Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV (1986) đã đề ra chủ trương đổi mới toàn
diện đất nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, theo
định hướng XHCN. Để thực hiện được đường lối đổi mới đó, Nhà nước Lào đã xây
dựng và ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật nhằm phát huy nội lực, thu hút
đầu tư nước ngoài, khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Các doanh nghiệp là những chủ thể quan trọng hàng đầu của nền kinh tế. Pháp
luật về doanh nghiệp đóng vai trò then chốt cho việc tổ chức và hoạt động có hiệu quả
của các doanh nghiệp, của việc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp. Việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp cho thấy:
1. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp là khái niệm chỉ toàn bộ các bộ phận cấu
thành có mối quan hệ với nhau theo những nguyên tắc pháp lý nhất định, tạo nên chỉnh
thể pháp luật về doanh nghiệp. Tựu chung lại, các nhóm quy phạm chủ yếu của pháp
luật về doanh nghiệp bao gồm:
- Các quy định về các loại hình doanh nghiệp.
- Cách thức thành lập doanh nghiệp.
- Cơ cấu và hệ thống tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
- Một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp.
- Tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp.
2. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của nước
CHDCND Lào đã từng bước được xây dựng và phát triển qua bốn giai đoạn:
- Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1994 trước khi Luật Kinh doanh (1994) được
ban hành;
- Giai đoạn từ khi có Luật kinh doanh (1994) đến trước khi LDN (2005) được
ban hành;
- Giai đoạn từ khi có LDN (2005) đến trước khi LDN (2013) được ban hành;
- Giai đoạn từ khi LDN (2013) được ban hành đến nay.
Trải qua quá trình xây dựng, phát triển, cho đến nay, hệ thống pháp luật về doanh
nghiệp của nước CHDCND Lào ngày càng hoàn thiện, đóng góp thiết thực vào sự phát
triển của doanh nghiệp ở Lào.
3. Tuy nhiên, pháp luật về doanh nghiệp ở CHDCND Lào, bên cạnh các ưu điểm
và thành công là chủ yếu, vẫn còn có một số nhược điểm và bất cập, gây ảnh hưởng
bất lợi cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp ở Lào. Pháp luật về doanh172
nghiệp ở Lào đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải được hoàn thiện, nhằm đáp ứng
kịp thời những đòi hỏi của thực tiễn tổ chức hoạt động kinh doanh, thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế.
4. Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp góp phần quan trọng vào việc xây
dựng một hệ thống pháp luật thể chế hóa được đường lối, chính sách của Đảng NDCM
Lào về phát triển kinh tế nói chung, về phát triển các loại hình doanh nghiệp nói riêng.
Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp được đặt ra với tính chất là một yếu tố tiên
quyết cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào phải được thực hiện theo phương hướng nhất
định. Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp cần được cấu trúc lại trên
quan điểm mới về tiêu chí phân loại doanh nghiệp, phù hợp với điều kiện cụ thể của
CHDCND Lào và xu hướng phổ biến trên thế giới. Hình thức pháp lý của doanh
nghiệp cần được xác định dựa trên tiêu chí chủ yếu là phương thức đầu tư vốn và tính
chất liên kết của các nhà đầu tư trong sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở đó, nội dung
của pháp luật về doanh nghiệp cần được hoàn thiện với các giải pháp cơ bản sau: Cần
sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền thành lập doanh nghiệp, góp vốn vào doanh
nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về hồ sơ và thủ tục thành lập doanh nghiệp; cần
sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp; sửa đổi, bổ
sung các quy định về tổ chức quản lý nội bộ các loại hình doanh nghiệp; sửa đổi, bổ
sung các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp.
5. Cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau để thực thi có hiệu quả LDN (2013)
trong thực tiễn: Chính phủ Lào cần ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành LDN
(2013); các bộ cần ban ngành các thông tư hướng dẫn thi hành LDN (2013) và các
nghị định hướng dẫn thi hành LDN (2013); các cơ quan có thẩm quyền của Lào cần tổ
chức việc nghiên cứu sâu rộng, quán triệt đầy đủ và áp dụng kịp thời các quy định của
LDN (2013) và các văn bản hướng dẫn thi hành trong các cơ quan quản lý nhà nước
đối với các doanh nghiệp, trong các doanh nghiệp và đối với các nhà đầu tư; cần cơ
cấu lại (sắp xếp lại) các doanh nghiệp, chuyển đổi các doanh nghiệp theo các quy định
của LDN (2013) và các văn bản hướng dẫn thi hành cho phù hợp với tình hình mới và
đáp ứng được các yêu cầu mới; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính.
Tựu chung lại, việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cần được đặt trong giải
pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế. Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp là tất yếu khách quan ở nước CHDCND Lào hiện nay./.
186 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, bình đẳng giới, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa và
danh lam thắng cảnh;
(7) Không được phân biệt đối xử và xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao
động trong doanh nghiệp; không được sử dụng lao động cưỡng bức và lao động trẻ
em; hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia đào tạo nâng cao
trình độ, kỹ năng nghề; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật;
(8) Thực hiện nghĩa vụ về đạo đức kinh doanh để bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của khách hàng và người tiêu dùng;
(9) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, Nhà nước cần phải xây dựng và vận hành các cơ chế cần thiết để bảo
đảm giá trị thực tế của các quyền của doanh nghiệp mà pháp luật quy định. Theo đó,
việc hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nên được quy định
theo hướng mở rộng các quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các doanh
nghiệp, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, phù hợp với pháp luật quốc tế.
Với tư cách là đơn vị kinh doanh trên thị trường, doanh nghiệp không tồn tại đơn
lẻ, địa vị pháp lý của doanh nghiệp luôn được xác định trong mối quan hệ với các chủ
thể khác trong sinh hoạt thị trường và đời sống xã hội. Pháp luật phải bảo đảm sự hài
hòa, hợp lý về lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trường để không ai có thể vì lợi ích
của mình mà xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người khác.
3.2.5. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức quản lý nội bộ các loại hình
doanh nghiệp
Nhìn chung, cơ cấu tổ chức của các loại hình doanh nghiệp ở Lào được quy định
tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích thực trạng quy định pháp luật tại
Chương 2 cho thấy, cần có thêm những sự sửa đổi, bổ sung sau:
Thứ nhất, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các loại hình doanh nghiệp
trong khu vực tư nhân (CTCP, công ty TNHH, công ty hợp danh, DNTN)
Việc sửa đổi và bổ sung các quy định về cơ chế bảo vệ lợi ích của thành viên
công ty TNHH, CTCP, đặc biệt là lợi ích của các cổ đông góp ít vốn, thể hiện ở các
vấn đề cơ bản sau: Pháp luật về doanh nghiệp cần quy định cụ thể và rõ ràng về trình
tự, thủ tục thực hiện quyền của nhóm cổ đông góp ít vốn được yêu cầu triệu tập họp
HĐTV, vấn đề xử lý phần vốn góp của các thành viên, khi thành viên công ty bị hạn
160
chế, bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị chết. Cần sửa đổi các quy định về quản trị
nội bộ công ty; cần quy định cơ chế kiểm soát để ngăn chặn việc lạm dụng vị trí của
người đại diện phần vốn góp có những quyết định thiếu trách nhiệm gây thiệt hại cho
công ty cũng như chủ sở hữu góp vốn (người ủy quyền).
