Luận án Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động chính quyền nói chung, bộ máy chính quyền cấp tỉnh nói riêng ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới và công cuộc xây dựng NNPQ XHCN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động bộ máy chính quyền chính quyền cấp tỉnh, luận án rút ra những kết luận sau đây:

doc164 trang | Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2424 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của cán bộ, công chức phải trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ, hạn chế được các nguy cơ tiêu cực trong việc thi hành công vụ, đặc biệt là tệ tham nhũng. Xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức ở các cấp chính quyền; tạo cơ chế pháp lý thích hợp để các tầng lớp nhân dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảm bảo cho mỗi công chức thật sự là các “công bộc” của nhân dân. 4.2.4. Từng bước hiện đại hóa cơ sở, trang thiết bị, phương tiện quản lý, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh còn được thể hiện ở việc nâng cao khả năng thích ứng, giải quyết các công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao, vì vậy, việc hiện đại hóa công sở, áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, điều hành có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, trong thời gian tới cần có kế hoạch đầu tư thích đáng để từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị, hệ thống thông tin, tư liệu, đẩy mạnh việc cập nhật dữ liệu trong các trang thông tin điện tử (website) của các địa phương nhằm tạo điều kiện làm việc các các cơ quan thuộc bộ máy chính quyền cấp tỉnh để có đủ năng lực tiếp nhận, khai thác và triển khai các chủ trương, pháp luật của trung ương. Việc hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố quan trọng cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động chuyên môn của chính quyền địa phương. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi trước tiên phải có đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn về nghiệp vụ và kỹ năng công nghệ thông tin; tiếp đến, để việc ứng dụng đi vào cuộc sống, phải có sự chuẩn hóa các quy trình hành chính. Do đó, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu để phục vụ quản lý hành chính, đáp ứng dịch vụ công cho nhân dân; triển khai đồng bộ tin học hóa trong quản lý hành chính xuống tận cấp phường, xã, nơi gần dân nhất để kịp thời giải quyết những vấn đề cấp bách của nhân dân nhằm tăng cường khả năng tiếp cận thông tin của người dân qua đó giảm tải áp lực cho các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trong việc giải quyết các công việc, kiến nghị, yêu cầu của người dân. 4.2.5. Cần có quy định phân biệt sự khác nhau giữa mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị cấp tỉnh với chính quyền nông thôn cấp tỉnh Đời sống và hoạt động kinh tế - xã hội ở đô thị và ở nông thôn có những khác biệt căn bản; đô thị là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, là nơi quyết định sự phát triển của cả nước, của vùng, miền, có giao thông, liên lạc thuận lợi, dân cư đông đúc. Sự khác biệt này đòi hỏi các đơn vị hành chính - lãnh thổ phải được tổ chức và quản lý phù hợp với các điều kiện đặc thù của chúng để từ đó phát huy thế mạnh của từng đơn vị lãnh thổ, phát triển, giải phóng các tiềm năng kinh tế - xã hội và văn hóa truyền thống, đồng thời khắc phục được các điểm yếu của từng vùng. Với yêu cầu như vậy, chính quyền các cấp trong các đô thị cần phải tổ chức lại theo hướng: giảm bớt các cấp chính quyền trong nội bộ đô thị, điều chỉnh lại chức năng, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở đô thị để đảm bảo tính tập trung, thống nhất, xuyên suốt trong quản lý điều hành của bộ máy hành chính nhà nước đô thị. Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền đô thị. Do tính chất phức tạp, đa dạng của đô thị so với vùng nông thôn nên để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, chính quyền đô thị cần phải được: Phân cấp nhiều hơn, rõ hơn về thẩm quyền và trách nhiệm trong việc quyết định các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn; Đảm bảo tập trung thống nhất cao trong quản lý, điều hành các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong phạm vi đô thị, thực hiện các hình thức ủy quyền, tản quyền cho các cấp hành chính bên dưới trong nội bộ đô thị; Phát huy mạnh vai trò đại diện, đại biểu của nhân dân trong việc hướng dẫn, tạo điều kiện và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ tự quản của cộng đồng dân cư đô thị; Thí điểm đổi mới mô hình tổ chức chính quyền đô thị để rút kinh nghiệm nhân rộng. Hội đồng nhân dân đô thị có hai chức năng chủ yếu là: Quyết định những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội của đô thị phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển chính trị của cả nước (đối với các thành phố trực thuộc Trung ương) hoặc của từng vùng địa phương) đối với các thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn) và phù hợp với chính sách, pháp luật của nhà nước; giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện và hoạt động quản lý hành chính của bộ máy hành chính các cấp trong phạm vi đô thị. Như vậy, về nguyên tắc, mỗi đô thị dù lớn hay nhỏ chỉ nên có một cơ quan HĐND ở cấp toàn đô thị. Tuy nhiên, ở những đô thị lớn, có thể tổ chức HĐND ở hai cấp (cấp thành phố và cấp cơ sở) nhưng chức năng, nhiệm vụ HĐND cấp cơ sở không giống của cấp thành phố mà chỉ giới hạn chủ yếu ở chức năng giám sát. Về cơ quan hành chính ở đô thị (UBND): Chức năng của cơ quan hành chính là tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân và thực thi các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn đô thị. Do đó, tùy thuộc theo quy mô, đặc điểm của đô thị mà UBND có thể chỉ có ở cấp thành phố, thị xã trong nội bộ đô thị. Đối với thành phố trực thuộc Trung ương: Có thể tổ chức hai cấp hành chính: UBND cấp thành phố và UBND cấp cơ sở (khu phố hoặc quận). Trong đó chính quyền cấp cơ sở chủ yếu đống vai trò thực thi và kiểm tra, giám sát các quyết định quản lý kinh tế - xã hội của chính quyền thành phố. UBND hai cấp này đều do HĐND thành phố bầu ra, chịu trách nhiệm trước HĐND thành phố và cơ quan hành chính cấp trên. Riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, UBND cấp cơ sở có thể hình thành thêm các cơ quan hành chính đại diện ở các đường phố (hoặc phường, hoặc khu vực dân cư). Đây không phải là một cấp hành chính (như UBND) mà chỉ là “cánh tay nối dài” của UBND khu phố để thực thi một số công việc cụ thể theo cơ chế ủy quyền. 