- Đã đề xuất được một số khuyến nghị đối với các NHTM và các cơ quan quản
lý nhà nước nhằm ứng dụng thành công mô hình Kiểm tra sức chịu đựng để quản trị
RRTD nội bộ tại các NHTM.
Các kết quả nghiên cứu của Luận án cho phép gợi mở những hướng nghiên
cứu tiếp theo về Kiểm tra sức chịu đựng sau:
- Phân tích tác động của hiện tượng phản hồi (“feedback effects”) tại Việt
Nam. Điều này dựa trên cơ sở hệ quả của chuỗi xoắn ốc này là ngân hàng chịu tác
động kép từ cuộc khủng hoảng, và vì vậy, hậu quả của cuộc khủng hoảng đối với
ngân hàng thường trầm trọng hơn những tính toán trong trạng thái bình thường.
- Khi xây dựng mô hình tác động của kinh tế vĩ mô đối với tỷ lệ nợ xấu ngân
hàng, Luận án chỉ nghiên cứu số liệu của các ngân hàng niêm yết và trong khoảng
thời gian từ năm 2009 tới nay. Đồng thời, việc phải sử dụng các công thức chuyển
đổi từ NPL sang PD và RWA do không có số liệu chuẩn về PD, LGD và EAD của
ngân hàng có thể làm giảm tính chính xác của mô hình. Các nghiên cứu tiếp theo
nên tiếp tục mở rộng database về chất lượng nợ xấu của các ngân hàng chưa niêm
yết. Đồng thời, trong quá trình bản thân các ngân hàng triển khai mô hình Kiểm tra
sức chịu đựng , cần chú trọng xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng theo phương
pháp tiếp cận nội bộ, tính toán các thước đo rủi ro PD, LGD và EAD thay vì NPL
như truyền thống. Như vậy, kết quả Kiểm tra sức chịu đựng mới thực sự có ý nghĩa
và là cơ sở chuẩn xác cho lãnh đạo ngân hàng ra quyết định.
- Cần nghiên cứu thêm các mô hình định lượng tính xác suất vỡ nợ PD, LGD
và EAD, sự thay đổi của chúng trong các giai đoạn khủng hoảng và mô hình mô tả
trực tiếp tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô tới các chỉ số này.
Nói tóm lại, khi áp dụng Kiểm tra sức chịu đựng vào hoạt đông quản trị rủi144
ro và kế hoạch vốn của ngân hàng, nó sẽ giúp ngân hàng hiểu rõ hơn rủi ro tổng thể
danh mục tín dụng của mình, kiểm soát tốt hơn các rủi ro tiềm ẩn tại từng đơn vị
kinh doanh, cũng như củng cố lòng tin của các cơ quan quản lý cũng như cổ đông
về sự bền vững của ngân hàng. Kiểm tra sức chịu đựng cùng với các yêu cầu khác
của Basel II với các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vốn và thanh khoản, các ngân
hàng sẽ hoạch định lại hoạt động kinh doanh và các chiến lược kinh doanh một cách
tích cực hơn. Kiểm tra sức chịu đựng cùng với các công cụ và phương pháp quản lý
rủi ro tiên tiến được triển khai đảm bảo cho những ngân hàng có hệ thống quản trị
rủi ro tốt giảm thiểu chi phí, tập trung phát triển các mảng nghiệp vụ kinh doanh
mới và hiệu quả hơn trong các quyết định phân bổ nguồn vốn kinh doanh. Hơn nữa,
sau khi áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vốn và thanh khoản, ngân hàng sẽ
thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn do ngân hàng hoạt động kinh doanh trong
môi trường đạt tiêu chuẩn quốc tế.
181 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 641 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Kiểm tra sức chịu đựng rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam – Nghiên cứu điển hình Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng như quy mô tổng tài sản, lợi nhuận, tỷ lệ tăng trưởng tín
dụng, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.... Đối với các ngân hàng trong nhóm
NHTM mạnh, việc thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng cần được hướng dẫn triển khai
và yêu cầu thực hiện ngay lập tức hoặc sau một năm so với thời hạn bắt đầu triển khai
áp dụng Basel II theo phương pháp đơn giản nhất. Các ngân hàng trong nhóm còn lại
có thể sẽ có hai đến ba năm chuẩn bị cho việc thực hiện Basel II và Kiểm tra sức chịu
đựng , hoặc sẽ phải sáp nhập vào các ngân hàng mạnh.
Tại Việt Nam, việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn đã
được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từng bước triển khai thông qua việc sửa đổi
và ban hành mới các quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân
hàng. Hiện nay, NHNN đã chọn 10 NHTM đầu tiên triển khai thí điểm Basel II
trong giai đoạn từ cuối năm 2015 đến 2018. Thông qua việc áp dụng Basel II, các
ngân hàng Việt Nam sẽ phải tính toán rủi ro một cách chi tiết giúp giảm thiểu vốn
pháp định cần có trong hoạt động kinh doanh, giảm thiểu việc lựa chọn những
khách hàng không có khả năng trả nợ, do đó sẽ giảm những tổn thất tín dụng, tập
trung nhiều hơn vào những sản phẩm đem lại lợi nhuận; đồng thời, tăng tính minh
bạch cho lợi nhuận của tài khoản và rủi ro, giảm tổn thất hoạt động nhờ những hiệu
quả trong kiểm soát và giám sát.
Trong thời kỳ đầu, NHNN chưa yêu cầu các NHTM thực hiện Kiểm tra sức
136
chịu đựng đối với ba loại rủi ro như Basel II, mà đối với RRTD như trong khuôn
khổ Luận án nghiên cứu này, do RRTD vẫn là loại rủi ro có tầm quan trọng nhất đối
với sự an toàn của các ngân hàng Việt Nam. Về mô hình, trước mắt tập trung áp
dụng các mô hình đơn giản, áp dụng đo độ nhạy với một nhân tố vĩ mô (ví dụ
GDP). NHNN cần hướng dẫn thống nhất phương pháp tính, cũng như quy định các
kịch bản cú sốc ngân hàng nên thực hiện kiểm định để có thể so sánh và rút kinh
nghiệm từ kết quả thu được từ các ngân hàng.
Ngoài những yếu tố trên, NHNN cần khuyến khích các NHTM tăng cường
năng lực thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng , tổ chức đào tạo và tuyên truyền về
Kiểm tra sức chịu đựng cho các nhà quản lý, chuyên viên quản trị rủi ro và công
chúng quan tâm, hỗ trợ về dữ liệu cho các ngân hàng trong quá trình thực hiện kiểm
định. Trong quá trình thực hiện và phát huy vai trò trách nhiệm của mình, NHNN
nên tập trung hơn vào công tác báo cáo, đánh giá, phân tích và dự báo các rủi ro
trong thị trường tài chính để hỗ trợ các ngân hàng xây dựng kịch bản cú sốc phù
hợp với từng thời điểm. Các cơ quan nghiên cứu cần bổ sung những đề tài về cấu
trúc kinh tế và mối quan hệ tác động qua lại giữa nền kinh tế sản xuất với an toàn hệ
thống tài chính ngân hàng. Qua đó, các ngân hàng có thể xác định đúng các chỉ số
kinh tế vĩ mô cần đưa vào kịch bản căng thẳng để kiểm định Kiểm tra sức chịu đựng
.
