Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân
dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là công việc vừa có ý nghĩa cấp bách,
vừa có ý nghĩa lâu dài. Bởi lẽ, giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên thực
chất là quá trình từng bước tạo ra sự chuyển biến về chất của tri thức, tình
cảm và ý chí ở những em học viên Công an nhân dân, từ cơ sở đó không
ngừng làm gia tăng động lực tinh thần to lớn và mạnh mẽ, thúc đẩy các em
tích cực, chủ động và sáng tạo hơn trong việc học tập, rèn luyện và thực hiện
tốt các nhiệm vụ trọng trách của ngành và đơn vị, góp phần hoàn thành tốt
trách nhiệm mà Tổ quốc, Đảng và Nhân dân giao phó, xứng đáng với truyền
thống vẻ vang của ngành.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân
dân là một hệ thống bao gồm các thành tố có tương tác và quy định lẫn nhau.
Chủ thể của hệ thống là Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các phòng ban chức năng
và các cán bộ, giảng viên. Mỗi chủ thể có một vai trò nhất định nhưng tất cả
đều hướng tới việc chuyển tải các nội dung giáo dục thông qua các hình thức,
các phương pháp nhằm nâng cao hiểu biết và tình cảm đối với đất nước, dân
tộc Việt Nam cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí
Minh. Yêu cầu đẩy mạnh giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Công an nhân dân bị quy định bởi chính các điều kiện hiện nay của đất
nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong bối cảnh chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với vị trí trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội và một bề dày truyền thống, Thành phố Hồ Chí Minh đang tạo ra
những thuận lợi to lớn đối với công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên các trường Công an nhân dân. Tuy vậy, những tác động từ mặt trái của153
quá trình mở cửa, hội nhập cũng gây ra không ít những trở ngại cho công tác
giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Đặc biệt là hiện nay, tình hình chính trị, kinh tế
- xã hội ngày càng diễn biến rất phức tạp, khó lường. Âm mưu diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, sự chia rẽ thống nhất
của dân tộc, các tổ chức, thế lực phản động trong và ngoài nước đang ra sức
chống phá Đảng, chống phá chế độ và Nhà nước; kinh tế thị trường đã mang
lại sự phát triển của nền kinh tế đất nước, nhưng nó cũng tồn tại những mặt
trái nhất định; tội phạm rất manh động, sử dụng vũ khí nóng ngày càng gia
tăng, chúng bất chấp và coi thường pháp luật để gây án, điều đó càng đòi
hỏi hơn nữa những nỗ lực của các chủ thể và của học viên trong công tác giáo
dục chủ nghĩa yêu nước.
175 trang |
Chia sẻ: huydang97 | Ngày: 27/12/2022 | Lượt xem: 967 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trườn Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu nước của dân tộc, truyền
thống đấu tranh cách mạng của Đảng, truyền thống của ngành Công an nhân
dân, của các đơn vị, địa phương và gia đình luôn có vai trò to lớn trong nâng
cao sức mạnh chính trị - tinh thần, là cơ sở và điểm tựa để học viên Công an
nhân dân kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, nâng cao bản lĩnh chính trị,
lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân. Nếu không hiểu biết
truyền thống lịch sử dân tộc sẽ dễ quên nền móng, gốc rễ, cội nguồn và cũng dễ
quay lưng lại với đất nước, dân tộc; do đó, là người yêu nước thì phải có những
am hiểu nhất định về truyền thống lịch sử nước nhà. Các em học viên Công an
nhân dân khi hiểu rõ và nhận thức sâu sắc giá trị của truyền thống sẽ xác định
được chỗ đứng của mình trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, sẽ tự xác định
cho mình phải làm gì và làm như thế nào để xây đắp, tô thắm thêm truyền
thống đó. Bác Hồ đã từng nói “dân ta phải biết sử ta”; Các Mác khi bàn về vai
139
trò của lịch sử, truyền thống đã nhấn mạnh: “Con người làm ra lịch sử, truyền
thống của con người đè lên vai những người đang sống” [84; tr. 145].
Trải qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam
đã xây đắp nên truyền thống oai hùng. Truyền thống đó là tổng hòa những
phẩm chất, tính cách, tư tưởng, tình cảm, phong tục, tập quán của dân tộc
được kết tinh lâu đời và truyền từ thế hệ này qua các thế hệ khác. Do vậy, cần
tập trung giáo dục cho học viên các trường Công an nhân dân về truyền thống
kiên cường bất khuất, anh dũng trong chống giặc ngoại xâm của cha ông ta,
truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; truyền thống tương
thân, tương ái, đại đoàn kết của dân tộc, yêu thương đùm bọc lẫn nhau; ham
học hỏi, cầu tiến, truyền thống nhân nghĩa, bao dung, rộng lượng, trọng nghĩa
tình, lạc quan yêu đời,... qua đó nhằm hình thành và rèn luyện cho các em học
viên Công an nhân dân những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam,
tạo nền tảng để phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn hiện
nay. Đặc biệt những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường đang là thách
thức đối với việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống; cùng với điều
đó, những yêu cầu về tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái và ý chí chiến
thắng đại dịch COVID-19 hiện nay ở nước ta càng cho thấy cần tập trung hơn
nữa vào nội dung giáo dục các giá trị truyền thống của dân tộc.
Giáo dục lịch sử truyền thống của dân tộc phải gắn liền với giáo dục
lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt
Nam hơn 90 năm qua. Từ khi Đảng ra đời (03/02/1930) cho đến nay, với sự
lãnh đạo cách mạng tài tình của Đảng, đất nước ta, dân tộc ta đã làm nên
những kỳ tích, những thắng lợi vang dội làm rạng rỡ tô vẽ thêm truyền thống
của dân tộc. Vì vậy, trong công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên
các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, các chủ thể
cần giáo dục cho các em học viên có hiểu biết đầy đủ về lịch sử ra đời và quá
140
trình đấu tranh cách mạng hào hùng của Đảng ta, nhận thức rõ về vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, đối với lực lượng Công an nhân
dân Việt Nam qua đó nhằm củng cố, bồi đắp thêm niềm tự hào, sự tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó tích cực đấu tranh chống mọi
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp vai trò của Đảng, chia rẽ
Đảng với quần chúng Nhân dân, đồng thời quyết tâm thực hiện cho được mục
tiêu lý tưởng của Đảng.