4.2.6. Đảm bảo nguồn lực tài chính cho bộ máy chính quyền cấp tỉnh Để bộ máy chính quyền cấp tỉnh hoạt động có hiệu lực, hiệu quả thì vấn đề nguồn lực tài chính cần được quan tâm đặc biệt. Trước hết vấn đề phân cấp ngân sách cần được xem xét một cách khoa học, cụ thể. Sự phân cấp về tài chính công là điều kiện không thể thiếu để duy trì hoạt động của bộ máy chính quyền cũng như tiến hành các hoạt động quản lý trên địa bàn. Không có nguồn tài chính có tính chất độc lập tương đối thì chính quyền địa phương trong đó có chính quyền nông thôn khó có thể hoạt động có hiệu quả. Khi thực hiện phân cấp quản lý, một trong những nguyên tắc cơ bản phải tuân thủ đó là nguyên tắc chuyển giao thẩm quyền cùng với chuyển giao tài chính và nguồn lực. Chính quyền địa phương có quyền có được những nguồn tài chính riêng đủ mức cần thiết và được tự do sử dụng để thực hiện tốt những thẩm quyền được giao. Chính quyền địa phương trong đó có chính quyền nông thôn, để thực hiện được nhiệm vụ phải được cung cấp những phương tiện pháp lý, phương tiện tài chính và nhân lực. Kinh nghiệm cho thấy việc phân quyền không dễ thực hiện nếu không có các thoả thuận về mặt thể chế có hiệu quả nhằm tăng cường trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương và hạn chế ngân sách đối với cả chính phủ trung ương lẫn chính quyền địa phương. Đặc biệt, cần mạnh dạn thực hiện chế độ tự chủ về tài chính cho các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh nhằm tạo sự chủ động cho địa phương sử dụng nguồn kinh phí của mình, đồng thời khuyến khích chính quyền địa phương tích cực tìm kiếm các biện pháp thúc đẩy đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trên địa bàn để tăng cường nguồn thu ngân sách địa phương. Sự điều tiết ngân sách từ trung ương cho các địa phương là một vấn đề cần được quan tâm để tạo ra sự bình đẳng giữa các vùng. Trong khá nhiều trường hợp, phần ngân sách được Chính phủ trung ương tài trợ đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ phần trăm đáng kể, điều này càng thể hiện rõ ở khu vực nông thôn. Sự phụ thuộc của chính quyền địa phương cơ sở vào sự trợ cấp của chính quyền trung ương đã làm cho hoạt động của chính quyền địa phương cơ sở rất khó khăn, vấn đề tự chủ được nguồn tài chính là xương sống của hoạt động quản lý. Khi mà chính quyền địa phương cơ sở còn phải trông chờ vào ngân sách trợ giúp của trung ương thì hoạt động quản lý của họ chưa thể chủ động. Khi chính quyền địa phương chưa đủ khả năng tự chủ về tài chính thì cho dù họ là cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra (trên lý thuyết có đủ quyền lực quản lý nhà nước) thì họ vẫn là một bộ phận lệ thuộc vào Chính phủ. Tinh thần cải cách tài chính công đã được nêu trong Nghị quyết trung ương Đảng lần thứ IX: "Phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu và chi ngân sách địa phương". Quy định của Hiến pháp năm 2013 về phân cấp ngân sách là một bước tiến mới, bước đi đầu tiên của việc thực hiện chính sách phân quyền. Đây là cơ sở để mở rộng quyền chủ động của chính quyền địa phương trong việc sử dụng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần có những quy định cụ thể hơn trong pháp luật về phân cấp ngân sách cho từng cấp chính quyền địa phương. 4.2.7. Hoàn thiện cơ chế đảm bảo tăng cường và phát huy dân chủ ở cơ sở, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa Đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng cường và phát huy dân chủ cơ sở. Dân chủ tức là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ có thể được nhìn nhận từ những góc độ khác nhau: chế độ chính trị, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của đời sống xã hội, phương thức giải quyết các vấn đề trong xã hội, giá trị xã hội, hình thức của nhà nước Nhưng về cơ bản dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ đại diện là hình thức theo đó, nhân dân không trực tiếp quyết định các vấn đề của nhà nước, mà thông qua các cơ quan nhà nước do mình bầu ra qua bầu cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Các hình thức dân chủ đại diện thường được chỉ ra là dân chủ thông qua nghị viện (Quốc hội, Đại hội đại biểu nhân dân tối cao), các hội đồng địa phương Dân chủ trực tiếp theo quan điểm truyền thống được hiểu là hình thức theo đó nhân dân trực tiếp quyết định các vấn đề nhà nước thông qua trưng cầu ý dân. Ngày nay, quan niệm về dân chủ trực tiếp đã được mở rộng theo hướng mềm dẻo hơn. Theo đó, dân chủ trực tiếp được hiểu là hình thức trong đó nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí trong việc ra các quyết định của nhà nước. Bên cạnh hình thức trưng cầu ý dân, các hình thức khác về dân chủ trực tiếp cũng được chấp nhận như: bầu cử, tham gia xây dựng pháp luật, tham gia trực tiến các ý kiến góp ý cho tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, khiếu nại, kiến nghị, giám sát hoạt động của cán bộ nhà nước Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp có mối quan hệ chặt chẽ trong nền