Luận án Mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế và khung khổ chính sách thương mại Việt Nam

Phân tán công nghệ và quá trình học hỏi thông qua làm: vì nguồn nhân lực chất lƣợng thấp, năng lực công nghệ của các doanh nghiệp trong nƣớc chƣa cao, và ngành công nghiệp hỗ trợ yếu kém do đó kênh truyền dẫn này còn rất hạn chế trong việc đóng vai trò chuyển tải lợi ích động từ thƣơng mại quốc tế đến tăng trƣởng kinh tế dài hạn; - Chuyên môn hóa trong những ngành công nghiệp có tính kinh tế theo quy mô.

pdf166 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế và khung khổ chính sách thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ngành công nghiệp hỗ trợ đã vận hành thì tự bản thân nguyên tắc thị trƣờng điều tiết để kích thích hoạt động của chúng.) Xây dựng các khu công nghiệp có tính đồng bộ cao và tập trung phát triển hạ tầng tại một số ít các khu công nghiệp thay vì dàn trải các khu công nghiệp tại các địa phương.Các khu công nghiệp nƣớc ta lấy tỷ lệ lấp đầy là tiêu chí chính phản ánh hiệu quả của khu công nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ lấp đầy chỉ là chỉ tiêu phản ánh mặt số lƣợng chứ chƣa phản ánh chất lƣợng của khu công nghiệp. Hơn nữa, trong cùng một khu công nghiệp, các doanh nghiệp khác lĩnh vực hoạt động có thể còn mâu thuẫn, có hiệu ứng ngoại lai tiêu cực lẫn nhau. Việc xây dựng các khu công nghiệp có tính đồng bộ cao kết hợp với mở cửa nền kinh tế sẽ đem lại hiệu ứng tích cực cho tổng thể nền kinh tế. Nhƣ các nhà lý thuyết thƣơng mại mới (new trade theory) đã phát biểu mở cửa tạo cơ hội cho sự xuất hiện đặc điểm tính kinh tế theo quy mô trong nền kinh tế và nền kinh tế có tính kinh tế theo quy mô sẽ thúc đẩy xuất khẩu. Một vòng xoáy theo chiều hƣớng tích cực sẽ xuất hiện: mở rộng xuất khẩu dẫn đến hình thành các khu công nghiệp, hình thành các khu công nghiệp dẫn đến tính kinh tế theo quy mô, có tính kinh tế theo quy mô sẽ làm giảm chi phí, thúc đẩy cạnh tranh và gia tăng xuất khẩu. Khi một địa phƣơng muốn xây dựng khu công nghiệp, Chính phủ cần yêu cầu các địa phƣơng phải có chiến lƣợc phát triển khu công nghiệp, mục 132 tiêu phát triển khu công nghiệp và đòi hỏi khu công nghiệp phải có sự đồng nhất trong công nghệ sản xuất hoặc sản phẩm. Hay ít ra, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp không có sự mâu thuẫn và có hiệu ứng ngoại lai tiêu cực, lấn át lẫn nhau. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa hiện đại cần một tập các giải pháp công nghiệp và thƣơng mại tƣơng tác lẫn nhau. Chẳng hạn, Chính phủ có thể lựa chọn một số ngành công nghiệp mũi nhọn hay chủ chốt, thực hiện hỗ trợ cho các ngành công nghiệp đó nhƣng phải lấy xuất khẩu làm tiêu chí để đánh giá hiệu quả của ngành công nghiệp. Cách làm này không mới vì các nƣớc nhƣ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và cả Trung Quốc đã và đang thực hiện. Thậm chí, nƣớc ta cũng đã nhiều năm lựa chọn ngành công nghiệp mũi nhọn tuy nhiên vì chỉ hƣớng vào khai thác thị trƣờng nội địa nên đạt hiệu quả không cao. Hỗ trợ các ngành công nghiệp bị hạn chế rất nhiều hay nói cách khác chịu nhiều ràng buộc từ các cam kết hội nhập. Tuy nhiên, nhƣ các công cụ trong chính sách thƣơng mại nêu trong Chƣơng 2, chính sách thƣơng mại không chỉ có thuế hay các trợ cấp tài chính mà còn gồm các biện pháp tinh vi nhƣ các quy định về mặt hành chính. Vì vậy, chỉ cần lựa chọn đƣợc ngành công nghiệp mũi nhọn và có hƣớng đi đúng đắn là sẽ tìm ra đƣợc các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa hiện đại. Trong nhiều năm, Chính