trung quy mô lớn đã được quy hoạch. Các đối tượng liên kết là các cơ sở thu mua, chế biến (xay xát) dự trữ và các doanh nghiệp kinh doanh lương thực.
Để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi mua thóc, gạo tạm trữ có ý nghĩa thiết thực cần đổi mới cơ chế thu mua và phải có giải pháp phù hợp. Đổi mới cơ chế thu mua thóc, gạo tạm trữ phải gắn với việc đầu tư quy hoạch xây dựng vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung quy mô lớn và với việc xây dựng mô hình “cánh đồng mẫu lớn”. Các doanh nghiệp kinh doanh lương thực mà nòng cốt là các tổng công ty lương thực (Vinafood) cần thực hiện các quan hệ liên kết với người trồng lúa từ đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, đến cung ứng các yếu tố đầu vào và bao tiêu sản phẩm. Trong những năm sắp đến cần hình thành các tổ hợp sản xuất và xuất khẩu gạo theo mô hình các công ty cổ phần, trong đó các cổ đông phải bao gồm tất các tổ chức có liên quan đến sản xuất, mua gom, chế biến, dự trữ, vận chuyển và tiêu thụ. Các hộ nông dân, các trang trại sản xuất lúa cũng là những cổ đông (công nhân ngoài hàng rào). Với mô hình này sẽ xóa bỏ được các khâu trung gian không cần thiết và đảm bảo cộng đồng trách nhiệm, cộng đồng lợi ích và chia sẻ rủi ro trong sản xuất và xuất khẩu gạo. Như đã trình bày, đối với chuỗi giá trị toàn cầu thì giá trị gia tăng được tạo ra nhiều nhất là khâu: Nghiên cứu và phát triển; Marketing và bán hàng. Do đó, Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng phải chủ động được lượng gạo chất lượng cao để nâng cao năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời tiến hành xây dựng thương hiệu và quảng bá đến các khách hàng trên thế giới nhằm đẩy mạnh xuất khẩu theo chuỗi giá trị toàn cầu trên phương diện số lượng tiêu thụ nhanh, nhiều và lợi ích mang lại là tốt nhất.
Để nông dân bán lúa vào thời điểm giá có lợi nhất cần nghiên cứu ý kiến “thành lập thí điểm ngân hàng lúa gạo”, tạo liên kết giữa nông dân – doanh nghiệp và ngân hàng.
Theo đó, nếu ngân hàng này được thành lập, khi có hợp đồng tiêu thụ, đến mùa thu hoạch, nông dân gửi lúa vào kho của doanh nghiệp, khi nào thấy giá phù hợp thì bán. Tại kho, doanh nghiệp sẽ cấp phiếu thu và nông dân có thể cầm phiếu thu đó thế chấp vay tiền, hoặc trả nợ ngân hàng. Khi nào thấy giá lúa cao, nông dân đặt lệnh bán thì doanh nghiệp có trách nhiệm trả tiền cho nông dân qua ngân hàng. Lúc đó ngân hàng sẽ trả lại tiền cho người dân theo phiếu thu đã giữ. Phần doanh nghiệp, sau khi nhận lúa của nông dân thì được toàn quyền tạm trữ hay bán đi mà không cần đợi ý kiến của nông dân. Theo chúng tôi thành lập “ngân hàng lúa gạo” có nhiều ưu điểm cần được nghiên cứu và đánh giá khách quan để có cơ sở xem xét nên hay không nên thành lập “ngân hàng lúa gạo” tại ĐBSCL.
3.4.3. Xây dựng chính sách tài chính hỗ trợ phát triển sản xuất và thị trường gạo để kích thích và ổn định sản xuất, giảm thiểu rủi ro cho nông dân.
Ngoài các chính sách tăng cường đầu tư đồng bộ cho sản xuất, xuất khẩu gạo và không ngừng hoàn thiện chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nói chung và sản xuất và xuất khẩu gạo nói riêng, nhà nước cần quan tâm xây dựng và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lúa gạo. Cụ thể:
3.4.3.1. Hỗ trợ đối với người sản xuất gạo (chủ yếu là kinh tế hộ gia đình nông dân)
Đối với nước ta, kinh tế hộ gia đình nông dân ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của nó trong sản xuất nông nghiệp, trở thành hình thức tổ chức sản xuất cơ bản, có hiệu quả cao trong nông nghiệp. Kinh tế hộ gia đình nông dân nước ta hiện nay cũng như sau này sẽ là khu vực chủ yếu sản xuất và cung cấp nông sản cho xã hội (kể cả tiêu dùng trong nước và xuất khẩu).
Tuy nhiên, quá trình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại nói chung và từng hộ gia đình nói riêng đang phát sinh những mâu thuẫn. Liên quan đến sự phát triển của kinh tế hộ gia đình nông dân có một số mâu thuẫn chủ yếu sau:
- Mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, quyền sản xuất trên đất đai giao cho các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp (trong nông nghiệp chủ yếu là các hộ gia đình nông dân). Việc quy định hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất cũng như việc chia đất manh mún, phân tán hiện nay đang cản trở sự phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại.
- Mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, phân tán và trình độ nông dân có hạn với thị trường ngày càng mở rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt (cả thị trường trong nước và quốc tế). Đây là khó khăn mà tự bản thân nông nghiệp, nông dân không thể vượt qua được nên nông sản sản xuất ra khả năng cạnh tranh thấp, gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.