Về cơ bản, CTCP được quy định trong LDN (2013) phù hợp với quan điểm phổ
biến về loại hình công ty này trong pháp luật của các nước trên thế giới. Việc quy định
về cổ phần ưu đãi biểu quyết theo cách của LDN (2013) xuất phát từ căn nguyên chủ
yếu là yêu cầu kiểm soát của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong một số lĩnh vực
kinh doanh nhất định. Cần đảm bảo tính minh bạch trong quản trị CTCP. Theo LDN
(2013), CTCP được quản trị theo cơ chế có sự tách bạch khá rõ ràng giữa quyền sở
hữu và quyền quản lý công ty, đa phần các cổ đông không trực tiếp tham gia quản lý
công ty.
Để hoàn thiện pháp luật về công ty, nên sửa đổi, bổ sung một số quy định để đảm
bảo khả năng thi hành trên thực tế, đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp được thực
hiện. Cần bổ sung thêm những quy định chưa được đề cập trong một số vấn đề hoặc
làm rõ hơn một số quy định chưa được giải thích rõ ràng Cần sửa đổi các khái niệm
theo hướng đơn giản hóa, đưa ra trên cơ sở các tiêu chí mang tính bản chất để nêu rõ
được bản chất, cũng như làm rõ các yếu tố đặc trưng của vấn đề; cần rà soát và chỉnh
sửa các khái niệm, tránh việc sử dụng nhiều cụm từ có nội dung gần giống nhau để
giải thích cho một vấn đề. Nên sử dụng cụm từ có thể bao quát hết được nội dung của
vấn đề để tránh được việc trùng lặp không cần thiết.
Cần quy định rõ ràng hơn về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của một số chủ thể
trong công ty, đặc biệt là các cổ đông góp ít vốn.
Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong
quan hệ thương mại, góp phần đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của tất cả các chủ thể
trong quan hệ thương mại. Hủy bỏ một số quy định chưa thực sự hợp lý, cản trở quyền
tự do kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với cam kết quốc tế mà Lào tham gia và
phù hợp với quy định trong các văn bản pháp lý liên quan.
Trong vấn đề này, cần lưu ý và liên hệ với các vấn đề doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Theo đó, việc tổ chức, vận hành doanh nghiệp của các nhà đầu tư nước
ngoài (cá nhân, tổ chức nước ngoài) khi đầu tư vào nước CHDCND Lào được áp dụng
quy chế pháp lý riêng, với nhiều quy định khác với quy chế pháp lý áp dụng cho các
nhà đầu tư trong nước. Có thể nói cho tới nay, Lào vẫn chưa đầu tư thích đáng vào
việc tạo lập một hình tượng quốc gia như một địa điểm lý tưởng, xứng đáng thích hợp
cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
161
Từ sau khi Luật Khuyến khích Đầu tư (2009) được ban hành thì các nhân viên
nhà nước chỉ giải thích những điểm mới cơ bản, thậm chí không rõ ràng nhân dịp hội
nghị doanh nghiệp trong một số các quốc gia đầu tư quan trọng nhất. Các hội nghị như
vậy không đảm bảo làm rõ tất cả những nội dung quan trọng, cần thiết và những câu
trả lời chi tiết để đảm bảo tính hấp dẫn, tính thực tiễn, nhất là tính khả thi đối với các
nhà đầu tư có nguồn vốn lớn. Mở rộng các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại
luôn luôn gắn liền với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, vì vậy cần thể hiện quan
điểm “mở cửa”, hội nhập nền kinh tế thế giới. “Mở cửa” kinh tế là mở rộng hoạt động
kinh tế đối ngoại nhằm tiếp nhận những nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện
đại, từ nước ngoài để phát triển các ngành, các lĩnh vực yếu kém của Lào.
Trong xu hướng hiện nay, cần quy định quyền lựa chọn loại hình doanh nghiệp
cũng như các vấn đề pháp lý về tổ chức doanh nghiệp theo quan điểm không có sự
phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Điều này phù hợp với
các nguyên tắc cơ bản trong điều chỉnh quan hệ đầu tư quốc tế (nguyên tắc đối xử
quốc gia, nguyên tắc đối xử tối huệ quốc,). Ví dụ, ở Việt Nam, từ năm 2005, Luật
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài đã không còn hiệu lực, Luật Doanh nghiệp đã được áp
dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Thứ hai, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
Sự tồn tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước là một tất yếu trong cơ
chế thị trường. DNNN (với cách hiểu là doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ đa số
hoặc toàn bộ vốn điều lệ) tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Cơ chế điều chỉnh
pháp luật đối với các DNNN ở các nước có thể có những sự khác nhau nhất định, song
xu hướng phổ biến trên thế giới là không xây dựng và áp dụng quy chế pháp lý riêng
biệt cho các DNNN (hoạt động kinh doanh thuần túy). DNNN ở các nước trên thế giới
về cơ bản được tổ chức theo các mô hình công ty và chịu sự điều chỉnh của pháp luật
về công ty. Mặc dù vậy, việc xây dựng cơ chế pháp lý điều chỉnh tổ chức và hoạt động
của các DNNN luôn là một vấn đề phức tạp; các nước khác nhau có thể có những cách
xử lý vấn đề khác nhau.
Để đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, Nhà nước Lào cần
đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước; hình thành
một số tập đoàn kinh tế mạnh. Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có
thể huy động vốn từ nhiều nguồn, trong đó vốn nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh
doanh đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên về
sản xuất, tài chính, thị trường, Cần hoàn thành việc sắp xếp lại các tổng công ty nhà
nước hiện có nhằm tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế. Việc này góp phần quan trọng vào việc cung ứng những
162
sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân
sách nhà nước, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế có hiệu quả. Cần hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng
công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành,
trong đó có ngành kinh doanh chính chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn
trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài
nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại.