Bên cạnh đó, phải giáo dục cho các em học viên Công an nhân dân về lịch
sử truyền thống vẻ vang của ngành, của Nhà trường: từ khi lực lượng Công an
nhân dân được thành lập (19/08/1945) cho đến nay đã trải qua 75 năm, dưới sự
lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự chỉ
đạo chặt chẽ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lực lượng
Công an nhân dân đã không ngừng trưởng thành qua thực tiễn chiến đấu, xây
dựng lực lượng và quá trình phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng. Trải
qua mỗi giai đoạn, mỗi chặng đường cách mạng lực lượng Công an nhân dân
Việt Nam càng được củng cố và phát triển thêm một bước để trưởng thành
hơn, từ đó luôn sẵn sàng chiến đấu để hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng,
Nhà nước và Nhân dân đã tin tưởng giao phó. Xây dựng lực lượng Công an
nhân dân trong sạch, vững mạnh, trở thành một lực lượng cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ và từng bước tiến lên hiện đại là một vấn đề hết sức quan trọng
có ý nghĩa quyết định, đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ
an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Từ khi ra đời cho đến nay,
lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng và Nhà nước
tặng những phần thưởng cao quý, trong đó phần thưởng lớn nhất mà Công an
nhân dân nhận được đó là niềm tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Giáo dục lịch sử truyền thống địa phương và gia đình: lịch sử truyền
thống cách mạng của địa phương và gia đình có quan hệ biện chứng với lịch sử
141
truyền thống của dân tộc và là một bộ phận không thể tách rời nhau. Cho nên
trong khi giáo dục lịch sử truyền thống của dân tộc, lịch sử truyền thống đấu
tranh oanh liệt của Đảng, của ngành Công an nhân dân và các trường Công an
nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, các chủ thể không nên xem nhẹ
việc giáo dục lịch sử truyền thống cách mạng của địa phương và gia đình cho
các em học viên. Từ việc giáo dục lịch sử truyền thống cách mạng của địa
phương và gia đình sẽ giúp khơi dậy ở các em học viên lòng tự hào, hãnh diện
về địa phương và gia đình mình, từ đó thúc đẩy các em học viên quyết tâm nổ
lực ra sức học tập, rèn luyện để trở thành người cán bộ chiến sĩ Công an nhân
dân có đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
Bốn là, tích cực giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, nâng cao nhận
thức cho học viên Công an nhân dân về bản chất, âm mưu thủ đoạn của các
thế phản động, thù địch. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình chính trị - xã hội
vô cùng phức tạp, các tổ chức phản động, các thế lực thù địch lợi dụng các
vấn đề dân tộc, tôn giáo; những sai trái của một số đơn vị, cá nhân cán bộ,
lãnh đạo của các cơ quan Nhà nước gây tổn thất, thiệt hại nặng nề đến nền
kinh tế của đất nước như nạn hối lộ, tham nhũng, mua quan bán chức
chúng ra sức chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Vì vậy, cần phải tích
cực giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, nâng cao nhận thức cho học viên
Công an nhân dân về bản chất, âm mưu thủ đoạn của các thế lực phản động,
thù địch, đây là nội dung quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giáo dục
chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay. Nếu không xác định đúng, không nắm vững được âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, những tổ chức phản động thì không
thể có những kế hoạch nhằm đấu tranh phòng, chống và đối phó với chúng để
đạt hiệu quả cao. Do đó, các chủ thể cần tích cực giáo dục cho học viên các
142
trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có nhận thức
sâu sắc hơn về âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của của các tổ chức, thế
lực phản động, thù địch hiện nay.
4.2.2. Đổi mới phương pháp, phương tiện giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho học viên các trường Công an nhân dân Thành phố ồ Chí
Minh hiện nay
Thứ nhất, đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị
của giảng viên trong Nhà trường.
Một trong những nội dung quan trọng trong giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay là việc nâng cao chất lượng học tập các môn học lý luận chính trị.
Những môn học này bao gồm: Giáo dục chính trị; Triết học Mác - Lênin;
Kinh tế chính trị; Chủ nghĩa xã hội khoa học; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam; Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam; Xây dựng Đảng. Đối với những môn học này, giảng viên thường dùng
lời nói để thuyết trình là chủ yếu, điều này có lý do khách quan, bởi lẽ những
môn học này thường phải chuyển tải nội dung lớn, có tính khái quát, trừu tượng
cao trong một thời gian hạn hẹp, trong khi sự đầu tư điều kiện phương tiện vật
chất còn hạn chế. Tuy nhiên, người Trung Hoa đã từng tổng kết “nghe thì quên,
nhìn thì nhớ và làm thì hiểu”. Vì vậy, các phương pháp dùng lời nói nếu có sự
hỗ trợ một cách hợp lý của các phương tiện trực quan và thực hành sẽ nâng cao
được sự chú ý, thêm phần hấp dẫn đối với nội dung lý luận chính trị.
Như vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học các môn lý luận chính trị
cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay theo hướng tích cực là một đòi hỏi cấp bách hiện nay. Trong đó, giảng
viên là người đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng dạy học.
Hiện nay, nhiều giảng viên áp dụng các phương pháp và phương tiện hỗ trợ
143
dạy học, nhưng nhìn chung phần lớn các giảng viên vẫn thường chủ yếu sử
dụng giảng dạy các môn học lý luận chính trị bằng phương pháp truyền thống.
Vì thế, những môn học này chưa thật sự hấp dẫn đối với học viên.