Tại một thời điểm thích hợp, NHNN có thể xem xét đưa ra những quy định
chặt chẽ hơn về vốn và quản trị rủi ro đối với những định chế tài chính có tầm quan
đối với hệ thống như ngân hàng Vietinbank. Năm 2012, Ủy ban Basel đưa ra khái
niệm về “ngân hàng có vai trò quan trọng quốc gia” (Domestic Systemically
Important Bank, D-SIB) và “ngân hàng có vai trò quan trọng quốc tế” (Global
Systemically Important Bank, G-SIB) (BCBS, 2012). Các ngân hàng này cần có tỷ
lệ an toàn vốn cao hơn các ngân hàng khác trong hệ thống, tương đương với khả
năng chịu đựng rủi ro cao hơn và hấp thụ tổn thất tốt hơn. Tỷ lệ vốn an toàn tối
thiểu đối với các ngân hàng được xếp vào D-SIB là từ 0 đến 2.5% [Đồ thị 5.1]. Các
137
ngân hàng được đánh giá theo 5 tiêu chí: quy mô tổng tài sản, mức độ liên kết với
các ngân hàng khác, khả năng bị thay thế, mức độ phức tạp trong hoạt động.
Đồ thị 5.1: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với ngân hàng D-SIB tại một số nước
Nguồn:Ủy ban Basel
5.3.2. Hoàn thiện hệ thống số liệu kinh tế vĩ mô
Có thể khẳng định, độ chính xác, tin cậy của số liệu thống kê có ý nghĩa quyết
định đối với kết quả Kiểm tra sức chịu đựng . Kết quả phân tích chất lượng số liệu
thống kê tại Luận án này cho thấy, hệ thống thống kê Việt Nam đã có lịch sử hoạt
động từ năm 1946, nhưng vẫn còn có những điểm cần tiếp tục hoàn thiện. Chúng ta
cần nâng cao chất lượng công tác thống kê phải bắt đầu từ việc tuân thủ chặt chẽ
năm tiêu chí: đầy đủ, kịp thời, nhất quán, minh bạch và chính xác. Cụ thể:
Một là, cần xây dựng hệ thống thống kê có chất lượng cung cấp đủ các chỉ số
quan trọng của nền kinh tế. Hiện nay, các thống kê tài chính theo yêu cầu cảnh báo
sớm của IMF chúng ta còn thiếu khá nhiều, cụ thể như chưa có chỉ số giá bất động
sản. Điều này rất quan trọng khi thị trường bất động sản và các ngành liên quan
đóng vai trò lớn trong tỷ trọng tín dụng và được kỳ vọng là yếu tố có thể giúp dự
báo RRTD của các NHTM Việt Nam.
Hai là, số liệu thống kê cần đảm bảo tính kịp thời. Cần khắc phục tình trạng
chậm công bố như số liệu nợ công, dự trữ quốc gia năm 2012 thì phải đến năm 2014
138
mới được công bố. Điều này khiến các nhà nghiên cứu không thể đưa những chỉ số
liên quan đến tài khoản quốc gia vào mô hình đánh giá RRTD do thiếu số lương
quan sát.
Ba là, các cơ quan nhà nước cần đảm bảo sự nhất quán về số liệu công bố.
Đây là một yếu điểm thường gặp tại các nước đang phát triển, khi nguyên nhân có
thể do phương pháp thống kê thay đổi hoặc do khía cạnh / hoạt động kinh tế mà số
liệu đó phản ánh thay đổi, khiến người ta phải thay đổi phương pháp thu thập số
liệu. Cần khắc phục tình trạng không trùng khớp giữa số liệu được công bố trên
website của Tổng cục Thống kê và cơ quan nhà nước khác như Bộ Tài chính, Ngân
hàng Nhà nước, cũng như sự sai lệch về số liệu giữa website và bản in (Niên giám
thống kê). Đồng thời, khi có sự điều chỉnh về số liệu thống kê, các cơ quan nhà
nước cần có giải thích rõ nguyên nhân thay đổi, và lưu giữ song song cả hai dữ liệu
trước và sau khi điều chỉnh để người sử dụng tiện theo dõi.
Bốn là cần nâng cao tính minh bạch của số liệu thống kê, thể hiện ở số lượng
và mức độ chi tiết của các con số được công bố. Ví dụ, số liệu chuỗi CPI có cấu
thành bởi hàng trăm hàng hóa khác nhau, chỉ công bố chỉ số tổng hợp hoặc vài
nhóm hàng hóa lớn sẽ khiến người sử dụng chưa kiểm tra chéo được bản chất con
số có đúng không. Ngoài ra, các số liệu thống kê nên được cung cấp miễn phí và tạo
các công cụ tải về dễ dàng, thuận tiện, giúp cho quá trình nghiên cứu được rút ngắn
về thời gian.
Năm là số liệu thống kê cần được nâng cao hơn nữa về tính chính xác. Nhiều
số liệu về lãi suất, tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố chưa phản ánh trung thực
nhất diễn biến của thị trường. Vì vậy, khi sử dụng vào mô hình định lượng sẽ trở
nên không có giá trị giải thích. Một số chỉ số khác như giá trị xuất nhập khẩu, CPI,
và thậm chí là GDP cũng cần được chính xác hơn. Muốn vậy, nhà nước nên xem
xét vai trò độc lập của Tổng cục Thống kê bên ngoài Chính phủ, được Quốc hội cấp
ngân sách hoạt động hàng năm. Số liệu thống kê cần có sự kiểm tra chéo giữa các
nguồn khác nhau bởi các cơ quan nhà nước, cũng như các tổ chức thu thập dữ liệu
tư nhân.
139
5.3.3. Lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng
Từ kết quả mô hình định lượng Chương 4 ta thấy, nợ xấu hiện tại của các
NHTM niêm yết Việt Nam phụ thuộc tỷ lệ nợ xấu thời kỳ trước, hay nói cách khác,
đang có khối nợ xấu tích tụ trong thời gian dài trong hệ thống ngân hàng mà chưa
được giải quyết, khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn khi lưa chọn giữa tăng
trưởng hay thu hẹp quy mô dư nợ. Ngân hàng nhà nước cần phải nhanh chóng tiến
hành giải quyết nợ xấu một cách tích cực và hiệu quả hơn để hoạt động hệ thống
ngân hàng thực sự lành mạnh, tăng khả năng chịu đựng đối với những thay đổi lớn
về chính sách. Nếu muốn áp dụng chuẩn Basel II và thực hiện Kiểm tra sức chịu
đựng , các ngân hàng buộc phải tái cơ cấu mạnh mẽ để hoàn thiện cả chất lẫn lượng
mới có thể đáp ứng được những yêu cầu về chỉ số an toàn đề ra. Để đáp ứng những
chuẩn mực đó, ngân hàng phải xử lý nợ xấu quyết liệt, đồng thời một yêu cầu quan
trọng nữa là phải tăng vốn điều lệ.
Thứ nhất, do toàn bộ nợ xấu của từng tổ chức tín dụng đã về mức cho phép là
3% nên NHNN không nên tiếp tục yêu cầu các tổ chức tín dụng bán nợ xấu cho
VAMC mà cần tự giải quyết, thu hồi triệt để. TS. Trương Văn Phước, Phó Chủ tịch
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho rằng, cần có các chính sách tiếp tục ổn định
kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững nhằm giúp hệ thống tổ chức tín dụng có khả
năng sinh lời cao hơn, từ đó có nguồn lực xử lý nợ xấu. Trong điều kiện như hiện
nay, VAMC chưa có khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, chưa có thị trường mua
bán nợ phát triển; sản xuất, kinh doanh chưa có sự phục hồi mạnh mẽ. Do đó,
VAMC chưa thể trở thành giải pháp tối ưu để có thể xử lý nợ xấu một cách triệt để.
Đối với những khoản nợ xấu VAMC đã mua, VAMC cần đặt mục tiêu hàng đầu
trong triển khai công việc từ năm 2016 là tập trung toàn lực vào việc xử lý nợ và
mua nợ theo giá thị trường đối với những khoản nợ xấu mới phát sinh. Đồng thời,
tham gia góp vốn, chuyển nợ thành vốn góp để tái cấu trúc doanh nghiệp có khả
năng phục hồi sản xuất.