dân chủ. Đây là những phương thức khác nhau của việc nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình. Ngày nay trong các xã hội dân chủ, người ta phải thực hiện sự kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp phù hợp với điều kiện cụ thể. Trong đó dân chủ đại diện thực hiện chức năng quyết định trên quy mô xã hội rộng lớn bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ và phản ứng kịp thời với sự vận động, phát triển ngày càng nhanh chóng, phức tạp của đời sống chung xã hội. Dân chủ trực tiếp bổ sung cho dân chủ đại diện thông qua các hình thức khác nhau ảnh hưởng đến quyền lực nhà nước như tác động đến thiết chế dân chủ đại diện hoặc cùng với dân chủ dại diện bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực hiện đúng đắn thông qua các hoạt động kiến nghị, kiểm tra, giám sát, mít tinh, biểu tình, khiếu nại, tố cáo, hoặc trực tiếp quyết định vấn đề nhà nước thông qua trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, dù là dân chủ đại diện hay dân chủ trực tiếp thì vấn đề quan trọng là ở chỗ người dân có ý thức về việc thực hiện quyền dân chủ của mình như thế nào? Một khi nhận thức của nhân dân về vấn đề dân chủ chưa thật sự đầy đủ, ý thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân còn thấp thì dân chủ đại diện hay dân chủ trực tiếp cũng chỉ mang tính hình thức mà không đạt đến mục đích của việc thực hiện quyền dân chủ. Trong thể chế chính trị và chế độ nhà nước Việt Nam, dân chủ đại diện được thể hiện trong việc nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan do nhân dân bầu ra là Quốc hội và HĐND - là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Với hình thức dân chủ này, điều quan trọng là người đại diện (cơ quan đại diện) phải là người thực sự có tư cách đại diện, họ phải là người thấu hiểu ý chí, nguyện vọng của người dân đã uỷ quyền cho mình thực hiện quyền lực nhà nước, họ phải là người có khả năng trong việc thực hiện quyền lực nhà nước được uỷ quyền. Song bên cạnh đó cũng phải đề cập đến người uỷ quyền - nhân dân. Thực trạng hiện nay cho thấy, đại bộ phận nhân dân không có nhận thức đầy đủ về quyền làm chủ của mình, họ coi vấn đề dân chủ là vấn đề của nhà nước, của cán bộ, công chức mà không trực tiếp ảnh hưởng gì đến cuộc sống của họ. Chỉ khi nào nhân dân có nhận thức đúng đắn và xem quyền bầu cử là quyền thiêng liêng để thực hiện quyền làm chủ của mình thì lúc đó mới thực sự có dân chủ đại diện. Và có như thế thì dân chủ đại diện mới trở thành thực chất mà không còn mang tính hình thức. Thực tiễn thực hiện Hiến pháp 1992 trong thời gian qua và Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 cho thấy, chế độ dân chủ đại diện tiếp tục được thực hiện ở cả 3 cấp chính quyền địa phương như hiện nay, bên cạnh những ưu điểm, cũng đã bộc lộ tính hình thức, hiệu quả thực tế chưa cao. Trên địa bàn một tỉnh mỗi mỗi cử tri, có đến 3 người đại diện, thay mặt. Có thể thấy mối quan hệ hàng ngày giữa những người đại diện và người dân, vừa rất hình thức, vừa không rõ ràng và vì vậy, thiếu tính thiết thực. Người dân có nhiều người đại diện, nhiều người có trách nhiệm lo cho lợi ích của họ. Tuy nhiên, do còn thiếu sự phân định rõ ràng về khuôn khổ, phạm vi trách nhiệm, cũng như phương thức đại diện nên bản thân người đại diện cũng không nắm được trách nhiệm nào thuộc thẩm quyền đại diện của mình mà tiến hành thu thập thông tin, tìm hiểu nguyện vọng của dân để phục vụ tốt hơn. Thực tế đó đặt ra vấn đề nên tiếp tục duy trì chế độ dân chủ đại diện ở các cấp chính quyền địa phương như thế nào cho có hiệu quả thiết thực. Cần xây dựng chế độ dân chủ đại diện ở địa phương có cân nhắc, lựa chọn. Theo chúng tôi, vấn đề quan trọng nhất là tính hiệu quả và tính thiết thực của bộ máy chính quyền như đã từng quy định trong Lời nói đầu Hiến pháp 1946: "Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân". Dân chủ trực tiếp cũng được quy định trong Hiến pháp với nhiều hình thức: Trưng cầu ý dân; bầu, bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; đóng góp ý kiến cho các chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước; khiếu nại và tố cáo; biểu tình. Những quy định này cũng đã được cụ thể hoá trong một số văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, cũng như hình thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp có phát huy được hiệu quả trong thực tế hay không còn phụ thuộc vào ý thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong thời gian gần đây, tiếng nói của người dân đang dần được đặt vào đúng vị trí và đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên số lượng những người dân tham gia ý kiến còn quá khiêm tốn. Bên cạnh đó, không những chỉ có ý thức của người dân nói chung mà một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức cũng còn có nhận thức không đúng, không đầy đủ và không thực lòng về dân chủ, chưa có thói quen xử sự theo phương thức dân chủ. Mặt khác, một số người dân hoặc không có hiểu biết thấu đáo về vấn đề dân chủ, hoặc lợi dụng quyền dân chủ để thực hiện các hành vi chống phá chính quyền, gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luậtlàm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, ngoài việc tạo ra cơ chế đảm bảo thực hiện quyền dân chủ, Nhà nước cũng phải quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ nhằm ngăn chặn, loại bỏ các hành vi lợi dụng quyền dân chủ. Thực hiện dân chủ nhưng phải trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Mở rộng, tăng cường và phát huy dân chủ nhưng đồng thời phải đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN là một trong những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính vì vậy, trong thời gian tới, để thi hành đồng bộ Hiến pháp năm 2013, cần khẩn trương sửa đổi, bổ sung Luật Bầu cử đại