Kết cấu hạ tầng GTĐB là một nhánh chủ yếu quan trọng trong kết cấu hạ
tầng GTVT của tỉnh Bắc Giang. Ngay sau khi tái thành lập tỉnh (1997), xây
dựng, phát triển KCHT giao thông vận tải nói chung, KCHT giao thông đường
bộ nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh Bắc Giang. Nhiều
kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, nhiều khóa của HĐND và UBND đều đề cập đến vấn
đề phát triển hệ thống KCHT giao thông đường bộ. Tuy nhiên, cho đến nay
theo đánh giá của tỉnh bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống KCHT
GTĐB vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết.
174 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2984 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Huy động vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng của cả nước.
Bên cạnh đó, ưu tiên vốn phát triển nhanh hệ thống nguồn điện, lưới điện
truyền tải và phân phối đi đôi với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng. Phát
triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thủy lợi, các công trình phòng
chống thiên tai và hiện đại hóa hệ thống thông tin, để đáp ứng yêu cầu phát triển
và giảm nhẹ thiên tai.
Vốn ODA sẽ ưu tiên tập trung phát triển KCHT xã hội; đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa... phát
triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. ODA cũng sẽ
tập trung hỗ trợ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới với những hoạt động như quy hoạch xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn, giảm nghèo bền vững.
Vốn ODA và vốn vay ưu đãi có thể được sử dụng để hỗ trợ cho việc
thúc đẩy các hoạt động đầu tư, thương mại thông qua việc chuyển giao công
nghệ, kỹ thuật sản xuất và quản lý hiện đại, tăng cường năng lực cạnh tranh của
một số loại sản phẩm và hàng hóa trên một số lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm
năng và lợi thế tạo cơ sở cho sự tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu và thúc
đẩy hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế... Thông qua hỗ trợ thúc đẩy thương
mại, đầu tư các nguồn vốn này sẽ hỗ trợ tạo việc làm và tăng thu nhập, góp phần
xóa đói, giảm nghèo một cách bền vững.
140
Một số giải pháp cụ thể đối với tỉnh Bắc Giang
Theo quy định hiện nay, thì đối với chính quyền địa phương ít có điều
kiện tiếp cận với các nhà tài trợ nước ngoài. Chính quyền địa phương được tiếp
nhận nguồn ODA cơ bản thông qua phân bổ của Trung ương trên cơ sở danh
mục dự án đề nghị của địa phương. Chính vì vậy, theo đánh giá của ông
Tomiyuki Kimura Giám đốc ADB Việt Nam tại cuộc Hội thảo do Bộ Ngoại giao
tổ chức ngày 12 và 13 tháng 8 năm 2014 vừa qua: “Năng lực của các địa
phương để thực hiện dự án do ADB tài trợ khác nhau rất nhiều, một số Ban
QLDA chưa bao giờ có kinh nghiệm làm việc với các tổ chức như ADB hay
Ngân hàng thế giới (WB)”. Theo ông Tomiyuki Kimura: “Một Ban QLDA chỉ
tốt khi các thành viên trong Ban tốt, uy tín của một tỉnh đối với hoạt động trước
đây sẽ không còn quan trọng nữa nếu tất cả các cán bộ trong Ban đều là người
mới, có trình độ và được tuyển dụng cạnh tranh. Hiện nay ADB muốn xem sơ
yếu lý lịch của cán bộ Ban QLDA quan trọng trước khi ADB công bố khoản vay
có hiệu quả”. Đây chính là trở ngại, khó khăn, vướng mắc nhất và là hạn chế
đầu tiên cần khắc phục ở một số địa phương, mà Bắc giang không phải là trường
hợp ngoại lệ. Do đó, để có thể huy động và sử dụng hiệu quả nguồn ODA, trong
thời gian tới Bắc Giang cần phải tiến hành các công việc cụ thể sau đây:
Thứ nhất, UBND tỉnh cần phải đưa ra một cách tiếp cận rộng hơn để xây
dựng năng lực và nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, trước mắt phải xây
dựng một Ban QLDA chuyên nghiệp, với đội ngũ cán bộ có trình độ và kinh
nghiệm làm việc, nắm chắc các cơ chế quản lý Dự án ODA. Tiếp đó là đào tạo,
bồi dưỡng cho cán bộ có liên quan thuộc các cơ quan khác của tỉnh vốn có thể
ảnh hưởng đến hoạt động thu hút đầu tư và quản lý dự án như: Sở KHĐT; Sở
Tài chính; Sở Công thương; Sở Xây dựng, bởi họ thường là tác giả chính của các
dự án phân cấp vì vậy cần phải hiểu thủ tục ADB.
Thứ hai, cần đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng cho các chương
trình và dự án ODA để đạt tỷ lệ giải ngân cao nhất và nhanh nhất, đây là điều rất
cần thiết với Bắc Giang. Thiếu nguồn lực đối ứng, gồm tài chính và nguồn vốn
con người có năng lực, thì khó mà thành công trong sử dụng ODA có hiệu quả
141
cao để phục vụ các mục tiêu phát triển. Dù là ODA vốn vay hay viện trợ không
hoàn lại đều đòi hỏi những chi phí trong nước mới có thể hiện thực hóa được
vốn ODA trở thành những kết quả phát triển cụ thể.
Thứ ba, xu thế nguồn vốn ODA không hoàn lại và có lãi suất ưu đãi giảm
đi khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, thay vào đó phải sử
dụng vốn vay kém ưu đãi (OCR). Vì thế, để sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay
này đòi hỏi Bắc Giang phải tăng cường năng lực và cải tiến mạnh mẽ tình hình
thực hiện dự án, sử dụng tập trung hơn để đầu tư xây dựng các công trình KCHT
giao thông quan trọng, quy mô lớn, có vai trò thúc đẩy, tạo động lực và sức lan
tỏa đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Thứ tư, hoàn thiện các văn bản pháp lý, đổi mới trong quy trình và thủ tục
quản lý dự án ODA trên cơ sở kết hợp tham khảo những quy chuẩn của các nhà
tài trợ và của Nhà nước, nhất là trong ba khâu công việc quan trọng: đấu thầu
mua sắm; bồi thường giải phóng mặt bằng và chính sách tái định cư; quản lý tài
chính của các chương trình, dự án. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra,
phòng chống tham nhũng đối với các dự án, nhất là các dự án sử dụng vốn ODA.
Thứ năm, trong quan hệ hợp tác phát triển mới, các mô hình viện trợ mới
sẽ được áp dụng nhiều hơn, sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức phi
chính phủ được khuyến khích. Do vậy, Bắc Giang dựa trên những cơ chế, chính
sách chung của Nhà nước cụ thể hóa thành những giải pháp thích hợp để tạo môi
trường cho các mô hình, phương pháp tiếp cận mới. Bên cạnh đó, cần hợp tác
chặt chẽ với các nhà tài trợ để sử dụng một cách hợp lý các cách tiếp cận và mô
hình viện trợ mới, nhất là hỗ trợ ngân sách trong tiếp nhận tài trợ để nâng cao
hiệu quả sử dụng, giảm bớt các thủ tục hành chính và góp phần cải thiện các hệ
thống quản lý công của Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế.