Các môn học lý luận chính trị thường có hệ thống kiến thức rộng nhưng
thời gian học tập các môn này chưa thật sự nhiều. Một trong những yêu cầu
quan trọng nhất, khó khăn nhất trong giảng dạy là giảng viên phải trình bày có
sức thuyết phục, lôi cuốn học viên vào say mê nhận thức. Trong giai đoạn
hiện nay, thực tế mặt trái của xã hội lại khác xa so với lý luận. Muốn như vậy,
giảng viên cần phải chủ động hoạt động dạy học “lấy người học làm trung
tâm” để phát huy tính tích cực của người học. Một yêu cầu khác đối với giảng
viên trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất
lượng dạy học là phải liên tục cập nhật thông tin mới để cung cấp kịp thời cho
học viên những kiến thức, những thông tin mới, nó sẽ mang tính thực tế cao,
chắc chắn sẽ thu hút được học viên đam mê học tập những môn học này.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị cho học
viên Công an nhân dân, đòi hỏi mỗi thầy, cô giáo cần phải kết hợp sử dụng
nhiều phương pháp trong giảng dạy. Đồng thời, cần bồi dưỡng cho học viên
năng lực tự học, khả năng thực hành, ý chí vươn lên, tích cực, chủ động và
sáng tạo. Giảng viên phải lấy việc phát huy trí tuệ, hình thành và phát triển
năng lực tự học của học viên làm mục tiêu hàng đầu trong quá trình dạy học,
giảng viên đưa ra nhiều tình huống để học viên thảo luận và tìm ra các
phương án giải quyết, nhằm phát huy khả năng tư duy sáng tạo của học viên,
thường xuyên tổ chức nhiều buổi thảo luận, sêmina để rèn luyện kỹ năng nói,
thuyết trình trước đám đông, viết, lập luận đồng thời kiểm tra đánh giá để có
biện pháp giáo dục tư tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức của học viên.
Trong giảng dạy các môn học lý luận chính trị, những phương pháp
như đối thoại, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, có thể thực hiện thông tin hai
144
chiều, giải đáp kịp thời những vấn đề người học quan tâm và đặt ra các tình
huống “có vấn đề” cuốn hút họ cùng tham gia giải quyết trong quá trình nhận
thức. Những phương pháp đó phù hợp với quy luật tư duy, có khả năng thu
hút sự chú ý, gợi mở trí sáng tạo ở đối tượng có thể mang lại hiệu quả giáo
dục rất cao. Thông qua đối thoại, học viên được trình bày ý kiến của cá nhân
mình, được giải tỏa tâm lý, kích thích cả trí nhớ lẫn tư duy, gây hứng thú, chủ
động tìm hiểu tri thức và rèn luyện kỹ năng phân tích, khái quát trong lập luận
vấn đề. Muốn học viên hiểu sâu, nhớ lâu cần tăng cường sử dụng phương
pháp nêu vấn đề, giảng viên nêu ra những quan điểm khác nhau thậm chí trái
ngược nhau, trình bày tiến trình suy luận của mình trên cơ sở vạch rõ bản chất
của vấn đề. Từ đó hướng dẫn học viên tự đi đến kết luận trên cơ sở biết lập
luận lôgic bảo vệ quan điểm mà mình tán thành.
Những tri thức lý luận chính trị khô khan trừu tượng thông qua những
ví dụ sinh động sẽ trở nên dễ hiểu, dễ nhớ, những đạo lý khô khan thông qua
các hình tượng nghệ thuật, các câu ca dao tục ngữ, danh ngôn, trở nên gần
gũi, dễ đi vào lòng người, có tác động to lớn đến tư tưởng tình cảm, phẩm
chất, đạo đức của người học, những hình ảnh được tai nghe, mắt thấy có thể
để lại ấn tượng sâu sắc hơn nhiều lần những bài giảng lý luận chính trị “lý
thuyết suông” Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Nói chung thì các dân tộc phương
Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn giá trị hơn
một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Thứ hai, tổ chức tốt các buổi tham quan bảo tàng, các di tích lịch sử,
văn hóa, nghĩa trang liệt sĩ để giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên.
Sau khi học xong các môn học lý luận chính trị, nên tổ chức cho các em
học viên các buổi tham quan những bảo tàng, các di tích lịch sử, văn hóa, di
tích chiến tranh, nghĩa trang liệt sĩ, thăm thương bệnh binh, bà mẹ Việt Nam
anh hùng, đây là hình thức trực quan sinh động, hấp dẫn, gây cảm xúc và ấn
145
tượng mạnh mẽ cho các em học viên về lịch sử hào hùng của dân tộc, về những
chiến công oanh liệt, những mất mát hy sinh của các thế hệ cha ông trong các
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, để từ đó khơi dậy trong họ tinh thần
yêu nước, lòng tự hào và biết ơn, kính trọng; là động lực thôi thúc họ quyết tâm
bảo vệ vững chắc Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Để thực hiện tốt hình
thức này, các chủ thể cần có kế hoạch chu đáo, có sự hướng dẫn, giới thiệu,
thuyết minh cụ thể, sinh động; sau mỗi lần tham quan cần căn cứ vào tình hình
cụ thể để tổ chức cho các em viết bài thu hoạch, trao đổi, rút kinh nghiệm nhằm
nâng cao hiểu biết về lịch sử truyền thống của dân tộc ta đối với các em học
viên của các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Thứ ba, giáo dục chủ nghĩa yêu nước thông qua các hoạt động nghiên
cứu thực tế của học viên Công an nhân dân ở địa phương .
Lực lượng Công an nhân dân do đặc thù nghề nghiệp, có quan hệ gắn
bó mật thiết với các tầng lớp Nhân dân. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã kh ng định về bản chất của Công an nhân dân Việt Nam: “Công an của ta
là Công an nhân dân, vì dân mà phục vụ, dựa vào dân mà làm việc”. Mặt
khác, biện pháp nghiệp vụ cơ bản mang tính chiến lược của ngành là công tác
vận động quần chúng tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, nhằm xây
dựng “thế trận an ninh nhân dân”. Do đó, giáo dục học viên Công an nhân dân
hiểu biết thực tế, gắn bó với Nhân dân, góp phần tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các tầng lớp Nhân
dân ngay từ trong quá trình đào tạo được đặt ra một cách cấp thiết.
