Luận án “Giao dịch dân sự có công chứng theo quy định của pháp luật Việt 
Nam” đã nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề từ lý luận, thực trạng pháp luật 
và thực tiễn áp dụng pháp luật về GDDS có công chứng. 
Giao dịch dân sự có công chứng là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn 
phương được công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận 
tính xác thực, hợp pháp qua đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa 
vụ dân sự. GDDS có công chứng được thực hiện một cách bắt buộc theo luật định 
hoặc tự nguyện theo ý chí chủ thể trong giao dịch. Việc công chứng GDDS được 
thực hiện theo các căn cứ sau đây: (i) Công chứng GDDS được thực hiện dựa trên 
cơ sở luật định; (ii) Công chứng GDDS được thực hiện dựa trên ý chí của chủ thể 
trong GDDS. 
Pháp luật về GDDS có công chứng được quy định tương đối đầy đủ, hoàn 
thiện với nhiều vấn đề pháp lý được ghi nhận. Các quy định liên quan đến GDDS có 
công chứng là khung pháp lý quan trọng để các cơ quan, tổ chức thực hiện việc 
công chứng giao dịch trên thực tế cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh liên 
quan đến GDDS có công chứng. Tuy vậy, pháp luật về GDDS có công chứng cũng 
còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập như: còn tồn tại sự thiếu thống nhất giữa các 
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thời điểm có hiệu lực của GDDS có công 
chứng; chưa quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi GDDS có công 
chứng bị vô hiệu; vấn đề công chứng hợp đồng uỷ quyền, di chúc còn nhiều quy 
định chưa hợp lý và vấn đề công chứng trên môi trường điện tử cũng còn gặp nhiều 
lúng túng. Bên cạnh các bất cập của pháp luật, thực tiễn công chứng các GDDS 
cũng nảy sinh nhiều vấn đề công chứng viên vi phạm các quy định pháp luật về 
công chứng. Xuất phát từ những bất cập của pháp luật và những vướng mắc trong 
thực tiễn áp dụng liên quan đến GDDS có công chứng, luận án đã đưa ra một số 
kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến nội dung này như: hoàn thiện các quy 
định chung liên quan đến GDDS có công chứng; hoàn thiện các quy định về công 
chứng GDDS và hoàn thiện một số loại GDDS cụ thể có công chứng như hợp đồng 
uỷ quyền, di chúc.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
207 trang | 
Chia sẻ: Minh Bắc | Ngày: 16/01/2024 | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giao dịch dân sự có công chứng theo quy định của pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nhà ở đều là 
bất động sản nhưng so sánh quy định hợp đồng về quyền sử dụng đất phải thực hiện 
theo thủ tục công chứng và hợp đồng về nhà ở phải thực hiện theo thủ tục công 
chứng trong quy định của LĐĐ năm 2013 và quy định của LNƠ năm 2014 ta thấy 
có những điểm không tương thích: (i) Hợp đồng góp vốn: LĐĐ năm 2013 thì tất cả 
những trường hợp góp vốn bằng quyền sử dụng đất đều phải bắt buộc thực hiện 
theo thủ tục công chứng. Còn trong LNƠ năm 2014 thì với trường hợp góp vốn mà 
có một bên là tổ chức thì không bắt buộc phải thực hiện theo thủ tục công chứng; 
(ii) Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng: LĐĐ năm 2013, trường hợp chuyển 
nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mà có một 
hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản thì 
không bắt buộc phải thực hiện theo thủ tục công chứng. Còn trong LNƠ năm 2014 
thì hợp đồng mua bán nhà ở không phải thực hiện theo thủ tục công chứng chỉ áp 
dụng với hai trường hợp là mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước và mua bán nhà ở 
phục vụ tái định cư mà không xác định dựa trên chủ thể của hợp đồng; (iii) Hợp 
đồng tặng cho: trong quy định của LĐĐ năm 2013, mọi trường hợp tặng cho đều 
phải thực hiện theo thủ tục công chứng. Còn theo quy định của LNƠ năm 2014, 
 174 
trường hợp tặng cho nhà tình nghĩa, tặng cho nhà tình thương là không bắt buộc 
phải thực hiện theo thủ tục công chứng; (iv) Hợp đồng đổi tài sản: LNƠ năm 2014, 
mọi hợp đồng đổi nhà ở đều phải thực hiện theo thủ tục công chứng. Còn theo quy 
định của LĐĐ năm 2013, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp là 
không bắt buộc phải thực hiện theo thủ tục công chứng;... Như vậy, có thể nhận 
thấy, cùng một loại tài sản là bất động sản, nhưng tiêu chí để xác định những giao 
dịch nào phải thực hiện theo thủ tục công chứng, những giao dịch nào không phải 
thực hiện theo thủ công chứng trong LNƠ năm 2014 và trong LĐĐ năm 2013 là 
khác nhau. Điều này, thể hiện sự mâu thuẫn không đồng nhất trong tư duy làm luật 
của các nhà xây dựng pháp luật. 
Do đó, theo NCS BLDS cần phải xác định tiêu chí đối với GDDS bắt buộc 
phải công chứng: như dựa trên đối tượng của giao dịch; dựa trên chủ thể xác lập 
giao dịch; dựa trên giá trị giao dịch v.v... 
3.3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về công chứng giao dịch dân sự 
Thứ nhất, mở rộng thẩm quyền công chứng giao dịch dân sự cho UBND. 
Bộ Tư pháp nghiên cứu đưa chứng thực vào quy định trong LCC theo 
hướng chỉ chứng thực đối với bản sao và bản dịch, còn đối với hợp đồng, giao dịch 
là công chứng. Mở rộng chủ thể có thẩm quyền công chứng ra bao gồm cả UBND 
cấp xã đối với những nơi tổ chức hành nghề công chứng chưa phát triển được hoặc 
chưa đảm đương được toàn bộ. 
Việc quy định cho cả công chứng viên của các tổ chức hành nghề công 
chứng và UBND cấp xã được thực hiện chứng nhận hợp đồng, giao dịch nhằm tạo 
điều kiện thuận lợi nhất cho người dân. Người dân có quyền lựa chọn công chứng 
hợp đồng, giao dịch tại các tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại 
UBND xã, phường, thị trấn. 
Thứ hai, về thành phần hồ sơ yêu cầu công chứng. 
Về nội dung cần có trong phiếu cầu công chứng, LCC năm 2014 quy định 
gồm các nội dung sau: “Có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, 
nội dung cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề 
công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận 
hồ sơ”. Trong khi đó, khoản 3 Điều 2 của LCC năm 2014: “Người yêu cầu công 
 175 
chứng là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài có yêu cầu 
công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này”. Theo quy 
định này thì người yêu cầu công chứng bao gồm: cá nhân và tổ chức. Nhưng nhìn 
vào quy định của LCC năm 2014 về nội dung của mẫu lời chứng thì mới chỉ thể 
hiện trường hợp người yêu cầu công chứng là cá nhân, còn trường hợp người yêu 
cầu công chứng là tổ chức thì chưa thấy được thể hiện. Do đó, theo NCS cần phải 
bổ sung về chủ thể là tổ chức trong phiếu yêu cầu công chứng. 
