Đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng trình độ cao là yêu
cầu cấp thiết đối với bất cứ quốc gia nào trong thời đại phát triển kinh tế
tri thức. Trong những năm qua, Nhà nước đã ưu tiên đầu tư cho các
trường đại học công lập nhằm cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao
cho các ngành, các trường đại học và viện nghiên cứu và cho phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng đào tạo,
nghiên cứu khoa học và phục vụ sự phát triển của các địa phương, của cả
nước, thì yêu cầu phải có đủ nguồn lực tài chính cho hoạt động là rất
quan trọng. Việc tăng cường huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách
trong các trường đại học công lập là vấn đề cần được quan tâm giải quyết
cả về lý luận và thực tiễn.
166 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2080 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc biệt là các sinh viên thuộc các gia
đình có thu nhập trung bình và thấp. Chính vì vậy, khi xây dựng một
chính sách học phí, cần nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân tố liên quan đến cả
bên cung (ví dụ: chi phí đào tạo/sinh viên) và bên cầu (ví dụ: khả năng
thanh toán của sinh viên và gia đình họ).
Ở một khía cạnh khác , khi áp duṇg chính sách hoc̣ phí , hê ̣thống
giáo dục cần phải đảm bảo nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và đào
tạo của mình . Chất lươṇg giáo duc̣ và đào taọ cao se ̃có sức thuyết phuc̣
rất lớn lý do tăng hoc̣ phí . Chất lượng của hệ thống giáo dục đại học được
thể hiện ở mức độ phù hợp của sản phẩm giáo dục đại học với nhu cầu
của xã hội, và của thị trường. Cụ thể hơn là, cơ cấu ngành nghề đào tạo có
phù hợp với nhu cầu về từng ngành nghề của xã hội hay không, trình độ,
kỹ năng của các sinh viên sau khi ra trường có đáp ứng được nhu cầu của
“người sử dụng lao động” hay không. Cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Thưc̣ hiêṇ dư ̣báo nhu cầu về ngành nghề của xa ̃hôị đồng
thời xác định chính xác chi phí đào tạo/sinh viên của từng ngành nghề làm
cơ sở xây dưṇg chính sách học phí , chính sách/công cụ hỗ trợ tài chính
sinh viên .
Cho đến nay, Việt nam chưa có những khảo sát đánh giá nhu cầu
đào tạo trên phạm vi quốc gia làm căn cứ xây dựng các kế hoạch đào tạo .
Cơ cấu đào taọ đaị hoc̣ của Viêṭ Nam đang có sư ̣mất cân đối nghiêm
trọng. Trong thời gian tới , nhà nước cần dựa vào chiến lược phá t triển
kinh tế xã hội, thưc̣ hiêṇ những khảo sát, đánh giá nhu cầu nguồn nhân lực
về các mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề để làm căn cứ xây
dựng kế hoạch và phân bổ chỉ tiêu đào tạo cho các khối ngành và các
trường. Song song với đánh giá nhu cầu nguồn nhân lực, nhà nước cũng
cần thực hiện các khảo sát đánh giá chi phí đào tạo/sinh viên ứng với mỗi
142
nhóm ngành đào tạo. Từ đó có cơ sở thực tiễn để đánh giá, điều chỉnh các
chính sách tài chính liên quan của hệ thống giáo dục đại học như chính
sách phân bổ ngân sách cho các trường, các khối ngành, chính sách học
phí và hệ thống các chính sách công cụ hỗ trợ tài chính cho sinh viên.
Thứ hai: Điều chỉnh hoc̣ phí theo hướng tăng dần , gia tăng sự khác
biệt trong mức học phí giữa các ngành, các lĩnh vực và tiếp tục áp dụng
chính sách “chia sẻ chi phí đào tạo”, đồng thời với những biện pháp nâng
cao chất lượng đào tạo kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và sẵn sàng tham
gia vào thị trường lao động.
Việt nam có tỷ lệ GDP bình quân đầu người thấp trong khi nhu cầu
học đại học lại rất lớn . Chính sách học phí kép đang áp dụng là phù hợp
nhằm đáp ứng nhu cầu hoc̣ tâp̣ ngày càng tăng của nhân dân trong khi
không làm tăng thêm áp lưc̣ đối với ngân sách nhà nước.
Nhà nước cần điều chỉnh học phí theo hướng tăng dần, tuy nhiên
việc nâng dần mặt bằng học phí không phải áp dụng một cách đồng đều
cho tất cả các ngành, các lĩnh vực mà cần tính đến yếu tố lợi ích xã hội
cũng như lợi ích cá nhân gắn với mỗi chuyên ngành đào tạo. Cụ thể là,
việc điều chỉnh chính sách học phí phải đảm bảo điều chỉnh hành vi lựa
chọn ngành học của sinh viên. Những ngành khó, ngành quan trọng đối
với sự phát triển của đất nước cần áp dụng mức học phí thấp hơn, đồng
thời nguồn ngân sách nhà nước cấp cho ngành này phải đầy đủ hơn, để
khuyến khích sinh viên theo học những ngành này. Các ngành mang lại
lợi ích cá nhân cao, mức học phí phải cao hơn những ngành mang lợi ích
cao hơn cho toàn xã hội. Có như vậy mới có thể khuyến khích học viên
theo học các ngành mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, giảm sự mất cân đối
trong cơ cấu ngành nghề như hiện nay.
143
Thứ ba: Đổi mới chương trình và nâng cao chất lươṇg đào tạo ,
đồng thời đa daṇg hóa các chương trình đào taọ trên cơ sở đó nâng dần
mức hoc̣ phí.
Học phí của các trường đại học Việt nam hiện đang ở mức rất thấp
so với nhiều nước trên thế giới . Nhưng cũng có môṭ thưc̣ tế là chất lươṇg
các sản phẩm của giáo đại học Việt nam cũng đang ở mức thấp chưa đáp
ứng được nhu cầu của xa ̃hôị . Sinh viên tốt nghiêp̣ thiếu kiến thức thưc̣ tế
và còn rất thụ động. Để có thể tăng hoc̣ phí các trường phải nâng cao chất
lươṇg các chương trình đào taọ của mình , cho ra đời các chương trình
chất lươṇg cao, học phí cao. Chỉ có nâng cao chất lượng đào tạo mới là cơ
sở vững chắc đầy thuyết phuc̣ để tăng hoc̣ phí vì khi đó người hoc̣ cảm
thấy những gì mình nhâṇ đươc̣ xứng đáng với đồng tiền mình bỏ ra.
Thứ tư: Nghiên cứu và đề xuất xây dựng khung mức thu học phí
mới để thay thế khung học phí đã quy định tại Nghị định số 49/2010/NĐ-
CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ
chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học
2014 - 2015.