Thứ sáu, cần xác định các ưu tiên đầu tư khi sử dụng ODA và nâng cao
công tác giám sát, theo dõi và đánh giá dự án. Bởi, bản chất ODA vẫn là khoản
vay và có nghĩa vụ phải trả nợ, nên cần loại bỏ tư tưởng “xin” ODA trong một
bộ phận cán bộ ở các cấp, kể cả cán bộ lãnh đạo chưa hiểu rõ vai trò và bản chất
của ODA, dẫn đến chưa quan tâm đầy đủ đến việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn
142
này. Do đó, cần nâng cao năng lực và nhận thức cho đội ngũ tham gia quản lý,
sử dụng nguồn vốn ODA...
Một điều đáng mừng là hiện nay, Bắc Giang cùng với các tỉnh Quảng
Ninh, Lào Cai đang xúc tiến đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án “Phát triển các
đô thị dọc hành lang tiểu vùng sông Mê Kông lần thứ 2” nhằm phát triển hạ tầng
đô thị thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang từ nguồn vốn ODA của Ngân hàng
Phát triểu Châu Á (ADB) khoảng 120 triệu USD. Nếu dự án sớm khả thi và đi
vào triển khai thực hiện sẽ là điều kiện quan trọng để phát triển hệ thống giao
thông đường bộ của tỉnh Bắc Giang nói chung và thành phố Bắc Giang nói
riêng, đồng thời sẽ có thêm kinh nghiệm trong quá trình huy động, triển khai các
dự án ODA trên địa bàn.
3.3.3.2. Giải pháp huy động nguồn vốn của các Tổ chức phi Chính
phủ (NGO)
Các tổ chức phi Chính phủ (NGO) thường có dự án tài trợ phát triển kinh
tế, xã hội ở các huyện, các xã vùng nghèo, vùng khó khăn. Mục đích các dự án
này thường là nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở, trình độ tổ chức quản lý sản
xuất của nhân dân, hỗ trợ phát triển sản xuất, đầu tư xây dựng các công trình hạ
tầng nông nghiệp, giao thông đường bộ. Nguồn vốn tài trợ của NGO tài trợ trực
tiếp không hoàn lại và có một số đặc điểm đáng chú ý cần được quan tâm khi
thực hiện các giải pháp huy động, đó là:
- Không giống như các dự án sử dụng nguồn ODA, trước khi quyết định
tài trợ, các Tổ chức phi Chính phủ thường trực tiếp đi khảo sát, nghiên cứu, đánh
giá rất cụ thể tại các huyện, các xã thôn, bản dự kiến tài trợ nhằm xác định lĩnh
vực cần đầu tư và các mục tiêu cần hướng tới của các dự án.
- Các dự án thường đầu tư theo giai đoạn và kéo dài khoảng 3 năm và đều
gắn với những mục tiêu hết sức cụ thể và tổ chức đánh giá một cách trung thực,
khách quan kết quả thực hiện của từng giai đoạn. Nếu giai đoạn trước vốn tài trợ
được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, thì sẽ tiếp tục tài trợ cho giai đoạn
sau, nếu không thì có thể kết thúc dự án.
143
Với đặc điểm này, để có thể huy động được nguồn vốn này cho đầu tư
phát triển KCHT giao thông đường bộ của tỉnh, trong những năm tới, Bắc Giang
có thể nghiên cứu triển khai các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tăng cường xúc tiến hợp tác với các NGO thông qua nhiều hình
thức đa dạng, bao gồm: Tiếp xúc trực tiếp với các NGO đang hoạt động tại Việt
Nam, trước hết là các tổ chức hoạt động trong khu vực và trên địa bàn tỉnh như:
dự án JICA, dự án PS-ARD (dự án cung cấp các dịch vụ công trong nông
nghiệp), dự án giảm nghèo Tổ chức các hội nghị, hội thảo giới thiệu nhu cầu,
ưu tiên hợp tác tại tỉnh, ở Hà Nội và tham gia các hội nghị tài trợ hoặc thông qua
hội nghị các diễn đàn quốc tế trong nước và nước ngoài, để có thể giới thiệu về
tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh, tăng cường chia sẻ thông tin về nhu cầu và ưu
tiên của tỉnh thông qua các cơ quan đầu mối trung ương, nhất là Liên hiệp các tổ
chức hữu nghị Việt Nam (cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối về quan hệ
và vận động viện trợ phi Chính phủ nước ngoài), Bộ Ngoại giao và Ủy ban Công
tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
Hai là, các cơ quan chức năng của tỉnh Bắc Giang chủ động và phối hợp
cũng như hướng dẫn các Tổ chức phi Chính phủ ngay từ khi bắt đầu khảo sát,
nghiên cứu, đánh giá, xác định các lĩnh vực đầu tư, và mục tiêu hướng tới của dự
án đầu tư KCHT giao thông đường bộ, chủ yếu là hệ thống GTNT.
Ba là, khi có được dự án cần có sự phối chặt chẽ với các Tổ chức phi
Chính phủ đang triển khai dự án, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để triển khai
và hoàn thành dự án đúng tiến độ với chất lượng và hiệu quả cao nhất, tạo được
niềm tin, uy tín đối với các nhà tài trợ, để có thể tiếp tục tài trợ, triển khai các dự
án tiếp theo.
Bốn là, hàng năm lãnh đạo tỉnh Bắc Giang cần tổ chức những cuộc tiếp
xúc trao đổi với các Tổ chức phi Chính phủ để tạo ra sự hiểu biết lãnh nhau, để
lắng nghe ý kiến của nhà tài trợ, qua đó rút kinh nghiệm trong quản lý sử dụng
nguồn vốn của NGO, nhằm tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả
của các dự án do NGO triển khai trên địa bàn tỉnh.
144
3.3.3.3. Giải pháp huy động vốn FDI đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ
FDI là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua
việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực
tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình
độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận. FDI có đặc
trưng là:
Về vốn góp: Các chủ đầu tư nước ngoài đóng một lượng vốn tối thiểu theo
quy định của nước nhận đầu tư để họ có quỳền trực tiếp tham gia điều phối, quản
lý quá trình SXKD. Ở Việt Nam Luật đầu tư nước ngoài đưa ra điều kiện: phần
vốn góp của bên nước ngoài không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường
hợp do chính phủ quy định.
Về quyền điều hành quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư thành lập công ty 100% vốn nước ngoài
thì quyền điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp
hoặc thuê người quản lý.
Về phân chia lợi nhuận: dựa trên kết quả SXKD, lãi lỗ đều được phân
chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
Nói chung với nước tiếp nhận đầu tư, FDI có nhiều mặt tích cực, đồng
thời cũng có những mặt hạn chế, bất lợi riêng. So với những hình thức đầu tư
nước ngoài khác, FDI có những ưu điểm:
- FDI không để lại gánh nặng nợ cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư
như ODA hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát
hành trái phiếu ra nước ngoài
- Các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều
hành SXKD, hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận
FDI ít phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn
như của ODA.
- Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh
nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính, trong tình huống xấu
145
nhất khi gặp rủi ro thì các đối tác nước ngoài sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với
các công ty của nước sở tại.
Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương
đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật,
phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị
trường mới cho nước tiếp nhận đầu tư. Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của
FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển có trình độ khoa học và công nghệ
thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật mới xuất phát chủ yếu từ các nước công
nghiệp phát triển, do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công
nghiệp phát triển, các nước này rất cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới.
Tùy theo hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao trình
độ công nghệ, nhưng thông qua FDI là cách tiếp cận nhanh, trực tiếp và thuận lợi.
Thực tế đã cho thấy FDI là một kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công
nghệ cho các nước đang phát triển. FDI có tác động mạnh đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương
diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các thành
phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động
Thông qua tiếp nhận FDI, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để
gắn kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế,
thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước này.
Thông qua tiếp nhận đầu tư, các nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp
cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thích nghi
nhanh hơn với các thay đổi trên thị trường thế giới FDI có vai trò làm cầu nối
và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một nhân tố đẩy nhanh quá trình
toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
FDI có lợi thế là có thể được duy trì sử dụng lâu dài, từ khi một nền kinh
tế còn ở mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển rất cao. Vốn
ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển, sẽ giảm đi và
chấm dứt khi nước đó trở thành nước công nghiệp, tức là bị giới hạn trong một
146
thời kỳ nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này, nó có thể được sử dụng rất
lâu dài trong suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế.
Với những ưu thế quan trọng như trên ngày càng có nhiều nước coi trọng
FDI hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận FDI hơn các hình thức đầu tư nước
ngoài khác.
Tuy nhiên FDI cũng có những hạn chế nhất định. Việc sử dụng nhiều vốn
đầu tư FDI có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động tối đa vốn trong nước,
gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư, có thể gây nên sự phụ thuộc của nền
kinh tế vào vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong
tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế
phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc.
Với những mặt bất lợi của FDI, nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có
các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế, giảm thiểu những tác
động tiêu cực này và sử lý hài hòa mối quan hệ của nhà đầu tư nước ngoài với
lợi ích quốc gia để tạo nên lợi ích tổng thể tích cực.
Nhìn chung với FDI mặt tích cực vẫn chủ đạo, mặt hạn chế có thể dễ khắc
phục nếu nước nhận đầu tư có chính sách, cơ chế và biện pháp quản lý hợp lý.
Mặc dù nhận thấy mặt tích cực của FDI, tất các nước đang phát triển cũng như
đang phát triển như Việt Nam đều mong muốn thu hút nhiều nguồn FDI đầu tư
vào KCHT nói chung, KCHT giao thông đường bộ nói riêng, song thực tế trong
những năm qua, ở các nước đang phát triển cũng như ở Việt Nam, việc thu hút
nguồn vốn này vào đầu tư phát triển KCHT giao thông vận tải trong đó có
KCHT giao thông đường bộ còn hết sức hạn chế, đặc biệt là ở những khu vực
miền núi (và có thể nói, trong những năm qua, nguồn FDI đầu tư cho lĩnh vực
KCHT GTĐB ở tỉnh Bắc Giang hầu như vắng bóng). Có nhiều lý do dẫn đến
những hạn chế về thu hút đầu tư FDI vào lĩnh vực GTVT, trong số các lý do, có
một lý do cần phải chú ý khi đề xuất các giải pháp thu hút là do tính chất sản
phẩm công cộng của các công trình GTVT. Là sản phẩm công cộng nên nói
chung đầu tư vào lĩnh vực này doanh lợi mang lại thấp, khả năng thu hồi vốn
147
chậm không thỏa mãn mục tiêu tối thượng của các nhà đầu tư là nâng cao lợi
nhuận của đồng vốn bỏ ra. Mặt khác, theo kinh nghiệm của các nước việc thu
hút nguồn FDI đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế nói chung, hạ tầng GTĐB nói
riêng là sử dụng hình thức hợp đồng xây dựng (BOT, BT và PPP). Từ lý do này,
trong những năm tới, ngoài các giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài nêu trên,
việc thu hút vốn FDI đầu tư phát triển KCHT giao thông đường bộ trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang cần chú trọng triển khai các giải pháp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, trong quy hoạch mạng lưới GTĐB cần lựa chọn những danh
mục dự án đầu tư phát triển KCHT giao thông đường bộ bảo đảm yêu cầu: Lưu
lượng GTVT lớn, nằm trên tuyến đường có khả năng thu hồi vốn ban đầu nhanh
thông qua cơ chế thu phí, có sức hấp dẫn nhà đầu tư.
Thứ hai, triệt để tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan Trung ương, đặc
biệt là Bộ GTVT, Bộ KH&ĐT trong việc lựa chọn hình thức đầu tư, các thủ tục
triển khai đầu tư cũng như phối kết hợp với các địa phương khác trong quá trình
chuẩn bị và thực hiện dự án.
Thứ ba, nghiên cứu thỏa thuận với các nhà đầu tư lựa chọn các hợp đồng
đầu tư thích hợp bảo đảm hài hòa các mặt lợi ích đầu tư. Việc giao kết hợp đồng
đầu tư phải tuân thủ Luật Đầu tư cũng như việc giao kết và thực hiện hợp đồng
phải phù hợp với các quy định chung về hợp đồng kinh doanh, thương mại trong
việc giao kết.
Đầu tư theo hợp đồng bao gồm các hình thức sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BCC Business
Cooperation Contract) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm
hợp tác kinh doanh mà không thành lập pháp nhân. Đối với hợp đồng hợp tác
kinh doanh thì điểm quan trọng là thỏa thuận phân chia lợi nhuận và phân chia
sản phẩm.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư
trong nước và hợp tác kinh doanh giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau, đều
phải có quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả đối với mỗi bên.
148
Đối với những hợp đồng phát sinh trong quá trình hợp tác mà không thực hiện
phân chia lợi nhuận sẽ không được coi là hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Ngoài ra, đối với hình thức hợp tác này, việc thành lập một bộ phận nhằm
theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng (hay còn gọi là Ban điều phối) cũng
sẽ được các nhà đầu tư thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (gọi tắt là BOT Build -
Operate - Tranfer), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (gọi tắt là
BTO), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (gọi tắt là BT) là hình thức đầu tư mà
ở đây các nhà đầu tư trực tiếp ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
xây dựng các công trình KCHT trong thời hạn nhất định và chuyển giao cho nhà
nước theo những phương thức bồi thường và đền bù khác nhau. Các hình thức
trên có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư.
Đối với hình thức Hợp đồng BOT, khi công trình được xây dựng xong,
nhà đầu tư quản lý và kinh doanh trong thời hạn nhất định nhằm thu hồi vốn và
lợi nhuận, hết thời hạn kinh doanh, nhà đầu tư chuyển giao (không bồi thường và
không hoàn trả) quyền sở hữu công trình cho nhà nước.