Hoạt động nghiên cứu thực tế của học viên Công an nhân dân đã được
Tổng cục Chính trị Công an nhân dân ban hành hướng dẫn số 6777/HD-X11
ngày 30/6/2014. Đây là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo, giảng
dạy, học tập các môn lý luận chính trị tại các trường Công an nhân dân. Việc
học tập các môn lý luận chính trị và hoạt động nghiên cứu thực tế có mối
146
quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ nhau, gắn lý luận với thực tiễn giúp cho
học viên có điều kiện tiếp cận được thực tiễn cuộc sống lao động, sinh hoạt
của Nhân dân, phụ giúp Nhân dân, học tập trau dồi kinh nghiệm từ Nhân
dân, từ đó hướng tới mục đích hình thành, củng cố phẩm chất, bản lĩnh
chính trị, niềm tin vào xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam; đào tạo ra thế hệ cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, Đảng và Nhân dân. Chất lượng, hiệu quả của hoạt động nghiên
cứu thực tế phụ thuộc vào việc giảng dạy các học phần lý luận chính trị nói
chung và vai trò hướng dẫn nghiên cứu thực tế của đội ngũ giảng viên giảng
dạy các môn này nói riêng.
Hoạt động nghiên cứu thực tế là một khâu quan trọng trong quá trình
đào tạo nói chung và giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị tại các
trường Công an nhân dân nói riêng. Giữa việc giảng dạy, học tập các môn lý
luận chính trị và hoạt động nghiên cứu thực tế có mối quan hệ biện chứng với
nhau, hỗ trợ nhau và cùng hướng tới mục đích hình thành, củng cố phẩm chất,
bản lĩnh chính trị, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; đào tạo ra thế hệ cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, Đảng và Nhân dân. Chất lượng, hiệu quả của hoạt
động nghiên cứu thực tế phụ thuộc vào việc giảng dạy các học phần lý luận
chính trị nói chung và vai trò hướng dẫn nghiên cứu thực tế của đội ngũ giảng
viên giảng dạy. Điểm rất quan trọng là phải tạo nên được sợi dây liên hệ và
gắn kết nội dung bài giảng các học phần lý luận chính trị với nội dung,
chương trình của hoạt động nghiên cứu thực tế mới mang lại hiệu quả thiết
thực trong thực tế. Nội dung của công tác hoạt động thực tế tại địa phương
như sau:
147
Một là, tổ chức cho học viên lao động, sản xuất giúp Nhân dân.
Đây là hoạt động đầu tiên, cơ bản khi đưa học viên nghiên cứu thực tế,
giúp cho học viên được gần gũi với Nhân dân thông qua lao động sản xuất,
học viên hiểu được người lao động “một nắng hai sương” mới tạo ra được
sản phẩm để phục vụ nhu cầu của con người và xã hội, các em học viên hiểu
được cuộc sống vất vả của những người dân lao động, từ đó các em đồng
cảm, thương yêu, quý trọng và giúp đỡ Nhân dân.
Hai là, tổ chức cho học viên tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện,
đền ơn đáp nghĩa và các hoạt động thanh niên tình nguyện.
Tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, hoạt động
thanh niên tình nguyện trong thời gian học viên nghiên cứu thực tế. Qua các
hoạt động này giúp nâng cao hình ảnh của người học viên Công an nhân dân
trong mắt Nhân dân, thể hiện tinh thần xung kích vì cộng đồng, tạo điều kiện
cho học viên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành với những kiến thức mới
chưa được học ở giảng đường. Ch ng hạn, trong quá trình tổ chức cho học
viên đi thực tế, giảng viên đã kết hợp với chính quyền xã tổ chức cho học viên
thực hiện các hoạt động đền ơn đáp nghĩa như: thăm và tặng quà cho gia đình
chính sách, Mẹ Việt Nam anh hùng tại các ấp; tham gia các hoạt động tình
nguyện như giúp đỡ gia đình có hoàn cảnh khó khăn; tới thăm, động viên và
tặng quà cho các em mồ côi; phát hoang tuyến kênh, phát hoang đường, cùng
nhân dân làm đường, dọn vệ sinh Nghĩa trang liệt sỹ của các ấp
Ba là, tổ chức cho học viên thực hiện “Ba cùng” với quần chúng Nhân dân.
Trong quá trình thực tế tại địa phương, giảng viên cùng với chính
quyền địa phương phân công học viên về ở trong các hộ gia đình, thực hiện
“cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với Nhân dân. Việc làm này giúp cho học viên
nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn trong đời sống của Nhân
dân; qua đó, tạo nên một tình cảm gắn bó giữa người học viên Công an nhân
148
dân và người dân trên địa bàn. Đây là điều kiện quan trọng để nắm bắt tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa và an ninh trật tự trên địa bàn, một yếu tố quan
trọng và là kinh nghiệm thực tiễn ban đầu giúp cho học viên có điều kiện gắn
kết giữa lý luận được học trên giảng đường và kinh nghiệm thực tế.
Bốn là, tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể
thao giữa học viên nhà trường với chính quyền và Nhân dân địa phương.
Trong thời gian nghiên cứu thực tế tại địa phương, bên cạnh các hoạt
động nêu trên, giảng viên và chính quyền cấp xã đã phối kết hợp tổ chức các
hoạt động cho các em học viên giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao
để tăng cường sự gắn bó giữa học viên Công an nhân dân và người dân trên
địa bàn.
Thứ tư, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, tạo điều kiện nâng cao hiệu
quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học là một trong những nhân tố quan
trọng tác động tích cực tới việc đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy và học
trong nhà trường. Chất lượng của hệ thống cơ sở vật chất gắn chặt với chất
lượng đào tạo, vì thế việc đầu tư, hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất là đòi
hỏi cấp thiết nhằm giúp cho người học đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn
trong tình hình mới. Nếu cơ sở giáo dục có đầy đủ cơ sở vật chất, phương tiện
dạy học, hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động đào
tạo thì chất lượng giáo dục và đào tạo sẽ được đảm bảo và nâng cao.