- Mâu thuẫn giữa sự tách rời giá cả và giá trị nông sản. Mẫu thuẫn này thể hiện ở chỗ, để sản xuất ra nông sản hàng hóa, người sản xuất phải mua các yếu tố đầu vào và trả các dịch vụ đầu vào cao (giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn công nghiệp, thủy lợi phí, bảo vệ thực vật, thú y) trong khi đó, giá nông sản tăng chậm, nhiều khi xuống thấp dưới giá trị. Vì vậy, hiệu quả sản xuất nông nghiệp của nông dân thấp, nhiều khi bị lỗ.
Mâu thuẫn này dẫn đến nhiều mâu thuẫn khác như gia tăng chênh lệch giàu nghèo, gia tăng sự bất công bằng giữa nông thôn và thành thị. Đây là những hiện tượng bất ổn của quá trình phát triển bền vững nền kinh tế cũng như bền vững của nông nghiệp và nông thôn.
Để giải quyết những mâu thuẫn đảm bảo cho kinh tế hộ gia đình nông dân đẩy mạnh sản xuất hàng hóa cần thực hiện các giải pháp sau:
- Một là, cần thực hiện nhất quán luật đất đai đối với kinh tế hộ (không phân biệt các loại hộ như hiện nay). Tất cả các hộ có nhu cầu đầu tư phát triển nông nghiệp đều phải được Nhà nước giao quyền sử dụng đất đai lâu dài hoặc cho thuê theo luật đất đai. Đối với các hộ gia đình có khả năng đầu tư mở rộng quy mô sản xuất (phát triển kinh tế trang trại) Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục về thực hiện các quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê đất đai để giúp các hộ tích tụ và tập trung ruộng đất. Muốn vậy, về mặt luật pháp cần sửa đổi quy định về hạn mức giao đất (hạn điền) và thời hạn sử dụng đất. Việc quy định mức giao đất và thời hạn sử dụng đất hiện nay đang bộc lộ những hạn chế, bất cập đối với xu hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn. Bỏ chính sách hạn điền và Nhà nước dùng thuế để điều tiết các quan hệ về ruộng đất sẽ khuyến khích những hộ gia đình, các nhà đầu tư có nhu cầu đầu tư phát triển nông nghiệp với quy mô lớn và những hộ gia đình không có khả năng hoặc không muốn làm nông nghiệp chuyển nhượng đất đai để chuyển sang phát triển các ngành nghề khác hoặc đi làm thuê. (Có thể làm thuê ngay trên mảnh đất của mình đã chuyển nhượng). Xu hướng phát triển của sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp đòi hỏi các cơ sở nông nghiệp phải có quy mô ngày càng lớn (từ hàng trăm đến hàng nghìn ha). Trong tương lai, không phải chỉ có các hộ nông dân làm chủ sản xuất mà còn có các nhà đầu tư (cả trong nước và nước ngoài) đầu tư xây dựng các trang trại nông nghiệp quy mô lớn.
Trong điều kiện hiện nay, cần vận động và khuyến khích nông dân trong việc “dồn điền đổi thửa” để có những thửa ruộng đủ lớn (mô hình cánh đồng mẫu lớn) và tập trung tạo thuận lợi cho việc ứng dụng các công nghệ hiện đại vào sản xuất và thu hoạch. Cùng với việc bãi bỏ chính sách hạn điền, cần thay đổi quy định về thời hạn sử dụng đất theo hướng người được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp được quyền sử dụng vĩnh viễn. Tuy nhiên, đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý nên trong trường hợp Nhà nước cần đất để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội thì Nhà nước vẫn có quyền lấy đất và sẽ đền bù cho những người bị thu hồi đất. Khi người sử dụng đất được giao quyền sử dụng đất vĩnh viễn họ mới yên tâm đầu tư cải tạo bảo vệ đất. Đó là cơ sở để phát triển nông nghiệp bền vững.
- Hai là, cần xoá bỏ những ràng buộc phi lý đối với kinh tế hộ gia đình nông dân. Khi hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế tự chủ thì hộ toàn quyền quyết định tất cả các vấn đề có liên quan đến sản xuất kinh doanh như: sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Nhà nước cần nghiên cứu, xem xét lại các khoản đóng góp của nông dân hiện nay theo hướng giảm nhẹ các khoản đóng góp cho các hộ gia đình như thuế sử dụng đất nông nghiệp, thủy lợi phí và nhiều khoản đóng góp khác dưới hình thức phí và lệ phí.
- Ba là, Nhà nước cần có kế hoạch giúp đỡ kinh tế hộ gia đình nông dân từng bước tháo gỡ khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm .
Từ sản xuất nhỏ lạc hậu, chủ yếu là tự cấp, tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá nên các hộ gia đình gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy cần có kế hoạch và xác định rõ thứ tự các nội dung cần ưu tiên trong việc giúp đỡ nông dân. Trong những năm tới cần tập trung vào các vấn đề sau:
+ Giúp nông dân định hướng sản xuất: sản xuất cái gì mà thị trường cần và cần bao nhiêu? Định hướng sản xuất phải gắn với quy hoạch các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hóa, với việc ký kết các hợp đồng bao tiêu sản phẩm để tránh tình trạng nông dân sản xuất nhưng không có nơi tiêu thụ.
+ Giúp nông dân ứng dụng khoa học và công nghệ.
+ Giúp nông dân vay vốn thuận lợi.