Hình thức Hợp đồng BTO, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển
giao toàn bộ công trình cho Nhà nước quản lý đồng thời nhà nước dành cho nhà
đầu tư quyền kinh doanh công trình trong thời hạn nhất định cũng nhằm thu hồi
vốn và có một phần lợi nhuận.
Hình thức Hợp đồng BT, tại thời điểm xây dựng xong, nhà đầu tư sẽ
chuyển giao quyền sở hữu công trình cho Nhà nước. Mặt khác, nhà nước sẽ
tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện một dự án khác để thu hồi vốn cũng
như lợi nhuận hoặc Nhà nước sẽ thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận
trong hợp đồng.
Ngoài ra, việc mở rộng và phát triển đầu tư theo hình thức PPP cũng là
một xu thế hiện nay ở Việt Nam mà Bắc Giang cần quan tâm.
Hình thức PPP được hiểu tại Việt Nam là Đầu tư theo hình thức đối tác
công tư, theo đó, Nhà nước và Nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện dự án phát
149
triển KCHT, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở Hợp đồng dự án (Khoản 1 Điều 2
QĐ 71/2010/QĐ-TTg). Khuôn khổ pháp lý duy nhất cho đến nay để triển khai
PPP là Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 9/11/2010 của Thủ tướng Chính
phủ, có hiệu lực từ ngày 15/1/2011 về việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư
theo hình thức đối tác công - tư. Về bản chất, QĐ 71 cho thấy PPP chỉ là một
trường hợp đặc biệt của BOT, BTO và trong thực tế thì các nội dung của QĐ số
71/2010/QĐ-TTg cơ bản dựa trên nội dung của Nghị định 108/2009/NĐ-CP
ngày 27/11/2009 của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 15/1/2010).
Trên đây là các loại hợp đồng đầu tư phổ biến hiện nay. Đương nhiên, để
thỏa thuận với nhà đầu tư về việc lựa chọn hợp đồng, đối với tỉnh Bắc Giang cần
phải có sự thỏa thuận của các cơ quan Trung ương đặc biệt là Bộ GTVT, Bộ
KH&ĐT và Bộ Tài chính.
Thứ tư, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền đổi mới, hoàn thiện chính
sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài theo hướng thông thoáng hấp dẫn hơn. Vì
đầu tư xây dựng KCHT giao thông đường bộ cần một lượng vốn lớn, thời gian
thu hồi vốn kéo dài nhiều năm, nên ngoài chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế và
một số chính sách ưu đãi khác, cần nghiên cứu đề xuất cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài khai thác giá trị đất hai bên công trình do nhà đầu tư thực hiện, Giải
pháp này có tác dụng lớn kích thích nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng KCHTgiao
thông đường bộ, bởi nó làm cho đồng vốn của nhà đầu tư sinh lợi. Lợi thế địa lý
của Bắc Giang như đã trình bày ở trên thì việc áp dụng giải pháp này chắc chắn
sẽ thu hút được nhà đầu tư sẵn sàng bỏ đầu tư xây dựng phát triển các công trình
GTĐB trong tỉnh.
Tóm lại, một trong những lực cản lớn hiện nay đối với vấn đề đầu tư phát
triển KCHT giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang là nguồn vốn.
Muốn có vốn thì phải có giải pháp huy động vốn phù hợp và có tính khả thi với
điều kiện thực tế của tỉnh Bắc Giang. Trên đây là những giải pháp huy động vốn
đầu tư phát triển KCHT giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai
đoạn tới. Để triển khai được các giải pháp đó vào thực tế, đòi hỏi phải có những
điều kiện nhất định.
150
3.4. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN
Để có thể đưa các giải pháp kể trên vào thực thi trong thực tiễn trên
địa bàn tỉnh Bắc giang thời gian tới đòi hỏi phải có những điều kiện cần
thiết. Cụ thể:
Thứ nhất, đổi mới chính sách đầu tư, đây là điều kiện quan trọng tạo cơ
sở pháp lý cho việc thực hiện các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển
KCHT giao thông đường bộ.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển theo thể chế thị trường đồng nghĩa
với việc vai trò của Nhà nước và tư nhân đối với đầu tư phát triển đang thay đổi.
Vai trò của Nhà nước là ban hành cơ chế chính sách tạo điều kiện cho việc xã
hội hóa đầu tư phát triển các công trình KCHT giao thông, nhằm tạo khung pháp
lý thống nhất, đồng bộ theo hướng tăng cường cho các địa phương, các thành
phần kinh tế, các doanh nghiệp; Nhà nước chỉ quản lý qui hoạch, kế hoạch, ban
hành các chính sách, tổ chức thực hiện kiểm tra giám sát, đồng thời tạo ra hành
lang pháp lý cần thiết để hạn chế và chia sẻ rủi ro, nhất là các rủi ro mang tính
chủ quan khi đưa công trình vào khai thác sử dụng. Còn việc đầu tư sẽ chuyển
sang cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế thực hiện. Nếu cơ chế pháp
luật tốt, các chính sách ưu đãi phù hợp các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân sẽ làm
tốt hơn các nhà cung cấp dịch vụ thuộc khu vực công.
Trong bối cảnh nguồn vốn vay ODA có xu hướng giảm, trong khi cơ chế
quản lý vốn viện trợ phát triển chính thức ODA đã bộc lộ một số điểm chưa phù
hợp với thực tiễn gây khó khăn trong quá trình huy động và tổ chức thực hiện
thực, cần sớm được sửa đổi, bổ sung, trong đó quan tâm một số vấn đề: phân cấp
mạnh mẽ hơn cho cơ quan quản lý trực tiếp vốn ODA, rà soát lại qui trình thủ
tục đầu tư theo hướng hài hòa, phù hợp với các nhà tài trợ và qui chuẩn Quốc Tế,
loại bỏ các thủ tục không cần thiết làm chậm tiến độ thực hiện dự án, bổ sung
chính sách hướng dẫn chính sách cho những vấn đề mới như: loại hình hợp
đồng, quản lý hợp đồng, qui chế, qui định ràng buộc giữa đơn vị tiếp nhận vốn
với các đơn vị tư vấn, các nhà thầu nước ngoài.