Bộ Tài chính cần nghiên cứu, trình Chính phủ phê duyệt Đề án về
đổi mới cơ chế tính giá dịch vụ sự nghiệp công (trong đó có dịch vụ đào
tạo trình độ đại học và sau đại học) theo hướng: Nhà nước chỉ quy định
khung giá học phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, có vai trò thiết yếu đối
với xã hội (như đào tạo đại học hệ chính quy, đào tạo theo chương trình
tiên tiến, đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ), Các đơn vị sự nghiệp công lập
được phép tính đủ chi phí tiền lương, chi phí hoạt động thường xuyên, chi
phí khấu hao tài sản cố định trong giá dịch vụ cung cấp. Đồng thời thực
hiện chính sách tạo điều kiện cho đối tượng người nghèo tiếp cận được
các dịch vụ đào tạo trình độ đại học và sau đại học (như: mở rộng đối
tượng được vay vốn để đi học), khuyến khích, cấp học bổng cho học sinh
nghèo, học sinh học tập đạt kết quả tốt, khuyến khích các doanh nghiệp và
cá nhân đóng góp xây dựng quỹ xã hội, quỹ từ thiện
144
3.3.4 Nhóm giải pháp về tăng nguồn thu từ hoạt động đào tạo và
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, dịch vụ.
Nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội,
tăng cường quan hệ hợp tác giữa trường đại học với doanh nghiệp trong
các lĩnh vực đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ, nhằm tăng cường thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển
GDĐH, cần thiết phải đề xuất các giải pháp để tăng thu từ các hoạt động
này.
Các giải pháp sẽ tập trung theo hướng đổi mới cơ chế huy động
nguồn lực tài chính đối với nhóm các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp
các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hoá cao, tự đảm bảo toàn
bộ chi phí hoạt động (các trường đại học, trường cao đẳng, ), nhằm góp
phần đảm bảo chất lượng hoạt động của các đơn vị. Các cơ sở giáo dục
đại học chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn thu từ các hợp đồng đào
tạo, nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công nghệ, các hoạt động dịch
vụ, sản xuất, kinh doanh.
Thứ nhất: Hoàn thiện các văn bản pháp quy theo hướng tăng cường
phân cấp và thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm hơn nữa cho
các đơn vị sự nghiệp công lập (trong đó có các trường đại học công lập)
một cách đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính
trên cơ sở có tính đến đặc điểm từng loại hình đơn vị, khả năng và nhu
cầu thị trường, trình độ quản lý.
Trên cơ sở các kết quả đã đạt được và những tồn tại, vướng mắc
trong quá trình thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02
năm 2015 về Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Nghị định 16 đã quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đào
tạo nhằm tăng cường trách nhiệm của các trường đại học công lập trong
việc hạch toán đầy đủ chi phí; được Nhà nước giao vốn, bảo toàn và phát
triển vốn; được quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với
145
nhiệm vụ được giao theo quy định; được huy động nguồn vốn thông qua
vay của các tổ chức tín dụng, được góp vốn liên doanh, liên kết với các
thành phần kinh tế khác trong việc thành lập các tổ chức kinh tế mới theo
quy định của pháp luật để mở rộng việc cung cấp dịch vụ công, tự quyết
định biên chế và trả lương trên cơ sở thang bảng lương của Nhà nước gắn
với hiệu quả, chất lượng công việc của từng đơn vị.
Tuy nhiên để các quy định của Nghị định 16 được thực hiện, Bộ
Giáo dục và Đào tạo cần chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ
và các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng và trình Chính phủ sửa đổi, ban
hành Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công trong
từng lĩnh vực giáo dục.
Bên cạnh đó BộGD&ĐT cần phối hợp với các cơ quan Trung ương,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, căn cứ phạm vi quản lý, chức năng, nhiệm vụ
theo thẩm quyền được giao rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định
chất lượng dịch vụ sự nghiệp công của lĩnh vực giáo dục; hiệu quả hoạt
động của đơn vị sự nghiệp công; thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi
phạm trong hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và tổ chức thực
hiện các nội dung khác về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ
sự nghiệp công và đơn vị sự nghiệp công.
Thứ hai: xây dựng cơ chế thu hút nguồn thu từ các doanh nghiệp và
người sử dụng các sản phẩm đào tạo và khoa học - công nghệ
Việc thu hút nguồn thu từ các doanh nghiệp và người sử dụng các sản
phẩm đào tạo và khoa học - công nghệ là điểm hạn chế rất lớn của các
trường đại học của Việt Nam nói chung và các trường đại học công lập nói
riêng. Hiện nay, các doanh nghiệp được trích quỹ phát triển khoa học - công
nghệ trước khi nộp thuế thu nhập, cần có các quy định cụ thể về việc sử
dụng quỹ này để đầu tư trở lại cho hoạt động NCKH và đào tạo của các
trường đại học. Nhà nước cần có quy định về việc doanh nghiệp phải có
trách nhiệm đóng góp chi phí khi sử dụng các sản phẩm của trường đại học
(ví dụ nhân lực được đào tạo, các kết quả NCKH...); hoặc quy định về các ưu
146
đãi mà doanh nghiệp được hưởng nếu đầu tư cho GDĐH. Khi có các quy
định cụ thể thì các trường đại học mới có thể tiếp cận nguồn tài chính của
các doanh nghiệp dành cho hoạt động này và sẽ tăng cường sự hợp tác giữa
trường đại học và doanh nghiệp.
Thứ ba: Tăng nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ đào tạo liên kết.
Đây là nguồn thu quan trọng và cấp thiết đối với bất kỳ một trường
nào. Những năm gần đây, các trường đại học công lập đã có sự quan tâm
đúng mức trong việc mở rộng các hoạt động dịch vụ đào tạo trên phạm vi
toàn quốc. Các chương trình đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn như: bồi dưỡng
Giám đốc Doanh nghiệp, Kế toán trưởng, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên
sâu cho các tập đoàn và nhiều lớp bồi dưỡng ngắn hạn khác ở nhiều lĩnh
vực khác nhau,... Đây là hoạt động hết sức thiết thực, một mặt tạo điều
kiện cho các giáo viên đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao
trình độ, mặt khác cũng tạo nguồn tài chính ngoài ngân sách hết sức đáng
kể cho các trường, các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Các trường cần mở rộng và chủ động hơn nữa trong hoạt động liên
kết đào tạo trong nước với các trường đại học ở nước ngoài, tiếp tục tìm
kiếm đối tác, mở rộng quan hệ quốc tế với các trường đại học có uy tín để
từng bước tăng thêm nguồn thu từ các dịch vụ đào tạo trong nước. Thực
hiện minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết của các đơn vị sự
nghiệp công lập; khắc phục tình trạng công - tư lẫn lộn. Các chương trình
này không được Nhà nước cấp ngân sách nhưng đã góp phần tạo ra nguồn
thu rất lớn hỗ trợ các hoạt động của trường đại học, nâng cao thu nhập cho
cán bộ, giảng viên. Tuy nhiên, cơ chế quản lý tài chính đối với các chương
trình này cũng còn nhiều bất cập.
Cần gắn quyền lợi về tự chủ tài chính, tự chủ trong việc quyết định
chương trình đào tạo, chỉ tiêu tuyển sinh, hợp tác quốc tế... của các trường
đại học công lập với trách nhiệm đảm bảo chất lượng và công khai minh
bạch trong giám sát xã hội. Vì vậy các trường này phải đáp ứng đủ các
tiêu chí về đảm bảo chất lượng, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất theo
147
chuẩn quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phải đạt yêu cầu trong kiểm
định chất lượng giáo dục.