biểu HĐND nhằm đảm bảo các nguyên tắc dân chủ trong tổ chức bộ máy chính quyền địa phương mà còn đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng đại biểu HĐND, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương. 4.2.8. Tiếp tục kiện toàn cơ cấu tổ chức và nâng cao chất lượng bộ máy chính quyền cơ sở Bộ máy chính quyền địa phương là bộ máy có tính thống nhất, thông suốt để thực hiện các chức năng nhà nước, vì vậy, hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh không thể tách rời với việc kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao chất lượng bộ máy chính quyền cơ sở. Việc kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp tỉnh. Kiện toàn cơ cấu tổ chức và nâng cao chất lượng bộ máy chính quyền cơ sở, điều chỉnh các quy định hiện hành về cơ cấu, số lượng cán bộ, công chức cơ sở theo hướng mở rộng hơn khung quy định tối đa - tối thiểu về số lượng phù hợp với quy mô, tính chất, đặc điểm của mỗi loại đơn vị hành chính cơ sở. Nhân rộng cơ chế tự chủ về tài chính - ngân sách và về tổ chức cán bộ của cấp xã để Hội đồng nhân dân cấp xã tự quyết định các vần đề về thu chi ngân sách và sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức. Cần kiện toàn tổ chức của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã, thị trấn. Đối với Hội đồng nhân dân xã, thị trấn: Điều chỉnh khung quy định hiện hành (mở rộng khoảng cách tối đa, tối thiểu) về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với quy mô dân số, đặc điểm của xã; đảm bảo mỗi thôn (ấp, bản, làng) có đại biểu Hội đồng nhân dân. Giảm thành phần cán bộ xã tham gia Hội đồng nhân dân để tăng số lượng đại biểu là dân trong Hội đồng nhân dân. Trên cơ sở tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, mỗi cơ sở dành khoảng 1/3 số đại biểu để thực hiện cơ cấu bảo đảm lãnh đạo của Đảng, chính quyền. Số đại biểu còn lại phân bổ vào các cụm dân cư, để dân giới thiệu, lựa chọn bầu vào Hội đồng nhân dân. Cần mở rộng quyền giới thiệu, đề cử đại biểu HĐND cho các tổ chức quần chúng, cá nhân và tạo cơ hội cho những người đủ tiêu chuẩn tự ứng cử. Tăng số lượng ứng cử viên trong mỗi đơn vị bầu cử, để nhân dân có điều kiện lựa chọn và bầu người mình tin cậy. Không quá gò ép theo cơ cấu về độ tuổi và thành phần tham gia vào HĐND theo danh sách đã được chuẩn bị trước như hiện nay, làm cho việc bầu cử trở nên hình thức, dân ít quan tâm đến việc giới thiệu và lựa chọn những người đại diện cho mình. Đối với UBND xã, thị trấn, cần tổ chức theo chế độ thủ trưởng hành chính (không còn chế độ ủy ban). Theo đó, người đứng đầu bộ máy hành chính là Chủ tịch xã do dân bầu trực tiếp. Chủ tịch xã trực tiếp lãnh đạo, điều hành các hoạt động của cơ quan hành chính xã. Giúp việc Chủ tịch xã có từ 2 đến 3 Phó chủ tịch, tùy theo quy mô và đặc điểm cụ thể của xã. Chủ tịch xã có bộ máy chuyên môn giúp việc được tổ chức thành các khối (hoặc Ban) chuyên môn (đối với các xã quy mô vừa và lớn). Theo mô hình này, cơ quan hành chính xã hoạt động theo chế độ thủ trưởng, không còn các Ủy viên Ủy ban và không còn chế độ Ủy ban. Áp dụng hình thực bỏ phiếu bất tín nhiệm của HĐND xã đối với Chủ tịch xã. Có thể tiến hành theo định kỳ hoặc bất thường. Trước mắt nên áp dụng thí điểm việc dân bầu trực tiếp Chủ tịch xã. Bộ máy chuyên môn của Chủ tịch xã có thể tổ chức thành 3 khối chuyên môn. Số lượng thành viên mỗi khối nhiều hay ít khác nhau tùy theo quy mô của xã, thị trấn và đặc điểm, tính chất của nhiệm vụ chuyên môn và do đó có thể bố trí kiêm nhiệm một số chức danh chuyên môn. Việc bố trí chuyên trách hay kiêm nhiệm không nên quy định cứng và có thể linh hoạt, khác nhau tùy từng địa phương.Chủ tịch xã phụ trách khối nội chính, các Phó chủ tịch phụ trách khối kinh tế - tài chính và khối Văn hóa - xã hội. Đối với các xã, thị trấn quy mô vừa và lớn, kinh tế, xã hội phát triển, có thể tổ chức thành các Ban chuyên môn và bố trí các cán bộ chuyên môn theo từng chức danh hoặc kiêm nhiệm thêm chức danh khác. Đối với các xã nhỏ, chậm phát triển, chủ tịch, Phó Chủ tịch xã điều hành công việc thông qua cán bộ chuyên môn theo từng khối. Mức độ kiêm nhiệm nhiều hay ít tùy thuộc vào khối lượng, tính chất từng nhiệm vụ. Việc phân công cụ thể do UBND xã quyết định. Kiện toàn tổ chức bộ máy đối với chính quyền phường: Xuất phát từ những đặc thù của quản lý nhà nước ở đô thị, không tổ chức HĐND mà chỉ có nhóm đại biểu HĐND của thị xã, thành phố tại phường; UBND được thay bằng Ban đại diện hành chính của thị xã, thành phố do Chủ tịch UBND thị xã, thành phố bổ nhiệm và quản lý. Các thành viên của ban đại diện hành chính là các công chức nhà nước. Đổi mới phương thức làm việc của HĐND và UBND cấp cơ sở: Đối với Hội đồng nhân dân, cần đổi mới quy trình ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của HĐND xã, thị trấn. Trước mỗi kỳ họp cần có sự phối hợp chuẩn bị giữa cấp ủy Đảng, thường trực HĐND và lãnh đạo UBND cũng như cần tham khảo rộng rãi ý kiến nhân dân về mục tiêu, nội dung của nghị quyết, điều kiện tài chính - ngân sách và nhân lực để triển khai thực hiện, đảm bảo tính khả thi của các nghị quyết đó. Tăng cường khả năng và điều kiện để thực hiện chức năng giám sát của HĐND và các đại biểu HĐND xã, thị trấn bằng cách nâng cao trách nhiệm và năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân, xác định rõ trọng tâm, nội dung giám sát, đề xuất các kiến nghị, kết luận sau khi giám sát và đôn đốc, thực hiện các đề tài, biện pháp xử lý. Thực hiện tốt chế độ tiếp dân để kịp thời nắm bắt thông tin và giải quyết những thắc mắc, khiếu nại của người dân. Đối với UBND, cần tăng cường trách nhiệm cá nhân trong tổ chức điều hành, chống tác phong quan liêu, giấy tờ, hành chính hóa, cán bộ chính quyền xã phải xử lý công việc tại cơ sở. Cải tiến lề lối làm việc, xây dựng quy chế làm việc công khai, rõ ràng, cụ thể phù hợp với quy trình của Nhà nước và cơ sở. Thực hiện tốt quy chế “một cửa” trong việc giải quyết các thủ tục hành chính cho người dân và tổ chức. Phân công trách nhiệm cụ thể, xây dựng lịch thời gian hợp lý để giải quyết công việc cho người dân. Thực hiện chế độ giao ban định kỳ hàng tuần của hệ thống chính trị cơ sở. Chính quyền xã trực tiếp giải quyết công việc, hạn chế tình trạng đẩy việc của UBND xã cho trưởng thôn, xóm. 4.