Thứ ba, cần sửa đổi, hoàn thiện các quy định về quản lý nội bộ doanh nghiệp
Nhìn chung, vấn đề quy chế thành viên, cơ cấu tổ chức của các loại hình doanh
nghiệp đã được quy định khá đầy đủ trong LDN (2013). Tuy nhiên, LDN (2013) cần
có sự hoàn thiện thêm trong các quy định sau:
Một là, không nên bắt buộc người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp phải
là người thường trú tại Lào. LDN (2013) yêu cầu người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp phải cư trú thường xuyên ở Lào. Quy định này nhằm bảo đảm trách
nhiệm quản lý của người đại diện theo pháp luật với công ty. Tuy nhiên, quy định này
đã hạn chế quyền cá nhân của người đại diện cho doanh nghiệp. Điều quan trọng là
năng lực của chủ thể chứ không phải nơi cư trú của người đó. Vì vậy, chỉ cần quy định
rằng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người cư trú tại Lào. Nếu họ
vắng mặt quá lâu, ảnh hướng tới việc quản lý thì phải ủy quyền cho người khác. Thời
gian ủy quyền bao nhiêu ngày phụ thuộc vào yêu cầu của công việc.
Hai là, cần đưa ra các chế tài rõ ràng đối với các thành viên không góp vốn vào
doanh nghiệp như đã cam kết. Cụ thể, nếu thành viên cam kết góp vốn mà không góp
một đồng nào cho doanh nghiệp, thì người đó không được coi là thành viên của doanh
nghiệp. Việc đóng góp bao nhiêu vốn, tiến độ góp như thế nào phải được quy định đầy
đủ trong điều lệ, nội quy của doanh nghiệp. Cần bảo đảm quyền của cổ đông, của
thành viên công ty được bàn bạc, quyết định các vấn đề của công ty, quyền của họ
được hưởng lợi nhuận phụ thuộc vào phần vốn đã góp. Mặt khác, nếu góp vốn không
đúng như cam kết ảnh hưởng tới việc kinh doanh của công ty, thì thành viên đó phải
bồi thường cho công ty các thiệt hại mà hành vi của họ đã gây ra.
Ba là, cần phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của các cổ đông góp ít vốn trong
CTCP. Trong CTCP có khá nhiều thành viên đóng góp ít vốn. Vì vậy, LDN (2013) cần
có những quy định bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên này. Cụ thể,
không nên chỉ quy định các thành viên góp nhiều vốn, mà các cổ đông góp ít vốn cũng
được doanh nghiệp cung cấp các thông tin liên quan đến các hoạt động của công ty,
các giao dịch của người quản lý với các chủ thể liên quan. Các cổ đông đóng góp ít
vốn cũng còn cần có quyền chất vấn các thành viên của cơ quan quản lý, cơ quan điều
163
hành doanh nghiệp, khi thành viên của các cơ quan này có hành vi ảnh hướng xấu tới
quyền và lợi ích chính đáng của các cổ đông góp ít vốn.
3.2.6. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp
Thứ nhất, về tổ chức lại doanh nghiệp: Tổ chức lại doanh nghiệp là quá trình tìm
ra giải pháp tối ưu về quy mô cũng như phương hướng, kế hoạch sản xuất kinh doanh,
hoạt động và sử dụng vốn một cách hợp lý và mang lại hiệu quả kinh tế một cách cao
nhất. Nhà nước nên bổ sung thêm một số quy định đối với pháp luật về tổ chức lại
doanh nghiệp hiện nay, ví dụ như:
- Về chuyển đổi doanh nghiệp: Thực tế có thể còn có những trường hợp công ty
hợp danh chuyển đổi thành công ty TNHH và ngược lại; DNTN chuyển đổi thành
công ty TNHH và ngược lại. Trong khi đó, LDN (2013) chưa quy định về vấn đề
chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp này. Việc pháp luật chưa quy định vấn đề
chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp của các nhà đầu tư. Đặc biệt, đối với DNTN, khi
mà Nhà nước Lào đang khuyến khích loại hình doanh nghiệp này phát triển, thì càng
phải ghi nhận các khả năng rộng rãi của việc chuyển đổi hình thức của DNTN, mặc
dù kèm theo đó phải giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến sở hữu, chế độ chịu
trách nhiệm...
- Về hoạt động mua bán doanh nghiệp: Nhà nước nên bổ sung thêm một số quy
định đối với pháp luật về tổ chức lại doanh nghiệp hiện nay nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho việc phát triển hoạt động mua bán doanh nghiệp. Trên thực tế, trong hệ thống pháp
luật về doanh nghiệp của Lào cũng đã có một số VBPL về mua bán doanh nghiệp như
Nghị định số 103/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về việc giao, bán,
khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định này còn chung
chung, hầu như chưa có một quy định rõ ràng, cụ thể nào về việc mua bán doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tồn tại trong hệ thống các VBPL. Trên thực tế, việc mua bán
doanh nghiệp được tiến hành trên cơ sở pháp lý của chế định mua bán tài sản trong
Luật Hợp đồng Lào (2008). Song bên cạnh những tài sản hữu hình, doanh nghiệp còn
có cả những tài sản như thương hiệu, uy tín, tên thương mại - vốn là những tài sản
không được điều chỉnh trong luật dân sự. Trong khi đó, trên thực tế những năm gần
đây ở Lào, hoạt động này diễn ra rất sôi nổi, đặc biệt là hoạt động mua bán doanh
nghiệp qua mạng internet. Theo ước tính, hiện nay có khoảng 300.000 doanh nghiệp
tư nhân trong hàng trăm lĩnh vực ngành nghề đã được mua và bán. Đây là hoạt động
hết sức bình thường ở các nước phát triển, song ở Lào còn khá mới và cần một khung
pháp lý để đảm bảo hoạt động này diễn ra theo những quy định phù hợp hơn.
164
Thứ hai, về giải thể doanh nghiệp
- Làm rõ các khái niệm liên quan, đặc biệt là khái niệm “giải thể doanh nghiệp”.
Đồng thời, sửa đổi các trường hợp giải thể doanh nghiệp theo hướng rút gọn, minh
bạch, logic. Mặc dù hiện nay, LDN (2013) quy định hai lý do để giải thể doanh nghiệp
tự nguyện và giải thể doanh nghiệp bắt buộc. Tuy nhiên, trong mỗi lý do lại bao gồm
nhiều trường hợp khác nhau. Theo chúng tôi, những quy định này nên được rút gọn
lại, đồng thời phải quy định một cách rõ ràng, cụ thể điều kiện của từng trường hợp.
- Điều kiện, thủ tục, hồ sơ giải thể doanh nghiệp của các loại hình doanh nghiệp
hiện nay được quy định tản mạn trong nhiều điều luật. Cần thống nhất đưa các nội
dung này về một số điều luật thống nhất. Đồng thời, xem xét lại thứ tự thanh toán các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác theo hướng thể hiện sự ưu tiên, quan tâm của Nhà
nước đối với việc bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Bổ sung thêm quy định yêu
cầu doanh nghiệp chỉ được giải thể khi đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác và doanh nghiệp không đang trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.
- Bổ sung thêm quy định về chế tài ràng buộc trách nhiệm của người quản lý
doanh nghiệp thực hiện giải thể doanh nghiệp theo đúng trình tự, thủ tục.