Thứ tư: Tăng cường huy động từ nguồn thu sự nghiệp khác.
Nghiên cứu xây dựng danh mục, hình thức và mức độ ưu đãi đầu
tư đối với các dự án đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, áp dụng tiến bộ
khoa học, nghiên cứu áp dụng công nghệ mới đối với các cơ sở đào tạo.
Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đại học; bảo đảm quyền
sở hữu theo pháp luật và các quyền lợi về vật chất và tinh thần của nhà
đầu tư.
Trong bối cảnh quy mô đào taọ vươṭ quá khả năng cấp phát của nhà
nước, nhà nước cần có chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư (ví dụ,
khuyến khích thông qua hệ thống thuế ) cho giáo duc̣ từ các nguồn khác ,
trên cơ sở đó có thể tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo cũng
như khả năng tiếp câṇ đaị hoc̣ của người dân
Khuyến khích các doanh nghiệp, tổng công ty, tập đoàn đầu tư
thành lập cơ sở đào tạo hoặc liên kết với các trường đại học nhằm cung
cấp các dịch vụ đào tạo có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sử dụng
nguồn nhân lực của doanh nghiệp, tập đoàn đó và của toàn xã hội.
Khuyến khích và mở rộng thu hút vốn đầu tư của các tổ chức, cá
nhân người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong việc
đầu tư xây dựng các trường đại học, cao đẳng và liên doanh liên kết về
đào tạo với các trường đại học trong nước, qua đó khai thác thêm các
kênh thu hút đầu tư mới phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
Các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và công bố rộng rãi định
hướng quy hoạch xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục đào tạo thuộc trách
nhiệm quản lý của bộ, ngành, địa phương làm căn cứ cho các cấp, các
ngành và nhà đầu tư có cơ sở thực hiện.
148
Tổ chức triển khai đánh giá về những kết quả đạt được, về những
vướng mắc tồn tại trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa trong thời
gian vừa qua và đề xuất định hướng sửa đổi về chính sách, chế độ để
khuyến khích phát triển hơn nữa các hoạt động xã hội hóa trong thời gian
tới.
3.3.5 Nhóm giải pháp về huy động nguồn lực tài chính từ nguồn đóng
góp của cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.
Mục tiêu của nhóm giải pháp này là nhằm tiếp tục thực hiện chủ
trương xã hội hóa giáo dục, tăng cường quan hệ hợp tác, phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội, nhằm tăng cường thu hút các nguồn tài chính từ các
nhà hảo tâm, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đầu tư cho phát triển
GDĐH.
Giáo dục là sự nghiệp chung của quốc gia. Mọi người đều có thể
tham gia vào hoạt động giáo dục ở mức độ nhất định. Với quyền tự chủ
nhất định, các cơ sở giáo dục có thể tạo ra nguồn thu chính từ các hoạt
động của mình, như liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học và cung ứng
các loại hình dịch vụ. Bên cạnh đó, nhà trường cũng có thể tiếp nhận các
khoản quà tặng, quà biếu, các khoản đóng góp từ thiện từ các tổ chức hay
cá nhân hoặc học bổng từ các quỹ giáo dục, các doanh nghiệp... Các
khoản thu trên tuy không phải là khoản thu chính, nhưng góp phần không
nhỏ giúp nhà trường gia tăng tài sản, tăng nguồn lực vật chất, từ đó nâng
cao hơn nữa chất lượng của quá trình đào tạo. Các giải pháp cần tập trung
thực hiện gồm:
Thứ nhất: Bộ GD&ĐT cần phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các
quy định, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ nhằm khuyến khích, thúc đẩy các
doanh nghiệp, các nhà hảo tâm tham gia đóng góp, hỗ trợ tài chính của
cho hoạt động của các trường đại học công lập. Đồng thời tạo cơ sở pháp
lý đầy đủ để các trường cũng có thể tiếp nhận các khoản quà tặng, quà
biếu, các khoản đóng góp từ thiện từ các tổ chức hay cá nhân hoặc học
bổng từ các quỹ giáo dục, các doanh nghiệp...
149
Các trường đại học cần chủ động đề xuất các phương thức huy
động linh hoạt, hiệu quả, đủ sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư thấy được lợi
ích khi đầu tư cho giáo dục và NCKH; khuyến khích, ưu đãi hoặc tôn vinh
đối với các cá nhân, doanh nghiệp mang lại nguồn tài chính cho trường.
Thứ hai: Xây dưṇg và phát triển mối quan hê ̣ với côṇg đồng các
doanh nghiêp̣. Khi đa ̃xây dưṇg đươc̣ mối quan hê ̣tốt với côṇg đồng các
doanh nghiêp̣, các trường có thể mời các doanh nghiệp tham gia vào quá
trình xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo như tham g ia giảng
dạy, hướng dâñ sinh viên thưc̣ hành/thưc̣ tâp̣. Hoạt động này một mặt giúp
cho quá trình đào tạo gắn lý thuyết với thực tiễn. Măṭ khác, thông qua mối
quan hê ̣này các trường có thể đa daṇg hóa nguồn thu của mình thông qua
các hợp đồng đào tạo , nghiên cứu triển khai , chuyển giao công nghê ,̣ các
hoạt động dịch vụ sản xuất, kinh doanh hay các khoản hỗ trợ từ côṇg đồng
các doanh nghiệp cho bản thân trường mình , cũng như các nguồn tài trợ ,
hay viêc̣ là m cho một tỉ lệ học sinh nào đó . Qua đó, vừa có thể nâng cao
chất lươṇg giảng daỵ vừa có thể giúp cho sinh viên có thêm thu nhâp̣
trang trải chi phí theo hoc̣ đaị hoc̣.
Thứ ba: Chú trọng và phát triển hoạt động gây quỹ . Hoạt động gây
quỹ không phải là hoạt động mới mẻ của nhiều trường đại học trên thế
giới. Đây là môṭ hoaṭ đôṇg nhằm kêu goị sư ̣hỗ trơ ̣ , đóng góp của các tổ
chức, các cộng đồng doanh nghiệp , các cựu sinh viên cũng như cá c nhà
hảo tâm cho hoạt động của trường . Hoạt động này hiện đã là hoạt động
mang tính chất thường xuyên và rất đươc̣ các trường trên thế giới quan
tâm phát triển . Thông qua hoaṭ đôṇg này , nhiều trường , đăc̣ biêṭ là các
trường danh tiếng đa ̃thu về những nguồn thu rất đáng kể để đầu tư thêm
phòng học, thư viêṇ, phòng thí nghiệm hay trang bị thêm máy móc thiết bị
phục vụ giảng dạy trên cơ sở đó chất lượng đào tạo được nâng cao . Cũng
thông qua hoạt động này, nhiều quỹ hỗ trơ ̣sinh viên đa ̃đươc̣ hình thành.