phủ đã có nỗ lực lựa chọn ngành công nghiệp mũi nhọn, tuy nhiên việc triển khai thực hiện không đến nơi đến chốn. Một phần là do sự lựa chọn dựa trên yếu tố chủ quan duy ý chí (cho dù các nhà hoạch định chiến lƣợc, chính sách hoàn toàn trong sáng, không vụ lợi), không có sự tham gia của các nhà khoa học và các đối tƣợng chịu ảnh hƣởng liên quan. Phần khác là do việc lựa chọn có yếu tố nhóm lợi ích, nhóm cục bộ nên 133 các chính sách ban hành để phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn chỉ có lợi cho nhóm lợi ích mà có hại cho tổng thể nền kinh tế, do đó sự phát triển thƣờng gặp nhiều các trở ngại. Và cuối cùng, sự lựa chọn ngành công nghiệp mũi nhọn không có sự tƣơng thích về mặt thời gian. Có thời điểm thì chọn ngành này nhƣng thời điểm khác thì chọn ngành khác. Kết quả là chính sách cho phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn thiếu sự thống nhất, không đồng bộ và không đƣa đến kết quả cuối cùng tích cực. Luận án không đề xuất một hay một số ngành công nghiệp mũi nhọn hay ngành công nghiệp hỗ trợ cụ thể nào. Luận án chỉ đƣa ra quy trình cho việc lựa chọn ngành công nghiệp mũi nhọn và ngành công nghiệp hỗ trợ. Thứ nhất, Chính phủ cần đƣa ra mục tiêu cho phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn và/hay ngành công nghiệp hỗ trợ. Thứ hai, dựa trên các mục tiêu cho trƣớc, Chính phủ tham vấn các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc. Cùng với đó Chính phủ cần tham vấn các đối tƣợng chịu ảnh hƣởng từ các chính sách phát triển để sao cho ngành công nghiệp mũi nhọn và công nghiệp hỗ trợ đƣợc lựa chọn có khả năng phát triển hiệu quả và có tác động tổng thể tích cực đến nền kinh tế. Thứ ba, do nguồn lực tài chính và con ngƣời có hạn, Chính phủ có thể thực hiện thí điểm tại một số nơi để đánh giá khả năng phát triển và hiệu quả của ngành công nghiệp mũi nhọn và ngành công nghiệp hỗ trợ đƣợc lựa chọn, và nếu thành công Chính phủ có thể mở rộng sang các điểm khác nhau. c. Chính sách thương mại: Chính sách thƣơng mại đƣợc đề xuất dƣới đây dựa trên phân tích thực trạng các kênh truyền dẫn từ thƣơng mại đến tăng trƣởng kinh tế. Các đề xuất có tính tới triển vọng nền kinh tế thế giới và trong nƣớc trong những năm sắp tới; tính đến định hƣớng và quan điểm của chính sách thƣơng mại; tham chiếu các bài học kinh nghiệm quốc tế đã đƣợc phân tích ở Chƣơng 2; dựa trên nền 134 tảng các giải pháp tổng thể và các giải pháp bổ trợ cho chính sách thƣơng mại. Nhƣ vậy, chính sách thƣơng mại đƣợc đề xuất cần nằm trong tổng thể các chính sách và giải pháp khác của nền kinh tế. Chính sách thƣơng mại có rất nhiều, thế nhƣng do nguồn lực có hạn và đã xác định đƣợc mục tiêu của chính sách thƣơng mại là tạo ra các kênh truyền dẫn để thƣơng mại và hội nhập kinh tế quốc tế tác động tích cực dài hạn đến tăng trƣởng kinh tế; do đó các kiến nghị chính sách thƣơng mại dƣới đây nhằm vào 2 mục tiêu: (i) mở rộng thƣơng mại để tạo công ăn việc làm và để thu đƣợc ngoại tệ và (ii) chuyển đổi cấu trúc thƣơng mại và cấu trúc nền kinh tế theo hƣớng hiện đại nhằm thúc đẩy tăng trƣởng bền vững dài hạn, có nghĩa là tăng cƣờng khả năng để thu đƣợc lợi ích động từ thƣơng mại. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu: - Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu: trong nền kinh tế nguồn lực hạn chế thì các chính sách hỗ trợ cần có sự tập trung. Vì thế, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cần có sự tập trung vào các sản phẩm công nghiệp hoặc nông nghiệp đem lại giá trị gia tăng cho nền kinh tế, có đặc điểm tính kinh tế theo quy mô, và có hiệu ứng lan tỏa lớn đến các khu vực khác nhau của nền kinh tế. Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu có thể thực hiện ngay sau khi có lựa chọn các sản phẩm công nghiệp hoặc nông nghiệp đem lại giá trị gia tăng cao. Việc hỗ trợ cần đi kèm với quá trình giám sát chặt chẽ năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp, theo dõi sát sao điều kiện thị trƣờng để có những cảnh báo sớm cho các doanh nghiệp và cùng với doanh nghiệp giải quyết các cú sốc thị trƣờng. Điều này có nghĩa Chính phủ, ngân hàng và các doanh nghiệp xuất khẩu cần có sự kết nối chặt chẽ với nhau, đồng hành cùng nhau trong sự quá trình phát triển ngành và phát triển nền kinh tế. 135 - Hội chợ triển lãm và giới thiệu sản phẩm: tham gia hội chợ triển lãm và giới thiệu sản phẩm là một kênh quan trọng để thông tin sản phẩm sản xuất tại nƣớc ta đến đƣợc với những đối tác có nhu cầu. Mặc dù là kênh quan trọng nhƣng các doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng không tiếp cận đƣợc kênh quan trọng này vì chi phí tham gia hội chợ tƣơng đối lớn so với quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa, khi tham gia hội chợ cần giới thiệu sản phẩm cho các đối tác nƣớc ngoài, do đó cần có khả năng ngoại ngữ, điều này thƣờng vƣợt quá khả năng của chủ các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng nhƣ những ngƣời quản lý của doanh nghiệp vừa có khả năng thấu hiểu doanh nghiệp, tính năng sản phẩm của doanh nghiệp lại vừa phải có khả năng ngoại ngữ để truyền đạt thông tin đến ngƣời mua hàng tiềm năng. Vì thế, Hiệp hội ngành hàng, Bộ Công Thƣơng, VCCI cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể để doanh nghiệp có thể tiếp cận đến các thị trƣờng tiềm năng. Các chính sách có thể cung cấp thông tin về hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm; hỗ trợ về thủ tục để doanh nghiệp tham gia thuận lợi các hội chợ; hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp khi tham gia hội chợ (có thể theo phƣơng thức hỗ trợ theo tỷ lệ, ví dụ doanh nghiệp góp 60%, Hiệp hội 40%), hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp trong việc giới thiệu sản phẩm hoặc tìm kiếm ngƣời phiên dịch, . Nói chung, các hình thức hỗ trợ có rất nhiều và tùy thuộc vào từng tình huống mà có hình thức hỗ trợ phù hợp. Quan điểm chung của Luận án là Chính phủ lựa chọn ngành nghề, sản phẩm theo quan điểm và định hƣớng phát triển dài hạn (nhƣ nêu trên); sau đó thực hiện các biện pháp hỗ trợ tập trung chứ không hỗ trợ dàn trải, thiếu hiệu quả. 136 Điều kiện thực hiện giải pháp này là sau khi đã lựa chọn đƣợc những ngành, sản phẩm và doanh nghiệp mục tiêu. Các doanh nghiệp muốn xúc tiến đến thị trƣờng bên ngoài chấp nhận sự đóng góp chi phí thực hiện xúc tiến thƣơng mại với các Hiệp hội hay cơ quan nhà nƣớc. Trong trƣờng hợp nguồn lực tài chính hạn hẹp, các Hiệp hội hay cơ quan chức năng có thể tạm ứng trƣớc cho các doanh nghiệp, sau khi doanh nghiệp ký kết đƣợc hợp đồng xuất khẩu hàng hóa và có doanh thu, doanh nghiệp cần trả lại số tiền mà cơ quan chức năng hay Hiệp hội ứng trƣớc (và có thể cộng với số tiền nhất định gọi là lãi suất hay chi phí cơ hội cho khoảng thời gian doanh nghiệp sử dụng tiền của Hiệp hội và cơ quan chức năng). Chính sách nhập khẩu: Một là, nhập khẩu có chọn lọc các loại đầu vào chất lượng. Một trong những nhân tố góp phần làm tăng năng suất của nền kinh tế là chất lƣợng đầu vào nhập khẩu. Tuy nhiên, nhiều loại đầu vào nhập khẩu của nƣớc ta (từ Trung Quốc) lại có chất lƣợng rất thấp (công nghệ lạc hậu, đã qua sử