Ngoài ra, liên quan đến “Giấy tờ tuỳ thân”, LCC năm 2014 không đưa ra 
quy định cụ thể giấy tờ tuỳ thân của người yêu cầu công chứng được chấp nhận 
trong hoạt động công chứng gồm những loại giấy tờ gì. Do đó, NCS kiến nghị cần 
phải có giải thích rõ ràng về các loại giấy tờ được coi là giấy tờ tuỳ thân như: (i) Đối 
với cá nhân: Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân hoặc Hộ chiếu; (ii) Đối với 
tổ chức là quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy 
phép đầu tư và giấy tờ chứng minh người đại diện hợp pháp của tổ chức. 
Thứ ba, công chứng hình thức và chữ ký của giao dịch dân sự. 
Việc chứng nhận các hợp đồng, giao dịch cần thống nhất thực hiện theo quy 
trình công chứng và giao cho công chứng viên. Đối với những loại giao dịch quan 
trọng, bắt buộc phải công chứng thì thực hiện theo quy trình công chứng nội dung 
để bảo đảm mức độ an toàn. Đối với những giao dịch không bắt buộc phải công 
chứng (thực hiện công chứng theo yêu cầu) thì có thể cân nhắc cho phép công 
chứng hình thức để giảm bớt mức độ phức tạp, tiết kiệm chi phí cho người dân và 
doanh nghiệp. Một số giao dịch đặc biệt, đơn giản có thể cân nhắc cho phép thực 
hiện chứng thực chữ ký (giấy ủy quyền đối với các công việc đơn giản, không liên 
quan đến tài sản, di chúc). 
Thứ tư, về thủ tục và quy trình công chứng giao dịch dân sự. 
Quy định thống nhất một thủ tục và quy trình công chứng cho giao dịch bao 
gồm cả sửa đổi, bổ sung giao dịch từ khi tiếp nhận hồ sơ, xử lý yêu cầu công chứng 
và đến khi trả kết quả công chứng. Thủ tục, quy trình công chứng cần được quy 
định theo hướng khi công chứng viên tuân thủ thủ tục công chứng thì sẽ đảm bảo 
tính xác thực về mặt thời gian, địa điểm công chứng; xác thực về năng lực hành vi 
dân sự, năng lực pháp luật dân sự, ý chí giao kết giao dịch của người người yêu cầu 
 176 
công chứng, kiểm tra nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không 
trái đạo đức xã hội. Trong thủ tục công chứng mà có người làm chứng, người phiên 
dịch thì cần quy định rõ cách thức tham gia và trách nhiệm của họ khi làm chứng, 
làm phiên dịch. Trường hợp người yêu cầu công chứng mà thuộc trường hợp vừa có 
người làm chứng và vừa cần có người phiên dịch thì cần phải có cả hai chủ thể này. 
Cần tách các quy định về chữ viết, sửa lỗi kỹ thuật, đánh số trang, ghi số trang 
thành một quy định về thể thức văn bản công chứng. Đưa quy định về người có 
quyền yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu vào phần quy định về xử lý vi 
phạm và giải quyết tranh chấp. 
Ngoài ra, nghiên cứu Điều 40, Điều 41 và Điều 48 LCC năm 2014, NCS 
nhận thấy Luật chỉ quy định là người yêu cầu công chứng, người phiên dịch, người 
làm chứng phải ký vào hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên mà không 
có quy định họ phải ký một chữ ký thống nhất. Vậy, một người có nhiều chữ ký 
khác nhau thì họ có được quyền ký mỗi trang của hợp đồng giao dịch một chữ ký 
khác nhau hay không? Nếu chiếu theo đúng tinh thần luật thì việc ký những chữ ký 
khác nhau trên một hợp đồng, giao dịch là hoàn toàn không vi phạm pháp luật, 
nhưng như vậy sẽ không đảm bảo sự thống nhất trong sự thể hiện ý chí của một chủ 
thể trong hợp đồng, giao dịch. Do đó, để chặt chẽ và thống nhất, NCS kiến nghị cần 
quy định về việc người yêu cầu công chứng, người phiên dịch, người làm chứng 
phải ký một chữ ký thống nhất. 
Thứ năm, thủ tục sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ giao dịch dân sự có công chứng. 
Chỉ quy định thống nhất một thủ tục công chứng cho bao gồm cả trường 
hợp sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ giao dịch có công chứng. 
Bổ sung thêm quy định về chấm dứt hợp đồng: Bỏ phần quy định yêu cầu 
người yêu cầu công chứng phải quay về tổ chức hành nghề công chứng lần đầu đối 
với trường hợp sửa đổi, bổ sung giao dịch và thế chấp bất động sản để đảm bảo một 
nghĩa vụ sau đó lại thế chấp để đảm bảo cho nghĩa vụ khác, vì quy định này tạo ra 
một “địa hạt” trong “địa hạt”, trong khi đó cần để cho người yêu cầu công chứng 
được quyền lựa chọn tổ chức hành nghề công chứng nào phục vụ tốt hơn. 
Đối với trường hợp sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp bất động sản nếu 
ngân hàng nhận thế chấp đang giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền 
 177 
sử dụng tài sản thì chỉ yêu cầu xuất trình bản sao kèm theo giấy xác nhận đang giữ 
bản chính của ngân hàng mà không yêu cầu ngân hàng phải xuất trình bản chính 
một lần nữa. 
Thứ sáu, bồi thường thiệt hại khi GDDS có công chứng bị vô hiệu. 
Điều 38 của LCC năm 2014 quy định: 
“1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu 
cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên 
hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình 
công chứng. 
Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây 
thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi 
trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; 
trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa 
án giải quyết”. 
Nội dung điều luật vừa trích dẫn kể trên hoàn toàn phù hợp với Điều 597 
BLDS năm 2015 về bồi thường thiệt hại do pháp nhân gây ra. Liên quan đến vấn đề 
bồi thường thiệt hại do GDDS công chứng bị vô hiệu còn tồn tại một số bất cập như sau: 
(i) Tổ chức hành nghề công chứng có thể chấm dứt hoạt động dưới nhiều 
hình thức khác nhau mà không nhất thiết phải có tổ chức hành nghề công chứng 
khác kế thừa toàn bộ các quyền và nghĩa vụ. Do đó, quyền và lợi ích hợp pháp của 
người yêu cầu công chứng, cá nhân, tổ chức có liên quan rất khó được đảm bảo nếu 
như tại thời điểm phát sinh yêu cầu bồi thường thiệt hại, tổ chức hành nghề công 
chứng đó đã không còn tồn tại, nhất là trong bối cảnh không có một tổ chức hành 
nghề công chứng khác kế thừa toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành 
nghề công chứng đã chấm dứt hoạt động. 
(ii) Theo khoản 1 Điều 38 LCC năm 2014 và khoản 1 Điều 20 Nghị định số 
29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi 
hành một số điều của LCC, trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra do lỗi của công 
chứng viên được pháp luật xác định cho cả tổ chức hành nghề công chứng và bản 
thân công chứng viên. Điều này cũng sẽ gây khó khăn cho các bên có liên quan 
trong quá trình áp dụng trên thực tế. 