Hoạt động gây quỹ cũng không phải là hoạt động mới mẻ đối với
các trường đại học Việt nam . Tuy nhiên, hoạt động này chưa được quan
tâm đúng mức , mà còn mang tí nh tư ̣phát , và thiếu hệ thống . Để tìm
150
kiếm thêm nguồn vốn đầu tư cho nhà trường , đồng thời gây quỹ ủng hô ̣
sinh viên, đăc̣ biêṭ các sinh viên hoc̣ giỏi và có hoàn cảnh khó khăn , các
trường đaị hoc̣ Viêṭ nam cần xem hoaṭ đôṇ g này là môṭ hoaṭ đôṇg mang
tính thường xuyên và hệ thống . Các trường có thể học hỏi kinh nghiệm
của các trường đại học trên thế giới để hoạt động gây quỹ mang lại hiệu
quả cao.
Thứ tư: Khuyến khích các cá nhân, tổ chức đóng góp từ thiện cho
phát triển GDĐH.
Ở Việt Nam hiện nay, việc khuyến khích và đưa ra ý tưởng khuyến
khích đóng góp từ thiện từ các cá nhân, tổ chức, các nhà hảo tâm cho các
trường ĐH chưa được chú trọng. Thông thường, các hoạt động đóng góp,
ủng hộ cho sự phát triển của trường chỉ thực sự rầm rộ khi các trường tổ
chức các sự kiện lớn, do vậy, chưa thu hút được nhiều và thường xuyên.
Để thu hút được nhiều nguồn tài trợ, đóng góp từ thiện, các trường
cần thành lập và duy trì hoạt động thường xuyên của ban liên lạc cựu sinh
viên, có hình thức vinh danh đối với những đóng góp của cựu sinh viên và
các nhà tài trợ, đồng thời, tuyên truyền sâu, rộng đến cộng đồng để huy
động được ngày càng nhiều các nguồn đóng góp. Muốn làm được điều đó
các trường cần phải nâng cao chất lượng và uy tín trong đào tạo, nghiên
cứu khoa học, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài trợ cho sự
nghiệp phát triển của các trường.
Về phía nhà nước, cần có quy định cụ thể để khuyến khích doanh
nghiệp, cá nhân tài trợ, biếu, tặng, đóng góp cho các trường. Ví dụ như
cho phép doanh nghiệp, cá nhân được hạch toán giá trị các khoản biếu
tặng đóng góp vào chi phí hoặc trích từ lợi nhuận trước thuế.
3.3.6 Nhóm giải pháp tăng cường hỗ trơ ̣tài chính đối với sinh viên
nhằm nâng cao vị thế và uy tín của nhà trường
Trường đại học công lập có nhiệm vụ thực hiện công bằng xã hội,
tăng khả năng tiếp cận giáo dục đại học của các nhóm đối tượng có thu
nhập thấp, đảm bảo sự phát triển đồng đều các ngành nghề trong đào tạo.
151
Hê ̣thống các chính sách , công cu ̣hỗ trơ ̣tài chính cho sinh viên
phải đảm bảo tăng khả năng tiếp cận bậc đại học của người dân đồng thời
phải đảm bảo công bằng. Chính sách học phí cũng như hệ thống các chính
sách/công cụ hỗ trợ tài chính cho sinh viên phải được xây dựng theo
hướng tăng khả năng tiếp cận bậc đại học của người dân.
Tăng số lượng sinh viên nhập học, bảo đảm sự công bằng trong tiếp
cận đại học phản ảnh qua các tiêu chí: tăng tỷ lệ sinh viên nhập học đại
học, giảm sự khác biệt trong tỷ lệ nhập học giữa các nhóm sinh viên từ
các gia đình/vùng thu nhập thấp so với vùng thu nhập cao và giữa các
nhóm dân tộc, đảm bảo điều chỉnh cơ cấu ngành nghề phù hơp̣ với nhu
cầu của thi ̣ trường cũng như của xa ̃hôị, đảm bảo mang laị lơị ích cao nhất
cho đất nước.
Các giải pháp cần thực hiện như sau:
Thứ nhất: Tăng quy mô , mở rôṇg đối tươṇg đươc̣ hưởng cũng như
đa daṇg hóa các công cụ hỗ trợ tài chính cho sinh viên , đặc biệt là chương
trình hoc̣ bổng và chương trình tín dụng sinh viên.
Song song với việc tăng dần mức học phí , cần phải chú trọng phát
triển và cải thiện hệ thống công cụ hỗ trợ tài chính cho sinh viên để đảm
bảo khả năng tiếp cận đại học của hầu hết các sinh viên, đặc biệt là các
sinh viên thuộc các gia đình nghèo. Trong bối cảnh tăng hoc̣ phí cần phải
tăng mức hỗ trơ ̣cũng như mở rôṇg đối tươṇg đươc̣ hỗ trơ ̣và hình thức hỗ
trơ ̣(cả hỗ trợ dựa trên nhu cầu lần hỗ trợ có điều kiện ), có như vậy mới
đảm bảo mục tiêu tăng số lượng người theo học đại học. Để đảm bảo công
bằng, đồng thời khuyến khích các sinh viên học giỏi , chương trình hoc̣
bổng cũng như tín duṇg sinh viên hay các hình thức hỗ trơ ̣khác đươc̣ cấp
phát/hay cho vay cần đươc̣ xây dưṇg dưạ trên bốn tiêu chí sau: 1) điạ chỉ
thường trú của gia đình sinh viên , 2) mức sống của gia đình sinh viên , 3)
mức đô ̣ưu tiên của liñh vưc̣ đào taọ và 4) thành tích học tập của sinh viên.
Cụ thể, cùng một mức sống , sinh viên Hà nôị , thành phố Hồ Chí Minh sẽ
đươc̣ hưởng mức hoc̣ bổng thấp hơn những nhóm sinh viên khác. Các sinh
152
viên từ các gia đình có thu nhâp̣ thấp se ̃đươc̣ hưởng mức hỗ trợ cao hơn
nhóm các sinh viên khác nếu như họ có cùng địa chỉ thường trú.
Ngoài viêc̣ cấp hoc̣ bổng hay cho vay sinh viên dưạ trên thu nhâp̣
và địa chỉ thường trú , cần phải xét đến cả mức đô ̣ưu tiên của ngành hoc̣
để góp phần làm tăng chất lượng và sự phù hợp của sản phẩm giáo dục đại
học đối với nhu cầu của đất nước. Cụ thể như: Cấp học bổng cho các sinh
viên theo học các ngành thuộc lĩnh vực ưu tiên của quốc gia; Áp dụng có
các điều khoản và điều kiện ưu đãi đối với khoản vay của các sinh viên
học tập trong các ngành/lĩnh vực ưu tiên của quốc gia; Xóa nợ cho các
sinh viên tốt nghiệp ra trường làm ở các ngành/lĩnh vực ưu tiên của quốc
gia hay các vùng được nhà nước khuyến khích (ví dụ: vùng sâu, vùng xa,
miền núi, hải đảo...)
Thứ hai: ban hành những bộ tiêu chí chung áp dụng trên toàn quốc.