- Theo quy định trong LDN (2013), khi giải thể doanh nghiệp, thì cơ quan
ĐKKD phải có nhiệm vụ thu con dấu, giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu, số hóa đơn
giá trị gia tăng chưa sử dụng, giấy chứng nhận đăng ký mã số thuế. Chính hoạt động
này làm cơ quan ĐKKD đã bận rộn với công việc cấp giấy ĐKKD càng trở nên quá
tải. Vì vậy, về vấn đề này, các nhà làm luật của Lào cần tham khảo kinh nghiệm của
Việt Nam: LDN (2014) quy định doanh nghiệp có quyền tự quyết định về số lượng và
hình thức con dấu.
3.3. KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG CƠ CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT, NÂNG CAO
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CỦA PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
Theo tác giả luận án, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau để thực thi có
hiệu quả LDN (2013) trong thực tiễn:
3.3.1. Chính phủ Lào cần ban hành thêm các nghị định hướng dẫn thi hành
Luật doanh nghiệp (2013)
Chính phủ Lào cần khẩn trương yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu,
chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành LDN (2013), phối hợp với
Văn phòng Chính phủ hoàn tất các thủ tục để Chính phủ ban hành.
Các Bộ, cơ quan: Quốc phòng, Công an, Tư pháp, Tài chính, Lao động - Phúc lợi
và Xã hội, Giáo dục và Thể thao, Khoa học và Công nghệ, Y tế, Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Công Thương và Ngân hàng Nhà nước
165
Lào theo chức năng, nhiệm vụ được giao, cần thường xuyên rà soát, đánh giá quy
định của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh, báo cáo, đề xuất phương án sửa đổi,
bổ sung theo tinh thần cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính
phủ và các Bộ, cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, đánh giá tính hợp lý, hiệu quả của
các quy định trong LDN (2013), đồng thời đề xuất phân công cơ quan chủ trì soạn
thảo, trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thay thế, bãi bỏ các
văn bản đã hết hiệu lực.
3.3.2. Các cơ quan có thẩm quyền của Lào cần tổ chức việc nghiên cứu sâu
rộng, quán triệt đầy đủ và áp dụng kịp thời các quy định của Luật doanh nghiệp
(2013) và các văn bản hướng dẫn thi hành trong các cơ quan quản lý nhà nước
đối với các doanh nghiệp, trong các doanh nghiệp và đối với các nhà đầu tư
Chính phủ Lào cần khẩn trương yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp
với Bộ Tư Pháp, các Bộ, cơ quan liên quan, Phòng Thương mại Lào, các cơ quan quản
lý Nhà nước ở địa phương tăng cường tuyên truyền, phổ biến các quy định của LDN
(2013) đến cộng đồng doanh nghiệp; tổ chức tập huấn nhằm nâng cao trình độ nghiệp
vụ của cán bộ, công chức trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính theo quy định
mới của các đạo luật này.
Cần khẩn trương nâng cấp, hoàn thiện Cổng thông tin quốc gia về ĐKKD để bảo
đảm cho cổng thông tin này vận hành thông suốt, hiệu quả. Bộ Tài chính cần chủ trì,
phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp thực hiện ngay việc cấp mã số doanh
nghiệp tự động theo xu hướng mới của các quốc gia phát triển.
Chính quyền nhân dân các tỉnh cần chỉ đạo các Phòng ĐKKD tiếp nhận, xử lý hồ
sơ ĐKKD và các thủ tục liên quan theo quy định của LDN (2013). Cần bố trí đủ nhân
lực, kinh phí và nguồn lực khác để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được
giao tại LDN (2013). Cần thiết lập cơ chế phối hợp giữa các đơn vị để bảo đảm giải
quyết nhanh chóng, thuận lợi các thủ tục cho doanh nghiệp.
3.3.3. Cần cơ cấu lại (sắp xếp lại) các doanh nghiệp, chuyển đổi các doanh
nghiệp theo các quy định của Luật doanh nghiệp (2013) và các văn bản hướng
dẫn thi hành cho phù hợp với tình hình mới và đáp ứng được các yêu cầu mới
Về cơ bản, việc cơ cấu lại các doanh nghiệp nên được thực hiện theo hướng: Tiếp
tục tập trung vào vai trò, chức năng của các doanh nghiệp; tái cấu trúc các DNNN
trong các lĩnh vực ưu tiên như các cơ sở hạ tầng kinh tế, các ngành chiến lược; thực
hiện cơ cấu lại từng phần, phải gắn với cổ phần hóa và tăng cường năng lực cạnh
tranh, đảm bảo các nguyên tắc thị trường. Lộ trình và mục tiêu thực hiện cần được chia
166
nhỏ. Với định hướng như vậy, việc tái cơ cấu doanh nghiệp trong thời gian tới, cần
thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách đối với các doanh nghiệp, đặc
biệt là DNNN. Cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn nhằm triển khai thực hiện
việc tái cơ cấu doanh nghiệp đúng thời hạn. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách giải
quyết những vướng mắc, khó khăn trong xác định giá trị doanh nghiệp và thoái vốn
nhà nước để đẩy nhanh tốc độ thoái vốn ngoài ngành, giảm tỷ lệ vốn thuộc sở hữu nhà
nước tại doanh nghiệp không cần nắm giữ.
Thứ hai, tiếp tục rà soát, bổ sung doanh nghiệp cần chuyển đổi, xây dựng lộ trình
triển khai thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, đổi mới, tái cơ cấu doanh nghiệp trong giai
đoạn tiếp theo theo hướng phù hợp với yêu cầu thực tế về tái cấu trúc nền kinh tế và
chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt.
Thứ ba, tổ chức sắp xếp và tái cơ cấu doanh nghiệp phù hợp với năng lực quản
lý, giám sát và quản trị; nâng cao năng lực quản trị của các doanh nghiệp theo hướng
phù hợp với các nguyên tắc, thông lệ quốc tế; gắn trách nhiệm của người đứng đầu
doanh nghiệp với kết quả tổ chức thực hiện đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhằm đảm
bảo tiến độ hiệu quả.
Thứ tư, đẩy mạnh truyền thông và công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát trong quá
trình tái cơ cấu doanh nghiệp cùng với việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh
được giao. Đặc biệt, coi trọng vai trò của dư luận, người lao động và báo chí trong
công tác giám sát quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp, góp phần làm lành mạnh hóa và
ngăn chặn sai phạm trong quá trình thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp.
Thứ năm, trách nhiệm về minh bạch hóa thông tin của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cũng cần phải được nâng cao. Sự thay đổi trong nhận thức và pháp
luật về vai trò quản lý nhà nước theo hướng mở rộng quyền tự chủ của doanh
nghiệp đòi hỏi thị trường phải có được cơ chế giám sát xã hội, nhằm ngăn chặn mọi
nguy cơ đe dọa đến trật tự và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trên thị trường.