 178 
(iii) Theo khoản 5 Điều 33 LCC năm 2014, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp 
cho công chứng viên là bảo hiểm bắt buộc. Hiện nay, các quy định có liên quan đến 
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên được ghi nhận tại Chương III, 
Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/03/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và 
hướng dẫn thi hành một số điều của LCC. Tuy nhiên cách thức quy định như hiện 
nay là chưa thực sự bám sát yêu cầu thực tế. Đơn cử, tại khoản 2 Điều 22 Nghị định 
số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn 
thi hành một số điều của LCC, chúng ta chỉ đưa ra mức phí bảo hiểm tối thiểu là 
“03 (ba) triệu đồng một năm cho một công chứng viên” trong khi vẫn cho phép các 
bên có thể thỏa thuận mức phí bảo hiểm mà không tính toán đến một số yếu tố như: 
giá trị của giao dịch được công chứng, số lượng văn bản công chứng hàng năm... là 
chưa phù hợp. 
3.3.3. Hoàn thiện quy định pháp luật về một số loại giao dịch dân sự có 
công chứng 
Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về một số giao dịch dân sự có đối 
tượng là quyền sử dụng đất và nhà ở 
Một là, đối với các GDDS về quyền sử dụng đất. 
Điều 167 LĐĐ năm 2013 có quy định quyền của người sử dụng đất là được 
chuyển đổi quyền sử dụng đất. Nhưng tại khoản 3 Điều 167 LĐĐ chỉ quy định đối 
với việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp thì không bắt buộc phải thực hiện 
theo thủ tục công chứng. Vậy việc chuyển đổi quyền sử dụng đất mà không phải là đất 
nông nghiệp như đất ở thì có bắt buộc phải thực hiện theo thủ tục công chứng hay 
không? Trong khi đó, các trường hợp bắt buộc phải thực hiện theo thủ tục công chứng 
cũng không đề cập đến trường hợp này. Đây là một thiếu sót của LĐĐ năm 2013, 
NCS kiến nghị cần bổ sung trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng không bắt buộc 
phải thực hiện thủ tục công chứng mà không quy định riêng đối với đất nông nghiệp. 
Hai là, đối với các GDDS về nhà ở. 
Đối với các GDDS về nhà ở thì các quy định liên quan đến công chứng các 
giao dịch này cần hoàn thiện một số vấn đề sau đây: 
(i) Hiện nay, hợp đồng uỷ quyền về quản lý nhà ở thuộc trường hợp không 
phải thực hiện theo thủ tục công chứng. Vậy những trường hợp uỷ quyền về nhà ở 
 179 
với nội dung uỷ quyền khác như uỷ quyền về định đoạt nhà ở... có phải công chứng 
hay không đang còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Trong khi đó, uỷ quyền định 
đoạt nhà ở cũng mang lại những hệ luỵ sâu sắc cho cả bên uỷ quyền và bên nhận uỷ 
quyền. Trên thực tế, các hợp đồng uỷ quyền định đoạt nhà ở rất phổ biến và những 
hợp đồng này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bởi vậy, NCS kiến nghị đối với hợp đồng 
uỷ quyền có nội dung định đoạt nhà ở thì cần theo thủ tục công chứng bắt buộc để 
bảo đảm an toàn pháp lý cho cả bên uỷ quyền và bên nhận uỷ quyền. 
(ii) Luật Nhà ở năm 2014 chưa quy định cụ thể về vấn đề công chứng đối 
với hợp đồng cho thuê lại nhà ở. Điều 122 của LNƠ năm 2014 không liệt kê hợp 
đồng cho thuê lại nhà ở thuộc trường hợp phải thực hiện theo thủ tục công chứng 
hay thuộc trường hợp không bắt buộc phải thực hiện theo thủ tục công chứng. Rõ 
ràng với sự bỏ ngỏ này của các nhà làm luật sẽ dẫn đến sự hiểu và áp dụng khác 
nhau trên thực tế. Do đó, NCS kiến nghị hợp đồng cho thuê lại nhà ở sẽ được bổ 
sung vấn đề công chứng như đối với hợp đồng thuê nhà tức hợp đồng cho thuê lại 
nhà ở không bắt buộc phải thực hiện thủ tục công chứng. 
Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng uỷ quyền có công chứng. 
Công chứng hợp đồng uỷ quyền là quy định mới được bổ sung trong LCC 
năm 2014 mà trước đó LCC năm 2006 chưa có quy định. Tại khoản 2 Điều 55 LCC 
năm 2014 về thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền có quy định: “Trong trường 
hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể đến cùng một tổ chức hành nghề 
công chứng thì bên ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú 
công chứng hợp đồng ủy quyền; bên được ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề 
công chứng nơi họ cư trú công chứng tiếp vào bản gốc hợp đồng ủy quyền này, 
hoàn tất thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền”. Quy định này có một số bất cập 
sau đây: 
Một là, Điều 42 LCC năm 2014 không giới hạn phạm vi công chứng theo 
đơn vị hành chính cấp tỉnh nếu ủy quyền về bất động sản nhưng khoản 2 Điều 55 
của LCC năm 2014 lại giới hạn phạm vi công chứng ủy quyền trong trường hợp này 
theo phạm vi cư trú. Trong khi đó, phạm vi cư trú theo Luật Cư trú năm 2020 là địa 
điểm thuộc đơn vị hành chính cấp xã hoặc đơn vị hành chính cấp huyện nơi không 
 180 
có đơn vị hành chính cấp xã4. Trên thực tế không phải cấp xã nào cũng có tổ chức 
hành nghề công chứng đóng trên địa bàn. 
Hai là, khoản 2 Điều 55 LCC năm 2014 cũng chưa đề cập đến thời hạn để 
người được ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng chứng tiếp vào bản 
gốc của hợp đồng ủy quyền mà bên ủy quyền đã chứng nhận trước đó. Điều này gây 
ra rủi ro rất lớn cho công chứng viên nơi tiếp nhận yêu cầu của bên nhận ủy quyền. 
Bởi nếu khoảng cách từ thời điểm công chứng của bên uỷ quyền và thời điểm công 
chứng bên nhận uỷ quyền kéo dài, công chứng viên chứng nhận bên nhận uỷ quyền 
sẽ không kiểm soát được việc bên bên ủy quyền đã đơn phương chấm dứt ủy quyền 
trước thời điểm công chứng viên chứng nhận cho bên nhận ủy quyền hay chưa? 
hoặc gặp trường hợp công chứng viên đã chứng nhận cho bên ủy quyền theo thủ tục 
tại khoản 2 Điều 55 LCC năm 2014 thì sau đó bên được ủy quyền lại quay trở lại 
đúng tổ chức hành nghề công chứng trước đó để yêu cầu chứng nhận tiếp cho bên 
được ủy quyền. 
Ba là, thuật ngữ “bản gốc” cũng gây không ít khó khăn cho các công chứng 
viên vì không biết bản gốc được hiểu như thế nào? Bản gốc và bản chính giống hay 
khác nhau? Trường hợp người được ủy quyền chỉ có một bản hợp đồng ủy quyền 
thì thực hiện như thế nào? 