Thứ hai, NHNN cần xây dựng những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức, cá nhân nước ngoài có thể tham gia mua nợ xấu của các tổ chức tín
140
dụng. Có được nguồn tài chính không phải từ ngân sách nhà nước giải quyết nợ xấu
sẽ giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Việc người nước ngoài tham gia
mua bán nợ xấu cũng làm cho thị trường mua bán nợ xấu được minh bạch hơn, giá
trị của các khoản nợ xấu sẽ được xác định chính xác hơn. NHNN cần hoàn thiện
khung pháp lý về mua, bán và xử lý nợ xấu, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung Thông tư số
19/2013/TT-NHNN phù hợp với Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015 của
Chính phủ và yêu cầu của thực tiễn; phối hợp với các cơ quan chức năng tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, quy định của pháp luật về xử lý nợ, tài
sản bảo đảm, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mua, bán nợ xấu và tài sản bảo
đảm. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc thu giữ,
xử lý tài sản bảo đảm, xét xử, thi hành các vụ án liên quan đến vay vốn ngân hàng.
Thứ ba, đối với các ngân hàng sau lộ trình chuẩn bị thực hiện Basel II mà vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu, NHNN cần có những biện pháp yêu cầu các ngân hàng
này cần phải sáp nhập vào một ngân hàng khác đã bắt đầu thực hiện Basel II. Trước
hết là việc nâng cao tính thị trường trong các thương vụ mua bán, sáp nhập nhằm
tạo ra một hệ thống ngân hàng mới lành mạnh hơn. Trong nhóm giải pháp sắp xếp
lại hệ thống ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới, tính thị trường còn cần thể
hiện ở khía cạnh chỉ nên yêu cầu sáp nhập các ngân hàng yếu kém với nhau. Đối
với nhóm ngân hàng lành mạnh, NHNN nên hạn chế tối đa việc sử dụng biện pháp
“định hướng” sáp nhập vì có thể điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động
của nhóm ngân hàng này. Hơn nữa, việc cố gắng sắp xếp các ngân hàng được xếp
nhóm “lành mạnh” có thể sẽ tạo ra hành vi tiêu cực đến từ các ngân hàng bị buộc
“sáp nhập” như tăng cường tuyển dụng nhân sự để được tiếp nhận như nhân viên
của ngân hàng sau sáp nhập chẳng hạn. Ngoài ra, tính thị trường trong các biện
pháp sắp xếp lại hệ thống ngân hàng còn nằm ở chỗ NHNN Việt Nam có thể
mạnh dạn để một vài ngân hàng nhỏ yếu kém phá sản. Việc mua lại 0 đồng có
thể tạo được kỷ luật thị trường đối với cổ đông hiện hữu nhưng chưa có sự cảnh
báo đối với công chúng gửi tiền. Do đó, phá sản ngân hàng sẽ là biện pháp trong
tương lai mà NHNN có thể sử dụng nhằm tăng cường kỷ cương hoạt động của
141
các ngân hàng. Tuy nhiên, việc công bố sáp nhập các ngân hàng này cần phải
được thông báo rõ ràng cho người dân và các bên liên quan để tránh tình trạng bất
ổn định trong xã hội.
Cuối cùng, NHNN cần nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
giám sát hoạt động của các ngân hàng. Cụ thể, NHNN cần xây dựng được bộ chỉ
tiêu cảnh báo sớm khủng hoảng đối với các NHTM đang hoạt động, đồng thời bộ
chỉ tiêu này cũng là cơ sở để NHNN xếp hạng tín dụng các ngân hàng này. Công tác
thanh tra giám sát cũng cần được thực hiện tập trung và có sự phối hợp với các bộ,
ban ngành khác, tránh để xảy ra tình trạng nhiều cơ quan liên tục thanh tra, giám sát
các ngân hàng, tạo ra sự phiền hà, khó khăn cho hoạt động của ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5
Dựa trên kết quả nghiên cứu từ Chương 1 đến Chương 4, Chương 5 đã khái
quát mô hình kiểm định sức chịu đựng RRTD tại Vietinbank để có thể áp dụng cho
các NHTM khác tại Việt Nam. Tác giả cũng đưa ra một số vấn đề kỹ thuật cần lưu ý
nhằm nâng cao tính chính xác của mô hình và là tiền đề cho những nghiên cứu sau.
Ngoài vấn đề hoàn thiện mô hình định lượng, Chương 5 đã chỉ ra bốn đề xuất đối
với các ngân hàng và ba khuyến nghị đối với các cơ quan nhà nước trên khía cạnh
hệ thống văn bản hướng dẫn, vị trí vai trò của Kiểm tra sức chịu đựng và Basel II,
hệ thống số liệu thống kê kinh tế xã hội và nội bộ ngân hàng, chất lượng nhân sự
thực hiện nhằm nâng cao hơn nữa ứng dụng Kiểm tra sức chịu đựng RRTD tại các
NHTM Việt Nam trong thời gian tới.
142
KẾT LUẬN
Mặc dù chưa có những quy định bắt buộc tiến hành Kiểm tra sức chịu đựng ,
nhưng trong bối cảnh hoạt động ngân hàng có thể chịu tác động xấu và khó lường từ
những thay đổi của kinh tế trong và ngoài nước, có thể khẳng định đây là một công
cụ quản trị rủi ro hữu hiệu tại các NHTM Việt Nam.Tuy Kiểm tra sức chịu đựng
RRTD đã được ứng dụng Kiểm tra sức chịu đựng , nhưng do còn khá mới mở mẻ,
nên không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Qua quá trình hoạt động thực tiễn và nghiên cứu tài liệu có liên quan, tác giả
đã lựa chọn đề tài “Kiểm tra sức chịu đựng rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam
– Điển hình Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam” là nội dung nghiên cứu
Luận án Tiến sỹ nhằm hoàn thiện mô hình Kiểm tra sức chịu đựng vi mô đối với
RRTD, ứng dụng trong hoạt động quản trị nội bộ mỗi ngân hàng. Kết quả Luận án
đã hoàn thành những mục tiêu nghiên cứu đặt ra, cụ thể:
- Đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về Kiểm tra sức chịu đựng RRTD
của NHTM: khái niệm, phân loại, mô hình và vai trò của Kiểm tra sức chịu đựng
trong quản trị ngân hàng;
- Đã phân tích đặc điểm của môi trường kinh tế vĩ mô Việt Nam giai đoạn
2009-2015, và những điểm chính của chính sách điều hành tín dụng của NHNN; từ
đó rút ra những yếu tố có tác động đến RRTD ngân hàng, và những điều chỉnh cần
thiết đối với số liệu tín dụng ngân hàng, làm cơ sở để xây dựng mô hình Kiểm tra
sức chịu đựng vi mô;
- Đã phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và triển khai Kiểm tra sức chịu
đựng tại Vietinbank. Từ đó, nghiên cứu nhấn mạnh những thành công bước đầu
của Vietinbank trong việc triển khai Kiểm tra sức chịu đựng , cũng như một số
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng tại các
NHTM nói chung, Vietinbank nói riêng;
- Đã xây dựng mô hình Kiểm tra sức chịu đựng vi mô nhằm kiểm chứng sức
chịu đựng RRTD của Vietinbank ở các kịch bản xấu và căng thẳng. Mô hình định
143
lượng của Luận án có sự khác biệt so với những mô hình Kiểm tra sức chịu đựng
khác tại Việt Nam ở chỗ đã ứng dụng cách tính CAR thông qua PD và RWA, thay
vì chỉ dừng lại ở NPL. Mặc dù cách tính PD còn khá đơn giản, việc áp dụng mô
hình được thiết lập sẽ giúp các NHTM Việt Nam ước lượng mức vốn cần thiết để
đáp ứng được Basel II, ngay cả trong điều kiện vĩ mô căng thẳng.