dụng) nhƣ các lò sản xuất xi măng (lò đứng trƣớc đây và lò quay hiện nay), công nghệ trong sản xuất nhà máy nhiệt điện, phân lân, . Các loại đầu vào nhập khẩu cũ kỹ, lạc hậu chỉ có lợi trƣớc mắt vì giá rẻ nhƣng gây ra tác động tiêu cực đến năng suất và tăng trƣởng của nền kinh tế. Trong thời gian sắp tới, thực hiện các cam kết trong WTO, ACFTA (FTA giữa ASEAN và Trung Quốc)13, tham gia AEC, sẽ làm cho công cụ thuế, hạn ngạch hay những biện pháp hạn chế nhập khẩu rõ ràng khác mất hiệu lực, vì thế để hạn chế nhập khẩu các loại đầu vào kém chất lƣợng (các loại đầu vào loại này có thể tối ƣu cho từng doanh nghiệp nhƣng lại không tối 13 ACFTA đƣợc các nhà lãnh đạo Thƣợng đỉnh ASEAN và Trung Quốc ký ngày 4/11/2002 tại Campuchia, Hiệp định Thƣơng mại Hàng hóa ASEAN-Trung Quốc đƣợc ký kết ngày 29/11/2004 tại Lào và Biên bản ghi nhớ giữa Việt Nam – Trung Quốc ký ngày 18/7/2005 tại Trung Quốc. 137 ƣu cho tổng thể nền kinh tế vì chúng gây hủy hoại môi trƣờng, tiêu hao năng lƣợng nhƣ dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng, dây chuyền sản xuất phân đạm, công nghệ sản xuất thép, nhập khẩu từ Trung Quốc), Chính phủ cần các biện pháp hành chính bổ trợ nhằm tăng chi phí (thời gian, công sức, nguồn lực tài chính) của các doanh nghiệp khi nhập khẩu các loại máy móc, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trƣờng và tiêu hao năng lƣợng. Bài học của Hàn Quốc cho thấy nhập khẩu đầu vào công nghệ cao có tác động tích cực đến tăng trƣởng của nền kinh tế quan trọng không kém so với xuất khẩu hàng hóa. Vì thế, Chính phủ cần chú trọng đến công tác nhập khẩu đầu vào cho hoạt động sản xuất, tránh tình trạng các doanh nghiệp lập các dự án tốn kém và nhập khẩu công nghệ lạc hậu của thế giới, nhất là từ Trung Quốc. Vấn đề đã đƣợc nhận diện, các giải pháp để hạn chế công nghệ lạc hậu nhập khẩu từ Trung Quốc có rất nhiều nhƣng vấn đề quan trọng nhất để giải pháp này đi vào thực tế là trách nhiệm của các cán bộ và cơ quan chức năng trong việc triển khai thực hiện các giải pháp. Nâng cao trách nhiệm của các cán bộ hoạch định chính sách tại các cơ quan chức năng (tại Bộ Công Thƣơng, Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, Bộ Tài chính,) là điều kiện tiên quyết. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao trách nhiệm của các cá nhân ra quyết định liên quan đến công tác cán bộ nằm ngoài phạm vi của Luận án. Hai là, xây dựng các công cụ bảo hộ tinh vi nhằm hỗ trợ cho các mục tiêu trong nước. Các công cụ bảo hộ tinh vi nhƣ sử dụng các biện pháp hành chính đã đề cập ở Chƣơng 2. Chƣơng 3 nêu lên các công cụ chính sách thƣơng mại Việt Nam sử dụng. Các công cụ đang ngày một thu hẹp dần khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết theo lộ trình từ các hiệp định thƣơng mại đã tham gia và các hiệp định thƣơng mại đang bắt đầu tham gia hoặc sẽ tham gia. Các công cụ thƣơng mại hiển hiện nhƣ thuế xuất – nhập khẩu, hạn ngạch, VER, sẽ đóng vai trò ngày càng hạn chế trong chính sách thƣơng 138 mại và công nghiệp. Vì vậy, Chính phủ sẽ cần phải sử dụng các công cụ hành chính tinh vi nhằm đạt đƣợc các mục tiêu phát triển trong nƣớc. Nhƣ đã đề cập ở trên, để các công cụ bảo hộ đạt hiệu quả cao nhất theo nghĩa đem lại chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và cấu trúc thƣơng mại theo hƣớng tích cực (nhƣ tăng dần tỷ trọng các mặt hàng công nghiệp đem lại giá trị gia tăng cao, quá trình sản xuất đem lại hiệu ứng lan tỏa lớn đến các khu vực khác của nền kinh tế,), thì việc thiết kế các mục tiêu cho chính sách là rất quan trọng. Các mục tiêu