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ - Cần tổ chức UBND theo hướng giảm số lượng ủy viên Ủy ban tăng thêm số lượng Phó Chủ tịch. Việc điều chỉnh này thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với UBND cấp tỉnh nhằm tăng cường sự phân công chỉ đạo tập trung, sát sao hơn đối với từng lĩnh vực quản lý, điều hành của UBND. - Thực hiện thí điểm chế định Thủ trưởng hành chính thay thế chế định Ủy ban, nhất là với vị trí là cấp chính quyền địa phương có tính bao trùm, thì cần thiết nghiên cứu quy định chức danh người đứng đầu cơ quan hành chính cấp tỉnh là Tỉnh trưởng. - Tăng cường và nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát của HĐND và giám sát của nhân dân đối với UBND và người đứng đầu. - Cần có nội dung, hình thức giám sát cụ thể, thiết thực, đúng với chức năng của HĐND; cần có chế tài xử lý cụ thể, có hiệu lực sau giám sát. Áp dụng và thực hiện thường xuyên hơn hình thức HĐND bỏ phiếu bất tín nhiệm UBND và người đứng đầu cơ quan hành chính, khi có những biểu hiện yếu kém về năng lực, phẩm chất, không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ gây hậu quả xấu và xử lý trách nhiệm theo pháp luật. - Tăng cường các hoạt động giám sát nhân dân, trước hết là giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc đối với UBND và người đứng đầu cơ quan hành chính theo hướng thiết thực, hiệu quả, thực chất, không tràn lan, không hình thức, đúng với tính chất của giám sát nhân dân và cơ chế cụ thể sau giám sát để xử lý trách nhiệm khi có vi phạm. Việc giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với bộ máy chính quyền địa phương là một vấn đề quan trọng được quy định tại Điều 116 Hiến pháp năm 2013, theo đó HĐND, UBND có trách nhiệm thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. Việc tăng cường giám sát của Mặt trận Tổ quốc có ý nghĩa thiết thực nhằm nâng cao tính giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là đối với bộ máy chính quyền cấp tỉnh khi việc giám sát của Mặt trận Tổ quốc sẽ là kênh quan trọng trong việc đưa ra các kiến nghị góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND và UBND cấp tỉnh trong việc thực thi Hiến pháp, pháp luật và đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân tại địa phương. - Nghiên cứu áp dụng hình thức Bí thư cấp ủy đồng thời đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Việc nhất thể hóa hai chức danh này một mặt, tạo điều kiện thực tế cho việc đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước; mặt khác, còn là giải pháp quan trọng, hữu hiệu để đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, góp phần giảm mạnh tệ quan liêu, trì trệ, hội họp nhiều,... của các cấp ủy cũng như của các cơ quan nhà nước ở địa phương. - Thực hiện cơ chế dân bầu trực tiếp chức danh người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. - Đổi mới nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, nhất là đối với những người đứng đầu. - Cần quy định nguyên tắc, chủ thể, nội dung, hình thức kiểm soát hoạt động chính quyền địa phương. Những kiến nghị nêu trên có ý nghĩa quan trọng cho việc nâng cao vị trí, vai trò và tính thực quyền của bộ máy chính quyền cấp tỉnh trong mối quan hệ với cả các cơ quan nhà nước ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở cấp huyện, cấp xã. KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng bộ máy chính quyền cấp tỉnh cho thấy rằng các định hướng, giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền cấp tỉnh cần bám sát các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước đáp ứng các yêu cầu cải cách hành chính và xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta, đặc biệt là trên cơ sở các nguyên tắc của Hiến pháp năm 2013. Cụ thể là: - Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh phải gắn với việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổng thể của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng;Hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền địa phương, đồng thời phải đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. - Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung, bộ máy chính quyền cấp tỉnh nói riêng là nhằm xây dựng bộ máy chính quyền địa phương mạnh mẽ và trong sạch, thật sự của dân, do dân và vì dân; đủ khả năng và điều kiện thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn, quản lý và tổ chức tốt việc cung ứng dịch vụ công cho người dân và tổ chức, tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế góp phần nâng cao đời sống nhân dân; phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và kiểm tra, giám sát bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức. - Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh phải gắn liền với phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương nhà nước ở địa phương; nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm của chính quyền địa phương. - Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và đặc thù của từng địa phương. - Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh phải đảm bảo tính thực quyền của Hội đồng nhân dân, đề cao vai trò quyết định và giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Một số giải pháp quan trọng để hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHXN ở