+ Cần có giải pháp đồng bộ giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm một cách có lợi nhất.
+ Đào tạo nâng cao năng lực làm chủ của kinh tế hộ gia đình nông dân
Đào tạo nâng cao năng lực làm chủ của kinh tế hộ đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa giáo dục nâng cao trình độ văn hóa, trình độ dân trí với dạy nghề cho nông dân. Đồng thời phải giúp họ có năng lực quản lý, kinh doanh, có khả năng định hướng sản xuất (lựa chọn sản xuất cái gì), biết tính toán sản xuất sản phẩm đã lựa chọn có hiệu quả hay không, biết lập được dự án, kế hoạch sản xuất, biết sản xuất ra sản phẩm đó bằng cách nào có hiệu quả và biết được cách tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm... Năng lực làm chủ còn thể hiện ở bản lĩnh và khát vọng làm giàu của chủ hộ.
Vì vậy, Nhà nước cần có sự chỉ đạo các ngành, các cấp trong việc nghiên cứu xây dựng các chương trình, bài giảng và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực làm chủ, năng lực sản xuất kinh doanh của nông dân, nhất là các chủ hộ.
3.4.3.2. Cần có chính sách tài chính hỗ trợ cho xây dựng thương hiệu gạo và hoạt động quảng bá tiếp thị
Tăng cường và phát triển thương hiệu gạo chất lượng cao, hỗ trợ tiêu chuẩn hoá sản phẩm theo tập quán kinh doanh quốc tế, phát triển nhanh hệ thống phân phối, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh để giúp người sản xuất hướng đến thị trường, bảo đảm chất lượng, tăng giá trị hàng hoá và tăng thu nhập, nhà nước cần hỗ trợ xây dựng thương hiệu gạo và các hoạt động quảng bá, tiếp thị.
Theo các nhà khoa học, điều cần làm lúc này là Chính phủ nên đẩy mạnh việc hỗ trợ đưa “thương hiệu gạo Đồng bằng sông Cửu Long” vào Chương trình thương hiệu quốc gia. Bên cạnh đó, để tiếp cận thị trường thế giới, cần tăng tính liên kết vùng. Vùng lúa chất lượng cao với quy mô khoảng 200.000 ha ở các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long cần được đầu tư xây dựng tốt là những bước đi đầu tiên trong hành trình xây dựng thương hiệu gạo ĐBSCL.
Đối với quảng cáo, tiếp thị sản phẩm cần thông qua nhiều kênh như tham gia hiệp hội ngành hàng quốc tế, các tổ chức, sự kiện quốc tế về gạo hoặc về nông sản nói chung, tiếp thị qua mạng internet.
Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin thị trường và thông tin – quảng bá là rất cần thiết, giúp nông dân dễ dàng quyết định sản xuất và có kế hoạch sản xuất, dự đoán được thị trường, giảm thiểu rủi ro do hàng hoá dư thừa và rớt giá.
3.4.3.3. Có chính sách hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển các Hiệp hội ngành hàng
Các Hiệp hội ngành hàng là những tổ chức phi Chính phủ có vai trò tích cực trong việc cung cấp thông tin thị trường, tư vấn cho các đơn vị kinh doanh nhằm nâng hiệu quả, xúc tiến nhanh chóng các hoạt động thương mại chuyên ngành. Do vậy, việc tham gia vào các Hiệp hội ngành hàng là việc làm cần thiết đối với mọi người sản xuất và hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Hiệp hội ngành hàng hoạt động và quản lý nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và vì lợi ích chung của các đơn vị thành viên. Hiệp hội ngành hàng xây dựng các chương trình hỗ trợ hoạt động các đơn vị thành viên, như là thực hiện công tác tổng hợp, thống kê, phân tích cung cấp thông tin, hỗ trợ xây dựng thương hiệu hàng hoá, làm thủ tục đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và tư vấn về luật pháp, thị trường quốc tế, về các đối tác
Hiệp hội còn là cơ quan đại diện cho các đơn vị hoạt động trong một ngành hàng nên có vai trò tham gia vào quá trình xây dựng và góp ý cho Chính phủ những vấn đề liên quan ngành mình để hoàn thiện các chủ trương chính sách kinh tế nhằm phù hợp với yêu cầu thực tế, khả thi và có thể tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng trước pháp luật cho các thành viên thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đơn vị thành viên và quyền lợi của quốc gia. Quan hệ với các tổ chức, hiệp hội nước ngoài nhằm chia sẻ thông tin, tìm kiếm và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế tạo lập sự công bằng trong quan hệ thương mại với mọi quốc gia trên thế giới. Đề cao vai trò tổ chức ngành hàng để hạn chế độc quyền. Vì thực tế không phải lúc nào doanh nghiệp cũng cố tình độc quyền, mà họ có lợi thế vốn lớn, doanh số, sản lượng quá lớn Do đó, cần tổ chức ngành hàng để tạo sự cạnh tranh, minh bạch hơn.
Trong các hiệp hội ngành hàng cần đặc biệt quan tâm phát huy vai trò của Hiệp hội lương thực trong việc tham gia các hiệp hội ngành hàng thế giới, các buổi hội thảo, trưng bày sản phẩm nhằm tìm kiếm thị trường mới ở các nước phát triển và tăng cường khả năng dự báo thị trường thế giới để kịp thời có điều chỉnh cần thiết tránh rủi ro do cú sốc của thị trường.