hƣớng tới cần là các ngành hoặc các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu (đặt ra một lộ trình đòi hỏi các ngành đƣợc hỗ trợ phải thúc đẩy xuất khẩu chứ không chỉ khai thác thị trƣờng trong nƣớc), đem lại giá trị gia tăng cao và có tác động lan tỏa tích cực lên tổng thể nền kinh tế. Hỗ trợ các ngành thay thế nhập khẩu sẽ chứng tỏ thiếu hiệu quả vì lịch sử phát triển các nƣớc công nghiệp cho thấy bảo hộ sẽ thành công cao nếu đặt mục tiêu xuất khẩu lên hàng đầu. Còn bảo hộ các sản phẩm thay thế nhập khẩu, ngành công nghiệp non trẻ và bảo hộ cho các ngành có nhóm lợi ích cục bộ (không đem lại lợi ích tổng thể cho nền kinh tế) sẽ gây tổn phí nguồn lực xã hội mà kết quả đạt đƣợc sẽ rất hạn chế. Nhƣ vậy, trƣớc khi đặt ra các chính sách thƣơng mại và tìm kiếm các công cụ phù hợp, điều quan trọng nhất là thiết kế mục tiêu chính sách cho nền kinh tế để đảm bảo tăng trƣởng kinh tế dài hạn. Sau đó, tùy thuộc vào từng tình huống mà có những công cụ chính sách phù hợp chứ không nhất định gắn với một chính sách hay công cụ thƣơng mại cụ thể nào đó.(Vì mục tiêu của chính sách công nghiệp nƣớc ta không rõ ràng và thiếu tính nhất quán nên chính sách thƣơng mại và công cụ thƣơng mại đƣợc thiết kế không dựa trên định hƣớng thống nhất và tính tƣơng thích cao; mục tiêu của chính sách thƣơng mại sẽ liên tục thay đổi và chính sách thƣơng mại sẽ đƣợc điều chỉnh 139 theo từng trƣờng hợp nên tính hiệu quả rất thấp dƣới khía cạnh chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, cấu trúc thƣơng mại và tăng trƣởng kinh tế dài hạn.) Tỷ lệ nội địa hóa:sử dụng yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa trong một số sản phẩm là một trong số những công cụ chính sách thƣơng mại quan trọng với mục tiêu bảo hộ để thúc đẩy ngành công nghiệp đƣợc lựa chọn trong nƣớc. Tuy nhiên, trong những năm qua, sử dụng tỷ lệ nội địa hóa chƣa phát huy hiệu quả tốt nhất trong một số sản phẩm nƣớc ta nhƣ ô tô. Thực tế cho thấy, cần có những biện pháp chính sách thƣơng mại và chính sách công nghiệp bổ sung để phát huy hiệu quả của yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa. Ngành xe máy có tỷ lệ nội địa hóa cao một phần có sự đóng góp “vô hình” của xe máy nhập khẩu từ Trung Quốc và của doanh nghiệp FDI sản xuất xe máy của Trung Quốc. Với các doanh nghiệp FDI sản xuất xe máy Nhật Bản, lớp kỹ sƣ và doanh nghiệp nội địa Việt Nam khó học hỏi để bắt chƣớcvì sự chênh lệch trình độ và năng lực giữa hai phía là rất lớn. May mắn sau đó, dòng xe máy chất lƣợng thấp, giá rẻ của Trung Quốc tràn vào thị trƣờng Việt Nam; các doanh nghiệp Việt Nam và FDI Trung Quốc cũng lắp ráp và sản xuất xe máy Trung Quốc với trình độ không cao (trình độ nằm ở mức trung gian giữa doanh nghiệp FDI Nhật Bản với doanh nghiệp Việt Nam) và đây là cơ hội để các doanh nghiệp cùng với kỹ sƣ Việt Nam học hỏi để nâng cao trình độ, dần tiếp cận đến trình độcủa các doanh nghiệp FDI Nhật Bản, sau đó gia nhập mạng lƣới sản xuất và tiếp nhận công nghệ sản xuất xe máy từ các doanh nghiệp FDI Nhật Bản. Trong nhiều lĩnh vực hiện nay, nhƣ ô tô, Việt Nam thiếu yếu tố may mắn14 nhƣ trong ngành xe máy. Điều này có nghĩa, phải tìm giải pháp để các 14 Yếu tố may mắn đóng vai trò quan trọng không chỉ trong sự phát triển ngành (nhƣ ví dụ về sự phát triển ngành dệt may của Bangladesh trong nghiên cứu của Easterly (2009)) mà còn trong sự phát triển của một quốc gia (nhƣ trong nghiên cứu của Acemoglu và Robinson, 2013). 