nước ta hiện nay là: Hoàn thiện thể chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền cấp tỉnh, theo đó để đảm bảo thi hành Hiến pháp 2013, cần khẩn trương ban hành Luật về chính quyền địa phương; Luật về phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; Luật về giám sát của HĐND; sửa đổi, bổ sung Luật bầu cử đại biểu HĐND... nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung, bộ máy chính quyền cấp tỉnh nói riêng. Bên cạnh các giải pháp về hoàn thiện pháp luật, để hoàn thiện bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền cấp tỉnh, cần có một số giải pháp quan trọng khác như: cần nhận thức về chuyển từ mô hình tổ chức UBND sang mô hình thủ trưởng hành chính, phát huy tính tự chủ, năng động sáng tạo của chính quyền các cấp; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy chính quyền cấp tỉnh; từng bước hiện đại hóa cơ sở, trang thiết bị, phương tiện quản lý, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin; cần có quy định để phân biệt sự khác nhau giữa mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị cấp tỉnh với chính quyền nông thôn cấp tỉnh; tiếp tục kiện toàn cơ cấu tổ chức và nâng cao chất lượng bộ máy chính quyền cơ sở nhằm tạo cơ sở cho việc vận hành thông suốt của bộ máy chính quyền cấp tỉnh. Trên cơ sở một số giải pháp nêu trên, chúng tôi nêu một số kiến nghị cụ thể là: tổ chức lại UBND theo hướng giảm số lượng ủy viên Ủy ban tăng thêm số lượng Phó Chủ tịch; thực hiện thí điểm chế định Thủ trưởng hành chính thay thế chế định Ủy ban, nhất là với vị trí là cấp chính quyền địa phương có tính bao trùm, thì cần thiết phải quy định chức danh người đứng đầu cơ quan hành chính cấp tỉnh là Tỉnh trưởng; tăng cường và nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát của HĐND và giám sát của nhân dân đối với UBND và người đứng đầu; áp dụng hình thức bí thư cấp ủy đồng thời đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở cấp xã, và ở những địa phương không tổ chức HĐND; thực hiện cơ chế dân bầu trực tiếp chức danh người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, nhất là đối với những người đứng đầu; cần quy định nguyên tắc, chủ thể, nội dung, hình thức kiểm soát bộ máy chính quyền địa phương nói chung, bộ máy chính quyền cấp tỉnh nói riêng. KẾT LUẬN Hoàn thiện tổ chức và hoạt động chính quyền nói chung, bộ máy chính quyền cấp tỉnh nói riêng ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới và công cuộc xây dựng NNPQ XHCN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động bộ máy chính quyền chính quyền cấp tỉnh, luận án rút ra những kết luận sau đây: Một là, chính quyền cấp tỉnh thực chất là một hình thức, một cấp của chính quyền địa phương đặt trong sự quản lý thống nhất của Trung ương. Sự tồn tại và phát triển của chính quyền cấp tỉnh luôn luôn gắn liền với những cơ sở pháp lý nhất định, phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Để hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh cần thiết phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định nhằm đảm bảo cho bộ máy chính quyền cấp tỉnh có nhiều quyền tự chủ hơn trong tổ chức và hoạt động theo quy định pháp luật. Vì thế cần thiết phải có một Luật riêng tổ chức chính quyền địa phương để thể chế hóa các quy định tại Chương IX của Hiến pháp năm 2013 về chính quyền địa phương để tạo cơ sở cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương nói chung và bộ máy chính quyền cấp tỉnh nói riêng. Hai là, việc hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh phải trên cơ sở xác định xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương tự quản và có sự phân biệt chính quyền địa phương theo đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Do vậy, quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh phải được đặt trong tổng thể của tổ chức nền hành chính quốc gia và cả hệ thống các định chế chính trị, quan điểm về tổ chức nhà nước và để có thể triển khai thực hiện các giải pháp đề ra cần thiết phải có sự lãnh đạo, quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân. Ba là, xuất phát từ yêu cầu không ngừng củng cố và hoàn thiện bộ máy chính quyền nhà nước, cho nên phải tích cực thực hiện cải cách hành chính một cách đồng bộ trên các mặt: thể chế, bộ máy, công chức, tài chính công. Xây dựng bộ máy chính quyền địa phương, đặc biệt là chính quyền cấp tỉnh là cấp mang tính "động" nhiều hơn, đòi hỏi phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh. Bốn là, chính quyền cấp tỉnh là cấp chấp hành và thực hiện pháp luật, thực hiện các quyết định, chỉ thị của cơ quan nhà nước cấp trên là chủ yếu. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật phải đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn và có tính ổn định lâu dài. Trên cơ sở đó, chính quyền cấp tỉnh phát huy tinh thần trách nhiệm và năng động, sáng tạo của mình, thực hiện nghiêm túc, đắc lực, đảm bảo sự quản lý, điều hành thông suốt và thống nhất của Chính phủ và cơ quan nhà nước cấp trên. Năm là, cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp tỉnh nói riêng có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm, tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân. Trong thi hành công vụ, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, nắm vững quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ và những cán bộ, công chức được tuyển dụng vào vị trí việc làm ở chính quyền cấp cơ sở phải đúng tiêu chuẩn, chức danh nghiệp vụ; đồng thời phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy hành chính nhà nước; kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, làm cho bộ máy hành chính trong sạch, vững mạnh. Sáu là, chính quyền cấp tỉnh luôn phải bám sát sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Thành ủy, đảm bảo cho