Một cơ chế giám sát xã hội hiệu quả phải bảo đảm sự minh bạch và trung thực về
thông tin cho mọi thành viên tham gia thị trường bao gồm doanh nghiệp, nhà đầu tư
và người tiêu dùng
3.3.4. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
Trách nhiệm quản lý nhà nước về doanh nghiệp được quy định rõ trong Chương
VIII của LDN (2013). Nghiên cứu cho thấy, về cơ bản, LDN (2013) và các văn bản
pháp luật liên quan đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước một cách
khoa học, quản lý được hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp. Song song với
những cải cách cơ cấu tổ chức trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế,
167
Chính phủ Lào cũng đã từng bước điều chỉnh chức năng quản lý nền kinh tế theo hướng
gần hơn với cơ chế thị trường. Nhờ đó, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đã có sự
thay đổi cơ bản, cả về lý luận lẫn trên thực tiễn. Nhiều biện pháp đổi mới chức năng
quản lý nhà nước cụ thể, phù hợp hơn với cơ chế thị trường đã được thực hiện.
LDN (2013) đã đổi mới cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp theo hướng chuyển
trọng tâm quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh từ “tiền kiểm” sang
“hậu kiểm”. Nhà nước thực hiện việc quản lý đối với các hoạt động kinh doanh chủ
yếu thông qua việc giám sát sự tuân thủ pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của
doanh nghiệp sau ĐKKD. LDN (2013) đã tạo được cơ sở pháp lý để phân định rõ chức
năng quản lý nhà nước với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từng bước hạn chế
và đi đến xóa bỏ hiện tượng can thiệp bất hợp lý, gây phiền hà cho doanh nghiệp từ
phía các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, với quan điểm tiếp cận điều chỉnh có tính chất
“luật tự hành”, chắc chắn sẽ dẫn đến việc tăng nguy cơ xuất hiện những hiện tượng
tiêu cực trong kinh doanh (kinh doanh không đủ điều kiện kinh doanh, khai báo gian
dối, thành lập “doanh nghiệp ma”, “doanh nghiệp vốn ảo”). Trong điều kiện đó, cơ
chế quản lý nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp cần được hết sức coi trọng.
Tuy nhiên, sự quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vẫn còn những điểm yếu:
quản lý nhà nước còn gặp nhiều hạn chế do hệ thống quản lý chưa có sự thống nhất
trong các bộ, ngành. Các quy định chưa rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, cơ
quan nhà nước có cách hiểu khác doanh nghiệp. Do vậy, việc quản lý của Nhà nước
đối với doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn. Thực tiễn áp dụng LDN (2013) đã
bộc lộ nhiều hạn chế ở các quy định về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Các
biểu hiện cụ thể là: (i) Chưa có quy định rõ ràng và cụ thể về việc thực hiện và giám
sát các điều kiện kinh doanh, một khâu trọng tâm của công tác hậu kiểm; (ii) Cơ quan
ĐKKD (một đầu mối trung tâm trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp) chưa
được quy định rõ về vị trí, địa vị pháp lý trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước.
Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho các cơ quan ĐKKD trên phạm vi cả nước chưa tạo
thành một hệ thống; hiệu quả hoạt động của cơ quan ĐKKD chưa cao. (iii) Việc xây
dựng mô hình “hậu kiểm” phù hợp vẫn đang là một “bài toán khó”, chưa có lời giải
đáp có tính thuyết phục. Về mặt lý luận, việc thay đổi phương thức quản lý nhà nước
đối với các doanh nghiệp từ nặng về “tiền kiểm” sang chú trọng khâu “hậu kiểm” thì
chắc chắn phải nhấn mạnh công tác thanh tra, kiểm tra. Vấn đề là thanh tra, kiểm tra
như thế nào để một mặt không gây phiền hà, ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, mặt khác vẫn đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh.
168
Thực tế hiện nay cho thấy, pháp luật về thanh tra, kiểm tra của Lào đối với doanh
nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật và trình độ
nghiệp vụ của một bộ phận không nhỏ các cán bộ thanh tra, kiểm tra ở Lào còn chưa
tốt. Điều này dẫn đến những hiện tượng thanh tra, kiểm tra hoạt động của doanh
nghiệp một cách chồng chéo, gây phiền nhiễu, tốn kém cho các doanh nghiệp. Để khắc
phục tình trạng này và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp,
cần phải xây dựng được cơ chế “hậu kiểm” phù hợp. Trong đó có những nội dung cơ
bản là: tăng cường cơ chế giám sát việc thực hiện các điều kiện kinh doanh; tăng
cường năng lực hoạt động (trong đó có các điều kiện về thể chế, cơ sở vật chất, năng
lực cán bộ) của hệ thống cơ quan ĐKKD; phân cấp và quy định rõ thẩm quyền thanh
tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, quản lý nhà nước về doanh nghiệp cần có sự thay đổi mạnh
mẽ hơn, theo hướng như sau:
Thứ nhất, cần đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, hoạt
động của doanh nghiệp. Theo đó, phải thay đổi phong cách làm việc của các cơ quan
quản lý nhà nước từ ban phát sang hỗ trợ và cung ứng dịch vụ cho doanh
nghiệp. Định hình cơ chế phục vụ doanh nghiệp phải xóa bỏ những nguyên nhân hình
thành nên cơ chế xin cho: Một là, phải hạn chế dần những kiểu quy phạm “bất hợp lý”
đứng về phía lợi ích doanh nghiệp. Các mức khống chế cứng nhắc tạo cho các cơ quan
“quyền sinh sát”, mặt khác “kích thích” sự sáng tạo của doanh nghiệp trong các thủ
đoạn “vượt rào”, đặc biệt trong lĩnh vực thuế. Hai là, ràng buộc trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước khi can thiệp đến hoạt động của doanh nghiệp. Những tổn thất, các
chi phí tăng thêm do hoạt động kém hiệu quả của cơ quan nhà nước cần phải có một
cơ chế ràng buộc trách nhiệm được khuyến khích thực thi.
Thứ hai, tách biệt vai trò chủ sở hữu đối với các DNNN và vai trò quản lý nhà
nước nói chung, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động bình đẳng với các loại
hình doanh nghiệp khác. Theo đó, cần đổi mới chức năng “nhà kinh doanh, nhà đầu
tư” của Nhà nước. Nhà nước cần giảm mạnh sự tham gia trực tiếp vào hoạt động sản
xuất kinh doanh, đồng thời thực hiện sự can thiệp vào hoạt động này thông qua chính
sách đầu tư vào các DNNN công ích và các DNNN kinh doanh thuộc những lĩnh vực
đặc biệt quan trọng. Củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, thông qua việc chú trọng
các ngành, lĩnh vực then chốt để bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (ví dụ:
Chính phủ Lào đã ban hành tiêu chí, danh mục các ngành, lĩnh vực sản phẩm và dịch
vụ, trong đó Nhà nước nắm 100% vốn điều lệ). Đầu tư của Nhà nước được định hướng
tập trung hơn vào phát triển cơ sở hạ tầng và vào những lĩnh vực mà tư nhân không
169
muốn hoặc chưa có khả năng đầu tư, trên cơ sở đó tạo thêm thuận lợi cho cơ chế thị
trường phát huy tác dụng.