140 kỹ sƣ và doanh nghiệp Việt Nam học hỏi, bắt chƣớc và sau đó tiếp nhận đƣợc công nghệ của các nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới tại Việt Nam nhƣ Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức. Ngoài quy định tỷ lệ nội địa hóa, có 3 giải pháp đi kèm để vừa nhằm đạt đƣợc tỷ lệ nội địa hóa, vừa thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp trong nƣớc, gồm có: - Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực để các kỹ sƣ và công nhân Việt Nam có thể học hỏi, bắt chƣớc và tiếp thu công nghệ và quy trình sản xuất từ các doanh nghiệp nƣớc ngoài. Nhƣ Acemoglu (2002) đã chỉ ra, các nƣớc phát triển thiết kế công nghệ để phù hợp với trình độ của kỹ sƣ các nƣớc phát triển, vì thế các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam cần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực để học hỏi và vận dụng đƣợc công nghệ nƣớc ngoài, dần chuyển giao công nghệ và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong sản xuất các sản phẩm. - Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ: phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để tận dụng tốt nhất cơ hội từ hội nhập, đem lại giá trị gia tăng cho nền kinh tế và đồng thời cũng thúc đẩy cả 2 quá trình thƣơng mại và tăng trƣởng. - Hợp tác chuyển giao công nghệ: khi đã có nguồn nhân lực chất lƣợng cao và ngành công nghiệp hỗ trợ tƣơng đối phát triển, Chính phủ cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ thông qua các chính sách ƣu đãi. Hiện nay, việc kêu gọi các doanh nghiệp FDI vào nền kinh tế chỉ chú trọng về mặt số lƣợng mà chƣa quan tâm đến mặt chất lƣợng dòng FDI. Bên cạnh việc thúc đẩy các dự án FDI thân thiện với môi trƣờng, công nghệ cao, sử dụng tiết kiệm năng lƣợng thì còn cần sự chuyển giao công nghệ 141 từ các dự án FDI nhằm nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp bản địa. Mua sắm chính phủ:trong những năm đầu tiên sau ký kết các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới nhƣ TPP, Việt Nam vẫn đƣợc bảo lƣu một số quyền nhất định trong lĩnh vực mua sắm công, chẳng hạn mua sắm công cấp địa phƣơng không cần đấu thầu công khai hoặc mua sắm công dƣới một mức tiền nào đó không phải đấu thầu công khai, ; đây là giai đoạn Chính phủ có thể tận dụng công cụ mua sắm công để bổ sung cùng với các công cụ của chính sách thƣơng mại khác nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nên tác động tích cực đến tăng trƣởng của nền kinh tế. Lƣu ý rằng: mua sắm chính phủ cần đƣợc thiết kế nhằm hƣớng đến mục tiêu tổng thể của nền kinh tế, việc thiết kế mua sắm công để làm lợi cho nhóm lợi ích, tham nhũng, sẽ không có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy ngành nghề để đem lại tác động đến tăng trƣởng kinh tế. Hơn nữa, Chính phủ cần quy mua sắm công vào một đầu mối và kết hợp giữa Bộ Tài chính, Bộ Công Thƣơng, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ nhằm hƣớng mua sắm công vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. 142 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kể từ năm 2001 đến nay, Việt Nam tham gia rất nhiều các cam kết đa phƣơng, song phƣơng và khu vực. Hiệp định Thƣơng mại Việt – Mỹ ký kết năm 2000 và đƣợc thực hiện vào năm 2001. Năm 2004, thông qua ASEAN, FTA ASEAN và Trung Quốc đƣợc ký kết. Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO). Cũng thông qua ASEAN, các FTA khác cũng đƣợc hình thành nhƣ với Nhật Bản (2008), Hàn Quốc (2006), Ấn Độ (2009), Úc – Niu-Zin-Lân (2009). Đồng thời, các FTA song phƣơng giữa Việt Nam với một số đối tác nhƣ Nhật Bản (2008) cũng đã đƣợc ký kết, một số khác thì đang trong giai đoạn chuẩn bị đàm phán hoặc đang nghiên cứu. Hơn 10 năm qua, nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày một sâu và với tốc độ ngày càng nhanh vào nền kinh tế quốc tế thông qua các kênh hội nhập rất đa dạng và với các cấp độ, tầng nấc khác nhau. Mức độ hội nhập có thể đƣợc đánh giá thông qua tỷ số thƣơng mại/GDP. Tỷ số càng lớn càng phản ánh mức độ hội nhập càng sâu của một nền kinh tế. Tỷ số này của nƣớc ta so với các nƣớc trong khu vực cao hơn rất nhiều. Điều này cho thấy mức độ hội nhập sâu của nền kinh tế nƣớc ta vào nền kinh tế toàn cầu. Tỷ số thƣơng mại/GDP của nƣớc ta năm 2014 là 170%, trong khi ở các nƣớc trong khu vực thấp hơn rất nhiều (Trung Quốc 42%, Indonesia 48%, Philippines 61%, Lào 90%, Malaysia 138%, Thái Lan 132%, Campuchia: 129%). Độ mở cửa lớn sẽ làm cho tăng trƣởng của nƣớc ta phụ thuộc nhiều hơn vào hoạt động thƣơng mại quốc tế. Trong thời gian sắp tới nền kinh tế Việt Nam sẽ tham gia nhiều hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực thông qua Hiệp định TPP, EVFTA, RCEP và AEC. Vì thế, việc nghiên cứu tác động của thƣơng mại quốc tế đến tăng trƣởng kinh tế và các kênh tác động là hết sức cần thiết. 143 Để đạt đƣợc mục tiêu này, Luận án kết cấu thành 4 chƣơng. Chƣơng 1 tổng quan tài liệu nghiên cứu, xác định khoảng trống của nghiên cứu và gợi mở cách tiếp cận nghiên cứu. Chƣơng 2 thể hiện cơ sở lý luận về tăng trƣởng, thƣơng mại và quan hệ giữa thƣơng mại với tăng trƣởng. Chƣơng này sẽ làm khung phân tích sử dụng cho chƣơng tiếp theo. Ngoài ra, Chƣơng 2 nêu kinh nghiệm quốc tế về tác động của thƣơng mại đến tăng trƣởng kinh tế của 3 nƣớc/lãnh thổ: Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc. Kinh nghiệm quốc tế sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho các đề xuất chính sách ở Chƣơng 4. Chƣơng 3 phân tích thƣơng mại và tăng trƣởng kinh tế của nền kinh tế Việt Nam cũng nhƣ kênh truyền dẫn tác động từ thƣơng mại đến tăng trƣởng kinh tế giai đoạn 2001-2014. Có một số kết luận đáng chú ý nhƣ sau: Thứ nhất, trong giai đoạn 2001-2014, nền kinh tế hứng chịu các cú sốc tiêu cực từ bên trong và bên ngoài nhƣ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, gói kích thích kinh tế (năm 2010) gây ra bong bóng giá tài sản năm 2011. Và kể từ năm 2011 cho đến nay, Chính phủ nỗ lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, xử lý nợ xấu, kiểm soát nợ công và đảm bảo cân đối ngân sách. Nhƣ vậy, trong giai đoạn 15 năm, thời gian quan trọng cho việc chuẩn bị năng lực để thu đƣợc lợi ích động từ năm 2001 đến năm 2007 đã không đƣợc tận dụng triệt để. Vì thế, các mốc hội nhập quan trọng nhƣ ký kết Hiệp định Thƣơng mại Song phƣơng Việt Nam – Hoa Kỳ và gia nhập WTO mới chỉ đem lại lợi ích tĩnh. Còn trong giai đoạn 2008-2014 là khoảng thời gian mà nỗ lực của Chính phủ nhằm hƣớng đến việc thiết lập ổn định kinh tế vĩ mô và các vấn đề thể chế kinh tế trong nƣớc. Thứ hai, cơ cấu nền kinh tế và cấu trúc thƣơng mại trong giai đoạn 2001-2014 cho dù chuyển dịch tích cực nhƣng trong từng ngành, giá trị gia 144 tăng của sự chuyển dịch còn chậm. Nền kinh tế chủ yếu dựa vào các hoạt động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thô, sản phẩm công nghiệp gia công, lắp ráp và khoáng sản. Các sản phẩm xuất khẩu đem lại giá trị gia tăng thấp, thƣờng có đặc tính lợi tức giảm dần theo quy mô và hiệu ứng lan tỏa sang các khu vực khác nhau của nền kinh tế hạn chế. Thứ ba, góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cấu trúc thƣơng mại chậm cũng nhƣ làm cản trở khả năng tận dụng lợi ích động từ thƣơng mại quốc tế là các nhân tố