151
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý đảm bảo tính cạnh tranh của các dịch
vụ KCHT giữa các đơn vị kinh doanh, khai thác tư nhân
Cần nhượng quyền thực hiện đối với các dự án quan trọng và có ưu tiên
cao nhưng có tiềm năng thực hiện theo các hình thức BOT, BTO, BT, PPP; cải
thiện môi trường đầu tư nói chung và hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến
đầu tư KCHT; bổ sung thêm các điều kiện để thu hút vốn đầu tư vào KCHT;
chính sách đầu tư cho KCHT cần phải thực tế và phù hợp với đặc thù của từng
phân ngành, có chính sách giá cả và suất đầu tư, tiến trình hoàn vốn hợp lý để
đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư cũng như khả năng chi trả của doanh nghiệp và
người dân. Sửa đổi các quy định về phần vốn tham gia của Nhà nước, không quy
định cứng mức trần tỷ lệ vốn của Nhà nước tham gia dự án/ hình thức tham gia
vốn của Nhà nước cũng sẽ được lượng hóa, cụ thể hơn. Sửa đổi các yêu cầu về
nội dung đề xuất dự án và các bước lựa chọn, triển khai và thực hiện cho phù
hợp với thực tế.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn NSNN và có nguồn
gốc NSNN
Điều chỉnh cơ chế sử dụng vốn NSNN, NSNN chuyển sang hỗ trợ và điều
tiết cạnh tranh đối với các công trình KCHT, được bố trí tập trung cho các công
trình trọng điểm, giải quyết nhu cầu đối với các dự án, công trình mang lại ít lợi
ích tài chính trực tiếp (kém hấp dẫn đối với khu vực tư nhân). Đồng thời, nguồn
vốn NSNN được sử dụng hợp lý trong việc tham gia các dự án đầu tư KCHT
theo mô hình đối tác công - tư (PPP) nhằm đảm bảo sự tin cậy chia sẻ rủi ro
trong việc đầu tư và kinh doanh các công trình KCHT có sự tham gia của tư
nhân. Vốn NSNN cần được sử dụng để tạo điều kiện hình thành và phát triển thị
trường hấp dẫn trong đầu tư phát triển KCHT, sử dụng hỗ trợ và tạo điều kiện để
các dự án hạ tầng có lợi ích trực tiếp, hấp dẫn nhà đầu tư từ khu vực tư nhân
tham gia.
Thứ tư, về lãnh đạo điều hành
Nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của nhà nước, tăng cường sự chỉ đạo
điều hành của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp từ tỉnh đến huyện, xã đối
152
với việc đầu tư phát triển KCHT giao thông, đối với sự phát triển kinh tế, xã hội
ở địa phương. Phương châm chỉ đạo là tăng cường tuyên truyền làm thay đổi
nhận thức và tư duy của một số cán bộ lãnh đạo và nhân dân trong việc huy
động các nguồn lực tài chính, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm, đề cao tinh thần
độc lập tự chủ, loại bỏ tâm lý trông chờ ỷ lại vào nhà nước. Ban hành cơ chế,
chính sách phù hợp để huy động hiệu quả các nguồn vốn đầu tư KCHT giao
thông. Phân cấp quản lý các công trình hạ tầng giao thông, xác định rõ trách
nhiệm của các cấp, các ngành, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, xử lý kịp
thời các trường hợp vi phạm lấn chiếm hành lang ATGT, các hành vi làm hư
hỏng, hủy hoại các công trình hạ tầng giao thông, phát hiện kịp thời các sự cố
và có biện pháp sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng thường xuyên các công trình hạ
tầng giao thông.
Thứ năm, đổi mới tổ chức nhân sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
thi các giải pháp
Nói đến tổ chức và nhân sự hoạt động trong lĩnh vực đầu tư phát triển
KCHT giao thông là nói đến các cơ quan thay mặt cho chủ đầu tư (các ban quản
lý), các nhà thầu tư vấn, xây dựng và nhiều đơn vị liên quan khác. Nhìn chung
theo đánh giá, các hoạt động của các đơn vị này bên cạnh những kết quả đạt
được vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần thiết phải có những đổi mới. Cụ thể:
- Năng lực của các cơ quan thay mặt cho chủ đầu tư còn những bất cập.
Điều này thể hiện ở gần như mọi “công đoạn” từ chuẩn bị dự án đến thực hiện
dự án.
Một số bộ phận còn thực hiện công việc theo tư duy rất cũ mặc dù môi
trường đầu tư (chế độ, chính sách... được đổi mới hàng ngày). Tính thụ động
trong công việc còn khá phổ biến, trách nhiệm cá nhân (cá nhân hoặc cơ
quan) còn chưa được làm minh bạch nên dễ dẫn đến tình trạng "mọi người
đều quan tâm một việc nhưng trách nhiệm thì không ai là người chịu chính".
Tình trạng này khá phổ biến ở cơ quan công quyền các cấp chứ không riêng
trong ngành GTVT.
153
Năng lực của các cơ quan của chủ đầu tư còn bị hạn chế bởi các quy định,
quy chế vận hành hệ thống. Việc thay đổi cơ chế vận hành cho phù hợp với Luật
xây dựng và những quy định kèm theo khá chậm. Xác định vai trò trách nhiệm
của "chủ đầu tư" còn lúng túng trong thời gian dài làm cho không ai là chủ thực
sự, chịu trách nhiệm từ đầu cho đến khi kết thúc quá trình xây dựng công trình.
Sự cấn cấn giữa chức năng quản lý nhà nước về đầu tư và quản lý sản xuất đôi
khi còn chưa được phân biệt.
Công tác chuẩn bị và thực hiện dự án xây dựng được quan tâm nhiều hơn
công tác giám sát đầu tư (trong đó bao gồm cả việc theo dõi, đánh giá hiệu quả
dự án) còn bị xem nhẹ. Trải qua nhiều năm thực hiện đầu tư kinh phí đáng kể
nhưng chúng ta cũng chưa có một đánh giá nào hoàn chỉnh dự án và vì vậy cũng
chưa có cơ sở cho những định hướng đầu tư trong tương lai khi mà sự phát triển
KT-XH của đất nước sẽ đến lúc đòi hỏi nhiều hơn những giải pháp phi công
trình, thân thiện với môi trường. Mối liên hệ với cộng đồng của các dự án còn rất
hạn chế. Thông tin về dự án còn chưa đến với cộng đồng được hưởng lợi cũng
như bị ảnh hưởng để nhận về và xử lý các phản hồi. Nếu làm tốt vấn đề này có
thể sẽ tăng cường sự đồng thuận của dân chúng cũng như sẽ tạo được kênh cho
sự giám sát của cộng đồng.
- Năng lực của các nhà thầu Tư vấn/nhà thầu xây dựng còn chưa đáp ứng
được yêu cầu cả về lượng và chất. Hệ quả của sự yếu kém này ảnh hưởng trực
tiếp đến Tiến độ thực hiện dự án cũng như chất lượng và hiệu quả của dự án.
Một thời gian rất dài không ai chăm lo đến việc tăng cường năng lực cho các cơ
quan tư vấn. Tuy cũng là các doanh nghiệp nhưng sản phẩm tư vấn có trình độ
thấp thì xã hội chịu thiệt thòi nhiều hơn. Các cơ quan Tư vấn thực tế mới là sự
chuyển đổi từ các đơn vị Khảo sát-Thiết kế, tỷ lệ "thợ vẽ" còn chiếm phần lớn
cho nên chúng ta thiếu rất nhiều chuyên gia Tư vấn giỏi. Để có một nhân lực tư
vấn đủ năng lực cần thời gian đào tạo và trưởng thành trong công việc trên 10
năm. Cung cách điều hành, tư duy bảo thủ trì trệ ở một số đơn vị, một số cá nhân
Tư vấn đã làm chậm hoặc mất đi khả năng "Tự nâng cao năng lực" của Tư vấn
154
(một yếu tố tối cần thiết để Tư vấn phát triển và hội nhập). Sự chậm phát triển
của Tư vấn phần nào cũng do các chính sách của Nhà nước và ngành chưa thực
sự tạo động lực thúc đẩy Tư vấn phát triển. Một khi chúng ta ý thức được rằng
sự yếu kém của Tư vấn sẽ dẫn đến sản phẩm không tốt cho xã hội, ảnh hưởng
đến sự phát triển chung của ngành thì các cơ quan Chính phủ, Bộ chuyên ngành
cần có những chính sách nhằm khuyến khích Tư vấn nâng cao năng lực (việc
chọn thầu tư vấn với giá rẻ lâu nay không khyến khích Tư vấn sáng tạo, tìm tòi
giải pháp tốt nhất cho dự án).