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”. Để đáp ứng được yêu cầu chất lượng trong việc giáo dục và đào tạo, mặt
dù còn nhiều khó khăn nhưng các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay đã khắc phục những khó khăn, nổ lực tăng cường đầu tư
149
xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, kỹ thuật theo hướng hiện đại, đồng bộ,
từ cơ sở hạ tầng, hệ thống giảng đường, hệ thống âm thanh loa đài, nhà làm
việc, thư viện, sân bãi tập quân sự, sân bãi học lái xe, nhà tập võ, trường bắn,
hồ bơi, phòng ăn, ở và sinh hoạt của học viên... đảm bảo phục vụ hiệu quả
công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện và sinh hoạt của
cán bộ, giảng viên và học viên của các trường.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đào tạo cho ngành, cho đất
nước những cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân “vừa hồng vừa chuyên”, có
lập trường tư tưởng vững vàng, có bản lĩnh chính trị, đạo đức tốt, lối sống
trong sáng giản dị, giỏi về chuyên môn tinh thông về nghiệp vụ, luôn tin yêu,
lễ phép và quý trọng Nhân dân, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của tình
hình xã hội hiện nay. Theo chúng tôi, các trường Công an nhân dân ở Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay cần phải tập trung thực hiện tốt một số giải pháp
cơ bản như sau:
Một là, cải tạo nâng cấp và sửa chữa một số phòng học hiện có những
đã xuống cấp; xúc tiến đề nghị lãnh đạo Bộ Công an cấp kinh phí để xây dựng
mới bổ sung về phòng học lý thuyết đáp ứng yêu cầu đào tạo theo hệ thống tín
chỉ của Bộ Giáo dục và đào tạo. Đầu tư xây dựng phòng học chất lượng cao,
cải thiện điều kiện dạy của giảng viên và điều kiện học của học viên, hệ thống
phòng học này được trang bị đầy đủ các phương tiện dạy học hiện đại: hệ
thống máy chiếu, vi tính, phủ sóng wifi toàn trường, hệ thống âm thanh, ánh
sáng, hệ thống nghe nhìn, tất cả những điều kiện này nhằm giúp học viên
có điều kiện thuận lợi nhất tiếp cận với công nghệ mới, kiến thức mới. Từ đó,
học viên ham mê khám phá, tích cực học tập, trau dồi kiến thức, kỹ năng
nghiệp vụ cho bản thân.
Hai là, cần xây dựng các phòng học chuyên dùng dành cho học tập các
môn chuyên ngành của các trường, khắc phục tình trạng dạy chay, học chay
150
bằng cách xây dựng các phòng học thực hành; mua sắm các máy móc, trang
thiết bị để phục vụ cho quá trình dạy học thực hành, từ đó học viên được trải
nghiệm kiến thức thực tế ngay tại trường. Bên cạnh đó, các trường cần chú ý
xây dựng kế hoạch cụ thể và thường xuyên nâng cấp phòng đọc, thư viện,
tăng cường đầu sách, các loại báo, tạp chí và tài liệu dạy học, để đáp ứng
ngày càng cao nhu cầu về tinh thần và mở rộng tầm hiểu biết ngày càng cao
của cán bộ, giảng viên và học viên của các trường.
Ba là, các trường cần ban hành nội quy, quy định cụ thể về việc khai
thác, sử dụng cơ sở vật chất (trường bắn, bãi tập, hồ bơi, sân bóng đá, nhà thi
đấu đa năng,) và các phương tiện dạy học cho đạt hiệu quả cao. Trong đó
cần giao cho một số đơn vị có liên quan cụ thể để có trách nhiệm khai thác, sử
dụng phòng học, sử dụng các phương tiện dạy học trong phòng học đó. Điều
này sẽ đảm bảo các phương tiện dạy học được bảo quản và khai thác hiệu quả
hơn. Tránh trường hợp như hiện nay, nhiều phòng học có máy tính nhưng do
không được bảo quản dẫn đến tình trạng hỏng hóc rất nhiều, việc khai thác
không hiệu quả, gây nên tình trạng lãng phí và tốn kém.
151
Tiểu kết chương 4
Để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước
cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp nêu trên. Các nhóm giải pháp
đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, là một chỉnh thể thống nhất, vừa có
tính độc lập tương đối, vừa có quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ, bổ sung
cho nhau. Thực hiện nhóm giải pháp này cũng đồng thời tạo điều kiện để thực
hiện nhóm giải pháp khác và ngược lại. Việc thực hiện đồng bộ các nhóm giải
pháp đó có ý nghĩa quyết định để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Do vậy, trong quá trình giáo dục không
nên coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một nhóm giải pháp nào, cần tiến hành
đồng bộ và phối hợp chặt chẽ các nhóm giải pháp, tuỳ theo tình hình,
nhiệm vụ cụ thể của từng trường mà đề ra những giải pháp cho phù hợp
để đạt được kết quả cao trong quá trình giáo dục.
Đối với học viên các trường Công an nhân dân nói chung và học
viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay,
cần vận dụng một cách linh hoạt những nhóm giải pháp đó để phát huy
hiệu quả tính tự giác và tính chủ động, vai trò tự giáo dục, tự học tập và rèn
luyện giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho các em học viên Công an nhân dân,
Có như vậy, chúng ta mới đào tạo ra được những cán bộ, chiến sỹ Công an có
lập trường tư tưởng thật vững vàng, có đạo đức tốt, có lối sống giản dị, tinh
thông về chuyên môn nghiệp vụ, luôn yêu ngành yêu nghề, yêu Nhân dân,
yêu chế độ, yêu Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với truyền
thống vẻ vang của ngành “Công an nhân dân Việt Nam vì nước quên thân, vì
dân phục vụ”.
152
KẾT LUẬN
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân
dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là công việc vừa có ý nghĩa cấp bách,
vừa có ý nghĩa lâu dài. Bởi lẽ, giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên thực
chất là quá trình từng bước tạo ra sự chuyển biến về chất của tri thức, tình
cảm và ý chí ở những em học viên Công an nhân dân, từ cơ sở đó không
ngừng làm gia tăng động lực tinh thần to lớn và mạnh mẽ, thúc đẩy các em
tích cực, chủ động và sáng tạo hơn trong việc học tập, rèn luyện và thực hiện
tốt các nhiệm vụ trọng trách của ngành và đơn vị, góp phần hoàn thành tốt
trách nhiệm mà Tổ quốc, Đảng và Nhân dân giao phó, xứng đáng với truyền
thống vẻ vang của ngành.
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân
dân là một hệ thống bao gồm các thành tố có tương tác và quy định lẫn nhau.