Nhà nước hỗ trợ hiệp hội lương thực theo nguyên tắc không can thiệp trực tiếp vào công việc của hiệp hội và giao quyền trực tiếp điều hành xuất khẩu cho hiệp hội, tăng cường hợp tác giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ với hiệp hội và hỗ trợ các hiệp hội nâng cao năng lực hoạt đông và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy và tạo môi trường cho hoạt động của hiệp hội. Nhà nước cần có chính sách và giải pháp đồng bộ hỗ trợ Hiệp hội lương thực trong xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý hiệp hội có trình độ chuyên môn cao và nâng cao tiềm lực tài chính cho hiệp hội. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay cần tăng cường quản lý và kiểm tra, giám sát các hội viên trong việc thực hiện liên kết với nông dân và hoạt động thu mua, dự trữ và điều hành xuất khẩu.
3.4.3.4. Nghiên cứu các chính sách tài chính nhằm hỗ trợ, khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, liên doanh, liên kết trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
Sự phát triển của các loại hình kinh tế hợp tác, các hình thức liên doanh, liên kết giữa các hộ nông dân trồng lúa với nhau cũng như giữa nông dân với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo và các tổ chức dịch vụ cho sản xuất và xuất khẩu gạo là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng giúp nông dân chuyển sang sản xuất hàng hoá lớn hiện đại, giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết đối với đối với các hoạt động dịch vụ đầu vào và xuất khẩu gạo cho nông dân.
Trong nền kinh tế thị trường do quy luật cạnh tranh nên từng hộ gia đình muốn tồn tại và phát triển họ phải hợp tác với nhau. Bởi lẽ, để tạo ra sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao, giá thành hạ có khả năng cạnh tranh được trên thị trường thì có những khâu từng hộ không làm được, hoặc làm không hiệu quả (chẳng hạn như khâu thuỷ lợi, đưa giống mới vào sản xuất, tiêu thụ nông sản...). Từ đó, để bảo vệ và thực hiện lợi ích, các hình thức hợp tác và hợp tác xã phát triển rất đa dạng.
Cần tạo điều kiện thuận lợi và giúp các hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, kỹ thuật, kinh doanh, tạo điều kiện cho các hợp tác xã vay vốn thuận lợi. Đối với hợp tác xã làm dịch vụ cho kinh tế hộ cần miễn thuế, miễn tiền thuê đất làm trụ sở... Các tổ chức Nhà nước cần tăng cường cung cấp đầy đủ, kịp thời các loại thông tin có liên quan đến hoạt động của hợp tác xã như thông tin về thị trường, giá cả, khoa học và công nghệ; thông tin về chính sách, pháp luật...
Đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ cần sắp xếp lại tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động theo hướng gắn với kết quả sản xuất cuối cùng của từng hộ gia đình nông dân, tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp nhà nước và hộ nông dân ngay trên từng địa bàn nông thôn. Quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước làm dịch vụ với các hộ nông dân phải được thực hiện thông qua hợp đồng kinh tế. Cần đề cao trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước làm dịch vụ với từng hộ nông dân.
3.4.3.5. Xây dựng và phát triển hình thức bảo hiểm rủi ro trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
Trong nhiều năm qua ở Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức bảo hiểm nông nghiệp. Tuy nhiên kết quả đạt được còn hạn chế nên chưa được nhân rộng. Trước hết ngành bảo hiểm cũng như các địa phương cần tiến hành tổng kết đánh giá các hình thức bảo hiểm trong nông nghiệp để tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách cho loại hình bảo hiểm đầy rủi ro này. Để hầu hết nông dân đều tham gia các hình thức bảo hiểm rủi ro này ngoài việc tăng cường công tác tuyên truyền cần có chính sách hỗ trợ chi phí tham gia bảo hiểm trong giai đoạn đầu mới triển khai. Đồng thời, có cơ chế giám sát mức độ trung thực trong sản xuất của nông dân cũng như thực hiện trách nhiệm của đơn vị bảo hiểm.
3.4.3.6. Chú trọng công tác khuyến nông cơ sở tại địa phương.
Nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật của địa phương, xây dựng các chương trình đào tạo khuyến nông viên có trình độ đại học, trung cấp, khuyến nông viên cơ sở.
Xây dựng các chính sách hỗ trợ cho hoạt động khuyến nông – khuyến lâm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật: Chính sách đãi ngộ đối với các bộ chuyển giao kỹ thuật để giúp họ yên tâm công tác (nên có chế độ lương ổn định cho lực lượng khuyến nông viên cơ sở ở ĐBSCL). Chính sách hỗ trợ công tác thông tin tuyên truyền, xuất bản tài liệu kỹ thuật phù hợp với trình độ của người dân từng vùng.
Thông qua khuyến nông các hộ gia đình nông dân, các trang trại sẽ được truyền bá kiến thức và đào tạo tay nghề, cung cấp thông tin, giúp họ có khả năng tự giải quyết các vấn đề trong sản xuất kinh doanh và đời sống.
Để công tác khuyến nông phát triển, Nhà nước cần có sự đầu tư thoả đáng cho chương trình khuyến nông, đồng thời có chính sách thu hút vốn của các hiệp hội ngành hàng, các cơ sở kinh doanh nông sản và nguồn tài trợ quốc tế tham gia đầu tư chương trình này.
Trong quá trình sản xuất người dân cần được tiếp cận và cung cấp dịch vụ khuyến nông thị trường, khuyến nông xúc tiến thương mại, khuyến nông tư vấn, dịch vụ kỹ thuật, ... để nông dân an tâm sản xuất.