Bốn là, trường hợp ủy quyền ở nước ngoài về thì có bắt buộc phải chứng 
nhận đối với người được ủy quyền không? Thực tiễn công chứng gặp rất nhiều 
trường hợp ủy quyền ở nước ngoài gửi về chỉ có một bản chính (hoặc bản gốc) hoặc 
có hai bản chính (hoặc bản gốc) có cùng nội dung nhưng lại được Cơ quan đại diện 
ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài cho mỗi bản một số công chứng khác nhau. Do 
đó, khi công chứng viên ở Việt Nam chứng nhận thì rất lúng túng không biết sẽ lưu 
bản chính hay bản phô tô của hợp đồng ủy quyền trong trường hợp chỉ có 01 (một 
bản) chính (hoặc bản gốc) hoặc trường hợp có hai bản chính (hoặc bản gốc) có nội 
dung giống nhau nhưng lại cho số công chứng khác nhau thì giải quyết như thế nào? 
Năm là, trong trường hợp ủy quyền đã được chứng nhận ở hai tổ chức hành 
nghề công chứng mà các bên muốn sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, chấm dứt hợp đồng ủy 
quyền thì phải làm như thế nào? 
 181 
Sáu là, Điều 51 LCC năm 2014 quy định: “Việc công chứng sửa đổi, bổ 
sung, hủy bỏ hợp động, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự 
thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, 
giao dịch đó”. Điều 569 BLDS năm 2015 lại cho phép bên ủy quyền hoặc bên được 
ủy quyền được quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền. Sự quy 
định khác nhau này đã dẫn đến các ý kiến trái chiều khi áp dụng. Ý kiến thứ nhất cho 
rằng vì LCC năm 2014 không quy định về chấm dứt nên áp dụng quy định Điều 569 
BLDS năm 2015 để chứng nhận văn bản đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng 
ủy quyền. Ý kiến thứ hai cho rằng, tuy LCC năm 2014 không quy định chấm dứt 
giao dịch nhưng vì bản chất của công chứng là để đảm bảo an toàn giao dịch nên 
trong trường hợp chấm dứt hợp đồng ủy quyền đã được công chứng thì phải áp 
dụng quy định tương tự được quy định tại Điều 51 LCC năm 2014 nên không 
chứng nhận đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền, các bên muốn 
chấm dứt hợp đồng ủy quyền thì phải có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của 
tất cả những người đã tham gia hợp đồng ủy quyền. 
Đề xuất hoàn thiện pháp luật đối với vấn đề này như sau: 
(i) Đối với trường hợp công chứng ủy quyền ở hai nơi cần quy định chỉ áp 
dụng trong điều kiện hai bên không thể đến tổ chức hành nghề công chứng trong 
một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi họ cư trú và người được ủy quyền sẽ 
được bất kỳ tổ chức hành nghề công chứng nào có trụ sở ngoài phạm vi tỉnh, thành 
phố trực thuộc trung ương của tổ chức hành nghề công chứng của bên ủy quyền 
chứng nhận, đồng thời cần có quy định về thời hạn tối đa để người được ủy quyền 
yêu cầu công chứng tiếp vào hợp đồng ủy quyền. 
(ii) Bổ sung thêm quy định về việc chấm dứt ủy quyền trong trường hợp ủy 
quyền ở hai nơi và quy định về chứng nhận chấp nhận ủy quyền đối với trường hợp 
ủy quyền được lập ở nước ngoài của bên ủy quyền (bao gồm cả trường hợp ủy 
quyền này được gọi dưới tên gọi là giấy ủy quyền hay hợp đồng ủy quyền). Quy 
định việc ủy quyền không cần xuất trình các giấy tờ bản chính đối với các giấy tờ 
liên quan đến tài sản mà chỉ nên yêu cầu xuất trình bản sao có chứng thực trong một 
thời hạn nhất định vì các lý do sau: Một là, văn bản ủy quyền chỉ có giá trị chứng 
minh tư cách đại diện của người được ủy quyền, khi thực hiện công việc được ủy 
 182 
quyền thì bên được ủy quyền vẫn phải xuất trình đầy đủ bản chính giấy chứng nhận 
chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người ủy quyền; Hai là, việc 
gửi bản chính qua lại giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền là mất thời gian và 
tiền của cho các bên tham gia giao dịch, việc thất lạc bản chính các giấy tờ này rất 
dễ xảy ra và người dân không yên tâm khi gởi các giấy tờ này qua đường bưu điện; 
Ba là, tránh việc Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài thường 
xuyên chứng văn bản ủy quyền khi mà không có bản chính các giấy chứng nhận 
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản để đối chiếu. 
(iii) Quy định rõ trong trường hợp ủy quyền ở nước ngoài gởi về chỉ có một 
bản chính (bản gốc) thì tổ chức hành nghề công chứng sẽ lưu giữ bản chính (bản 
gốc) và có trách nhiệm cấp bản sao văn bản ủy quyền cho người được ủy quyền để 
sử dụng. 
(iv) Quy định thêm trường hợp các bên muốn công chứng hợp đồng ủy 
quyền ở hai thời điểm khác nhau tại cùng một tổ chức hành nghề công chứng. 
Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật về di chúc có công chứng. 
Đối với vấn đề di chúc có công chứng, NCS đề xuất hoàn thiện một số quy 
định sau đây: 
Một là, Điều 636 BLDS năm 2015 có quy định về thủ tục lập di chúc tại tổ 
chức hành nghề công chứng như sau: “Người lập di chúc tuyên bố nội dung di chúc 
trước công chứng viên; công chứng viên phải ghi chép lại nội dung di chúc mà 
người lập di chúc đã tuyên bố; người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào di chúc sau 
khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của 
mình; công chứng viên ký vào bản di chúc”. Theo thủ tục tại BLDS năm 2015 nêu 
trên đối chiếu với quy định tại các Điều 40, Điều 41 và Điều 56 của LCC năm 2014 
thì khi công chứng di chúc công chứng viên chỉ áp dụng được quy trình theo Điều 41 
chứ không thể áp dụng quy trình theo Điều 40 Luật Công năm 2014 chứng trong 
khi đó dường như Điều 56 LCC năm 2014 không có quy định về trường hợp này. 
Điều này có nghĩa theo LCC năm 2014 thì công chứng viên có thể công chứng di 
chúc cả trong trường hợp người lập di chúc soạn thảo sẵn bản di chúc. Bên cạnh đó, 
LCC năm 2014 không cho phép người lập di chúc ủy quyền cho người khác yêu cầu 
công chứng di chúc nhưng nếu thuộc trường hợp người yêu cầu công chứng di chúc 
 183 
không thể đến tổ chức hành nghề công chứng để yêu cầu công chứng di chúc thì 
chưa có quy định về cách thức công chứng viên tiếp nhận yêu cầu công chứng di 
chúc trong trường hợp này. Thực tiễn hoạt động công chứng cho thấy nếu người lập 
di chúc không đến tổ chức hành nghề công chứng cho thấy sẽ do người khác đến 
nộp hồ sơ chứ không phải là người lập di chúc. 