Chủ thể của hệ thống là Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các phòng ban chức năng
và các cán bộ, giảng viên. Mỗi chủ thể có một vai trò nhất định nhưng tất cả
đều hướng tới việc chuyển tải các nội dung giáo dục thông qua các hình thức,
các phương pháp nhằm nâng cao hiểu biết và tình cảm đối với đất nước, dân
tộc Việt Nam cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí
Minh. Yêu cầu đẩy mạnh giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Công an nhân dân bị quy định bởi chính các điều kiện hiện nay của đất
nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong bối cảnh chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với vị trí trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội và một bề dày truyền thống, Thành phố Hồ Chí Minh đang tạo ra
những thuận lợi to lớn đối với công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên các trường Công an nhân dân. Tuy vậy, những tác động từ mặt trái của
153
quá trình mở cửa, hội nhập cũng gây ra không ít những trở ngại cho công tác
giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Đặc biệt là hiện nay, tình hình chính trị, kinh tế
- xã hội ngày càng diễn biến rất phức tạp, khó lường. Âm mưu diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, sự chia rẽ thống nhất
của dân tộc, các tổ chức, thế lực phản động trong và ngoài nước đang ra sức
chống phá Đảng, chống phá chế độ và Nhà nước; kinh tế thị trường đã mang
lại sự phát triển của nền kinh tế đất nước, nhưng nó cũng tồn tại những mặt
trái nhất định; tội phạm rất manh động, sử dụng vũ khí nóng ngày càng gia
tăng, chúng bất chấp và coi thường pháp luật để gây án, điều đó càng đòi
hỏi hơn nữa những nỗ lực của các chủ thể và của học viên trong công tác giáo
dục chủ nghĩa yêu nước.
Trong thời gian qua, công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được
những thành tựu đáng kể cả về mặt định tính, cả về mặt định lượng. Về mặt
định tính, nhận thức của học viên về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chính sách, pháp luật của Nhà nước từng bước được nâng lên. Đây là
cơ sở vững chắc cho sự hình thành và phát triển tình cảm yêu nước, yêu Nhân
dân, yêu chủ nghĩa xã hội ở mỗi học viên. Cùng với nhận thức, niềm tin của
các học viên cũng được củng cố, tính tích cực xã hội được nâng cao. Tuyệt
đại đa số học viên đã tích cực tham gia nhiệt tình vào các sự kiện chính trị, xã
hội, các phong trào, đặc biệt là các kỳ đi thực tế tại địa phương. Về mặt định
lượng, thành tích học tập của học viên các trường Công an nhân dân ở Thành
phố Hồ Chí Minh trong những năm qua nhìn chung là khả quan với số lượng
tốt nghiệp cao. Với các kết quả đó, tất cả học viên các trường Công an nhân
dân ở Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tốt nghiệp đều sẵn sàng nhận và hoàn
thành tốt nhiệm vụ theo sự phân công của tổ chức.
154
Tuy vậy, công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua cũng còn
những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về nhận thức và năng lực, về việc
thực hiện vai trò của các chủ thể giáo dục từ lãnh đạo nhà trường, các phòng
ban chức năng đến các cán bộ, giảng viên trực tiếp giảng dạy và quản lý giáo
dục. Cùng với điều đó là các hạn chế về nội dung chương trình, về hình thức,
phương pháp và các phương tiện vật chất phục vụ cho giáo dục. Điều đó đòi
hỏi phải có sự khắc phục đồng bộ, kịp thời.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp: nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của các
cấp; nhận thức của cán bộ, giảng viên về vị trí, vai trò, yêu cầu của giáo dục
chủ nghĩa yêu nước; nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước thông
qua đổi mới phương pháp, chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị
trong nhà trường; đa dạng hóa những hình thức, phương pháp giáo dục chủ
nghĩa yêu nước; phát huy cao độ tính tự giác và tính chủ động, vai trò tự giáo
dục, tự học tập và rèn luyện các giá trị đạo đức, chủ nghĩa yêu nước cho học
viên. Có như vậy chúng ta mới đào tạo ra được những cán bộ, chiến sỹ Công
an nhân dân có đạo đức tốt, có lối sống giản dị, giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ, có lập trường tư tưởng chính trị thật vững vàng, yêu ngành, yêu nghề, yêu
Tổ quốc, yêu Nhân dân, xứng đáng với truyền thống vẻ vang của ngành
“Công an nhân dân Việt Nam vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, để sau khi
học xong ra trường về công tác tại các đơn vị Công an địa phương các em học
viên phát huy được tố chất tốt của mình trong đấu tranh giữ vững an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn cho xã hội, là thanh kiếm và lá chắn bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước, chế độ và bảo vệ cuộc sống bình yên cho Nhân dân.
155
DANH MỤC CÁC CÔN TRÌNH N HIÊN CỨU KHOA HỌC Ã
CÔN BỐ CỦA TÁC IẢ LIÊN QUAN ẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Đường (2014), Đẩy mạnh công tác giáo dục chủ nghĩa
yêu nước cho học sinh, sinh viên hiện nay, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt
tháng 3, tr.52.
2. Nguyễn Văn Đường (2017), Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho học viên các trường Công
an nhân dân khu vực phía Nam hiện nay, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng
6, tr.238.
3. Nguyễn Văn Đường (2017), Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân
dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng
8, tr.263.
156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lương Gia Ban (2000), Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Lương Gia Ban (2013), Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự
thật Hà Nội.
3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Tài liệu giáo dục chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Tuyên giáo Trung ương (2012), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu giáo dục chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Báo Sài Gòn Giải Phóng (ngày 06/07/2000), Đổi mới công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng trong đoàn viên thanh niên.
7. Đặng Quốc Bảo (1986), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, thanh niên lực
lượng vũ trang nỗ lực rèn luyện vươn lên hàng đầu vì sự nghiệp bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, tr.64-82.
8. Nguyễn Đình Bắc (2011), Phát huy chủ nghĩa yêu nước truyền thống
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay, Tạp chí Triết học, số 3 (238), tr.68-75.
9. Nguyễn Đình Bắc (2011), Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và Chủ
nghĩa Mác - Lênin trong tư duy Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, số 3 (46), tr.11-17.