3.5 ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP
Để các giải pháp tài chính có tác động tích cực đến sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, luận án xin có một số kiến nghị với Chính phủ và các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL.
3.5.1 Đối với Chính phủ:
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm, có nhiều lợi thế và tiềm năng to lớn trong phát triển nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, trong đó đặc biệt là sản xuất lúa gạo. Trong hàng chục năm qua nhờ sự quan tâm đầu tư của nhà nước (Chính phủ) cũng như các địa phương trong vùng và nhân dân mà các tiềm năng, lợi thế của vùng này được khai thác ngày càng hiệu quả. Tuy nhiên, so với tiềm năng sẵn có của vùng thì những kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp nhất là sản xuất và xuất khẩu lúa gạo vẫn còn nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hạn chế trong sản xuất và xuất khẩu gạo của vùng ĐBSCL hiện nay là từ phía nhà nước như đã trình bày ở chương 2.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng sẽ đặt ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam nhất là nông dân trồng lúa. Trước sức ép đòi giảm bớt trợ cấp nông nghiệp và mở cửa thị trường cho hàng hóa nông sản khi trở thành thành viên WTO, nhu cầu tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn thế giới bắt nguồn từ các nước công nghiệp phát triển đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý. Vì vậy, những giải pháp tài chính hỗ trợ hữu hiệu cho xuất khẩu gạo gắn với những cam kết khi hội nhập là thực sự cần thiết. Để tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của vùng này, đề tài xin có một số kiến nghị với Chính phủ như sau:
1, Cần chỉ đạo quyết liệt các bộ ngành và các tỉnh thuộc ĐBSCL trong việc hoàn thiện quy hoạch 1 triệu ha trồng lúa xuất khẩu (vấn đề này đã có chủ trương từ nhiều năm nay). Trước mắt cần đánh giá lại quá trình thực hiện chủ trương để có phương án tiếp tục thực hiện quy hoạch, để chủ trương quy hoạch 1 triệu ha trồng lúa xuất khẩu sớm đi vào cuộc sống. Đồng thời, đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu phát triển nguồn gen cây trồng sẽ bao gồm xác định các giống lúa cải tiến hiện nay có khả năng chống chịu ngập (trong quá trình nảy mầm, lũ ngập một phần, và ngập hoàn toàn) và chống chịu mặn để thích ứng sự thay đổi khí hậu, ảnh hưởng của nước biển dâng. Từ đó, tạo chọn các giống mới và các dòng triển vọng, đáp ứng các mối đe dọa mới.
2, Trên có sở quy hoạch, chính phủ cần có quy hoạch xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và xuất khẩu gạo theo hướng hiện đại, động bộ, liên kết với nhau theo chuỗi giá trị toàn cầu đối với gạo xuất khẩu.
3, Chỉ đạo các bộ ngành và các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL trong việc nghiên cứu tổng kết việc thực hiện mô hình liên kết tiêu thụ lúa gạo gắn với việc xây dựng “cánh đồng mẫu lớn”. Để loại bỏ những phi lý trong các mô hình tiêu thụ lúa gạo phục vụ xuất khẩu hiện nay cần xây dựng mô hình liên kết để cộng đồng trách nhiệm, công đồng lợi ích và chia sẻ rủi ro trong xuất khẩu gạo thì mô hình liên kết trên là sự lựa chọn phù hợp. Khi xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ mô hình liên kết trên thì cần tiến tới cho phép tất cả những nông dân (hộ gia đình, trang trại) sản xuất trên cánh đồng mẫu lớn trở thành cổ đông của công ty (doanh nghiệp) xuất khẩu gạo. Khi những nông dân trồng lúa trở thành “công nhân ngoài ràng rào” thì sẽ cộng đồng được trách nhiệm và lợi ích của họ với việc nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững sản xuất và xuất khẩu gạo.
4, Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo theo hướng các đơn vị tham gia xuất khẩu phải liên kết với nông dân trồng lúa, phải xây dựng được mô hình liên kết như đã đề xuất ở trên. Trong hoàn thiện hệ thống tổ chức cần có sự đánh giá lại vai trò của Hiệp hội Lương thực VN (VFA) để có đề án tổ chức phù hợp nhằm đề cao trách nhiệm của hiệp hội trong hoạt động xuất khẩu lương thực, nhất là quan tâm đến bảo vệ lợi ích của nông dân trồng lúa, tránh tình trạng độc quyền như hiện nay.
5, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ ngành có liên quan đến phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo đánh giá lại những nhiệm vụ của bộ ngành mình được Chính phủ giao đối với lĩnh vực này, như Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước. Một trong những vấn đề mà Chính phủ phải hết sức quan tâm là phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ ngành có liên quan đến phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở ĐBSCL hiện nay.
Chính phủ cần sớm nghiên cứu thành lập “quỹ hỗ trợ sản xuất” đối với sản xuất và tiêu thụ lúa gạo như đã có ý kiến đề xuất và nghiên cứu ý kiến của Đồng Tháp về thành lập “ngân hàng lúa gạo” để có tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.