Quy định quy trình công chứng di chúc cho phù hợp với quy định của 
BLDS năm 2015. Đồng thời quy định thêm thủ tục tiếp nhận yêu cầu công chứng di 
chúc trong trường hợp người yêu cầu công chứng di chúc không thể đến trụ sở của 
tổ chức hành nghề công chứng và việc công chứng di chúc tại chỗ ở theo quy định 
tại khoản 1 Điều 639 BLDS năm 2015 thì không cần phải “có lý do chính đáng” 
như quy định tại khoản 2 Điều 44 LCC năm 2014. 
Hai là, khoản 3 Điều 630, BLDS năm 2015: “Di chúc của người bị hạn chế 
về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành 
văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”. BLDS năm 2015 chưa làm rõ được 
như thế nào là hạn chế về thể chất và những trường hợp nào hạn chế về thể chất bắt 
buộc phải lập văn bản theo hình thức công chứng hay mọi trường hợp hạn chế về 
thể chất đều phải tuân theo quy định này mặc dù việc hạn chế về thể chất đó hoàn 
toàn không gây ảnh hưởng đến việc nhận thức cũng như làm chủ hành vi của họ khi 
tham gia các GDDS. Do vậy, NCS kiến nghị cần phải quy định chặt chẽ theo hướng 
di chúc của người bị hạn chế về thể chất nhưng sự hạn chế này gây ảnh hưởng đến 
khả năng nhận thức và làm chủ hành vi thì di chúc của những người này cần được 
công chứng hoặc chứng thực. 
Ba là, đối với di chúc miệng tại khoản 5 Điều 630 BLDS năm 2015 quy 
định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện 
ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền 
chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”. Quy định này 
có một số vướng mắc sau đây: (i) Về thời hạn đi công chứng: Theo quy định của 
BLDS, thời hạn này là 5 ngày làm việc kể từ thời điểm người để lại di sản thừa kế 
thể hiện ý chí của mình. Theo NCS, khoảng thời gian này quy định ngắn bởi có rất 
nhiều yếu tố xảy ra cả về khách quan và chủ quan khiến người làm chứng không thể 
công chứng (hay chứng thực) văn bản ghi chép trong thời gian luật định; (ii) Khoản 5 
 184 
Điều 630 BLDS năm 2015 quy định “công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền 
chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng” - quy định này 
như một sự thách đố vào tạo ra rủi ro cho công chứng viên. Bởi lẽ, công chứng viên 
cần xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng trong khi đó cơ sở để công 
chứng viên thực hiện là không có. Do đó, NCS kiến nghị cần tăng thời gian để 
những người làm chứng đi thực hiện thủ tục công chứng. Ngoài ra, việc ghi nhận 
công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc 
điểm chỉ của người làm chứng là không có cơ sở cần lược bỏ. 
Thứ tư, công chứng văn bản thoả thuận phân chia di sản và khai nhận di sản 
Pháp luật dân sự hiện hành chỉ đưa ra hai cách thức phân chia di sản là phân 
chia di sản theo di chúc và phân chia di sản theo pháp luật. Trong khi đó, khi đề cập 
đến vấn đề này, các nhà làm LCC năm 2014 lại có một cách tiếp cận hoàn toàn 
khác. Cụ thể, khi đề cập đến “Công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản”, 
Điều 57, LCC quy định: 
“1. Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc 
không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu 
công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản. 
Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể 
tặng cho toàn bộ hoặc một phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế khác...”. 
Trong khi đó, khoản 1 Điều 58 LCC năm 2014 quy định: “Người duy nhất 
được hưởng di sản theo pháp luật hoặc những người cùng được hưởng di sản theo 
pháp luật nhưng thỏa thuận không phân chia di sản đó có quyền yêu cầu công 
chứng văn bản khai nhận di sản”. 
Như vậy, cách tiếp cận của các nhà làm LCC lại dựa trên một hệ tiêu chí 
hoàn toàn khác biệt. Chính vì lý do này, trong nhiều tình huống thực tế, công chứng 
viên sẽ lúng túng khi đưa ra hướng giải quyết trong một số tình huống thực tế. Ví 
dụ, trong di chúc đã xác định rõ phần di sản mà mỗi người thừa kế được hưởng thì 
áp dụng hình thức văn bản nào? Hay các đồng thừa kế có quyền thỏa thuận bán tài 
sản là di sản để chia bằng tiền hay không?97 
97. Tuấn Đạo Thanh, Báo cáo nghiên cứu đề xuất hoàn thiện pháp luật công chứng, Dự án phát triển lập 
pháp quốc gia (NLD), Bộ Tư pháp. 
 185 
Bộ luật Dân sự năm 2015 có hai hình thức để thừa kế và hưởng thừa kế đó 
là thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Việc được hưởng thừa kế như thế 
nào đã được quy định cụ thể trong BLDS. Do đó, nếu LCC năm 2014 quy định thì 
chỉ nên quy định về thủ tục và quy trình để thực hiện việc nhận thừa kế đối với 
trường hợp thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc chứ không nên bắt buộc 
trường hợp nào thì thỏa thuận phân chia di sản, trường hợp nào thì khai nhận di sản 
như quy định hiện nay tại Điều 57 và Điều 58 của LCC. năm 2014 
Kết luận Chƣơng 3 
Với sự gia tăng của các GDDS, số lượng các GDDS được công chứng ngày 
càng nhiều; qua đó, bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể trong giao dịch, hạn chế 
phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên, hoạt động công chứng cũng vẫn còn tồn tại nhiều 
bất cập, hạn chế như: Nhiều trường hợp công chứng viên vi phạm các quy định liên 
quan đến người yêu cầu công chứng là người không có năng lực hành vi dân sự đầy 
đủ; cao tuổi không còn mình mẫn; ốm đau, bệnh tật...; nhiều hợp đồng mà chủ thể 
ký vào văn bản công chứng nhưng lại không biết chữ; một số hợp đồng người ký kết 
vào văn bản công chứng là giả mạo nhưng công chứng viên không phát hiện ra...; 
một số công chứng viên thực hiện công chứng văn bản phân chia di sản, khai nhận 
di sản nhưng chưa thực hiện hêt trách nhiệm của mình dẫn tới việc xác định không 
đầy đủ, bỏ sót người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật hoặc xác định 
di sản để phân chia chưa chính xác. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể kể 
đến do pháp luật về công chứng nói riêng và pháp luật khác nói chung còn chưa đầy 
đủ, cụ thể và vẫn còn một số quy định chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản pháp 
luật khác. Cũng như do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp 
của các công chứng viên... 
 186 
KẾT LUẬN 
Luận án “Giao dịch dân sự có công chứng theo quy định của pháp luật Việt 
Nam” đã nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề từ lý luận, thực trạng pháp luật 
và thực tiễn áp dụng pháp luật về GDDS có công chứng. 
Giao dịch dân sự có công chứng là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn 
phương được công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận 
tính xác thực, hợp pháp qua đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa 
vụ dân sự. GDDS có công chứng được thực hiện một cách bắt buộc theo luật định 
hoặc tự nguyện theo ý chí chủ thể trong giao dịch. Việc công chứng GDDS được 
thực hiện theo các căn cứ sau đây: (i) Công chứng GDDS được thực hiện dựa trên 
cơ sở luật định; (ii) Công chứng GDDS được thực hiện dựa trên ý chí của chủ thể 
trong GDDS. 