- Đã đề xuất được một số khuyến nghị đối với các NHTM và các cơ quan quản
lý nhà nước nhằm ứng dụng thành công mô hình Kiểm tra sức chịu đựng để quản trị
RRTD nội bộ tại các NHTM.
Các kết quả nghiên cứu của Luận án cho phép gợi mở những hướng nghiên
cứu tiếp theo về Kiểm tra sức chịu đựng sau:
- Phân tích tác động của hiện tượng phản hồi (“feedback effects”) tại Việt
Nam. Điều này dựa trên cơ sở hệ quả của chuỗi xoắn ốc này là ngân hàng chịu tác
động kép từ cuộc khủng hoảng, và vì vậy, hậu quả của cuộc khủng hoảng đối với
ngân hàng thường trầm trọng hơn những tính toán trong trạng thái bình thường.
- Khi xây dựng mô hình tác động của kinh tế vĩ mô đối với tỷ lệ nợ xấu ngân
hàng, Luận án chỉ nghiên cứu số liệu của các ngân hàng niêm yết và trong khoảng
thời gian từ năm 2009 tới nay. Đồng thời, việc phải sử dụng các công thức chuyển
đổi từ NPL sang PD và RWA do không có số liệu chuẩn về PD, LGD và EAD của
ngân hàng có thể làm giảm tính chính xác của mô hình. Các nghiên cứu tiếp theo
nên tiếp tục mở rộng database về chất lượng nợ xấu của các ngân hàng chưa niêm
yết. Đồng thời, trong quá trình bản thân các ngân hàng triển khai mô hình Kiểm tra
sức chịu đựng , cần chú trọng xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng theo phương
pháp tiếp cận nội bộ, tính toán các thước đo rủi ro PD, LGD và EAD thay vì NPL
như truyền thống. Như vậy, kết quả Kiểm tra sức chịu đựng mới thực sự có ý nghĩa
và là cơ sở chuẩn xác cho lãnh đạo ngân hàng ra quyết định.
- Cần nghiên cứu thêm các mô hình định lượng tính xác suất vỡ nợ PD, LGD
và EAD, sự thay đổi của chúng trong các giai đoạn khủng hoảng và mô hình mô tả
trực tiếp tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô tới các chỉ số này.
Nói tóm lại, khi áp dụng Kiểm tra sức chịu đựng vào hoạt đông quản trị rủi
144
ro và kế hoạch vốn của ngân hàng, nó sẽ giúp ngân hàng hiểu rõ hơn rủi ro tổng thể
danh mục tín dụng của mình, kiểm soát tốt hơn các rủi ro tiềm ẩn tại từng đơn vị
kinh doanh, cũng như củng cố lòng tin của các cơ quan quản lý cũng như cổ đông
về sự bền vững của ngân hàng. Kiểm tra sức chịu đựng cùng với các yêu cầu khác
của Basel II với các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vốn và thanh khoản, các ngân
hàng sẽ hoạch định lại hoạt động kinh doanh và các chiến lược kinh doanh một cách
tích cực hơn. Kiểm tra sức chịu đựng cùng với các công cụ và phương pháp quản lý
rủi ro tiên tiến được triển khai đảm bảo cho những ngân hàng có hệ thống quản trị
rủi ro tốt giảm thiểu chi phí, tập trung phát triển các mảng nghiệp vụ kinh doanh
mới và hiệu quả hơn trong các quyết định phân bổ nguồn vốn kinh doanh. Hơn nữa,
sau khi áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vốn và thanh khoản, ngân hàng sẽ
thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn do ngân hàng hoạt động kinh doanh trong
môi trường đạt tiêu chuẩn quốc tế.
145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Trung Thành, Lê Đức Hoàng (2013), “Bàn về kiểm tra sức chịu đựng của
hệ thống ngân hàng và một số khuyến nghị đối với Việt Nam’’, Tạp chí Kinh tế & Phát
triển, Số đặc biệt, tháng 3/2013
2. Vũ Trung Thành, Trần Thị Thanh Tú (2015), “Yếu tố tác động tới rủi ro tín
dụng: Khảo sát định lượng đối với các Ngân hàng niêm yết Việt nam giai đoạn
2009-2014’’, Hội thảo Đánh giá tái cấu trúc ngân hàng và xử lý nợ xấu, Hà Nội.
3. Vũ Trung Thành, Trần Minh Tuấn (2016), “Quản lý rủi ro tín dụng bằng
công cụ kiểm tra sức chịu đựng: Trường hợp Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công
Thương Việt Nam’’, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 230(II), tháng 8/2016.
146
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), “Nghị quyết số
11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”, kí ban hành ngày 24/02/2011.
2. Đặng Hữu Mẫn, Hoàng Dương Việt Anh (2014), “Nghiên cứu các yếu tố kinh
tế và thể chế ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam”, Kinh tế & Phát triển, số 209 tháng 11/2014, trang 82-94.
3. Dương Quốc Anh (2013), “Phương pháp luận đánh giá sức chịu đựng của tổ
chức tín dụng trước các cú sốc trên thị trường tài chính”, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp ngành, Cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
4. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), “Phân tích dữ liệu nghiên cứu
với SPSS”, NXB Hồng Đức.
5. Lê Quốc Hội (2012), “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam: Thực trạng
năm 2012 và triển vọng năm 2013”, truy cập ngày 1/6/2016 từ
quoc hoi.doc.
6. Lê Thị Huyền Diệu (2010), “Luận cứ khoa học về xác định mô hình quản lý
RRTD tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”, Luận án tiến sỹ, Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
7. Lê Vân Chi, Hoàng Trung Lai (2014), “Các nhân tố ảnh hưởng tới RRTD của
các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Kinh tế & Phát triển, Số 207(II) tháng
9/2014, trang 98-107.
8. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), “Thông tư số 02/2013/TT-NHNN quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro
và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài”, kí ban hành ngày 21/01/2013.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), “Thông tư số 09/2014/TT-NHNN Về
147
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày
21/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về phân loại tài sản
có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài”, kí ban hành ngày 18/03/2014.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm từ 2009 đến
2015.
11. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (2012), “Quy định về khẩu vị rủi ro
tín dụng trong hệ thống Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam”, ban hành
kèm Quyết định ngày 29/11/2012 số 1867/2012/QĐ-HĐQT-NHCT35.
12. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (2013), “Khung quản trị rủi ro tín
dụng”, ban hành kèm Quyết định ngày 5/6/2013 số 769/2013/QĐ-HĐQT-
NHCT35.
13. Nguyễn Đức Tú (2012), “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội.
14. Nguyễn Hoàng Thụy Bích Trâm (2014), “Kiểm tra rủi ro tín dụng cho các ngân
hàng thương mại niêm yết tại Việt Nam”, Phát triển & hội nhập, số 14 (24),
tháng 01-02/2014.
15. Nguyễn Hữu Phước (2011), “Mô hình đánh giá mức độ căng thẳng tài chính hệ
thống ngân hàng Việt Nam: Áp dụng phương pháp VAR”, Luận văn Thạc sỹ
Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
16. Nguyễn Thị Hoài Phương (2012), “Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại
Việt Nam”, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Thu Đông (2012), “Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong quá trình hội nhập”, Luận
án Tiến sỹ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
18. Nguyễn Tuấn Anh (2012), “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp
148
và Phát triển Nông thôn Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân Hà Nội.