Mặc dù còn có những hạn chế, yếu kém (thể hiện trong việc phân định chưa thật
rõ vai trò quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường; hoặc qua năng lực còn hạn
chế của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước), song, với những nỗ lực mà Đảng và
Nhà nước Lào đang thực hiện, hi vọng rằng mối quan hệ Nhà nước - thị trường -
doanh nghiệp có sự thay đổi cơ bản theo hướng Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường
điều tiết doanh nghiệp.
Thứ ba, cần thống nhất hệ thống mã số doanh nghiệp. Việc thống nhất mã số
doanh nghiệp ngay từ khâu đăng ký kinh doanh sẽ giúp giảm bớt các phiền hà trong
khâu hậu kiểm.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin trong quan hệ nhà nước - doanh nghiệp -
công chúng. Xây dựng hệ thống dữ liệu doanh nghiệp, hệ thống thông tin ứng dụng là
điều hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ thông tin cũng sẽ giúp tạo cơ
chế liên thông thông tin giữa các cơ quan, giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp khi phải
xác nhận các thông tin từ cơ quan này đối với cơ quan khác.
Thứ năm, phát triển mô hình hệ thống giám sát pháp lý mới. Hệ thống giám sát
mới sẽ dựa trên cam kết của các doanh nghiệp, tăng tính tự chịu trách nghiệm của
chính các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Nhà nước ghi nhận các cam kết
này và đảm bảo những hậu quả hết sức bất lợi nếu doanh nghiệp vi phạm. Cơ chế giám
sát mới phát huy vai trò giám sát của các lực lượng thị trường.
Thứ sáu, phát huy vai trò của kế toán, kiểm toán. Trước hết, hệ thống chứng từ,
tài khoản, báo cáo tài chính, mẫu sổ theo quy định cần hướng đến bản chất của
nghiệp vụ, tôn trọng lợi ích và quyền chủ động của doanh nghiệp. Bên cạnh việc hoàn
thiện hệ thống các chuẩn mực, hệ thống kế toán, kiểm toán của Lào cần phát huy
quyền làm chủ của doanh nghiệp, đẩy mạnh hơn nữa việc doanh nghiệp tự in hóa đơn,
tự kê khai thuế, sử dụng phương pháp khấu hao khác
3.3.5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính
Lào đã chủ chủ trương xây dựng cơ chế “một cửa”. Việc hình thành doanh
nghiệp liên quan tới nhiều việc, nên phải qua nhiều “cửa”, do đó thời gian chuẩn bị các
dự án kéo dài, cơ quan nào cũng có quyền “bắt chẹt” doanh nghiệp. Doanh nghiệp mất
nhiều công sức, tốn kém nhiều chi phí. Điều đó làm chậm quá trình cấp phép và triển
khai dự án, làm nản lòng các nhà đâu tư.
Để khắc phục vấn đề này cần có sự cố gắng của hai bên. Giai đoạn xét duyệt dự
án và giai đoạn triển khai dự án có mối liên quan mật thiết với nhau, là hai giai đoạn
kế tiếp nhau. Giai đoạn xét duyệt dự án ảnh hưởng trực tiếp tới việc triển khai dự án về
170
cả thời gian và chất lượng. Do đó, để cải thiện thủ tục hành chính trong lĩnh vực hoạt
động đầu tư nói chung, đầu tư nước ngoài nói riêng, cần thực hiện một số biện pháp
như sau:
Giảm bớt các tài liệu không cần thiết, sửa đổi, ban hành mới một số quy định liên
quan tới quy trình xem xét hồ sơ dự án, công bố danh mục dự án không được phép đầu
tư, soạn thảo các quy định chi tiết về phát triển kinh tế đất nước.
Kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc thực hiện chính sách “một cửa” của Chính phủ
trong việc thẩm định và quản lý dự án đầu tư nhằm tạo điều kiện thông thoáng hơn,
thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. Trong việc thẩm định dự án, cần tập trung vào một
số việc như: vấn đề cam kết của các nhà đầu tư; về tiến độ góp vốn; khoa học kỹ thuật,
công nghệ và thị trường tiêu thụ; vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, về giải quyết việc
làm và tăng thu nhập cho lao động.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về doanh nghiệp và pháp luật về doanh
nghiệp ở chương một và thực tiễn về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp ở
Chương 2 cho thấy pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào đang đứng trước
yêu cầu cấp thiết là phải được hoàn thiện, nhằm đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của
thực tiễn tổ chức hoạt động kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Trên cơ sở đó, Chương 3 của luận án đã đề ra các phương hướng của việc hoàn
thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào. Cụ thể là: Hoàn thiện pháp
luật về doanh nghiệp bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân; hoàn
thiện pháp luật về doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của
CHDCND Lào; hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đảm bảo tính thống nhất, đồng
bộ, khả thi, dễ tiếp cận và chi phí tuân thủ thấp; trong việc hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp phải tham khảo các quy định pháp luật về doanh nghiệp của các nước
khác và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào hoàn cảnh của Lào. Từ phương
hướng trên, tác giả luận án đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, tác giả luận án
cũng đề xuất một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả LDN (2013).
171
KẾT LUẬN
Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV (1986) đã đề ra chủ trương đổi mới toàn
diện đất nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, theo
định hướng XHCN. Để thực hiện được đường lối đổi mới đó, Nhà nước Lào đã xây
dựng và ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật nhằm phát huy nội lực, thu hút
đầu tư nước ngoài, khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Các doanh nghiệp là những chủ thể quan trọng hàng đầu của nền kinh tế. Pháp
luật về doanh nghiệp đóng vai trò then chốt cho việc tổ chức và hoạt động có hiệu quả
của các doanh nghiệp, của việc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp. Việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp cho thấy:
1. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp là khái niệm chỉ toàn bộ các bộ phận cấu
thành có mối quan hệ với nhau theo những nguyên tắc pháp lý nhất định, tạo nên chỉnh
thể pháp luật về doanh nghiệp. Tựu chung lại, các nhóm quy phạm chủ yếu của pháp
luật về doanh nghiệp bao gồm:
- Các quy định về các loại hình doanh nghiệp.
- Cách thức thành lập doanh nghiệp.
- Cơ cấu và hệ thống tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
- Một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp.
- Tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp.
2. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của nước
CHDCND Lào đã từng bước được xây dựng và phát triển qua bốn giai đoạn:
- Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1994 trước khi Luật Kinh doanh (1994) được
ban hành;
- Giai đoạn từ khi có Luật kinh doanh (1994) đến trước khi LDN (2005) được
ban hành;
- Giai đoạn từ khi có LDN (2005) đến trước khi LDN (2013) được ban hành;
- Giai đoạn từ khi LDN (2013) được ban hành đến nay.