157
10. Nguyễn Đình Bắc (2012), Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - cội nguồn
sức mạnh trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, số 4 (53), tr.52-56.
11. Nguyễn Đình Bắc (2012), Sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân
chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí
Triết học, số 5 (252), tr.14-22.
12. Nguyễn Lương Bằng (2008), Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên trong
bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế, Tạp chí ý luận chính trị, số 12.
13. Phạm Thái Bình (2009), Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
trong các trường Công an nhân dân trên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh, Tạp chí Công an nhân dân, số 1.
14. Bộ Công an (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác an ninh trật tự,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
15. Bộ Công an (1998), Công an nhân dân thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
16. Bộ Công an (2000), Ban Nghiên cứu tổng kết lịch sử Công an nhân
dân, Công an nhân dân - lịch sử biên niên.
17. Bộ Công an (2000), Từ điển bách khoa Công an nhân dân, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Bộ Công an (2006), Những trang sử vẻ vang của lực lượng Công an
nhân dân Việt Nam anh hùng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
19. Bộ Công an (2008), Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh - Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
20. Bộ Công an (2015), Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong lực
lượng Công an nhân dân hiện nay, Nxb Hà Nội.
158
21. Bộ Công an (2015), “Kỷ yếu Hội thảo nâng cao chất lượng giáo dục
giảng dạy các môn lý luận chính trị trong các học viện, trường Công an
nhân dân và quân đội nhân dân”.
22. Bộ Công an (2015), Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn
công tác quản lý giáo dục học viên, Nxb Lao động, Hà Nội.
23. Bộ Công an (2020), 75 năm ngày truyền thống Công an nhân dân Việt
Nam (19/8/1945-19/8/2020) và 15 năm ngày hội toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc (19/8/2005-19/8/2020), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Giáo trình Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Lương Bằng (2001), Kết hợp truyền thống và hiện đại trong
quá trình đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết
học, Hà Nội.
27. Nguyễn Lương Bằng (2003), Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong tầng lớp
sinh viên Việt Nam hiện nay, Thông báo khoa học, Đại học Vinh, số 31.
28. Nguyễn Lương Bằng (2006), Truyền thống đạo đức trọng nhân nghĩa
và ảnh hưởng của nó đối với sinh viên hiện nay, Tạp chí Giáo dục, số 4,
tr.13-15.
29. Phạm Như Cương (1970), Một số vấn đề xung quanh con đường Hồ
Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Thông báo Triết học, số 17.
30. Doãn Thị Chín (2004), Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
159
31. Đào Ngọc Dung (2006), Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho
thanh niên, Báo Thanh niên, ngày 21/4/2006.
32. Văn Tiến Dũng (1982), Thế hệ trẻ Việt Nam với sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
33. Nguyễn Tuấn Dũng (2002), Nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa
yêu nước trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
34. Lê Duẩn (1977), Thanh niên trong các lực lượng vũ trang hăng hái
vươn lên hơn nữa, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
35. Lê Duẩn (1979) Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, Nxb
Sự Thật, Hà Nội.
36. Đoàn Minh Duệ (chủ biên) (2004), Những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục truyền thống cho thanh thiếu niên tỉnh Nghệ An, Nxb
Nghệ An.
37. Dương Văn Duyên (2008), Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, số tháng 8.
38. Mai Thế Dương (2012), Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ
luật của Đảng nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên, Tạp chí Cộng sản, số 841.
39. Dương Tự Đam (2008), Tuổi trẻ Việt Nam với chủ nghĩa yêu nước
trong lịch sử dân tộc, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
40. Đại Việt sử ký toàn thư, (2000), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh
viên Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
160
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín ban
chấp hành trung ương khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Hội nghị ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng bộ Trường Cao đ ng cảnh sát nhân dân II (2020), Văn kiện Đại
hội đại biểu lần thứ I, Nhiệm kỳ 2020-2025, Thành phố Hồ Chí Minh.
51. Đảng bộ Trường Đại học An ninh nhân dân (2020), Văn kiện Đại hội
đại biểu lần thứ XV, Nhiệm kỳ 2020-2025, Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Đảng bộ Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, (2020), Văn kiện Đại hội
đại biểu lần thứ XVI, Nhiệm kỳ 2020-2025, Thành phố Hồ Chí Minh.
53. Phùng Khắc Đăng (2006), Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí
quyết thắng cho quân và dân ta hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
54. Đinh Thế Định (2005), Những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
truyền thống cho sinh viên đại học Vinh, Đề tài khoa học cấp bộ.
55. Trần Minh Đoàn, Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay. Luận văn Thạc sĩ khoa học.
161
56. Phạm Văn Đồng (1959), Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
57. Phạm Văn Đức (2004), Phát huy tinh thần dân tộc trong bối cảnh toàn
cầu hóa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, số 9 (160).
58. Đặng Thái Giáp (2000), Đạo đức và pháp luật với an ninh trật tự trong
nền kinh tế thị trường, Tạp chí Cộng sản, số 2.
59. Võ Nguyên Giáp (1979), Về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong kỷ nguyên
mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
60. Trần Văn Giàu (1970), Chủ nghĩa yêu nước - tình cảm và tư tưởng lớn
nhất của con người Việt Nam, Thông báo Triết học, số 15.
61. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội.
62. Trần Văn Giàu (1983), Trong dòng chủ lưu của văn hóa Việt Nam: Tư
tưởng yêu nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
63. Trần Văn Giàu (1998), Chủ nghĩa yêu nước - nét đậm đà trong văn hóa
Việt Nam, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8.
64. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Phan Thị Hà (2012), Giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên
Trường Cao đẳng Kinh tế tài chính Vĩnh ong trong giai đoạn hiện
nay. Luận văn Thạc sĩ khoa học.
66. Nguyễn Thị Minh Hạnh (2014), Phát huy giá trị đạo đức truyền thống
trong hình thành nhân cách con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp
chí Cộng sản, số 85, tr.13.
67. Nguyễn Hùng Hậu (2008), Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến
chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
162
68. Trần Thị Thảo Hiền (2012), Nâng cao tinh thần yêu nước cho sinh viên
Cao đẳng Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long thông qua phần “Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ khoa học.