Về cơ chế cấp phát, để đảm bảo tính nhất quán của các chính sách
hỗ trợ tài chính cho sinh viên , nhà nước nên ban hành những bộ tiêu chí
chung áp dụng trên toàn quốc và viêc̣ quản lý hành chính hoaṭ đôṇg cấp
phát hỗ trợ sinh viên nên thực hiện một cách tập trung bởi các cơ quan của
Bộ TB-LĐ-XH mà không thông qua các trường.
Việc công cụ hỗ trợ và cách thức hỗ trợ phải đảm bảo minh bạch và
khách quan. Thiếu minh bac̣h , khách quan và thiếu trách nhiệm giải trình
trong thưc̣ thi các chính sách liên qua n đến cấp kinh phí cho các tổ chức
đào taọ cũng như các hoc̣ sinh , các chính sách sẽ thất bại , không đaṭ đươc̣
các mục tiêu tăng tính công bằng , chất lươṇg hay hiêụ quả của giáo duc̣
đaị hoc̣.
Thứ ba: Xây dưṇg hê ̣thống giám sát hoaṭ đôṇg cấp phát /hỗ trơ ̣cho
sinh viên theo hướng minh bac̣h và thưc̣ hiêṇ giám sát xa ̃hôị với hoaṭ
đôṇg này.
Khi quy mô, đối tươṇg cũng như hình thức hỗ trơ ̣tài chính cho sinh
viên tăng lên , hoạt đôṇg điều hành cấp phát /hỗ trơ ̣se ̃phức tap̣ hơn rất
153
nhiều. Chính vì vậy, cần phải có hê ̣thống giám sát đối với hoaṭ đôṇg này
để các khoản cấp phát đến được đúng đối tượng cần được hưởng.
Thứ tư: Tăng cường hoạt động gây quỹ để ủng hô ̣sinh viên.
Để hỗ trợ các sinh viên của các gia đình có thu nhập thấp , cần thực
hiện các hoạt động gây quỹ để ủng hộ sinh viên, để tăng khả năng tiếp cận
đaị hoc̣, giảm bớt khó khăn tài chính cho các sinh viên các gia đình có thu
nhâp̣ thấp . Các trường thông qua mối quan hệ với cộng đồng các doanh
nghiêp̣ có thể giúp sinh viên tìm các công viêc̣ bán thời gian để có thêm
thu nhâp̣ trang trải chi phí theo hoc̣ đaị hoc̣ . Đồng thời, ở mức đô ̣có thể ,
các trường có thể miễn giảm các khoản phí từ các dịch vụ do nhà trường
cung cấp đối với đối tươṇg sinh viên có thu nhâp̣ thấp (ví dụ: miêñ giảm
phí ở ký túc xá) hoăc̣ giúp sinh viên tìm kiếm các công vi ệc bán thời gian
trong phaṃ vi trường.
3.3.7 Nhóm giải pháp về huy động vốn và vay vốn
Qua nghiên cứu thực trạng tài chính của trường đại học công lập ở
Việt Nam đã thấy được các trường đại học công lập hoạt động chủ yếu
dựa vào vốn ngân sách nhà nước và nguồn thu từ học phí, lệ phí. Vì vậy
các nguồn này chủ yếu chỉ đủ trang trải các chi phí đào tạo chủ yếu,
không có khả năng đầu tư xây dựng cơ sở, đầu tư trang thiết bị cho đào
tạo và nghiên cứu khoa học. Vì vậy cố gắng rất nhiều cũng chỉ giữ ổn
định hoạt động của trường, không đủ điều kiện về tài chính để phát triển
và nâng cao chất lượng, cải thiện đời sống của cán bộ, giảng viên.
Thứ nhất: vay vốn của các tổ chức tín dụng, huy động vốn của cán
bộ, viên chức trong đơn vị.
Theo quy định của nhà nước, đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí
hoạt động, đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động có
các hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng và nhiệm vụ được cấp có
thẩm quyền giao, được vay vốn của các tổ chức tín dụng, huy động vốn
của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất
154
lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức hoạt động dịch vụ và tự chịu trách
nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật.
Các dự án đầu tư từ nguồn vốn vay tín dụng, vốn huy động phải
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, công khai, dân chủ trong đơn
vị, theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt và báo cáo cơ quan
quản lý cấp trên biết, theo dõi, kiểm tra thực hiện.
Đơn vị được dùng tài sản mua sắm từ quỹ phát triển hoạt động sự
nghiệp và từ nguồn vốn vay, vốn huy động để thế chấp vay vốn theo quy
định của pháp luật; không được sử dụng kinh phí, tài sản của ngân sách
nhà nước để thế chấp vay vốn, chi trả tiền vay, tiền huy động.
Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các
tổ chức tín dụng, huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu
tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức hoạt
động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Riêng các đơn vị sự
nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư được vay vốn,
huy động vốn để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất. Khi thực hiện vay vốn,
huy động vốn, đơn vị sự nghiệp công phải có phương án tài chính khả thi,
tự chịu trách nhiệm trả nợ vay, lãi vay theo quy định; chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hiệu quả của việc vay vốn, huy động vốn.
Thứ hai: Tăng cường vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục quán triệt quan điểm coi giáo dục đại học là lĩnh vực ưu
tiên sử dụng vốn ODA, từ đó gia tăng vốn ODA dành cho giáo dục đại
học. Trong số các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA, giáo dục nói chung
và giáo dục đại học nói riêng được xem như là phương thức tiếp cận có
hiệu quả và thường được các nhà tài trợ sử dụng để đạt mục tiêu xoá đói,
giảm nghèo và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển một cách bền vững.
Chính vì thế, giáo dục là một trong số không nhiều lĩnh vực được xếp vào
danh mục các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA, bao gồm cả ODA
không hoàn lại và vay ưu đãi. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy,
vốn ODA dành cho giáo dục đại học chiếm một tỷ trọng khá nhỏ bé trong
155
tổng vốn ODA của Việt Nam. Do vậy, trong thời gian tới, để giáo dục thực
sự trở thành quốc sách hàng đầu, là lĩnh vực hạt nhân có đóng góp quan
trọng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững thì chiến lược vận
động ODA cần xác định tỷ lệ hợp lý vốn ODA dành cho giáo dục đại học
trong tổng vốn ODA ký kết làm định hướng điều tiết nguồn lực này.
Hình thành quỹ cho sinh viên vay học đại học từ nguồn vốn ODA.
Nhà nước sẽ quy định ưu tiên cho vay và quy định trần cho vay khác
nhau, đối với sinh viên học các ngành khác nhau. Đặc biệt cần cho sinh
viên vay để học các ngành quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Qua đó thực hiện quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Quỹ
cho vay này khác với quỹ cho vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Việc
cho vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội chủ yếu chỉ đảm bảo mức sinh
hoạt tối thiểu cho sinh viên. Mức cho vay từ Quy ODA cần đảm bảo cho
việc học tập, sinh hoạt và nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Dùng vốn ODA để hỗ trợ các trường đầu tư trang thiết bị phụ vụ
các ngành đào tạo trọng điểm, mà NSNN chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu
hoạt động.
Xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA giáo dục trong
từng giai đoạn, phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục và chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đã được phê duyệt. Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm
kết hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành, địa phương có liên
quan nhanh chóng xây dựng chiến lược thu hút, sử dụng vốn ODA giáo
dục trong những khoảng thời gian nhất định (3 năm, 5 năm,) làm định
hướng cho hoạt động thu hút và quản lý nguồn ngoại lực quan trọng này.
Trong đó, duy trì tỷ trọng vốn ODA dành cho giáo dục đại học trong tổng
vốn ODA giáo dục ở mức độ hợp lý. Bên cạnh đó, hướng ODA giáo dục
đại học vào một số trường trọng điểm nhằm mục tiêu xây dựng các trường
đại học tầm cỡ khu vực và thế giới, tránh hiện tượng sử dụng dàn trải như
hiện nay.
Thứ ba: Nghiên cứu cơ sở pháp lý để khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài thực hiện đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam.
156
Xã hội hoá giáo dục đại học và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
lĩnh vực giáo dục đại học là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm
tạo cơ hội học tập nhiều hơn, với chất lượng cao hơn cho xã hội, đồng
thời giảm bớt gánh nặng chi ngân sách của nhà nước. Do đó, nên có cơ
chế khuyến khích đủ mạnh và chính sách thông thoáng để thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài.
Giảm thiểu những thủ tục hành chính không cần thiết, tạo điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư vào giáo
dục đại học có hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư nói chung
như: Ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước
ngoài còn thiếu; thực hiện đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong AFTA,
trong Hiệp định song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, trong các thoả thuận
với EU và với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) có liên quan đến đầu
tư; thực hiện công tác phòng và chống tham nhũng có hiệu quả;
Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đại học.
Thực tiễn cho thấy nguồn vốn FDI của thế giới sẽ hướng vào các quốc gia
có môi trường đầu tư tốt và được quảng bá rộng khắp. Theo như dự báo
của các nhà kinh tế, sự cạnh tranh thu hút vốn FDI sẽ ngày càng trở nên
gay gắt trong bối cảnh hầu hết các quốc gia đều mở cửa thực thi chính
sách hướng ngoại để phát triển nền kinh tế của mình. Trong bối cảnh
chung đó, để có thể thu hút được vốn FDI đầu tư phát triển giáo dục đại
học thì công tác xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực này cần được tăng cường.
Chính phủ nên sớm có quan điểm và xây dựng chiến lược thu hút
các trường đại học, các cơ sở giáo dục có uy tín trên thế giới mở rộng hợp
tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, tập trung vào các ngành mũi nhọn, là
thế mạnh của các trường đại học công lập. Tạo điều kiện thuận lợi để các
trường có uy tín và tầm cỡ quốc tế đến xây dựng cơ sở giáo dục đại học
tại Việt Nam.
3.3.8 Nhóm giải pháp về nghiên cứu xây dựng mô hình quản trị
trường đại học công lập theo mô hình quản trị doanh nghiệp.
157
Xây dựng mô hình quản trị tài chính trường đại học phù hợp với
yêu cầu phát triển giáo dục đại học, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội và xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường là yêu cầu cần
thiết.
Nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của trường đại học công lập,
tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính và đảm bảo chất
lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, theo xu
hướng hoạt động của trường đại học cũng giống như doanh nghiệp là đầu
vào và đầu ra đều do thị trường quyết định, luận án đề nghị nghiên cứu và
xây dựng mô hình quản trị tài chính trường đại học theo mô hình quản trị
của doanh nghiệp.
Thứ nhất: đề xuất mô hình quản trị tài chính của đại học công lập.
Theo mô hình này, trường đại học công lập sẽ được nhà nước chốt
vốn đã có và giao vốn, có đại diện của nhà nước tham gia quản lý vốn của
nhà nước. Hội đồng trường sẽ có nhiệm vụ như Hội đồng quản trị của các
doanh nghiệp trong việc quyết định chiến lược của nhà trường, quyết định
kế hoạch hoạt động hàng năm và kế hoạch tài chính. Hiệu trưởng có trách
nhiệm thực hiện kế hoạch đã được Hội đồng phê duyệt và báo cáo tình
hình hoạt động với Hội đồng trường. Hàng năm, nhà nước giao nhiệm vụ
đào tạo, nghiên cứu khoa học kèm với kinh phí thực hiện nhiệm vụ được
giao. Nhà trường được quyền tự chủ trong các hoạt động theo chức năng
nhiệm vụ và theo năng lực của trường.
Thứ hai: đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động của trường đại học
Cần nghiên cứu để đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động của đại
học công lập phù hợp với yêu cầu, nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động,
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính.
Có thể nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc chuyển mô hình
hoạt động của các trường đại học công lập sang mô hình “Công ty hóa các
trường đại học quốc lập tại Nhật Bản”.
Thứ ba: sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật phù
hợp với mô hình mới.
158
Cần sửa đổi Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học cho phù hợp với
yêu cầu chuyển đổi sang mô hình mới. Chương 10 – Tài chính và tài sản
của cơ sở giáo dục đại học, còn rất chung chung về mô hình quản trị tài
chính của các trường đại học công lập. Vì vậy cần làm rõ các nội dung sửa
đổi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học cho phù hợp với mô hình
quản trị tài chính của các trường đại học công lập. Cần nghiên cứu để sửa
đổi quy định khái niệm về trường đại học công lập và đại học tư thục. Nếu
chỉ căn cứ vào hình thức sở hữu nhà nước hay tư nhân để xác định loại
hình trường, thì sẽ khó khăn cho các hình thức góp vốn trong hoạt động
của các trường đại học công lập.
Cần nghiên cứu và vận dụng Luật Doanh nghiệp để mô hình quản
trị tài chính trường đại học có thể tiếp cận với Luật doanh nghiệp. Trong
đó có các quy định về thu hút và sử dụng các nguồn vốn ngoài kinh phí
ngân sách nhà nước cấp theo hướng tăng cường hợp tác giữa trường đại
học với doanh nghiệp và hai bên cùng có lợi. Quy định cụ thể chế độ hạch
toán trong trong trường đại học công lập.
Cần xây dựng lộ trình nghiên cứu và đề xuất mô hình, và các dự
thảo văn bản cần ban hành để đến năm 2016 có thể đưa vào thực hiện thử
nghiệm đối với các trường công lập được giao tự chủ hoàn toàn. Sau đó
tổng kết và hoàn thiện để triển khai đối với các trường đại học công lập
vào năm 2020.
3.3.9 Nhóm giải pháp mang tính hỗ trợ.
Để thực hiện đồng bộ các giải pháp đã đề xuất, cần có các giải pháp
hỗ trợ. Trong đó đề xuất những kiến nghị và sửa đổi liên quan đến hệ
thống chế độ, chính sách hiện hành và cách tổ chức thực hiện.
Thứ nhất: Nhà nước tập trung ngân sách để cấp đủ cho các trường
công lập đảm nhận nhiệm vụ đào tạo các ngành khoa học cơ bản, mũi
nhọn và thế mạnh của Việt Nam.