3.5.2 Đối với các tỉnh ĐBSCL:
Mọi chủ trương, chính sách của chính phủ có đi vào cuộc sống hay không phụ thuộc chủ yếu vào sự lãnh đạo cũng như điều hành quản lý của chính quyền các cấp, trong đó dặc biệt là cấp tỉnh. Để tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động sản xuất và xuất khẩu lúa gạo đạt hiệu quả và phát triển bền vững, đề tài xin có một vài kiến nghị đối với các tỉnh như sau:
1, Trên cơ sở quy hoạch của nhà nước về sản xuất lúa, nhất là sản xuất lúa xuất khẩu, các tỉnh cần rà soát lại quy hoạch đã có để có cơ sở bổ sung, hoàn thiện quy hoạch hợp lý, phù hợp với điều kiện của tỉnh. Từng tỉnh cần đánh giá lại diện tích trồng lúa của tỉnh mình đề có đề án quy hoạch phù hợp, nhất là các tỉnh vừa qua nông dân tự phát chuyển diện tích trồng các loại cây trồng khác sang trồng lúa kém hiệu quả.
2, Nghiên cứu vận dụng các mô hình liên kết trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo gắn với việc xây dựng “cánh đồng mẫu lớn” như đã trình bày ở trên.
3, Cần có chính sách và cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư đầu tư vào sản xuất và xuất khẩu lúa gạo theo quy hoạch gắn với xây dựng “cánh đồng mẫu lớn”.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Từ kết quả nghiên cứu trong chương 3 có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
1, Trên cơ sở đánh giá thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính ở chương 2, dự báo khả năng sản xuất và xuất khẩu của ĐBSCL trong điều kiện biến đổi khí hậu dựa trên cơ sở quan điểm và định hướng chiến lược về xuất khẩu nông sản, quan điểm về mở rộng thị trường lúa gạo ở Việt Nam đến năm 2020 và quan điểm về sử dụng các giải pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu lúa gạo ở ĐBSCL, tác giả đã đề xuất một số giải pháp tài chính chủ yếu nhằm hỗ trợ xuất khẩu gạo của ĐBSCL hiện nay cũng như trong thời gian tới.
Các giải pháp tài chính tập trung chủ yếu vào giải pháp chi ngân sách nhà nước và tín dụng cho vay tạm trữ lúa gạo. Cụ thể:
- Trong chi NSNN tập trung vào các nội dung chủ yếu như:
+ Tăng cường đầu tư cho quy hoạch, xây dựng các vùng chuyên sản xuất lúa gạo tập trung với quy mô lớn.
+ Đầu tư đồng bộ cho các vùng sản xuất lúa gạo hàng hóa tập trung quy mô lớn. Bao gồm: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo hàng hóa tập trung quy mô lớn; Đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất gạo, nhất là gạo xuất khẩu; Đầu tư hiện đại hóa công nghệ sau thu hoạch.
+ Đầu tư phát triển hệ thống xuất khẩu gạo theo hướng hiện đại.
- Về giải pháp về tín dụng cho vay tạm trữ chủ yếu tập trung đề xuất đổi mới việc thực hiện chính sách ưu đãi và cơ chế giám sát trong mua lúa tạm trữ sau thu hoạch để đảm bảo nguồn gạo xuất khẩu và bảo vệ lợi ích cho nông dân.
2, Luận án còn đề xuất hệ thống giải pháp tài chính hỗ trợ phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo để kích thích và ổn định sản xuất, giảm thiểu rủi ro cho nông dân, như:
- Hỗ trợ đối với người sản xuất gạo (chủ yếu là kinh tế hộ gia đình nông dân);
- Cần có chính sách tài chính hỗ trợ cho xây dựng thương hiệu lúa gạo và hoạt động quảng bá tiếp thị;
- Có chính sách hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển các Hiệp hội ngành hàng;
- Nghiên cứu các chính sách tài chính nhằm hỗ trợ, khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, liên doanh, liên kết trong sản xuất và xuất khẩu gạo;
- Xây dựng và phát triển hình thức bảo hiểm rủi ro trong sản xuất và xuất khẩu gạo;
- Chú trọng công tác khuyến nông cơ sở tại địa phương.
KẾT LUẬN CHUNG
Từ kết quả nghiên cứu luận án, có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
1, Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung thị trường xuất khẩu gạo, làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2, Hệ thống hóa vai trò và tác động của các giải pháp tài chính đối với động xuất khẩu gạo, trong đó chủ yếu tập trung phân tích các công cụ tài chính chủ yếu như: chi NSNN, tín dụng cho vay tạm trữ lúa gạo .
3, Làm rõ những tác động của các cam kết quốc tế đến hoạch định các chính sách tài chính thúc đẩy xuất khẩu gạo.
4, Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong khu vực Châu Á, như Trung Quốc, Thái Lan về sử dụng các giải pháp tài chính đối với xuất khẩu gạo, luận án đã rút ra một số bài học cho hoạt động xuất khẩu gạo ở ĐBSCL.
5, Thông qua nghiên cứu đặc điểm tự nhiên xã hội, tình hình sản xuất của ĐBSCL, luận án đã rút ra những thuận lợi và khó khăn của vùng đối với sản xuất gạo, để từ đó có cơ sở đề xuất các giải pháp tài chính phù hợp với đặc điểm và điều kiện của vùng.
6, Từ tình hình xuất khẩu gạo ở Việt Nam và ĐBSCL trong những năm qua, luận án đã có những đánh giá về khả năng xuất khẩu gạo của vùng.