19. Phạm Thu Thủy và Đỗ Thị Thu Hà (2013), “Đổi mới cách thức đo lường rủi ro
tín dụng tại các NHTM Việt Nam trong quá trình tái cấu trúc hệ thống”, truy
cập ngày 1/6/2016, từ
20. Phùng Đức Quyền (2013), “Kiểm tra sức chịu đựng của các ngân hàng thương
mại lớn ở Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Khoa Tài chính Ngân hàng,
trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam (2010), “Luật các tổ
chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam” ban
hành theo quyết định số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010.
22. Trương Đông Lộc, Nguyễn Văn Thép (2015), “Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi
ro tín dụng của các quỹ tín dụng nhân dân tại khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long”, Nghiên cứu kinh tế số 444, Tháng 5/2015, trang 61-70.
23. Võ Trí Thành, Lê Xuân Sang (2013), “Giám sát hệ thống tài chính: Chỉ tiêu và
mô hình định lượng”, Báo cáo nghiên cứu RS-03, Nhà Xuất bản tri thức.
TIẾNG ANH
24. Alessandri P., Gai P., Kapadia S., Puhr C. (2007), “A framework for
quantifying systemic stability”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
workforQuantifyingSystemicStability.pdf.
25. Alfaro R. and Drehmann M. (2009), “Macro Stress Testing and Crisis: What
we can learn?”, BIS Quarterly Review.
26. Andreas A., Li L., Christian S. (2013), “A Framework for Macroprudential
Bank Solvency Stress Testing: Application to S-25 and Other G-20 Country
FSAPs”, IMF Working Paper, WP/13/68.
149
27. Aragonés J.R., Carlos B., Kevin D. (2001), “Incorporating Stress Testing into
Market Risk Modeling”, Derivatives Quarterly, Spring 2001, pp. 44-49.
28. Åsberg P. and Shahnazarian H. (2008), “Macroeconomic impact on expected
Default Freqency”, Sveriges Riksbank Working Paper Series, No 219.
29. Aver B. (2008), “An Empirical Analysis of Credit Risk Factors of the
Slovenian Banking System”, Managing Global Transitions 6(3), pp. 317–334.
30. Ayuso J., Pérez D. and Saurina J. (2004), “Are capital buffers pro-cyclical?
Evidence from Spanish panel data”, Journal of Financial Intermediation, 13
(2), 249-64.
31. Ayuso J., Perez D. and Saurina J. (2004), “Are capital buffers pro-cyclical?:
Evidence from Spanish panel data”, Journal of Financial Intermediation, vol.
13, issue 2, 249-264.
32. Baltagi B. (2008), “Econometric Analysis of Panel Data”, 4thEd. Chichester,
UK. John Wiley & Sons, Ltd.
33. Bank for International Settlement (2006), “Results of the fifth quantitative
impact Stress Testing (QIS 5)”, truy cập 1/6/2016, từ
https://eiopa.europa.eu/Publications/Reports/QIS5_ Report_Final.pdf.
34. Basel Committee for Banking Supervision (2000), “Principles for the
Management of Credit Risk”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
www.bis.org/publ/bcbs75.pdf.
35. Basel Committee for Banking Supervision (2004), “International convergence
of capital measurement an capital standards: A revised framework”, truy cập
ngày 1/6/2016, từ www.bis.org/publ/bcbs128.htm.
36. Basel Committee for Banking Supervision (2005), “Stress Testing at Major
Financial Institutions: Survey Results and Practice”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
www.bis.org/publ/cgfs24.pdf.
37. Basel Committee for Banking Supervision (2009), “Principles for sound Stress
Testing practices and supervision”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
150
www.bis.org/publ/bcbs155.htm.
38. Basel Committee for Banking Supervision (2011), “The transmission channels
between the financial and real sectors: a critical survey of the literature”, truy
cập ngày 1/6/2016, từ www.bis.org/publ/bcbs_wp18.htm.
39. Basel Committee for Banking Supervision (2012a), “A framework for dealing
with domestic systemically important banks”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
www.bis.org/publ/bcbs224.pdf.
40. Basel Committee for Banking Supervision (2012b), “Peer review of
supervisory authorities’ implementation of Stress testing principles”, truy cập
ngày 1/6/2016, từ www.bis.org/publ/bcbs218.htm.
41. Berger A., R. De Young (1997), “Problem Loans and Cost Efficiency in
Commercial Banks”, Journal of Banking and Finance, 21, 849–870.
42. Bernanke B.S., Gertler M., Watson M., (2004), “Oil shocks and aggregate
macroeconomic behavior: The role of monetary policy”. Journal of Money,
Credit, Volume 36, p. 287–291.
43. Blaschke W., M. Jones, G. Majnoni and S. Peria (2001), “Stress testing of
financial systems: An overview of issues, methodologies, and FSAP
experiences”, IMF Working Papers, 01/88.
44. Bofondi M., Ropele T. (2011), “Macroeconomic Determinants of Bad Loans:
Evidence from Italian Banks”, Bank of Italy Occasional Paper, No. 89.
45. Borio C., Drehmann M. and Tsatsaronis K. (2012), “Stress Testing: does it live
up to expectations?”, BIS Working Papers, No 369, January 2012.
46. Brunnermeier M. (2009), “Deciphering the liquidity and credit crunch 2007-
2008”, Journal of Economic Prospects, No 230(1).
47. Bucur I. A., Dragomirescu S. E. (2014), “The influence of macroeconomic
conditions on credit risk: Case of Romanian banking system”, Studies and
Scientific Researches. Economics Edition, No 19.
48. Buncic D. and Melecky M. (2013), “Macroprudential stress testing of credit
151
risk: A practical approach for policy makers”, Journal of Financial Stability,
Elsevier, vol. 9(3), pages 347-370.
49. Bunn P, A. Cunningham and M. Drehmann (2005), “Stress Testing as a tool
for assessing systemic risk”, Bank of England Financial Stability Review, June.
50. Cardinali A. and Nordmark J. (2016), “How informative are bank stress tests?
- Bank opacity in the European Union”, Lund University.
51. Cardinali A., Nordmark J. (2011), “How informative are bank stress tests?
Bank opacity in the European Union”, Master’s thesis, Lund University.
52. Castren O., S. Dées, F. Zaher (2008), “Global macro-financial shocks and
expected default frequencies in the Euro area”, ECB WP, No 875, February.
53. Castren O., T. Fitzpatrick, M. Sydow (2008), “Assessing portfolio credit risk
changes in a sample of EU large and complex banking groups in reaction to
macroeconomic shocks”, ECB WP, No 1002, February.
54. Castro V. (2012), “Macroeconomic determinants of the credit risk in the
banking system: The case of the GIPSI”, NIPE, WP 11/2012.
55. Ceca K., Shijaku H. (2011), “A credit risk model for Albania, Bank of
Greece”, Special Conference Paper, February 2011.
56. Christian B., Ludger O., Christoph W. (2010), “Introduction to Credit Risk
Modeling”, Second Edition, CRC Press.
57. Clichici D., Colesnicova T. (2014), “The impact of macroeconomic factors on
non-performing loans in the Republic of Moldova”, Journal of Financial and
Monetary Economics, No 1, pp. 73 - 78.
58. Committee of the Global Financial Stress Testing (2000), “Stress Testing by
large financial institutions: current practice and aggregation issues”, Bank for
International Settlements, April.
59. Cont R. and Wagalath L. (2012), “Running for the exit: Distressed selling and
endogenous collection in financial markets”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/j.1467-9965.2011.00510.../pdf.
152
60. Cottarelli C., Dell’Ariccia G., Vladkova-Hollar I. (2003), “The private sector
in Central and Eastern early birds, late risers, and sleeping beauties: bank credit
growth to Europe and the Balkans”, IMF WP, WP/03/213.
61. Cummings J. R. and Durrani K. J. (2016), “Effect of the Basel Accord capital
requirements on the loan-loss provisioning practices of Australian banks”,
Journal of Banking & Finance, vol. 67, issue C, 23-36.