sự quản lý, điều hành của chính quyền phải vừa thực hiện luật pháp, vừa làm trụ cột trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị ở địa phương và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương; nghĩa là, chính quyền cấp tỉnh phải giữ vững và thể hiện được bản chất dân chủ của Nhà nước ta ở địa phương, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển và xây dựng một NNPQ XHCN. DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Ngô Huy Tiếp, Trịnh Tuấn Thành (2011), "Nâng cao bản lĩnh chính trị là nền tảng cơ bản ngăn ngừa nguy cơ "tham nhũng, tiêu cực", Tạp chí Công an nhân dân, (1), tr.10-12. Trịnh Tuấn Thành (1-2011), "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Quản lý nhà nước, (180), tr.13-16. Trịnh Tuấn Thành (2-2011), "Những nội dung cơ bản của Luật Viên chức", Tạp chí Quản lý nhà nước, (181), tr.75-78. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phan Xuân Biên (2007) (chủ biên), Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ Nội vụ (2007), Tổ chức Nhà nước Việt Nam 1945 - 2007, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Nội vụ (2010), Báo cáo tình hình hoạt động của UBND các cấp từ đầu nhiệm kỳ 2004-2011 đến nay và nhiệm vụ đến hết nhiệm kỳ, Hà Nội. Bộ Nội vụ (2011), Báo cáo tình hình hoạt động của HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2011 đến nay và nhiệm vụ đến hết nhiệm kỳ, Hà Nội. Chính phủ (2010), Báo cáo tổng kết bước 1 thực hiện Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc Hội về thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Chính phủ (2012), Báo cáo Tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 63-SL ngày 22/11/1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính xã, huyện, tỉnh, kỳ, Hà Nội. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 77-SL ngày 21/12/1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính xã, huyện, tỉnh, kỳ, Hà Nội. Ngô Huy Cương (2001), "Nhà nước pháp quyền với việc xây dựng chính quyền", Nghiên cứu lập pháp, (6). Nguyễn Đăng Dung (1997), Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương - Lịch sử và hiện tại, Nxb Đồng Nai. Nguyễn Đăng Dung (1998), Hội đồng nhân dân trong hệ thống cơ quan nhà nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Nguyễn Đăng Dung (2000), Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. Nguyễn Đăng Dung (2001), "Nhà nước pháp quyền - một hình thức tổ chức nhà nước", Nghiên cứu lập pháp, (6). Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2006), Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam theo các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 1992 sửa đổi, bổ sung 2001, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đăng Dung (2007), “Bàn về cải cách chính quyền nhà nước ở địa phương”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 05/10. Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước là những con số cộng giản đơn, Nxb Lao động, Hà Nội. Nguyễn Sỹ Dũng (2001), "Một số mô hình của chính quyền địa phương các nước trên thế giới", Nghiên cứu lập pháp, số đặc biệt về Sửa đổi Hiến pháp. Nguyễn Ánh Dương (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền thị xã, thành phố thuộc tỉnh ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành trung ương khóa X, Nxb, Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2007. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Vũ Đức Đán (2000), Tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền thành phố trực thuộc trung ương, Nxb Thống kê, Hà Nội. Vũ Đức Đán (2002), Đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền thành phố trong giai đoạn hiện nay, Đề tài cấp Bộ. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới (2008), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Nguyễn Văn Động (2003), "Suy nghĩ về cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở nước ta hiện nay", Nhà nước và Pháp luật, (3). Bùi Xuân Đức (1992), "Về Hiến pháp 1992: Những điểm mới trong tổ chức bộ máy nhà nước ta qua Hiến pháp 1992", Nhà nước và Pháp luật, (2). Bùi Xuân Đức (2002), "Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lập pháp, (9). Bùi Xuân Đức (2003), "Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện cải cách bộ máy nhà nước hiện nay", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12). Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Bùi Xuân Đức (2007), "Tự quản địa phương: vấn đề nhận thức và vận dụng ở nước ta hiện nay", Nhà nước và Pháp luật, (1). Trần Ngọc Đường (chủ biên) (2000), Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Giáo trình lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức (1998), Cải cách hành chính địa phương - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Lê Thị Vân Hạnh (2009), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa X, Đề tài cấp Bộ. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1995), Lý luận về nhà nước, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Nguyễn Thị Hồi (2003), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Luận án tiến sĩ Luật, Hà Nội. Nguyễn Thị Hồi (2004), "Về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở nước ta hiện nay", Tạp chí Luật học, (1). Lê Quốc Hùng (2004), Thống nhất, phân công và phối hợp quyền lực nhà nước ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Phạm Quang Hưng (2007), Tiếp tục hoàn thiện chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Hà Nội. Bùi Đức Kháng (2002), Phân cấp quản lý trong hệ thống hành chính nhà nước của chính quyền địa phương - ví dụ trên một số lĩnh vực, Đề tài cấp Bộ. Nguyễn Hữu Khiển (2002), Cơ sở phương pháp luận của sự phân chia các đơn vị và các cấp lãnh thổ hành chính ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ. Nguyễn Hữu Khiển (2003), Tìm hiểu về hành chính nhà nước, Nxb Lao động, Hà Nội. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1996), Toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1996), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Trương Đắc Linh (2001), “Bàn về khái niệm chính quyền địa phương”, Khoa học pháp lý, (2). Trương Đắc Linh (2001), "Một số ý kiến về vị trí, vai trò của HĐND và việc thành lập UBND các cấp", Tạp chí Khoa học pháp lý, (3). Trương Đắc Linh (2001) "Hội đồng nhân dân trên chặng đường đổi mới tổ chức chính quyền địa phương", Nghiên cứu lập pháp (8). Trương Đắc Linh (2002), Chính quyền địa phương với việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, Luận án Tiến sĩ Luật, Hà Nội. Vũ Thị Loan (2008), Hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ chính trị học C.Mác, Ph.Ăngghen (1962), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội C.Mác, Ph.Ăngghen (2006), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Mạnh (2005), Nhận thức và thực tiễn vận dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay), Đề tài khoa học cấp Bộ. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đinh Văn Mậu (2009), Mô hình các cấp chính quyền ở Hà Nội, Đề tài cấp Bộ. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (1996), Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (2001), 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Thanh Nhàn (2012), “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng mô hình tổ chức chính quyền nông thôn ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học. Hà Quang Ngọc (2005), "Cải cách cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương", Cộng sản, (2). Nguyễn Như Phát (2003), "Tiến tới một hiến chương quốc tế về tự quản địa phương", Nghiên cứu Lập pháp, (11). Nguyễn Thị Phượng (2008), Chính quyền địa phương trong việc bảo vệ quyền công dân ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính nhà nước, Hà Nội. Thang Văn Phúc (2013), Một số vấn đề về sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp 1992 về chính quyền địa phương, Tham luận tại Hội thảo “Hoàn thiện Chương chính quyền địa phương của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và định hướng xây dựng Luật về Chính quyền địa phương” tại thành phố Nha Tranh, tỉnh Khánh Hòa ngày 28-29/3. Đinh Ngọc Quang (2005), “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004 - 2009”, Quản lý nhà nước, (2). Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung). Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (đồng chủ biên) (2010), Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2010), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Võ Kim Sơn (2002), Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cơ sở các nước ASEAN, Đề tài cấp Bộ. Văn Tạo (2000), Kinh nghiệm xây dựng và quản lý chính quyền các cấp trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Hồng Thái (2003) (chủ nhiệm), Thiết lập mô hình tổ chức chính quyền đô thị, Đề tài khoa học cấp Bộ. Nguyễn Văn Thảo (2006), Đổi mới nội dung hoạt động các cấp chính quyền địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trịnh Đức Thảo (2001), Bàn về những tiêu chí và biện pháp đánh giá chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử, trong sách 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thái Vĩnh Thắng (2002), “Tổ chức chính quyền địa phương của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển, những bất cập và phương hướng đổi mới”, Luật học, (4). Lê Minh Thông (1999), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân”, Nhà nước và Pháp luật, (6). Lê Minh Thông (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát (đồng chủ biên) (2002), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Minh Thông (2002), “Một số quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Nghiên cứu lập pháp, (8). Lê Minh Thông (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thái Vĩnh Thắng (2005), "60 năm xây dựng và hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945 - 2005)", Luật học, (5). Nguyễn Kim Thoa (2002), “Pháp luật về chính quyền địa phương, thực trạng và phương hướng cải cách”, Nghiên cứu lập pháp, (9). Nguyễn Kim Thoa (2005), Tìm hiểu về chính quyền địa phương các cấp, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Kim Thoa, Nguyễn Sỹ Đại (đồng chủ biên), (2005), Tổ chức chính quyền địa phương Cộng hòa liên bang Đức, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Quốc Tuấn (2002), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND và UBND các cấp”, Tổ chức nhà nước (6). Trung tâm Nghiên cứu khoa học và thông tin trực thuộc Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (1994), Về mô hình tổ chức bộ máy hành chính của các nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đào Trí Úc (1995), Bình luận khoa học về Hiến pháp 1992, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đào Trí Úc (2001), Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đề tài KHXH.05.05. Đào Trí Úc (2004), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đào Trí Úc (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. Đào Trí Úc (chủ biên), (2007), Những đặc trưng cơ bản và mô hình của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (đồng chủ biên), (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đào Trí Úc (2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy đảng và nhà nước, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nhà nước và pháp luật (2002), Những vấn đề lí luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Yểu và Lê Hữu Nghĩa (2006) (đồng chủ biên), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. www.hanhchinh.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_3_1815.doc
Luận văn liên quan