Trải qua quá trình xây dựng, phát triển, cho đến nay, hệ thống pháp luật về doanh
nghiệp của nước CHDCND Lào ngày càng hoàn thiện, đóng góp thiết thực vào sự phát
triển của doanh nghiệp ở Lào.
3. Tuy nhiên, pháp luật về doanh nghiệp ở CHDCND Lào, bên cạnh các ưu điểm
và thành công là chủ yếu, vẫn còn có một số nhược điểm và bất cập, gây ảnh hưởng
bất lợi cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp ở Lào. Pháp luật về doanh
172
nghiệp ở Lào đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải được hoàn thiện, nhằm đáp ứng
kịp thời những đòi hỏi của thực tiễn tổ chức hoạt động kinh doanh, thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế.
4. Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp góp phần quan trọng vào việc xây
dựng một hệ thống pháp luật thể chế hóa được đường lối, chính sách của Đảng NDCM
Lào về phát triển kinh tế nói chung, về phát triển các loại hình doanh nghiệp nói riêng.
Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp được đặt ra với tính chất là một yếu tố tiên
quyết cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào phải được thực hiện theo phương hướng nhất
định. Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp cần được cấu trúc lại trên
quan điểm mới về tiêu chí phân loại doanh nghiệp, phù hợp với điều kiện cụ thể của
CHDCND Lào và xu hướng phổ biến trên thế giới. Hình thức pháp lý của doanh
nghiệp cần được xác định dựa trên tiêu chí chủ yếu là phương thức đầu tư vốn và tính
chất liên kết của các nhà đầu tư trong sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở đó, nội dung
của pháp luật về doanh nghiệp cần được hoàn thiện với các giải pháp cơ bản sau: Cần
sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền thành lập doanh nghiệp, góp vốn vào doanh
nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về hồ sơ và thủ tục thành lập doanh nghiệp; cần
sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp; sửa đổi, bổ
sung các quy định về tổ chức quản lý nội bộ các loại hình doanh nghiệp; sửa đổi, bổ
sung các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp.
5. Cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau để thực thi có hiệu quả LDN (2013)
trong thực tiễn: Chính phủ Lào cần ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành LDN
(2013); các bộ cần ban ngành các thông tư hướng dẫn thi hành LDN (2013) và các
nghị định hướng dẫn thi hành LDN (2013); các cơ quan có thẩm quyền của Lào cần tổ
chức việc nghiên cứu sâu rộng, quán triệt đầy đủ và áp dụng kịp thời các quy định của
LDN (2013) và các văn bản hướng dẫn thi hành trong các cơ quan quản lý nhà nước
đối với các doanh nghiệp, trong các doanh nghiệp và đối với các nhà đầu tư; cần cơ
cấu lại (sắp xếp lại) các doanh nghiệp, chuyển đổi các doanh nghiệp theo các quy định
của LDN (2013) và các văn bản hướng dẫn thi hành cho phù hợp với tình hình mới và
đáp ứng được các yêu cầu mới; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính.
Tựu chung lại, việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cần được đặt trong giải
pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế. Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp là tất yếu khách quan ở nước CHDCND Lào hiện nay./.
173
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Xaykham Vannaxay (2017), “Quy định về hồ sơ, thủ tục đăng kí kinh doanh ở
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí Luật học, (5),
tr.71-77.
2. Xaykham Vannaxay (2017), “Quyền thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp của
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (04), tr.
53-61.
174
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Vũ Thị Lan Anh (2009), “Pháp luật Singapore về các tổ chức kinh doanh”, Tạp
chí Luật học (12), tr.51-57.
2. Trần Thị Bảo Ánh (2017), “Luật Doanh nghiệp năm 2014 – Những bất cập cần
khắc phục”, Tạp chí Luật học (5), tr.3-10.
3. Nguyễn Tuấn Anh (2009), Một số vấn đề pháp lý về công ty đại chúng, Luận
văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
4. Anousone Vongphachanh (2016), Pháp luật về quyền thành lập doanh nghiệp
của Việt Nam và Lào dưới góc độ so sánh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
5. Đồng Ngọc Ba (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008, 2009), Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật
Doanh nghiệp, Hà Nội.
7. Beelee Yearseng (2011), Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Lào và Việt Nam
dưới góc độ so sánh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
8. Bounsavath Sioudomphan (2015), Thực hiện quyền thành lập doanh nghiệp
theo pháp luật về doanh nghiệp của Lào, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
9. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1983), Tuyển tập, Tập IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1993), Tuyển tập, Tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
11. Chom khăm Búp Phả Li Văn (1998), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong
điều kiện đổi mới hiện nay ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
12. Công ty tài chính quốc tế và Ngân hàng thế giới (2006), Báo cáo toàn cầu về
môi trường kinh doanh 2006.
13. Bùi Ngọc Cường (2004), “Bàn về tính thống nhất của pháp luật về doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật học (06), tr. 28 – 30.
175
14. Đặng Khánh Chi (1994), “Nước Lào trên đường đổi mới và phát triển”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (12), tr.10-15.
15. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền kinh doanh trong pháp Luật
kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Khắc Định (2003), Hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài trong xu
hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
17. Phạm Xuân Đương (2014), “Công nghiệp hóa hiện đại, bước chuyển quan trọng
đưa nước ra sớm trở thành nước công nghiệp”, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, tháng 03/2014.
18. Friedrich Kubler – Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng
hòa Liên bang Đức, NXB Pháp lý, Hà Nội.
19. Tiêu Lâm Hạ & Diêu Dương (2002), “Khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc:
chính sách, quá trình phát triển và những trở ngại trước mắt”, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế (4), tr.8-12.
20. Lê Hồng Hạnh (2004), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Nguyễn Am Hiểu (2003), “Hình thức pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
nay nhìn từ góc độ so sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 20-23.
22. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2014), Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Đỗ Kim Hoàng (1999), Những vấn đề pháp lý cơ bản trong việc sửa đổi, hoàn
thiện pháp luật về công ty, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
24. Dương Đăng Huệ (2004), “Luật doanh nghiệp chung: Cần hay không cần ban
hành”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (5), tr. 29 – 35.
25. Nguyễn Thị Minh Huyền (2009), “Làm rõ khái niệm sáp nhập doanh nghiệp”,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 6 (446), tr.12-15.
26. Bùi Nguyên Khánh (chủ nhiệm, 2016), Cải cách pháp luật doanh nghiệp trong
tiến trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam, Đề tài Khoa học cấp Bộ, Viện Nhà nước
và pháp luật chủ trì, Hà Nội.
176
27. Trần Du Lịch (chủ biên, 2000), Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế để đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Trần Ngọc Liên (2002), Hoàn thiện pháp luật về các loại hình công ty trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
29. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
30. Nguyễn Thanh Nguyên – Lê Vinh Hà (1996), “Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào trên con đường chuyển đổi kinh tế”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (4),
tr.30-35.