Pháp luật về GDDS có công chứng được quy định tương đối đầy đủ, hoàn 
thiện với nhiều vấn đề pháp lý được ghi nhận. Các quy định liên quan đến GDDS có 
công chứng là khung pháp lý quan trọng để các cơ quan, tổ chức thực hiện việc 
công chứng giao dịch trên thực tế cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh liên 
quan đến GDDS có công chứng. Tuy vậy, pháp luật về GDDS có công chứng cũng 
còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập như: còn tồn tại sự thiếu thống nhất giữa các 
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thời điểm có hiệu lực của GDDS có công 
chứng; chưa quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi GDDS có công 
chứng bị vô hiệu; vấn đề công chứng hợp đồng uỷ quyền, di chúc còn nhiều quy 
định chưa hợp lý và vấn đề công chứng trên môi trường điện tử cũng còn gặp nhiều 
lúng túng... Bên cạnh các bất cập của pháp luật, thực tiễn công chứng các GDDS 
cũng nảy sinh nhiều vấn đề công chứng viên vi phạm các quy định pháp luật về 
công chứng... Xuất phát từ những bất cập của pháp luật và những vướng mắc trong 
thực tiễn áp dụng liên quan đến GDDS có công chứng, luận án đã đưa ra một số 
kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến nội dung này như: hoàn thiện các quy 
định chung liên quan đến GDDS có công chứng; hoàn thiện các quy định về công 
chứng GDDS và hoàn thiện một số loại GDDS cụ thể có công chứng như hợp đồng 
uỷ quyền, di chúc. 
 187 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
1. Lại Thị Bích Ngà (2018), “Bàn về một số quy định của Luật Công chứng năm 
2014”, Tạp chí Nghề luật, (5), tr. 81-84. 
2. Lại Thị Bích Ngà - Lê Thị Trang (2020), “Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng 
quy định tại Điều 118 Luật Nhà ở năm 2014 trong hoạt động công chứng các 
giao dịch về nhà ở”, Tạp chí Nghề luật, (9), tr. 14-17. 
3. Lại Thị Bích Ngà (2021), “Những bất cập trong quy định của Luật Nhà ở hiện 
hành về điều kiện của chủ thể tham gia giao dịch về nhà ở”, Tạp chí Nghề luật, (9), 
tr. 37-40. 
4. Lại Thị Bích Ngà (2022), “Truất quyền hưởng di sản - Những vướng mắc trong 
hoạt động công chứng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 3(360), tr. 49-53. 
5. Lại Thị Bích Ngà (2022), “Hoàn thiện pháp luật công chứng về thủ tục công 
chứng hợp đồng, giao dịch”, Tạp chí Nghề luật, (Số chuyên đề góp ý xây dựng 
Luật Công chứng sửa đổi), tr. 60-67, 81. 
 188 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lương Khải Ân (2016), “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho vay trong lĩnh 
vực ngân hàng”, Tạp chí Luật học, (8), tr. 3-17. 
2. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo số 151/BC-BTP ngày 15/7/2013 về Tổng kết thi 
hành Bộ luật Dân sự năm 2005, Hà Nội. 
3. Ngô Quốc Chiên (2016), “Bàn về quy định giao dịch dân sự vi phạm điều cấm 
của pháp luật trong Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Nhà nước và 
pháp luật, (8), tr. 20-24. 
4. Nguyễn Đức Chính (Chủ nhiệm) (2004), Xã hội hóa dịch vụ công một số hoạt 
động của chính quyền thành phố, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, 
Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh. 
5. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 về hướng 
dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội. 
6. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi 
tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Hà Nội. 
7. Chính phủ (2014), Nghị định số 99/2014/NĐ-CP ngày 20/10/2014 quy định 
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, Hà Nội. 
8. Chính phủ (2015), Báo cáo số 225/BC-CP ngày 19/5/2015 về kết quả lấy ý kiến 
nhân dân và tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Hà Nội. 
9. Nguyễn Văn Cường (2002), “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ các 
quy định về hình thức”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (1), tr. 29-31. 
10. Nguyễn Văn Cường (2005), Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu 
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, Luận án tiến sĩ Luật học, 
Trường Đại học học Luật Hà Nội, Hà Nội. 
11. Nguyễn Huy Cường (2016), “Một số bất cập trong các quy định về mang thai 
hộ vì mục đích nhân đạo của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp 
chí Nhà nước và pháp luật, 9(391), tr. 38-40, 49. 
12. Đỗ Văn Đại (2011), Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 189 
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của 
Bộ Chính trị về một số trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới - 
giai đoạn 2005 - 2010, Hà Nội. 
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 
của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp 
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 
tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
19. Phạm Giang (2011), Luật Công chứng và các văn bản liên quan, Nxb Tư 
pháp, Hà Nội. 
20. Nguyễn Ngọc Hà (2016), “Trách nhiệm của Nhà nước và cơ quan nhà nước 
khi tham gia quan hệ dân sự theo Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí 
Nhà nước và pháp luật, 8(340), tr. 11-19. 
21. Hà Thị Mai Hiên (2010), Tài sản và quyền sở hữu của công dân ở Việt Nam, 
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
22. Học viện Tư pháp (1994), Tập bài giảng: Công chứng, luật sư, giám định hộ 
tịch 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
23. Hội đồng Nhà nước (1990), Pháp lệnh Thừa kế, Hà Nội. 
24. Hội đồng Nhà nước (1991), Pháp lệnh về hợp đồng dân sự, Hà Nội. 
25. Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của Hợp dồng theo quy định của pháp luật 
Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ 
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 
26. Phan Đình Khánh (2008), Tìm hiểu về công chứng và quy định về chứng thực, 
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 
 190 
27. Nguyễn Phương Lan (2016), “Một số vấn đề về áp dụng tập quán trong quan hệ 
hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8(304), tr. 31-38. 
28. Nguyễn Thị Mai, Đoàn Tố Như (2000), Hỏi đáp về giao dịch dân sự về nhà ở 
được xác lập trước ngày 01/7/1991, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 
29. Trần Huyền Nga (1999), Những điều cần biết về hộ tịch hộ khẩu và công 
chứng nhà nước, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 
30. Nguyễn Như Phát (2002), “Dịch vụ công ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, 
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (2). 
31. Nguyễn Minh Phượng (2013), “Hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm 
về hình thức theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005”, Tạp chí 
Tòa án nhân dân, (10), tr. 33-36. 
32. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội. 
33. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội. 
34. Quốc hội (1959), Luật Gia đình, Hà Nội. 
35. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội. 
36. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội. 
37. Quốc hội (1987), Luật Đất đai, Hà Nội. 
38. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 
39. Quốc hôi (1993), Luật Đất đai, Hà Nội. 
40. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Hà Nội 
41. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội. 
42. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 
43. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội. 
44. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội. 