69. Nguyễn Văn Huyên (2003), Lối sống người Việt Nam dưới tác động
của toàn cầu hóa hiện nay, Tạp chí Triết học, số 12.
70. Nguyễn Văn Khánh (2001), Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do, Tạp chí ịch sử
Quân sự, số 2.
71. Lương Quỳnh Khuê (1992), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại, Tạp chí Triết học, số 4.
72. Phạm Huy Kỳ (2010), ý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý
luận chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia - Hành chính, Hà Nội.
73. Đinh Xuân Lâm (2011), “Đặc sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam”, Báo
Đại đoàn kết online, ngày 20 tháng 9.
74. Phan Huy Lê (1995), Truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và
hiện đại hóa Đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
75. Phan Huy Lê (2002), Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống và
hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
76. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
77. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
78. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 25, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
79. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
80. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
81. Phan Ngọc Liên (1998), Phát huy sức mạnh nền văn hóa truyền thống
trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam, Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, số 12, tr.33-35.
163
82. Phan Ngọc Liên (2006), Về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và Giáo dục
truyền thống cho thế hệ trẻ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
83. Trương Giang Long (2012), Bàn về giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
84. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin (1976), Về xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
85. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (1951), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh (1960), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (1993), Về đạo đức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2008), Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu
nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92. Cao Minh (1999), Truyền thống yêu nước trong lịch sử Việt Nam, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
93. Trần Thị Minh (2014), Phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần
của xã hội”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
94. Đỗ Mười (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
95. Nguyễn Thị Nga (2006), Phát huy truyền thống yêu nước Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 1.
96. Phạm Đình Nghiệp (2004), Giáo dục lý tưởng cách mạng cho sinh viên
hiện nay, Nxb Thanh Niên.
164
97. Phạm Văn Nhiên (2004), Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
yêu nước Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hiện nay, Tạp chí
Khoa học xã hội, số 10.
98. Phạm Văn Nhuận (chủ biên) (2008), Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong quân đội
hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
99. Vũ Oanh (1996), Mấy vấn đề về xây dựng lý tưởng cho thanh niên
hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 11.
100. Bùi Đình Phong (2008), “Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong thời
kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế”, Đề tài khoa học cấp bộ, mã số B08-02.
101. Bùi Đình Phong (2013), Phát huy chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh
trong thời kỳ hội nhập Quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội.
102. Phùng Hữu Phú (1997), Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu:
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, số 4.
103. Nguyễn Trọng Phúc (2006), Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam và giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết chiến, quyết
thắng cho quân và dân ta trong thời kỳ mới, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
104. Đặng Thanh Phương (2004), Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh
niên sinh viên ở thủ đô trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
105. Trần Đại Quang (2015), Báo cáo Tổng kết công tác giáo dục, đào tạo
trong Công an nhân dân, Tạp chí Khoa học và giáo dục an ninh, số 5,
tr.5-11.
165
106. Lý Việt Quang (2013), Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục tinh
thần yêu nước cho thế hệ trẻ, Tạp chí ịch sử Đảng, số 6, tr. 38-42.
107. Đào Duy Quát (2003), Tài liệu giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
108. Hoàng Bình Quân (2004), Tăng cường giáo dục lòng yêu nước xã hội
chủ nghĩa cho thế hệ trẻ trong thời kỳ mới của cách mạng, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, số 4.
109. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), uật Giáo dục.
110. Mai Thị Quý (2003), Kế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân
tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí Triết học, số 12.
111. Đỗ Thị Sen (2017), Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Công an nhân dân, Luận văn Thạc sỹ khoa học.
112. Nguyễn Thái Sơn (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục truyền
thống yêu nước cho thanh niên, Tạp chí Triết học
113. Phạm Phương Thảo (2003), Thực trạng suy thoái đạo đức lối sống
trong cán bộ đảng viên và biện pháp khắc phục, Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 11.
114. Ngô Văn Thạo, Nguyễn Viết Thông (2002), Tài liệu giáo dục chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
115. Nguyễn Nam Thắng (2014), Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XIX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
116. Đặng Hữu Toàn (2001), Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo
hệ trực giá trị chân thiện mỹ trong bối cảnh toàn cầu hóa và bối cảnh
toàn cầu hóa và phát triển kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học, số 4.
117. Tổng cục chính trị cục Tư tưởng - Văn hóa (2000), Tài liệu học tập chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
166
118. Trần Quang Trọng (2004), Tư cách người Công an cách mạng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đặc san Công an nhân dân, số 5.
119. Trần Xuân Trường (1981), Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
vô sản, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
120. Trần Xuân Trường (1981), Mấy vấn đề về Chủ nghĩa yêu nước xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
121. Trần Xuân Trường (2001), Chủ nghĩa Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
122. Trần Xuân Trường (2008), Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ
Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
123. Thái Duy Tuyên (2006), Một số vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp
giáo dục chủ nghĩa yêu nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
124. Từ điển Chính trị vắn tắt (1988), Nxb Sự thật, Hà Nội.
125. Từ điển Tiếng Việt (1994), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
126. Từ điển Triết học (1975), Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
127. Trường Cao đ ng Cảnh sát nhân dân II (2016), Báo cáo Tổng kết năm
học 2015-2016, Phương hướng nhiệm vụ năm học 2016-2017, Thành
phố Hồ Chí Minh, tháng 6.
128. Trường Đại học An ninh nhân dân (2016), Báo cáo Tổng kết năm học
2015-2016, Phương hướng công tác năm học 2016-2017, Thành phố
Hồ Chí Minh, tháng 6.
129. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (2016), Báo cáo Tổng kết năm học
2015-2016, Phương hướng nhiệm vụ năm học 2016-2017, Thành phố
Hồ Chí Minh, tháng 6.
130. Viện khoa học xã hội và nhân văn Quân sự (2007), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho cán bộ, chiến sỹ quân đội,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
167
131. Nghiêm Đình Vỳ (2004), Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thế hệ trẻ -
yếu tố quan trọng tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong xây dựng
Quân đội nhân dân thời kỳ mới, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 10,
tr.21-24.
132. Nghiêm Đình Vỳ (2006), Giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ
trẻ ngày nay, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.