Chính sách ưu tiên của nhà nước thể hiện trong Luật GDĐH đã viết
“Tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục đại học; đầu tư có trọng
điểm để hình thành môṭ số cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao , theo
159
định hướng nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản , các ngành công
nghệ cao và ngành kinh tế - xã hội then chốt đaṭ trình độ tiên tiến của khu
vực và thế giới”. Để thực hiện được chủ trương ưu tiên của nhà nước, cần
có một Hội đồng liên ngành để rà soát lại tình hình cấp ngân sách nhà
nước cho hoạt động đào tạo từ trước đến nay, rà soát những ngành đào tạo
phải được Nhà nước cấp ngân sách để đảm bảo tính hệ thống trong phát
triển khoa học kỹ thuật và kinh tế của đất nước. Có những ngành đào tạo
đòi hỏi đầu lư lớn cho cơ sở vật chất kỹ thuật, không thu hút sự chú ý của
học sinh và xã hội, nhu cầu sử dụng thường thuộc về các cơ quan, viện,
trường và các ngành quốc phòng an ninh và không được các trường đại
học ngoài công lập quan tâm đúng mực. Trong khi đó, có nhiều ngành
đang được các trường đại học công lập đào tạo với quy mô lớn, thu hút sự
quan tâm của học sinh, gia đình và xã hội đồng thời khả năng tìm kiếm
việc làm cũng rất linh hoạt như các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh,
thương mại, công nghệ thông tin,. Nhà nước cần có quyết sách kết hợp
với giao quyền tự chủ cho các trường để có lộ trình phân loại các ngành
và các trường được nhận NSNN để đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước
theo định hướng phát triển kinh tế xã hội và anh ninh quốc phòng. Việc
phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo phải liên hệ chặt chẽ với qui hoạch
và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các dự đoán nhu cầu nguồn nhân lực
cho các ngành cơ bản, quan trọng và thế mạnh và năng lực đào tạo của các
trường đại học nói chung và các trường đại học công lập nói riêng.
Thông qua nghiên cứu, rà soát các ngành đào tạo và cơ sở đào tạo
công lập để phân loại các ngành đào tạo phải được Nhà nước đầu tư ngân
sách và phải có kế hoạch sử dụng, các ngành còn lại sẽ được các trường
đại học công lập và ngoài công lập đảm nhận tùy theo năng lực của từng
trường. Với các trường đại học công lập không được cấp NSNN thì phải
nhanh chóng chuyển sang trường tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm với
sự hỗ trợ ban đầu của Nhà nước thông qua định giá tài sản cố định đã hình
thành và giao cho các trường này quản lý với trách nhiệm tài chính (khấu
hao) trong khoảng thời gian nhất định.
160
Vì vậy, các trường đại học công lập sẽ phải định hướng phát triển
của nhà trường theo hướng xây dựng các ngành, lĩnh vực đào tạo thế
mạnh, đủ năng lực đảm nhận đào tạo các ngành đặc biệt, đặc thù, kèm
theo là biện pháp, giải pháp huy động tài chính từ hoạt động đào tạo,
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu xã hội và
hội nhập quốc tế. Có như thế, Việt Nam mới có thể có những trường đại
học hoặc các ngành đào tạo được thế giói quan tâm và có sinh viên nước
ngoài theo học. Từ đó sẽ tăng được nguồn tài chính từ thu học phí của học
sinh nước ngoài.
Các trường đại học công lập phải tự đánh giá được trường mình có
những tiềm năng và thế mạnh gì, có khả năng đăng ký với Nhà nước nhận
NSNN để đào tạo các ngành theo hình thức đặt hàng của Nhà nước. Qua
đó, các trường phải chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động nhằm huy
động các nguồn vốn ngoài NSNN để có thể trở thành trường đại học công
lập tự chủ toàn diện.
Thứ hai: Nhà nước cần thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện các
khảo sát, nghiên cứu khả năng cung ứng dịch vụ đại học – các cơ sở đào
tạo và nhu cầu sử dụng dịch vụ - sinh viên và gia đình họ, cũng như cần
có các khảo sát, nghiên cứu nhu cầu xã hội liên quan đến từng ngành nghề
làm cơ sở xây dựng, điều chỉnh học phí, chính sách/công cụ hỗ trợ tài
chính cho sinh viên, tăng học phí, thu hút sự đóng góp của các nhà hảo
tâm, các doanh nghiệp.... để có dự báo phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế - xã hội.
Thứ ba: Nhà nước cần tạo cơ chế chính sách phù hợp để khuyến
khích hợp tác giữa trường đại học công lập và các doanh nghiệp. Nhà
nước cần quan tâm nhiều hơn đến công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng và góp phần thúc đẩy đổi mới cơ chế hoạt động của trường đại học;
khuyến khích, tạo điều kiện cho các đơn vị này cung cấp dịch vụ giáo dục
đào tạo, áp dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm quốc tế
vào việc cung cấp sản phẩm dịch vụ công đáp ứng nhu cầu học tập ngày
càng cao của xã hội.
161
Thứ tư: Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu, ban
hành tiêu chí xác định đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện được Nhà
nước đặt hàng và bảo đảm kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ khoa học
và công nghệ đối với cơ sở giáo dục đại học có tiềm lực mạnh về khoa
học và công nghệ; xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo
cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp; trên cơ sở đó khuyến khích các tổ
chức cá nhân người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
trong việc liên doanh, liên kết về đào tạo với các trường đại học trong
nước, qua đó khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới phù hợp với cam
kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần ban hành quy định về tiêu
chuẩn chất lượng dịch vụ đào tạo; tiêu chuẩn chức danh cán bộ, viên chức,
người lao động trong các trường đại học; ban hành quy định hệ thống các
tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành và chất lượng thực hiện nhiệm vụ
được giao.
Thứ sáu: Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ, Ngành có
liên quan cần sớm xây dựng, hoàn thiện và ban hành danh mục tiêu chí,
tiêu chuẩn và hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật của loại hình dịch vụ
giáo dục đại học để làm căn cứ đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ, đánh
giá chất lượng dịch vụ cung cấp đối với các trường đại học. Trên cơ sở đó
tính toán, xác định chi phí đào tạo cần thiết.
Thứ bảy: Cần nâng cao nhận thức của xã hội đối với công tác đổi
mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và sự
nghiệp giáo dục đào tạo nói riêng, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình
dịch vụ đào tạo nhằm huy động các nguồn lực của xã hội chăm lo phát
triển các sự nghiệp giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội dưới sự quản
lý của Nhà nước.
Thứ tám: Các trường đại học công lập cần nâng cao năng lực, tính
chủ động, sáng tạo của các trường trong quá trình thực hiện cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và
162
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập trong huy động các nguồn tài
chính để đảm bảo chất lượng trong công tác đào tạo. Các trường cần xây
dựng kế hoạch tài chính trung và dài hạn, để có cơ sở huy động các nguồn
tài chính và đảm bảo hoạt động ổn định, phát triển.