45. Quốc hội (2005), Luật Nhà ở, Hà Nội. 
46. Quốc hội (2005), Luật Giao dịch điện tử, Hà Nội. 
47. Quốc hội (2006), Luật Công chứng, Hà Nội. 
48. Quốc hội (2009), Luật Nhà ở, Hà Nội. 
49. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội. 
50. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội. 
 191 
51. Quốc hội (2014), Luật Nhà ở, Hà Nội. 
52. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội. 
53. Quốc hội (2014), Luật Công chứng, Hà Nội. 
54. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội 
55. Quốc hội (2023), Luật Giao dịch điện tử, Hà Nội. 
56. Thân Văn Tài (2016), “Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát 
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, Tạp chí Luật học, (7), tTr. 35-44. 
57. Phạm Hồng Thái (2005), Giáo trình Luật Dân sự (Dùng cho đào tạo đại học 
hành chính), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
58. Phạm Hồng Thái (2009), Giáo trình Luật Dân sự: Dùng cho đào tạo đại học 
Hành chính, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 
59. Lưu Quốc Thái (2016), “Các biện pháp đảm bảo quyền lợi hợp pháp của 
khách hàng mua nhà hình thành trong tương lai”, Tạp chí Khoa học pháp 
lý, 6(100), tr. 23-32. 
60. Tuấn Đạo Thanh (2011), Nhập môn công chứng, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
61. Tuấn Đạo Thanh (2012), Pháp luật về công chứng những vấn đề lý luận và 
thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
62. Tuấn Đạo Thanh (2013), Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự trong 
hoạt động công chứng, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
63. Tuấn Đạo Thanh (Chủ nhiệm) (2018), Báo cáo nghiên cứu đề xuất hoàn thiện 
pháp luật công chứng, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội. 
64. Tuấn Đạo Thanh (2014), Một số vấn đề cần lưu ý khi công chứng các văn bản 
liên quan tới chế định thừa kế, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
65. Tuấn Đạo Thanh (2015), Một số vấn đề cần lưu ý khi công chứng các hợp 
đồng có đối tượng là công việc, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
66. Tuấn Đạo Thanh (2016), Một số vấn đề cần lưu ý khi công chứng các hợp 
đồng dẫn tới việc chuyển dịch chủ sở hữu tài sản, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
67. Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn (2015), Giáo trình Luật Dân sự Việt 
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
68. Dương Đình Thành (1998), Tìm hiểu về công chứng nhà nước: Quy định mới 
nhất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 192 
69. Nguyễn Năng Thính (2000), “Thực trạng tổ chức và hoạt động công chứng nhà 
nước ở Hải Phòng, những kiến nghị đổi mới”, Thông tin Khoa học pháp 
lý, (Chuyên đề đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở địa 
phương 9/2000), Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư Pháp, Hà Nội. 
70. Nguyễn Văn Thông (1999), Hỏi đáp về giao dịch dân sự và giải quyết tranh 
chấp về đất, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai 
71. Trịnh Quốc Toản (1998), Giáo trình Luật Tổ chức tòa án, viện kiểm sát, công 
chứng, luật sư, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
72. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Hợp đồng về quyền sử dụng đất trong Bộ luật 
Dân sự năm 2015”, Tạp chí Luật học, (7), tr. 53-59. 
73. Nguyễn Thị Thùy Trang (2017), Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 
ở theo quy pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, 
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 
74. Ủy ban Công chứng Nhà nước (2010), Luật Công chứng của Mỹ năm 2006, 
(Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 
75. Ủy ban Công chứng Nhà nước (2010), Luật Công chứng của Nhật Bản, (Tài 
liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 
76. Ủy ban Công chứng Nhà nước (2011), Luật Công chứng của Cộng hòa Czech, 
(Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 
77. Ủy ban Công chứng Nhà nước (2011), Luật Công chứng của Bosniavà 
Herzegovina, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 
78. Ủy ban Công chứng Nhà nước (2011), Luật Công chứng của Cộng hòa 
Macedonia, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 
79. Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành Chính Việt Nam, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
80. Nguyễn Văn Yểu, Dương Đình Thành (1991), Công chứng nhà nước, Viện 
Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp. 
81. Nguyễn Văn Yểu, Dương Đình Thành (1992), Những điều cần biết về công 
chứng nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 193 
Tiếng Anh 
82. Henry Campell, M.A (1983), Black’s Law Dictionary, West Publishing Co. 
USA (the fifth edition). 
83. Michael L. Closen, Trevor J. Orsinger and Bradley A. Ullrick (Winter 2001), 
Notarial Records and the Preservation of the Expectation of Privacy, 
University of San Francisco School of Law, USA. 
84. Bryan A. Garner (1999), Black’s Law Dictionary, West Group. USA (the 
seventh edition). 
85. Notary Professor Dr. Reinhold Geimer, XXIII International Congress of Latin 
Notaries - Report of the German Delegation, Munchen, Germany. 
86. Michigan Department of State, Office of the Great Seal (2004), Notary Public 
Information, USA. 
87. National Notary Association (1998), The Notary Public Code of Professional 
Responsibility, USA. 
88. National Notary Association (2002), The Model Notary Act, USA. 
89. State of NewYork, Secretary of State’s Office, Business Services and 
Licensing Divisions, (2004), Official Notary Public Handbook, USA. 
90. New Jersey Division of Revenue (2003), New Jersey Notary Public Manual, USA. 
91. Notary Public Act amended by Act No. 6627 dated January 26th, 2002 (2003), 
South Korea. 
92. Official Gazette of the Repubic of Macedonia No. 59/969 (1997), Notary 
Public Law, Repubic of Macedonia. 
93. Secretary of State, State of California, (2001), Notary Public Disciplinary 
Guidelines, USA. 
94. State of Nebraska, Secretary of State’s Office, Business Services and Licensing 
Divisions, (2004), Official Notary Public Handbook, USA. 
95. Secretary of State, State of California, Notary Public Section, (2005), Notary 
Public Handbook, USA. 
96. The Royal Kram No. 910-NS effected from November 4th, 1954, Kingdom of 
Cambodia (1954). 
97. Jesse White, Secretary of State (2007), Illinois Notary Public Handbook, USA. 
 194 
Tiếng Nga 
98. КОШЕЧКИНА ЮЛИЯ АЛЕКСАНДРОВНА1(2017), К ВОПРОСУ О 
ПОНЯТИЯХ “НОТАРИАТ” И “НОТАРИАЛЬНАЯ ДЕЯТЕЛЬНОСТЬ” 
В РОССИЙСКОЙ ФЕДЕРАЦИИ,  
sbornik270617_3.pdf#page=11. 
99. МАСЛЕННИКОВА ТАТЬЯНА ВЛАДИМИРОВНА (2017), РЕАЛИЗАЦИЯ 
ОХРАНИТЕЛЬНОЙ ФУНКЦИИ ПРИ РЕФОРМИРОВАНИИ 
СИСТЕМЫ НОТАРИАТА, https://elibrary.ru/item.asp?id=28351565. 
100. ПОСОБИЛО НАТАЛЬЯ ВАЛЕРЬЕВН (2018), Место нотариата в 
Российской Федерации, https://elibrary.ru/item.asp?id=32592107. 