62. Cummings J. R., Durrani K. J. (2016), “Regulatory Capital and Internal Capital
Targets: An Examination of the Australian Banking Industry”, CIFR Paper,
No. 112/2016 / Project T023.
63. Dash M., Kabra G. (2010), “The determinants of non-performing assets in
Indian commercial bank: An econometric study”, Middle Eastern Finance and
Economics, 7, 94-106.
64. Davis E. Philip, Zhu H. (2011), “Bank lending and commercial property
cycles: Some cross-country evidence”, Journal of International Money and
Finance, Elsevier, vol. 30(1), pages 1-21, February.
65. Demirgüç-Kunt A., Detragiache E. (1998), “The determinants of banking
crises in developing and developed countries”, IMF Staff Papers, Vol. 45, No.
1.
66. Deutsche Bank Research (2011), “EU Monitor 78: Macroeconomic
coordination: What can a scoreboard approach achieve?”, Report on EU
integration, January.
67. Dib A. (2009), “Banks, Credit Market Frictions, and Business Cycles”, Bank of
Canada Working Paper.
68. Drehmann M. (2008), “Stress Testing: Objectives, challenges and modelling
choices”, Economic Review, February.
69. Ernst and Young (EY) (2013), “Remaking financial services: risk management
five years after the crisis, A survey of major financial institutions”, truy cập
ngày 1/6/2016,từ
153
70. Espinoza R., A. Prasad (2010), “Nonperforming Loans in the GCC Banking
Systems and their Macroeconomic Effects”, IMF Working Paper, No 10/224.
71. Federal Reserves System (2012), ‘Guidance on Stress Testing for Banking
Organizations with Total Consolidated Assets of More Than $10 Billion’, truy
cập ngày 1/6/2016, từ https://www.federalreserve.gov/bankinforeg
/srletters/sr1207a1.pdf.
72. Federal Reserves System (2016), “Dodd-Frank Act Stress Test 2016:
Supervisory Stress Test Methodology and Results”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
www.federalreserve.gov/newsevents/press/bcreg/bcreg20160623a1.pdf.
73. Fofack H. (2005), “Non-performing Loans in Sub-Saharan Africa: Causal
Analysis and Macroeconomic Implications”, World Bank Policy Research
Working Paper No. 3769.
74. Foglia A. (2008), “Stress Testing credit risk: A survey of authorities'
approaches”, Banca d'Italia, No 37.
75. Geanakoplos J., Fostel, A. (2013), ‘Reviewing the leverage cycle’, Cowles
Foundation Discussion Paper, No 1918.
76. Geoffrey N. K., Andrea M (2010), “A forward- looking Macro-prudential
Stress test for US banks”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
www.elibrary.imf.org/staticfiles/misc/toolkit/pdf/chap33.pdf .
77. George E. P., Gwilym M. J. (1976), “Time series analysis, forecasting and
control”, San Francisco, Holden-Day, c1976, Rev. ed.
78. Glenn H., Steffen S. and Lea Z. (2005), “Stress tests of UK banks using a VAR
approach”, Bank of England, Working Paper no. 282.
79. Goldstein A. và Sapra E. (2012), “Should Banks’ Stress Test Results be
Disclosed? An Analysis of the Costs and Benefits”, Foundations and Trends in
Finance, Vol. 8, No. 1 (2013) 1–54.
80. Goldstein I., Sapra H., (2012), “Should banks’ stress test results be disclosed?
154
An analysis of the costs and benefits”, University of Pennsylvania.
81. Golub, Bennett W., and Conan C. (2010), “Risk Management Lessons Worth
Remembering From the Credit Crisis of 2007 – 2009”, truy cập ngày 1/6/2016,
từ
82. Goodhart O., Tsomocos (2009), “Analysis of Monetary Policy and Financial
Stability: A New Paradigm”, CESIFO Working Paper, No. 2885.
83. Gordy M. (2002), “A Risk-Factor Model Foundation for Ratings-Based Bank
Capital Rules”, truy cập ngày 1/6/2016, từ https://www.federalreserve.gov
/pubs/feds/2002/.../200255pap.pdf.
84. Gunsel N.(2011), “Micro and macro determinants of bank fragility in North
Cyprus Economy”, African Journal of Business Management Vol. 6(4), pp.
1323-1329.
85. Gutiérrez M. (2008), “Modelling extreme but plausible losses for credi risk: A
Stress Testing framework for the Argentine financial system”, MRPA paper,
June 2008.
86. Hirtle B. and Lehnert A. (2014), “Supervisory Stress Tests”, FRB of New York
Staff Report No. 696, truy cập ngày 1/12/2016, từ https://ssrn.com/
abstract=2521612.
87. Hirtle B.J., A. Lehnert (2014), “Supervisory Stress Tests”, FRB of New York
Staff Report, No. 696.
88. International Monetary Fund (2008), “Amendments to the Financial Soundness
Indicators (FSIs): Compilation Guide”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
https://www.imf.org/external/pubs/ft/fsi/guide/2008/pdf/071408.pdf.
89. International Monetary Fund (2012), “Macro-financial Stress Testing –
Principles and Practices”, truy cập ngày 1/6/2016, từ
www.imf.org/external/np/pp/eng/2012/082212.pdf.
90. Jalan B. (2001), “Banking and finance in the new millennium”, Speech
Delivered at the 22nd Bank Economists’ Conference, New Delhi.
155
91. Jan W. (2008), “Liquidity Stress-Tester: A Macro Model for Stress-Testing
Banks’ Liquidity Risk”, Working Paper No. 175/2008.
92. Jim W., Ka-fai C., Tom F. (2006), “A framework for macro stress testing the
credit risk of banks in Hong Kong”, Hong Kong Monetary Authority Quaterly
Bulettin, December.
93. Jimenez G., J. Saurina (2006), “Credit Cycles, Credit Risk, and Prudential
Regulation”, International Journal of Central Banking, 65-98.
94. Jimenez, G. và Mencıa, J. (2009), “Modeling the distribution of credit losses
with observable and latent factors”, Journal of Empirical Finance, 16:235–
253.
95. Jones M., Hilbers P., Slack G. (2004), “Stress Testing Financial Systems: What
to Do When the Governor Calls”, IMF WP/04/127.
96. Jose Ramon A., Thiam H. (2012), “Assessing the resilience of ASEAN
banking systems: the case of the Phillipines”, ADB WPS on Regional
Economic Integration, No. 93, February.
97. Kalirai H., Scheicher M. (2002), “Macroeconomic stress testing: preliminary
evidence for Austria”, OeNB. Financial Stability Report, 58−74.
98. Kattai R. (2010), “Credit risk model for the Estonian banking sector”, Working
Papers of Eesti Bank, No. 1/2010.
99. Kenneth Y. (2012), “Risk appetite, Stress Testing, Capital planning: The links
among the three are evident in recent regulatory trends”, The RMA Journal,
September.
100. Lelyveld V. and Iman (2009), “Special Issue on Stress Testing –
Introduction”, International Journal of Central Banking, 5(3), 1-7.
101. Louzis D., A. Vouldis, and V. Metaxas (2010), “Macroeconomic and Bank-
specific Determinants of Nonperforming Loans in Greece: A Comparative
Stress Testing of Mortgage, Business, and Consumer Loan Portfolios”, Bank of
Greece Working Paper 118.
156
102. Louzis D., A. Vouldis, and V. Metaxas (2012), “Macroeconomic and bank-
specific determinants of NPLs in Greece”, Journal of Banking and Finance,
36.
103. Marcucci J., Quagliariello M. (2009), “Asymmetric effects of the business
cycle on bank credit risk”, Journal of Banking and Finance, 33, 1624–1635.
104. McNeil, Rudiger F., P. Embrechts (2005), “Quantitative risk management:
concepts, techniques, and tools”, Princeton series in finance.