7, Luận án đã tập trung nghiên cứu thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính, chủ yếu là chi ngân sách và tín dụng cho vay tạm trữ lúa gạo tác động vào sản xuất và xuất khẩu gạo, từ đó rút ra được những kết quả đạt được (thành công), cũng như những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế để có cơ sở đề xuất giải pháp ở chương 3.
8, Trên cơ sở đánh giá thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính ở chương 2, dự báo khả năng sản xuất và xuất khẩu của ĐBSCL trên cơ sở quan điểm và định hướng chiến lược về xuất khẩu nông sản hàng hoá, quan điểm về mở rộng thị trường lúa gạo ở Việt Nam đến năm 2020 và quan điểm về sử dụng các giải pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu lúa gạo ở ĐBSCL, tác giả đã đề xuất một số giải pháp tài chính chủ yếu hỗ trợ xuất khẩu gạo ở ĐBSCL trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các giải pháp tài chính chủ yếu tập trung chủ yếu vào giải pháp chi ngân sách nhà nước và tín dụng cho vay tạm trữ lúa gạo.
9, Luận án còn đề xuất hệ thống giải pháp tài chính hỗ trợ phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo để kích thích và ổn định sản xuất, giảm thiểu rủi ro cho nông dân.
10, Để tạo điều kiện cho sản xuất và xuất khẩu gạo theo hướng nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững, luận án còn có một số kiến nghị với Chính phủ và các tỉnh ĐBSCL tiến hành nghiên cứu tổng kết các mô hình liên kết trong sản xuất và xuất khẩu gạo gắn với xây dựng “cánh đồng mẫu lớn", nghiên cứu thành lập “quỹ hỗ trợ sản xuất” “ngân hàng lúa gạo” để hỗ trợ đối với sản xuất và xuất khẩu gạo.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Võ Thị Yên Hà (2014), “Một số giải pháp tài chính đẩy mạnh tiêu thụ lúa gạo xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long”. Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 1 (101), tr.46-52.
Võ Thị Yên Hà (2014), “Tăng cường năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu đẩy mạnh tiêu thụ lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí nghiên cứu Tài Chính kế toán, số 2 (127), tr.72-74.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Bộ NN & PTNT (2002), Báo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh của mặt hàng gạo trong bối cạnh hội nhập.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Đề án phát triển thương mại nông lâm thủy sản đến năm 2015 và tầm nhìn đến 2020
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), Quy hoạch nông nghiệp cả nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030
Nguyễn Thế Bình (2009), Quy hoạch, quản lý và sử dụng đất lúa ở ĐBSCL - Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chiến lược đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quy hoạch đất trồng lúa đến 2020, tầm nhìn 2030” tại Cần Thơ
Bùi Chí Bửu (2009), Bài học kinh nghiệm về công tác giống cây trồng trong phát triển nông nghiệp - Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chiến lược đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quy hoạch đất trồng lúa đến 2020, tầm nhìn 2030” tại Cần Thơ
Nguyễn Duy Cần, Võ Hồng Tú và Nguyễn Văn Sánh – ĐH Cần Thơ (2011), Liên kết “4 nhà” trong sản xuất và xuất khẩu gạo: trường hợp nghiên cứu ở tỉnh An Giang
Chính Phủ (2012), Công văn số 23/CP-KTN ngày 23 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ
Cục Thống Kê tỉnh Long An (2011), Niên giám thống kê, NXB Thanh Niên, TP.HCM
Cục Thống Kê tỉnh Tiền Giang (2010), Niên giám thống kê, NXB Thanh Niên, TP.HCM
Cục Thống Kê tỉnh Bến Tre (2011), Niên giám thống kê, NXB Thống Kê, TP.HCM
Cục Thống Kê tỉnh An Giang (2011), Niên giám thống kê, NXB Thanh Niên, TP.HCM
Cục Thống Kê tỉnh Đồng Tháp (2011), Niên giám thống kê, NXB Thanh Niên, TP.HCM
Cục Thống Kê tỉnh Vĩnh Long (2011), Niên giám thống kê, NXB Thống Kê, Hà Nội
Cục Thống Kê tỉnh Trà Vinh (2011), Niên giám thống kê, NXB Thông Tin Và Truyền Thông, Hà Nội
Cục Thống Kê tỉnh Bạc Liêu (2010), Niên giám thống kê, NXB Thông Tin Và Truyền Thông, Hà Nội
Cục Thống Kê tỉnh Sóc Trăng (2011), Niên giám thống kê, NXB Thống Kê, Hà Nội
Cục Thống Kê tỉnh Cần Thơ (2011), Niên giám thống kê, NXB Thống Kê, Hà Nội
Cục Thống Kê tỉnh Kiên Giang (2011), Niên giám thống kê, NXB Thống Kê, Hà Nội
Cục Thống Kê tỉnh Hậu Giang (2011), Niên giám thống kê, NXB Thống Kê, Hà Nội
Cục Thống Kê tỉnh Cà Mau (2012), Niên giám thống kê, NXB Thống Kê, Hà Nội
Cục Thống Kê tỉnh Cần Thơ (2011), Số liệu kinh tế xã hội ĐBSCL 2000 - 2009, NXB Thống Kê, Hà Nội
Nguyễn Văn Dần (2009), Chính sách tài khóa công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Tài Chính, Hà Nội
Nguyễn Văn Dần, Đỗ Thị Thục chủ biên (2013) , Giáo trình Kinh tế công , NXB Tài Chính, Hà Nội
Nguyễn Văn Dần (2009), Cấu trúc thị trường lý luận và thực tiễn ở VN, NXB Tài Chính, Hà Nội
Đặng Văn Du, Bùi Tiến Hanh (2010), Giáo trình Quản lý chi ngân sách nhà nước, NXB Tài Chính, Hà Nội
Phạm Ngọc Dũng, Đinh Xuân Hạng (2011), Giáo trình Tài chính tiền tệ, NXB Tài Chính, Hà Nội