 195 
PHỤ LỤC 
Phụ lục 1 
BẢNG TỔNG HỢP HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI 
THEO LUẬT THƢƠNG MẠI NĂM 2005 
Loại hợp đồng Hình thức hợp đồng 
Hợp đồng 
mua bán 
hàng hoá 
Hợp đồng mua bán hàng hoá 
trong nước 
- Bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được 
xác lập bằng hành vi cụ thể. 
- Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng 
hoá mà pháp luật quy định phải được lập 
thành văn bản thì phải tuân theo các quy 
định đó. 
Hợp đồng mua bán hàng hoá 
quốc tế 
Bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác 
có giá trị pháp lý tương đương. 
Hợp đồng dịch vụ 
- Bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được 
xác lập bằng hành vi cụ thể. 
- Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà 
pháp luật quy định phải được lập thành 
văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. 
Hợp đồng về 
xúc tiến thƣơng 
mại 
Hợp đồng dịch vụ khuyến mại 
Phải được lập thành văn bản 
hoặc bằng hình thức khác có giá trị 
pháp lý tương đương 
Hợp đồng dịch vụ quảng 
cáo thương mại 
Hợp đồng dịch vụ trưng 
bày, giới thiệu hàng hoá, 
dịch vụ 
Hợp đồng dịch vụ tổ chức, 
tham gia hội chợ, triển lãm 
thương mại 
Hợp đồng về 
trung gia 
thƣơng mại 
Hợp đồng đại diện cho 
thương nhân Phải được lập thành văn bản 
hoặc bằng hình thức khác có giá trị 
pháp lý tương đương. 
Hợp đồng uỷ thác mua bán 
hàng hoá 
Hợp đồng đại lý thương mại 
Một số hợp 
đồng thƣơng 
mại khác 
Hợp đồng gia công trong 
thương mại 
Phải được lập thành văn bản 
hoặc bằng hình thức khác có giá trị 
pháp lý tương đương 
Hợp đồng dịch vụ tổ chức 
đấu giá hàng hoá 
Hợp đồng dịch vụ quá cảnh 
Hợp đồng nhượng quyền 
thương mại 
 196 
Phụ lục 2 
BẢN TỔNG HỢP CÁC GIAO DỊCH DÂN SỰ BẮT BUỘC PHẢI CÔNG CHỨNG, 
CHỨNG THỰC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 
1. Hợp đồng mua bán nhà ở phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp 
đồng (Căn cứ: Điều 122 LNƠ năm 2014 và Điều 430 BLDS năm 2015). 
2. Hợp đồng tặng cho nhà ở, bất động sản phải thực hiện công chứng, chứng 
thực hợp đồng trừ trường hợp: tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương 
(Căn cứ: Điều 122 LNƠ năm 2014 và Khoản 1 Điều 459 BLDS năm 2015). 
3. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn 
liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực (Căn cứ: Khoản 3 Điều 167 LĐĐ 
năm 2013). 
4. Hợp đồng đổi nhà ở phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng 
(Căn cứ: Khoản 1 Điều 122 LNƠ 2014). 
5. Hợp đồng góp vốn bằng nhà ở phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp 
đồng (Căn cứ: Khoản 1 Điều 122 LNƠ 2014). 
6. Hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản 
gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực (Căn cứ: Khoản 3 Điều 167 
LĐĐ 2013). 
7. Hợp đồng thế chấp nhà ở phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng 
(Căn cứ: Khoản 1 Điều 122 LNƠ 2014). 
8. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng 
thực (Căn cứ: Khoản 3 Điều 167 LĐĐ 2013). 
9. Hợp đồng chuyển nhượng mua bán nhà ở thương mại phải thực hiện công 
chứng, chứng thực hợp đồng (Căn cứ: Khoản 1 Điều 122 LNƠ 2014). 
10. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc 
chứng thực. Trừ trường hợp: Một bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử 
dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên là tổ chức 
kinh doanh bất động sản (Căn cứ: Khoản 3 Điều 167 LĐĐ 2013). 
11. Hợp đồng tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công 
chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu 
theo quy định của luật (Căn cứ: Khoản 1 Điều 459 BLDS 2015). 
 197 
12. Hợp đồng trao đổi tài sản phải được lập thành văn bản, có công chứng, 
chứng thực hoặc đăng ký, nếu pháp luật có quy định (Căn cứ: Khoản 2 Điều 455 
BLDS năm 2015). 
13. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ 
di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, 
nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 630 BLDS (Căn cứ: Khoản 4 
Điều 630 BLDS năm 2015). 
14. Văn bản thừa kế nhà ở, quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản 
gắn liền với đất (Căn cứ: Khoản 3 Điều 122 LNƠ 2014 và Điểm c Khoản 3 Điều 167 
LĐĐ 2013). 
 198 
Phụ lục 3 
QUY TRÌNH 32. CÔNG CHỨNG VĂN BẢN THOẢ THUẬN 
 MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO 
TT Tên hồ sơ 
Số 
lƣợng 
Ghi 
chú 
1 Phiếu yêu cầu công chứng 01 
Bản 
chính 
2 
Giấy tờ tùy thân: Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân/Giấy 
chứng minh sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam/Hộ chiếu của các 
bên tham gia giao dịch 
01 
Bản 
sao 
3 
Giấy tờ khác có liên quan mà pháp luật quy định phải có, như: 
* Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn/xác nhận về quan hệ hôn nhân 
được xác lập trước ngày 03/01/1987 cho đến nay (trong trường hợp 
sống chung nhưng chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn); 
* Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ 
thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu 
mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng 
của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con 
ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; 
* Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ 
thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả 
năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi; 
* Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND 
cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; 
* Bản xác nhận của UBND cấp xã hoặc người mang thai hộ, người 
nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích 
cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách 
nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này; 
* Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai 
hộ lần nào; 
* Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa; 
* Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại 
học chuyên khoa tâm lý trở lên; 
* Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật 
gia hoặc người trợ giúp pháp lý; 
01 
Bản 
sao 
 199 
* Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người 
phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ; 
Nếu người mang thai hộ chưa kết hôn thì phải có giấy xác nhận tình 
trạng hôn nhân của người mang thai hộ; 
* Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; 
* Giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể tham gia giao dịch: 
- Cá nhân là người Việt Nam cư trú trong nước: hộ khẩu; 
- Hợp đồng ủy quyền của vợ chồng cho nhau về việc ký văn bản thỏa 
thuận mang thai hộ; 
* Giấy tờ chứng minh về năng lực hành vi: giấy khám sức khỏe/tâm 
thần (trong trường hợp có nghi ngờ về năng lực hành vi của bên 
tham gia giao kết hợp đồng); 
* Giấy tờ tuỳ thân của người làm chứng/ người phiên dịch (trong 
trường hợp cần phải có người làm chứng/ người phiên dịch). 
+ Giấy tờ khác có liên quan đến văn bản yêu cầu chứng nhận mà 
pháp luật quy định phải có; 
* Đối với trường hợp hợp đồng được người yêu cầu công chứng soạn 
thảo sẵn: ngoài thành phần nêu trên thì kèm theo Dự thảo hợp đồng.