Tình trạng yếu kém của các nhà thầu xây dựng cũng là nguyên nhân ảnh
hưởng tới Công tác đầu tư xây dựng của ngành. Xây dựng các công trình GTĐB
có tính đặc thù khác nhiều so với xây dựng dân dụng vì vậy cũng đòi hỏi những
nhà xây dựng chuyên nghiệp. Thời gian qua do nhiều lý do, trong đó có lý do
thuộc về quản lý đầu tư của chính phủ, dẫn đến hầu hết các nhà thầu xây dựng
GTĐB đã và đang bị suy yếu, nhân lực tốt ra đi, máy móc không được tăng
cường, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém... Ngày nay khi hàng loạt công trình
dùng vốn TPCP (tức là sẵn sàng thanh toán) nhưng lực đã bất tòng tâm. Các nhà
thầu ngoài ngành đang tham gia mạnh vào thị trường xây dựng GTĐB nhưng
ngoài một vài đơn vị có năng lực tốt thì hầu hết năng lực và kinh nghiệm không
đáp ứng được yêu cầu.
Tổ chức quản lý đầu tư xây dựng công trình nhìn chung còn chậm đổi
mới. Một số bộ phận quản lý còn sa đà vào các vấn đề chi tiết kỹ thuật mà chưa
quan tâm các vấn đề có tính vĩ mô. Những quy trình thực hiện các công việc
dường như còn chưa chuẩn bị tốt. Những quy định này cần phải chỉ dẫn tường
tận cho các cơ quan cùng tham gia thực hiện dự án kể cả Tư vấn và các nhà thầu
xây dựng. Ví dụ, Theo các Nghị định hướng dẫn Hồ sơ TKCS công trình nhóm
A phải được thẩm định trong thời gian 20 ngày sau khi nhận đủ các hồ sơ hợp lệ.
Như vậy cần quy định rõ thế nào là hồ sơ hợp lệ và sau khi đã hợp lệ rồi thì phải
được thẩm tra trong vòng 20 ngày. Chúng ta thường bị chậm vì ngay từ đầu
không xác định với nhau là hồ sơ đã hợp lệ chưa, giữa chừng yêu cầu bổ sung tài
155
liệu này, khác và thế là công tác thẩm tra kéo dài. Dường như cách kiểm tra sơ
bộ theo kiểu "check list" chưa được áp dụng. Sự quá tải của các cơ quan Thẩm
tra, Thẩm định ngoài yếu tố thiếu nhân lực cũng còn do cách thức làm việc. Khi
đã ý thức được rằng các cơ quan Thẩm định không thể có thời gian và sức lực
xem kỹ hàng trăm, ngàn hồ sơ thiết kế thì cách thức Thẩm tra thẩm định đúng
mức cần thiết sẽ làm giảm tải cho cán bộ đồng thời tập trung đánh giá những
điểm chính yếu như Sự tuân thủ quy hoạch, tuân thủ Quy chuẩn và Tiêu chuẩn,
sự an toàn công trình, kinh tế, an tòan môi trường...
Tổ chức quản lý đầu tư còn chưa thực sự quan tâm đến việc giám sát đầu
tư và đánh giá hiệu quả dự án.
Tổ chức quản lý và thực hiện các dự án dùng vốn ODA hiện cũng còn
nhiều lấn cấn: mối quan hệ công việc và trách nhiệm giữa CPO, PMU, Cục
quản lý XDCT; năng lực các nhà Tư vấn quốc tế cũng có vấn đề; quyền lực
của bên vay dường như bị hạn chế chưa hẳn đã do bên cho vay mà còn do
năng lực quản lý của bên vay Các thủ tục làm mất khá nhiều thời gian chờ
đợi của dự án.
Tóm lại, vấn đề tổ chức quản lý đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng phát
triển các KCHT giao thông đường có mối quan hệ ảnh hưởng lớn đên vấn đề
huy động vốn đầu tư phát triển KCHT giao thông đường bộ. Với hiện trạng tổ
chức quản lý như phân tích ở trên, tất yếu sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực
thi các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển KCHT giao thông đường bộ
trong thực tiễn. Do đó, đổi mới công tác tổ chức quản lý trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng là điều kiện để thực hiện tốt các giải pháp huy động vốn.
Thứ sáu, nâng cao trình độ cán bộ phụ trách các công việc trong hoạt
đồng đầu tư phát triển KCHT giao thông đường bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
Suy cho cùng cán bộ là nhân tố quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội
của đất nước. Trong đầu tư phát triển KCHT giao thông đường bộ cũng không
ngoại lệ.
156
Hoạt động huy động vốn đầu tư phát triển hệ thống GTĐB liên quan trực
tiếp đến trách nhiệm của đội ngũ làm công tác GTVT và đội ngũ làm công tác
tài chính ở địa phương. Trình độ, năng lực quản lý của đội ngũ làm công tác
GTVT và đội ngũ làm công tác quản lý tài chính ở địa phương có ảnh hưởng
không nhỏ đến công tác huy động vốn đầu tư phát triển KCHT giao thông
đường bộ. Do đó, để có thể thực thi các giải pháp huy động vốn phải hết sức
quan tâm nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Đối với
Bắc Giang, trong bối cảnh mở rộng phân cấp quản lý đầu tư XDCB cho các
huyện và các xã, thì phải hết sức quan tâm đến đội ngũ làm công tác GTVT và
công tác tài chính ở cấp huyện và cấp xã. Hướng quan tâm là; tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực, trình độ quản lý kinh tế, tài chính nói chung,
năng lực trình độ quản lý trong lĩnh vực GTVT nói riêng, đồng thời với việc
nâng cao năng lực trình độ cho cán bộ, cần có kế hoạch sắp xếp, bố trí cán bộ
phù hợp với năng lực quản lý trong lĩnh vực GTVT, đặc biệt cán bộ Ban
QLDA cấp tỉnh và huyện.
Thứ bẩy, đẩy mạnh tạo bước đột phá trong cải cách hành chính.
Trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa điện tử”
và “một cửa điện tử liên thông” theo hướng công khai, minh bạch, nhất là
trong lĩnh vực Đầu tư; Đất đai; Xây dựng; Quản lý ngân sách, thuế. Qui rõ
trách nhiệm, quyền hạn của các cấp, các ngành trong việc thu hút đầu tư, nâng
cao tính chủ động sáng tạo trong quản lý điều hành. Đấu tranh mạnh mẽ có
hiệu quả các hành vi tiêu cực, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho
người dân và doanh nghiệp. Xử lý kiên quyết và thay thế kịp thời các trường
hợp vi phạm, cán bộ năng lực yếu, thiếu tinh thần trách nhiệm, không hoàn
thành nhiệm vụ.