Thứ chín: Các trường đại học công lập cần nâng cao năng lực trình
độ của đội ngũ cán bộ quản lý tài chính của nhà trường và cán bộ quản lý
thực hiện các dự án vay vốn, dự án có nguồn vốn nước ngoài. Kể từ khi
mở cửa hợp tác với thế giới, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước
về vốn ngoài nước của Việt Nam ngày càng được nâng cao, cơ bản đáp
ứng được yêu cầu đặt ra. Việc quản lý thu hút, sử dụng hai nguồn lực này
đặt ra nhiều yêu cầu mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý thực hiện dự án
phải không ngừng nâng cao năng lực trình độ để sử dụng nguồn lực hiệu
quả đem lại những lợi ích thiết thực cho sự phát triển của giáo dục cũng
như của cả nền kinh tế - xã hội.
163
Kết luận chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kinh nghiệm các nước cũng như
thực tiễn Việt nam, luận án đã khuyến nghị những phương hướng và giải
pháp nhằm tăng cường việc thu hút các nguồn tài chính ngoài ngân sách
nhà nước trong các trường đại học công lập ở nước ta trong thời gian tới.
Các giải pháp sẽ góp phần triển khai các chương trình, đề án đổi mới cơ
bản và toàn diện giáo dục đại học Việt nam một cách có hiệu quả, đạt
được các mục tiêu đề ra.
Liên quan đến phương hướng hoàn thiện, luận án đề xuất cần phải
có những khảo sát, nghiên cứu khả năng cung ứng dịch vụ đại học – các
cơ sở đào tạo và nhu cầu sử dụng dịch vụ - sinh viên và gia đình họ, cũng
như cần có các khảo sát, nghiên cứu nhu cầu xã hội liên quan đến từng
ngành nghề làm cơ sở xây dựng, điều chỉnh học phí, chính sách/công cụ
hỗ trợ tài chính cho sinh viên, tăng học phí, thu hút sự đóng góp của các
nhà hảo tâm, các doanh nghiệp.... Bên cạnh đó, luận án đã đề xuất một số
giải pháp cụ thể liên quan đến ba nhóm đối tượng: nhà nước, trường đại
học và người học nhằm tăng cường nguồn tài chính cho việc phát triển
giáo dục đại học. Giải quyết thành công những giải pháp này có ý nghĩa
rất quan trọng đối với sự gia tăng và duy trì ưu thế cạnh tranh của nền
kinh tế Việt nam, đồng thời thúc đẩy sự công bằng xã hội.
Trình tự thực hiện các giải pháp này phụ thuộc vào tầm quan trọng
và điều kiện để thực hiện, nhưng vẫn phải đảm bảo tính đồng bộ mới
mang lại hiệu quả cao. Những kết quả nghiên cứu và phân tích sâu trong
chương 2 cũng là căn cứ để NCS đề xuất các nhóm giải pháp nhằm tăng
cường huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các trường đại
học công lập ở Việt nam.
Nếu được triển khai và thực hiện nghiêm túc các giải pháp nêu
trên, các trường đại học công lập Việt Nam sẽ có điều kiện đảm bảo đủ
nguồn lực tài chính cho việc đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển
nhà trường.
164
KẾT LUẬN
Đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng trình độ cao là yêu
cầu cấp thiết đối với bất cứ quốc gia nào trong thời đại phát triển kinh tế
tri thức. Trong những năm qua, Nhà nước đã ưu tiên đầu tư cho các
trường đại học công lập nhằm cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao
cho các ngành, các trường đại học và viện nghiên cứu và cho phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng đào tạo,
nghiên cứu khoa học và phục vụ sự phát triển của các địa phương, của cả
nước, thì yêu cầu phải có đủ nguồn lực tài chính cho hoạt động là rất
quan trọng. Việc tăng cường huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách
trong các trường đại học công lập là vấn đề cần được quan tâm giải quyết
cả về lý luận và thực tiễn.
Các nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án đã tập trung giải
quyết những vấn đề sau:
1. Phân tích các luận cứ khoa học cho thấy sự cần thiết phải triển khai và
tăng cường huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các trường
đại học công lập.
2. Trong hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, đại học công lập giữ vai
trò chủ đạo trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.
3. Phân tích và đi đến thống nhất quan niệm, nội dung, phương pháp huy
động nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các trường đại học công lập.
Trên cơ sở đó làm sáng tỏ vai trò của cơ chế điều hành và quản lý nguồn
tài chính ngoài ngân sách trong các trường đại học công lập.
4. Phân tích thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách trong
các trường đại học công lập Việt Nam để thấy được những kết quả đạt
được, những hạn chế, tồn tại làm giảm khả năng thu hút các nguồn lực
XHH, giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính dành cho các
chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ sự phát triển của xã
hội. Đây là một trong các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
và nghiên cứu khoa học của các trường đại học công lập.
5. Yêu cầu về đổi mới cơ chế quản lý giáo dục đại học và đổi mới quản lý
165
tài chính của các trường đại học công lập mang tính cấp thết, để các
trường phát huy thế mạnh trong hoạt động và huy động nguồn tài chính
đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng hoạt động.
6. Phân tích trạng huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các
trường đại học công lập Việt Nam trên cơ sở bám sát các định hướng của
Đảng và Nhà nước về đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt
nam đến năm 2020. Từ đó, luận án đề xuất một số giải pháp huy động
nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các trường đại học công lập theo
hướng gắn với kết quả và chất lượng đầu ra đảm bảo phát triển nguồn
lực tài chính bền vững.
7. Qua bao nhiêu năm Đổi mới, đối với giáo dục đại học cần thiết phải có
nghiên cứu để đổi mới mô hình quản trị trường đại học công lập nói
chung và quản trị tài chính của trường đại học công lập nói riêng.
Việc huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các trường
đại học công lập là vấn đề mới và khá phức tạp. Nghiên cứu để đi đến
thống nhất quan điểm đối với việc huy động nguồn tài chính ngoài ngân
sách trong các trường đại học công là vấn đề còn mới mẻ ở Việt Nam.
Bởi vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu của một luận án khó tránh khỏi
những hạn chế nhất định về nội dung, phương pháp tiếp cận và xử lý một
số vấn đề cụ thể. Tác giả mong muốn nhận được sự đóng góp của các
nhà khoa học và những người có quan tâm đến vấn đề này để kết quả
nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
166
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1 Trần Trọng Hưng (2014), "Tăng cường huy động vốn cho phát triển giáo
dục đại học" Tạp chí Ngân hàng số 21 tháng 11/2014.
2
Trần Trọng Hưng (2014), "Những khó khăn về tài chính ảnh hưởng đến
việc phát triển của các trường đại học công lập Việt Nam" Tạp chí Tài
chính số tháng 12/2014.
3 Trần Trọng Hưng (2015), "Thay đổi yếu tố giá, phí sẽ thúc đẩy đơn vị sự
nghiệp công lập" Tạp chí Thanh tra Tài chính số tháng 1/2015.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanvan_trantronghung_noidung_3chuong_6423.pdf