Đinh Thiện Đức (2006), Cung cầu hàng hoá gạo và những giải pháp chủ yếu phát triển thị trường gạo Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế
Trịnh Thị Ái Hoa (2007), Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam lý luận và thực tiễn, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội
Đinh Phi Hổ (1995) chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông nghiệp Đồng bằng Sông Cứu Long, Đề tài nghiên cứu khoa học KX.03.21.C.01, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Đinh Phi Hổ (2011), Phương pháp nghiên cứu định lượng và những nghiên cứu thực tiễn trong kinh tế phát triển - nông nghiệp, NXB Phương Đông, TP HCM
Học Viện Tài Chính (2000), Giáo trình Lý thuyết tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội
Nguyễn Đình Hợi (2009), Phát triển thị trường khoa học và công nghệ trong nông nghiệp Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội
Nguyễn Đình Hợi (2005), Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội ngành hàng trong sản xuất và xuất khẩu lương thực, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học Viện, Học Viện Tài Chính, Hà Nội
Nguyễn Văn Thường, Trần Khánh Hưng (2010), Giáo trình Kinh tế việt Nam, NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội
Nguyễn Thị Lan Hương (2011), Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (2011), Báo cáo xuất Khẩu gạo phải làm lợi cho nông dân trồng lúa, ĐH nhiệm kỳ 4 tại Cần Thơ
Nguyễn Bình Giang chủ biên (2012) , Tác động xã hội vùng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
Nguyễn Văn Lực và Nguyễn Đức Lộc (2012), “Hoạt động sản xuất lúa gạo hàng hóa hướng vào lợi ích của nông dân”, Tạp chí Khoa học phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, ( 1)
Nguyễn Đình Long (2001), Báo cáo khoa học nghiên cứu những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản, Hà Nội
Lã Văn Lý (2009), Tích tụ ruộng đất gắn với tổ chức sản xuất trên đất lúa ở Việt Nam - Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chiến lược đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quy hoạch đất trồng lúa đến 2020, tầm nhìn 2030” tại Cần Thơ
Phan Sĩ Mẫn (2010), “ Chính sách và giải pháp đối với sản xuất gạo của nông dân”, tạp chí nghiên cứu kinh tế, (386)
Đỗ Hoài Nam chủ nhiệm (1995), đề tài chuyển dịch CCKT ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam, của Viện Kinh t ế thuộc trung tâm xã hội và nhân văn quốc gia, NXB khoa học xã hội, Hà Nội
Dương Ngọc Thúy và Phạm Hoàng Ngân, 2009, Thực trạng cung cầu lương thực, đề xuất chính sách bảo đảm an ninh lương thực VN-Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chiến lược đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quy hoạch đất trồng lúa đến 2020, tầm nhìn 2030” tại Cần Thơ
Phan Công Nghĩa chủ biên (2007), cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội
Lưu Văn Nghiêm (2004), “Marketing mở rộng thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo”, Tạp chí kinh tế phát triển số 88-2004.
Ngô Văn Khoa (2006), Giải pháp hỗ trợ tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập, Chuyên đề nghiên cứu Phòng Nghiên cứu TCDN, Học Viện Tài Chính, Hà Nội.
Trương Thị Sâm chủ biên (2005), các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng ở vùng kinh tế trọng điểm phái nam, NXB Khoa học xã hội, TP.HCM
PGS.TS Đinh Văn Thành (2010), Tăng cường năng lực tham gia của hàng nông sản vào chuỗi giá tị toàn cầu trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, NXB Công Thương, Hà Nội
Vũ Văn Thặng (2009), giải pháp thủy lợi cho phát triển lương thực ở ĐBSCL - Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chiến lược đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quy hoạch đất trồng lúa đến 2020, tầm nhìn 2030” tại Cần Thơ
Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 1995 - 2012,NXB Thống Kê, Hà Nội
Trung tâm thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (2011), Báo cáo thường niên ngành gạo Việt Nam năm 2010 và triển vọng 2011.
Trung tâm thông tin thương mại, Hà Nội (1998), Kinh doanh gạo trên thế giới
Tiếng Anh
John Humphrey (2006), Shaping Value Chains in the Agrifood Sector, United Nations Industrial Development Organization
Shashi Saren (2008), Adding Value to Agri - Food Exports and Complying with Standards, UNCTAD
Jodie Keane (2008), A New Approach to Global Value Chain Analysis, Overseas Development Institue
GDS (2004), Kenya Value Chain and Competitiveness Analysis, Worldbank
Phụ Lục số liệu các tỉnh ĐBSCL
Phụ lục niên giám thống kê TP.Cần Thơ
Phụ lục niên giám thống kê Tỉnh Vĩnh Long
Phụ lục niên giám thống kê Tỉnh An Giang
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Long An
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Tiền Giang
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Bến tre
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu
Phụ lục niên gíam thống kê tỉnh Trà Vinh
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Cà Mau
Phụ lục niên giám thống kê Kiên Giang
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp
Phụ lục niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_cap_hv_nop_8531.doc