105. Mishkin F. (2010), “The economics of money, banking and financial
markets”, Pearson.
106. Mohammad T., Saeideh, A., Thaana G., Sepideh, K. (2015), “House prices
and credit risk: Evidence from the United States”, Economic Modelling, 2015,
vol. 51, issue C, pages 123-135.
107. Mohammad-Reza A. et al(2013), “Macroeconomics Shocks and Stability in
Malaysian Banking System; A Structural VAR Model”, American Journal of
Economics 2013, 3(5C): 22-28.
108. Morgan D., Peristiani S., Savino E. (2014), “The Information Value of the
Stress Test”, Journal of Money, Credit and Banking, September.
109. Morgan D., Peristiani S., Savino V., (2014), “The information value of the
stress test and bank opacity. Journal of Money”, Credit and Banking 46(7),
1479–1500.
110. Muliaman D., H., Wimboh S., Bagus S., Dwityapoetra S., B., Ita R. (2011),
“Macroeconomic Stress Testing for Indonesian Banking System”, truy cập
ngày 1/6/2016, từ https://www.researchgate.net/publication/251196711
_Macroeconomic_Stress_Testing_for_Indonesian_Banking_System
111. Nir K. (2013), “Non-Performing Loans in CESEE: Determinants and
Macroeconomic Performance”, IMF Working Paper, WP/13/72, March.
112. Nkusu M. (2011), “Nonperforming Loans and Macrofinancial Vulnerabilities
in Advanced Economies”, IMF Working Paper 11/161.
157
113. Petrella G. and Resti A. (2013), “Supervisors as information producers: Do
stress tests reduce bank opaqueness?”, Journal of Banking & Finance, vol. 37,
issue 12, 5406-5420.
114. Petrella G., Resti A. (2013), “Supervisors as information producers: Do
stress tests reduce bank opaqueness?”, Journal of Banking and Finance 37(12),
5406–5420.
115. Pratap S., Urrutia C. (2004), “Firm dynamics, investment and debt portfolio:
balance sheet effects of the Mexican crisis of 1994”, Journal of Development
Economics, Vol.75, pp. 535-563.
116. Prescott E. C. and Kydland E. (1982), “Time to Build and Aggregate
Fluctuations”, Econometrica 50: 1345-1370, 1982.
117. Pyle D. (1997), “Bank Risk Management: Theory”, Conference on risk
management and deregulation on banking, Jerusalem.
118. Quagliarello M. (2007), “Banks’ Riskiness Over the Business Cycle: a Panel
Analysis on Italian Intermediaries”, Applied Financial Economics17, 119-138.
119. Ricadas M. (2014), “Macroeconomic factors of non-performing loans in
commercial banks”, Ekonomika, No 9 (1), pp. 22 - 39.
120. Rinaldi L., Sanchis-Arellano A. (2006), “Household debt sustainability:
What explains household non-performing loans? An empirical analysis”,
European Central Bank Working Paper Series, No. 570.
121. Rodriguez (2012), “Credit risk Stress Testing: An exercise for Colombian
Banks”, Temas de Estingabilidad Financiera, No 73, December.
122. Salas V., J. Saurina (2002), “Credit risk in two institutional settings: Spanish
commercial and saving banks”, Journal of Financial Services Research, 22: 3,
203-224.
123. Schmeider, Puhr and Hasan (2011), “Next generation balance sheet Stress
Testing”, IMF Working Paper WP/11/83.
services_risk_management_five_years_after_the_crisis...pdf.
158
124. Shu C. (2002), “The impact of the macroeconomic environment on the asset
quality of Hong Kong’s banking sector”, Hong Kong Monetary Authority
Research Memorandum, No.20.
125. Stephanou C., Mendoza J. C. (2005), “Credit Risk Measurement under Basel
II: An Overview and Implementation Issues for Developing Countries”, World
Bank Policy Research Working Paper Series.
126. Stolz S. and Wedow M. (2011), “Banks’ regulatory capital buffer and the
business cycle: Evidence for Germany”, Journal of Financial Stability, 7 (2),
98-110.
127. Stolz S., Wedow M. (2011), “Banks' regulatory capital buffer and the
business cycle: Evidence for Germany”, truy cập ngày 1/12/2016, từ
128. Summer M., (2007), “Modelling instability of banking systems and the
problem of macro stress testing”, ECB conference on Simulating Financial
Instability.
129. The Clearing House (2016), “Comparison between United States and
European Union Stress Tests”, truy cập ngày 1/12/2016, từ
https://www.theclearinghouse.org/-/media/files/research%20notes/20160518-
tch-research-note-ccar-vs-eba-stresstests.pdf.
130. Tian R., Yang J. (2011), “Macro Stress Testing on credit risk of commercial
banks in China based on vector autoregression models”, truy cập 1/6/2016, từ
https://www.researchgate.net/...Macro_Stress_Testing_on_Credit_Risk_...
131. Til S. (2016), “Stress Testing in Wartime and in Peacetime”, Oliver Wyman
and Wharton Financial Institutions Center, March.
132. Til S. (2016), “Stress Testing in Wartime and in Peacetime”, Wharton
Financial Institutions Center, March.
133. Van den End J.W., Hoeberichts M., Tabbae M. (2006), “Modelling scenario
analysis and Macro Stress Testing”, DNB Working paper, no 119.
159
134. Vasiliki M., Athanasios T., Athanasios B. (2014), “Determinants of Non-
Performing Loans: The Case of Eurozone”, Panoeconomicus, 2014, 2, pp.193-
206
135. Vazquez F., Tabak B.M. and Souto M. (2010), “A macro Stress Testing
model of credit risk for the Brazilian banking sector”, Banco Central Do
Brazil, WP 226, November.
136. Vogiazas S., Nikolaidou E., Mouratidis K.(2011), “Investigating the
determinants of nonperforming loans in the Romanian banking system”, Paper
presented at the 6th SEE Doctoral Conference, SEERC, September.
137. Waeibrorheem W., Suriani S. (2015), “Bank specific and macroeconomic
dynamic determinants of credit risk in Islamic banks and Concentional banks”,
International Journal of Economics and Financial Issues, 2015, 5(2), 476-481.
138. Wei L., Zhiwei Y. (2012), “Stress Testing of commercial banks’ exposure to
credit risk: A Stress Testing based on the write-off of non-performing loans”,
Asian Social Science, Vol. 8, No 10, August.
139. Williams J. (2004), “Determining Management Behaviour in European
Banking”, Journal of Banking and Finance 28, 2427–2460.
140. Wong J., Choi K., Fong T. (2008), “A framework for Stress Testing banks’
credit risk”, The Journal of Risk Model Validation 2(1), 3-23.
160
161
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Đánh giá chất lượng dữ liệu về các chỉ tiêu kinh tế xã hội Việt
Nam
Nhân tố Các chỉ số đại diện Đánh giá chất lượng dữ liệu
Tăng
trưởng kinh
tế
Tốc độ tăng GDP so
với cùng kỳ năm trước
Có: Tổng cục Thống kê
Tỷ lệ thất nghiệp Chưa thể hiện đầy đủ tình trạng thị trường
lao động do một số lượng lớn lao động Việt
Nam trong ngành nông nghiệp mang tính tự
cung tự cấp hay dùng để trao đổi hàng hóa
không được coi là thất nghiệp.