31. Nguyễn Như Phát (đồng tác giả, 2002), Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Như Phát (1999), “Dự thảo Luật Doanh nghiệp - Một số vấn đề phương
pháp luận”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 45 - 53.
33. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2003), Doanh nghiệp và việc
hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh, Hà Nội.
34. Phôthilat Phôm Phô Thi (2005), Tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế thị trường ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
35. Phukham Lênin (2003), Hoàn thiện pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn ở
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
36. Dương Bá Phượng (1996), Những luận cứ khoa học của việc hình thành các
loại doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Nhà nước
mã số KX03-06.
37. Lương Xuân Quỳ (1999), “Khảo sát một số vấn đề về kinh tế Trung Quốc”, Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, (251), tr.20-25.
38. Soog. D.H. (1999), “Cải cách doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hóa và kinh
nghiệm của nước Đông Nam Á”, Hội thảo do SIDA/CIEM tổ chức tại Hà Nội
từ 27-28/5.
177
39. Souliya Puongpadith (2007), Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu trực
tiếp nước ngoài tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
40. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam,
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Lê Thị Hoàng Thanh (chủ nhiệm, 2017), Quyền tự do kinh doanh và đảm bảo
quyền tự do kinh doanh theo Hiến pháp 2013, Đề tài Khoa học cấp Bộ, Viện
Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp chủ trì.
42. Nguyễn Viết Tý (2002), Phương hướng hoàn thiện pháp luật kinh tế trong điều
kiện có Bộ luật Dân sự, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
43. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên, 2012), Giáo trình Pháp luật Kinh tế (Tái bản lần
thứ tư, có sửa đổi, bổ sung), Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, Nxb. Đại học
Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
44. Trần Trí Trung (2012), “Nguyên tắc xây dựng và thực hiện chế định tổ chức lại
doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp”, Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Luật học (28), tr.63-68.
45. Trung tâm Từ điển học (1996), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
46. Nguyễn Viết Tý (chủ biên, 2017), Giáo trình Luật Thương mại (tập I), Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
47. Vanhseng Keobounphanh (2007), Hoàn thiện pháp luật kinh tế đối ngoại của
nước CHDCND Lào hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội.
48. Vathsana Lathtanaphanh (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
49. Viện Kinh tế thế giới, Ủy ban Khoa học xã học và Nhân văn (1995), Một số đặc
điểm tư nhiên kinh tế - xã hội của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Hà Nội.
50. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2003), Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
178
51. Xổm Xay Xỉ Hà Chắc (2001), Hoàn thiện pháp luật kinh tế trong quá trình đổi
mới kinh tế của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
II. TÀI LIỆU TIẾNG LÀO (DỊCH SANG TIẾNG VIỆT)
52. Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1988), Tư tưởng
của Chủ tịch Kay Sỏn Phôm Vi Hản - Xây dựng và phát triển chế độ dân chủ
nhân dân theo con đường chủ nghĩa xã hội, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
53. Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước CHDCND Lào (2015), Báo cáo về thực hiện pháp
luật doanh nghiệp, Viêng Chăn.
54. Bộ Công nghiệp và Thương mại (2005), Pháp luật về doanh nghiệp, Nxb.
Thống kê, Viêng Chăn.
55. Bộ Tư pháp (2000), Báo cáo tổng kết công tác năm 1999-2000, Viêng Chăn.
56. Bộ Tư pháp (tháng 4, 2007), Giải thích pháp luật về doanh nghiệp nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Sách hợp tác với Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật
Bản (Japan International Cooperation Agency - JICA).
57. Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2015-2016, Viêng Chăn.
58. Chính phủ nước CHDCND Lào (2011), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm (2011-2015) lần thứ VII của Chính phủ nước CHDCND Lào.
59. Chính phủ nước CHDCND Lào (2015), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm (2015-2020) lần thứ VII của Chính phủ nước CHDCND Lào.
60. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IV, Nxb Nhà nước, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
61. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Nhà nước, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
62. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Nhà nước, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
63. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Nhà nước, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
64. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Nhà nước, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
179
65. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2001 - 2010, Viêng Chăn.
66. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2015), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2015 -2020, Viêng Chăn.
67. Phô Thi Lát Phôm phô Thi (2001), “Sự cần thiết khách quan tiếp tục đổi mới tổ
chức quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, Giáo
dục lý luận (12), tr 25-28.
68. Phô Thi Lát Phôm phô Thi (2003), “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”,
Alunmay (Tạp chí lý luận và thực tiễn của Đảng NDCM Lào) (5), tr 32-39.
69. Sommay Phanyasith (2015), Quyền tự do kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp
năm 2013, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Lào, Viêng
Chăn.
70. Thoong-sa-lít Mang-no-mệc (1994), “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và sắp
xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, Nghiên cứu
lý luận, (4), tr.12-16.
71. Tổng cục thống kê Lào (2015), Báo cáo về tình hình hoạt động doanh nghiệp ở
nước CHDCND Lào giai đoạn 2010-2015, Viêng Chăn.
72. Xa Mản Vi Nhạ Kệt - Chủ tịch Quốc hội Nước CHDCND Lào (1995), Bài phát
biểu tại Hội nghị tư pháp toàn quốc, Viêng Chăn.
73. Xaykham Vannaxay (2007), Những vấn đề pháp lý cơ bản về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở nước CHDCND Lào, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật
Hà Nội.
74. Xổm Xay Xỉ Hà Chắc (2000), “Mấy vấn đề về hoàn thiện hệ thống pháp luật
kinh tế của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Tạp chí Luật học, (4), tr. 42-48.
75. Xổm Xay Xỉ Hà Chắc (2000), “Một số đặc điểm nền kinh tế và sự đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay”, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, (6), tr. 12-14.
III. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
76. Rezamin và Leila Webster (1998), “Một số bài học từ công tác cổ phần hóa
hiện nay ở Việt Nam”, Hội thảo quốc tế về cổ phần hóa do Bộ tài chính và
Ngân hàng Thế giới tổ chức từ 19-20/2.
180
77. Singapore Company Act 1994 (Amendment 2001, 2002, 2003, 2004, 2005),
41.
78. Singapore Limited Liability Partnership Act 2005, 42.
79. Thailand Civil and Commercial Code BE.2466 (1925) (Amendment No.14
BE.2548 (2005) and No.18 BE.2551 (2008), 43.
80. Thailand Public Limited Company Act No.2 BE.2544 (2001) (Amendment
2008),
IV. TÀI LIỆU TIẾNG NGA
81. V.V.Xi-mô-nốp (1988), Sự phát triển kinh tế Lào, Nxb Khoa học, Mat-xcơva.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hoan_thien_phap_luat_ve_doanh_nghiep_o_nuoc_cong_hoa.pdf