157
Tiểu kết chương 3
Đối với Bắc Giang, cũng như cả nước hệ thống KCHT giao thông vận tải
nói chung, hệ thống KCHT giao thông đường bộ nói riêng được ví như hệ thống
mạch máu trong cơ thể con người. Hệ thống mạch máu tắc nghẽn, ngưng trệ, nếu
không được sử lý kịp thời, sự sống của con người sẽ chấm dứt. Hệ thống GTVT
đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội đóng vai trò như là hệ thống mạch
máu trong cơ thể con người. Hệ thống GTVT què quặt, không đồng bộ là một
trong những nguyên nhân dẫn đến kinh tế kém phát triển, văn hóa lạc hậu, khó
có thể giải quyết được mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nhất là những tỉnh trung du,
miền núi như Bắc Giang. Do đó, đầu tư phát triển hệ thống KCHT giao thông
vận tải nói chung, KCHT giao thông đường bộ nói riêng là nhiệm vụ trọng tâm,
cần được quan tâm chỉ đạo đi trước một bước trong định hướng, quan điểm chỉ
đạo của lãnh đạo tỉnh Bắc Giang. Bắc Giang đã phê duyệt Quy hoạch đầu tư
phát triện hệ thống GTĐB đến năm 2020. tầm nhìn đến năm 2030. Để có thể
thực hiện được quy hoạch đó, theo tính toán của tỉnh cần một khoản vốn đầu tư
rất lớn trên 40.074 tỷ đồng. Nếu lấy số thu NSĐP năm 2013 là trên 2.500 tỷ
đồng, giả sử toàn bộ số thu đó đều phân bổ cho đầu tư phát triển KCHT giao
thông đường bộ thì phải mất đến 16 năm mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn
đầu tư xây dựng KCHT giao thông đường bộ theo Quy hoạch được duyệt. Đưa
ra ví dụ này với ẩn ý là để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển KCHT giao
thông đường bộ của tỉnh Bắc Giang theo quy hoạch không thể chỉ trông cậy vào
NSĐP mà phải tiến hành các giải pháp huy động đồng bộ tất cả các nguồn vốn
đầu tư từ các chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên, với thực tế của Bắc Giang trong
những năm tới, việc huy động vốn cho đầu tư phát triển KCHT giao thông
đường bộ, cần quan tâm đến nguồn vốn từ khu vực tư nhân và đặc biệt là nguồn
vốn nước ngoài. Đó chính là điểm nhấn trong các giải pháp huy động vốn mà
chương 3 của luận án đề cập.
158
KẾT LUẬN
Kết cấu hạ tầng GTĐB là một nhánh chủ yếu quan trọng trong kết cấu hạ
tầng GTVT của tỉnh Bắc Giang. Ngay sau khi tái thành lập tỉnh (1997), xây
dựng, phát triển KCHT giao thông vận tải nói chung, KCHT giao thông đường
bộ nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh Bắc Giang. Nhiều
kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, nhiều khóa của HĐND và UBND đều đề cập đến vấn
đề phát triển hệ thống KCHT giao thông đường bộ. Tuy nhiên, cho đến nay
theo đánh giá của tỉnh bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống KCHT
GTĐB vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Khó khăn lớn nhất để có thể phát
triển hệ thống KCHT GTĐB một cách đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát
triển nhanh, bền vững nền kinh tế của tỉnh Bắc Giang là vấn đề vốn. Lấy vốn ở
đâu để có thể đáp ứng được nhu cầu vốn lớn theo Quy hoạch phát triển GTĐB
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của tỉnh? Đó là câu hỏi làm đau đầu
lãnh đạo và các cấp quản lý của tỉnh. Luận án tiến sĩ với đề tài “Huy động vốn
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ tỉnh Bắc Giang” có
thể trả lời phần nào cho câu hỏi đó.
Nhằm đưa ra những luận cứ về lý thuyết cũng như thực tiễn trả lời cho
câu hỏi đó luận án, đã tập trung nghiên cứu những vấn đề mang tính lý thuyết về
KCHT cũng như các vấn đề về huy động vốn. Tuy nhiên tâm điểm mà bản luận
án đi sâu phân tích là đánh giá một cách khách quan hiện trạng huy động vốn
đầu tư phát triển của tỉnh Bắc Giang giai đoạn từ 2001-2013, chỉ ra những
nguyên nhân khách quan và chủ quan làm hạn chế công tác huy động vốn đầu tư
phát triển KCHT giao thông đường bộ của tỉnh trong giai đoạn nghiên cứu.
Trong số các nguyên nhân mà luận án đề cập, luận án nhấn mạnh đến điều kinh
tế, xã hội của tỉnh (kinh tế chưa phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp so
với mức thu nhập bình quân của cả nước; số lượng doanh nghiệp còn bé, tích lũy
tài chính còn hạn chế, đa số là đồng bào dân tộc) và các cơ chế hợp lý để thu hút
nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách. Xác định rõ nguyên nhân, luận án đã đi sâu
nghiên cứu đề xuất các giải pháp huy động từng nguồn vốn trong xã hội.
159
Gắn với điều kiện KT-XH của tỉnh Bắc Giang, Luận án nhấn mạnh đến
các giải pháp huy động vốn từ khu vực tư nhân và đặc biệt là nguồn vốn nước
ngoài đối với tỉnh Bắc Giang, coi như đó là một trong những điểm nhấn của
Luận án.
Vấn đề huy động vốn là vấn đề phức tạp, không chỉ liên quan đến vấn đề
mang tính kỹ thuật đơn thuần mà nó có ảnh hưởng rất lớn đến các mục tiêu của
kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy việc nghiên cứu các giải pháp huy động vốn đầu tư
phát triển KCHT giao thông đường bộ mà bản Luận án đề xuất không tách rời
các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Đó là những vấn đề cơ bản mà bản
Luận án quan tâm giải quyết.
160
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Dương Văn Thái (2011), “Huy động các nguồn lực phát triển kết cấu hạ
tầng và đô thị”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán, số 8 (97), tr.71-72.
2. Dương Văn Thái (2013), “Phát triển và quản lý kết cấu hạ tầng kinh tế
tỉnh Bắc Giang - Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Thanh tra
Tài chính, số 36, tr.31-32
3. Dương Văn Thái (2014), “Huy động các nguồn vốn phát triển hạ tầng
giao thông đường bộ tỉnh Bắc Giang hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tài
chính kế toán, số 03 (128), tr.71-73.
161
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI), Nghị quyết 13-NQ/TW Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI ngày 16/01/2012 về xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
2. Bộ Chính trị, Kết luận số 26-KL/TW ngày 02/8/2012 về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 về phát triển KT-XH
và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du, miền núi Bắc Bộ.