Cán cân
vãng lai
Cán cân thương mại
hàng hóa: Tổng kim
ngạch và tốc độ tăng
trưởng nhập khẩu, xuất
khẩu
Có nguồn Tổng cục Thống kê
Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, có sự chênh
lệch lớn trong số liệu thống kê xuất nhập
khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc do
lượng hàng hóa nhập lậu, tạm nhập tái xuất
Cán cân xuất nhập
khẩu dịch vụ
Tính chính xác và kịp thời của số liệu chưa
cao
Dự trữ
ngoại hối
nhà nước
Tỷ lệ dự trữ ngoại
hối/Giá trị 1 tuần nhập
khẩu, Tỷ lệ dự trữ
ngoại hối/Nợ ngắn hạn
nước ngoài, Tỷ lệ dự
trữ ngoại hối/ cung M2
Có số liệu theo năm tại Báo cáo thường
niên của NHNN, Thống kê tài chính quốc tế
(IFS) của IMF, Databank của Worldbank,
World Gold Council, nhưng tần suất cung
cấp thông tin không đủ theo yêu cầu, có độ
trễ từ 1-2 năm
Luân
chuyển
ngoại hối
Vay nợ nước ngoài Tần suất cung cấp thông tin không đủ theo yêu cầu
Cơ cấu luồng vốn quốc
tế
Tần suất cung cấp thông tin không đủ theo
yêu cầu
Nợ công Tỷ lệ nợ công trên GDP (%)
Tần suất cung cấp thông tin không đủ theo
yêu cầu. Theo đánh giá của cơ quan Kiểm
toán Nhà nước, cố liệu còn bị lệch do công
tác báo cáo số liệu còn phân tán. Có độ trễ
từ 1-2 năm.
Lạm phát
Tốc độ tăng chỉ số giá
tiêu dùng, lạm phát cơ
bản (%)
Có nguồn Tổng cục Thống kê
162
Nhân tố Các chỉ số đại diện Đánh giá chất lượng dữ liệu
Biến động
tỷ giá
Tốc độ tăng tỷ giá bình
quân liên ngân hàng
VNĐ/USD so quý
trước (%)
Có, nhưng trong một số giai đoạn tỷ giá do
NHNN công bố chưa phản ánh tỷ giá giao
dịch thực trên thị trường.
Lãi suất
- Lãi suất tái cấp vốn;
- Lãi suất tái chiết
khấu;
- Lãi suất liên ngân
hàng các kỳ hạn;
- Lãi suất cho vay, huy
động của các NHTM.
Một số giai đoạn lãi suất do NHNN công bố
chưa phản ánh lãi suất thực trên thị trường.
Chuỗi dữ liệu lãi suất liên ngân hàng do
NHNN cung cấp phản ánh thị trường tốt
hơn, nhưng không có đủ độ dài yêu cầu.
Bloomberg cung cấp số liệu lãi suất cho vay
và tiền gửi kỳ hạn 12 tháng bình quân 4
ngân hàng Agribank, BID, Vietinbank,
VCB .
Biến động
tiền tệ M2
Tốc độ tăng cung tiền
M2
Nguồn NHNN
Tăng tín
dụng
Tốc độ tăng tổng dư nợ
nền kinh tế của toàn hệ
thống
Có, nhưng bao gồm cả dư nợ của các
NHTM, liên doanh và nước ngoài, công ty
cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân.
Nguồn: NHNN
Biến động
giá bất
động sản
Chỉ số giá bất động
sản, Giá thuê nhà, Giá
đất
Khối lượng Bất động
sản hiện có, Tỷ lệ Bất
động sản để không
hoặc sử dụng, Số lượng
/ giá trị các căn hộ mới,
các giao dịch mới
Chỉ số giá cổ phiếu của
các công ty thuộc nhóm
ngành bất động sản,
xây dựng
Chỉ số giá xây dựng theo quý của Bộ Xây
dựng, nhưng không phải là biến số đặc
trưng.
Chỉ số giá bất động sản đang trong quá trình
xây dựng của Bộ Xây dựng, nhưng kỳ công
bố năm
Số liệu hàng tồn kho bất động sản được
nhiều đơn vị nhà nước, công ty công bố,
nhưng độ chênh lớn.
Chỉ số
chứng
khoán
Chỉ số chứng khoán
VNIndex, VN30 Index,
HNX Index, HNX30
Index, Upcom Index
Nguồn: các Sở giao dịch, Trung tâm giao
dịch chứng khoán
Nguồn: Tác giả tổng hợp
163
164
Phụ lục 2: Kết quả mô hình đánh giá tác động kinh tế vĩ mô tới NPL (đầy
đủ)
rho 0 (fraction of variance due to u_i)
sigma_e .22681176
sigma_u 0
_cons -.2670753 .182092 -1.47 0.142 -.623969 .0898185
var39 -1.378129 .2276184 -6.05 0.000 -1.824253 -.9320048
var38 -.339413 .2322344 -1.46 0.144 -.794584 .115758
q4d .1000329 .0398407 2.51 0.012 .0219466 .1781192
vamc -.1856778 .0525275 -3.53 0.000 -.2886299 -.0827258
L1. -.4789843 1.105869 -0.43 0.665 -2.646447 1.688479
vndq
L1. .1591898 .1613164 0.99 0.324 -.1569845 .475364
vni
dexg .564938 .2119128 2.67 0.008 .1495964 .9802795
L2. .0579034 .4590475 0.13 0.900 -.8418131 .9576198
dm2
L2. -.5650946 .6643665 -0.85 0.395 -1.867229 .7370398
dcpi
gdp 10.08211 2.967994 3.40 0.001 4.264947 15.89927
L1. .9100124 .0243781 37.33 0.000 .8622321 .9577927
lnNPL
lnNPL Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval]
corr(u_i, X) = 0 (assumed) Prob > chi2 = 0.0000
Wald chi2(11) = 1703.44
overall = 0.9025 max = 25
between = 0.9940 avg = 21.8
within = 0.8584 min = 16
R-sq: Obs per group:
Group variable: Ten1 Number of groups = 9
Random-effects GLS regression Number of obs = 196
165
Phụ lục 3: Kết quả mô hình đánh giá tác động kinh tế vĩ mô tới NPL (rút
gọn)
rho 0 (fraction of variance due to u_i)
sigma_e .22863572
sigma_u 0
_cons -.0703564 .1510152 -0.47 0.641 -.3663407 .2256279
var39 -1.375926 .2286894 -6.02 0.000 -1.824149 -.9277027
q4d .0994183 .0389739 2.55 0.011 .0230309 .1758057
vamc -.2079817 .0517595 -4.02 0.000 -.3094284 -.1065349
gdp 6.429691 2.414276 2.66 0.008 1.697797 11.16158
L1. .9155522 .0234781 39.00 0.000 .869536 .9615684
lnNPL
lnNPL Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval]
corr(u_i, X) = 0 (assumed) Prob > chi2 = 0.0000
Wald chi2(5) = 1727.54
overall = 0.8958 max = 27
between = 0.9937 avg = 23.0
within = 0.8467 min = 16
R-sq: Obs per group:
Group variable: Ten1 Number of groups = 9
Random-effects GLS regression Number of obs = 207
166
Phụ lục 4: Kết quả mô hình dự báo GDP
_cons .0084444 .005296 1.59 0.111 -.0019355 .0188244
L3. .4703828 .1110055 4.24 0.000 .2528161 .6879495
L2. -.5220152 .1480743 -3.53 0.000 -.8122354 -.231795
L1. .9255104 .1125556 8.22 0.000 .7049054 1.146115
gdp
gdp
gdp Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval]
gdp 4 .007288 0.7065 146.8392 0.0000
Equation Parms RMSE R-sq chi2 P>chi2
Det(Sigma_ml) = .0000496 SBIC = -6.803481
FPE = .0000566 HQIC = -6.887651
Log likelihood = 215.7279 AIC = -6.941899
Sample: 2000-Q4 - 2015-Q4 Number of obs = 61
Vector autoregression
. var gdp, lags(1 2 3)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_kiem_tra_suc_chiu_dung_rui_ro_tin_dung_cua_cac_ngan.pdf