3. Bộ Giao thông Vận tải (2013), Quyết định số 4403/QĐ-BGTVT ngày
31/12/2013 Phê duyệt đề án Huy động các nguồn lực đột phá để đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
4. Bộ Tài chính (2012), Thông tư 81/2012/TT-BTC ngày 22/5/2012 hướng
dẫn về phát hành trái phiếu chính quyền địa phương tại thị trường
trong nước.
5. Bộ Tài chính (2012), Thông tư 197/2012/TT-BTC 15/01/2012 hướng
dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ theo
đầu phương tiện.
6. Bộ Xây dựng (2014), Quyết định 634/QĐ-BXD ngày 09/06/2014 về việc
công bố Suất vốn đầu tư xây dựng công trình và giá xây dựng tổng
hợp bộ phận kết cấu công trình năm 2013.
7. Thái Bá Cẩn, Quản lý tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản.
8. Chính phủ (2009), Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 về đầu
tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao,
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh, Hợp đồng Xây
dựng - Chuyển giao.
9. Chính phủ (2012), Nghị định 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 của
Chính phủ về Quỹ bảo trì đường bộ.
10. Cục Thống kê Bắc Giang (2000-2013), Niên giám thống kê.
162
11. Cù Minh Đạo (2012), Một số giải pháp thu hút và quản lý đầu tư trực
tiếp nước ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học
Giao thông Vận tải, cơ sở II - Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Đào Tăng Định (2012), Hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư xây dựng
công trình giao thông đường bộ trên địa bàn Bình Định đến năm
2020, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Giao thông Vận tải cơ sở II
Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Minh Đức (2012), Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất
lượng quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình sử dụng vốn Nhà
nước, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội.
14. Học viện Tài chính, Giáo trình quản lý tài chính công.
15. HĐND tỉnh Bắc Giang, Nghị quyết số 28/NQ-HĐND thông qua Đề án
thành lập Quỹ đầu tư phát triển tỉnh Bắc Giang.
16. HĐND tỉnh Bắc Giang, Nghị quyết số 24/NQ-HĐND về việc phân bổ
vốn đầu tư phát triển nguồn vốn ngân sách Nhà nước năm 2014.
17. Trịnh Thị Thúy Hồng (2012), Quản lý ngân sách Nhà nước trong đầu tư
xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định, Luận án Tiến sĩ,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
18. Bùi Văn Khánh (2010), Huy động nguồn lực tài chính xây dựng kết cấu
hạ tầng giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, Luận án
Tiến sĩ, Học viện Tài chính.
19. Võ Đại Lược, Một số vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam,
Ecna.gov//van /%20đe%xay%20dung%20co%so
20. M.J Keynes, Lý thyết chung về lao động, lãi suất và tiền tệ (General
theory Employment Interest and Money).
21. Phan Thị Bích Nguyệt (2013), "PPP- Lời giải cho bài toán vốn để phát
triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị thành phố Hồ Chí Minh", Tạp
chí Phát triển & Hội nhập, số 10 (20) tháng 5-6.
163
22. Phạm Thu Phương (2007), Chuyển đổi các hình thức đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Quốc gia
Hà Nội.
23. Nguyễn Ngọc Quang (2012), Vốn ODA trong xây dựng cơ sở hạ tầng giao
thông Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Ngân
sách nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002.
25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất
đai số 45/2014/QH13.
26. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đầu
tư công số 49/2014/QH13.
27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Xây
dựng số 50/2014/QH13.
28. Sở Giao thông Vận tải Bắc Giang, Báo cáo đề án quy hoạch đến năm 2020.
29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Giang, Các báo cáo thường niên.
30. Sở Tài chính Bắc Giang (2013), Báo cáo năm 2013.
31. Đặng Trung Thành (2012), Nghiên cứu phát triển bền vững cơ sở hạ
tầng giao thông vùng đồng bằng sông Cửu Long, Luận án Tiến sĩ,
Trường Đại học Giao thông Vận tải.
32. Nguyễn Lương Thành, Tăng cường huy động vốn đầu tư xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh trong thời
kỳ đổi mới - Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, Luận án Tiến sĩ,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
33. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định 71/2010/QĐ-TTg ngày
09/11/2010 về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức
đối tác công - tư.
34. Hồ Hữu Tiến (2010), Giải pháp huy động vốn tín dụng phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng, Luận án Tiến sĩ, Học viện
Tài chính.
164
35. Tỉnh ủy Bắc Giang (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang khóa XV(nhiệm kỳ 2001-2005).
36. Tỉnh ủy Bắc Giang (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang khóa XVI (nhiệm kỳ 2005-2010).
37. Tỉnh ủy Bắc Giang (2011), Chương trình phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2011-2020.
38. Tỉnh ủy Bắc Giang (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang khóa XVII (nhiệm kỳ 2011-2015).
39. Tỉnh Bắc Giang, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-
2020.
40. Nguyễn Đức Tuyên (2009), Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông
thôn tỉnh Bắc Ninh - Kinh nghiệm và giải pháp, Luận án Tiến sĩ,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
41. UBND tỉnh Bắc Giang (2006), Quyết định số 74/2006/QĐ-UBND ngày
20/11/2006 phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống giao thông vận
tải Bắc Giang 2001-2010, tầm nhìn đến năm 2020.
42. UBND tỉnh Bắc Giang (2012), Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày
14/3/2012 phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải tỉnh
Bắc Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
43. UBND tỉnh Bắc Giang (2014), Quyết định 95/QĐ- UBND ngày
04/03/2014 về việc thành lập Quỹ Đầu tư phát triển tỉnh Bắc Giang.
44. Nguyễn Quang Vinh (2007), Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Tài liệu trên trang Website
45. Bàn về nội dung vốn đầu tư trong nền kinh tế,
chinh/ban-ve-noi-dung-von-dau-tu-trong-kinh-te-.aspx.
46. Voer,edu.vn/thi-truong-von-quoc-te/ff9f77b.
165
* Tài liệu tiếng Anh
47. Aman Khan, W. Bartley Hildreth (2004), Financial Management theory
in The Public Sector, Greenwood Publishing Group.
48. Aman Khan, W. Bartley Hildreth (2002), Budget theory in The Public sector
The United States 0f America: An imprint of Greenwood.
49. Anand Rajaram, Tuan Minh Le, Nataliya Biletska anh Jim Brumby
(8/2010), A Diagnostic Framework for Assessing Public Investment -
WB, Washington, D.C,U.S.A.
50. Angel de la Fuente (2004), Second - best redistribution through pubic
investmen: acharacterization, an empirial test and application to the
case of Spain Available online at www.sciencedirrect.com.
51. Bemard Myers, Thomas Laursen (2008), Public Investment
Management in EU.
52. Barry H. Potter anh Jack Diamond (1999), Guidelines for Public
Expenditure Management IMF.
53. Era Babla-Norris, Jim Brumby, Annette Kyobe, Zac Mills and Chris
Papageorgiou (2011), Investing in Public Investment, An Index of
Public Investment Efficiency International Monetary Fund.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_thai_nop_qd_4929.pdf