quan trọng nhƣ cơ sở hạ tầng, chất lƣợng nguồn nhân lực, năng lực công nghệ và thể chế kinh tế. Các nhân tố này còn kém xa so với trung bình các nƣớc trong ASEAN-6 vì thế trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực diễn ra mạnh mẽ trong thời gian sắp tới, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cấu trúc thƣơng mại sẽ càng gặp thêm nhiều khó khăn. Thứ tƣ, một nhân tố quan trọng khác góp phần vào việc tận dụng cơ hội từ thƣơng mại quốc tế để thu lợi ích động là chính sách thƣơng mại chƣa hiệu quả và thiếu sự kết hợp giữa chính sách thƣơng mại và chính sách công nghiệp. Chính sách thƣơng mại chƣa đƣợc đặt trong tổng thể các chính sách phát triển nền kinh tế nói chung và còn mang tính ứng phó. Vì thế, các công cụ của chính sách thƣơng mại giai đoạn 2001-2014 nhƣ đƣợc thể hiện rất rời rạc, chắp vá và không cho thấy sự gắn kết để đạt một mục tiêu chung cụ thể. Thứ năm, dòng thƣơng mại của nƣớc ta, nhất là hoạt động xuất khẩu phụ thuộc vào khu vực kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Hoạt động xuất khẩu cũng nhƣ hoạt động sản xuất trong nƣớc lại phụ thuộc vào nhập khẩu các nguyên phụ liệu đầu vào, phần đáng kể từ Trung Quốc. Sự phụ thuộc này đặt ra rủi ro rất lớn cho tăng trƣởng dài hạn của nền kinh tế. 145 Thứ sáu, kênh truyền dẫn tác động từ thƣơng mại quốc tế đến tăng trƣởng kinh tế giai đoạn 2001-2014 chủ yếu các kênh sau: - Hiệu quả đầu tƣ tăng và mở rộng lợi tức không đổi cho thời kỳ dài hơn thông qua việc tiếp cận thị trƣờng rộng lớn hơn; - Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào nền kinh tế tăng mạnh hơn qua mỗi mốc hội nhập kinh tế quốc tế hay nói cách khác qua mỗi lần mở cửa thƣơng mại quốc tế; - Lợi tức thực của vốn cao hơn khi khai thác lợi thế so sánh lao động thặng dƣ; - Hiệu ứng tăng trƣởng nội sinh vì tăng trƣởng kinh tế nhanh từ quá trình mở cửa thƣơng mại; - Các chính sách hỗ trợ tăng trƣởng khi thực hiện cam kết hội nhập; - Giảm hoạt động tìm kiếm trục lợi; - Cạnh tranh và tiếp cận thị trƣờng lớn hơn sẽ thúc đẩy sáng tạo và tinh thần doanh nghiệp; đồng thời thƣơng mại còn làm tăng ý tƣởng đổi mới sáng tạo do sự cọ sát với các đối thủ cạnh tranh và các đối tác bên ngoài. Các kênh truyền dẫn này chủ yếu đem lại lợi ích tĩnh cho tăng trƣởng kinh tế. Có nghĩa là, chúng chỉ đem lại lợi ích trong ngắn hạn và chỉ mới khai thác lợi thế so sánh tĩnh của nền kinh tế mà chƣa đem lại lợi ích động có tác động dài hạn đến năng suất và tăng trƣởng kinh tế. Các kênh truyền dẫn đem lại lợi ích động nhƣ thể hiện dƣới đây thì lại chƣa đƣợc tận dụng tốt, vì thế mở cửa nền kinh tế chủ yếu thông qua vốn để thúc đẩy tăng trƣởng mà chƣa đem lại nhiều tác động tích cực đến năng suất các nhân tố tổng hợp của nền kinh tế. 146 - Phân tán công nghệ và quá trình học hỏi thông qua làm: vì nguồn nhân lực chất lƣợng thấp, năng lực công nghệ của các doanh nghiệp trong nƣớc chƣa cao, và ngành công nghiệp hỗ trợ yếu kém do đó kênh truyền dẫn này còn rất hạn chế trong việc đóng vai trò chuyển tải lợi ích động từ thƣơng mại quốc tế đến tăng trƣởng kinh tế dài hạn; - Chuyên môn hóa trong những ngành công nghiệp có tính kinh tế theo quy mô. Từ các kết luận vừa nêu cùng với triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam trong thời gian tới, định hƣớng và quan điểm cho chính sách thƣơng mại trong giai đoạn mới; các đề xuất giải pháp đƣợc chia thành 3 nhóm: nhóm các giải pháp chung, nhóm các giải pháp bổ trợ cho chính sách thƣơng mại và nhóm các giải pháp liên quan đến chính sách thƣơng mại. Để chính sách thƣơng mại đạt hiệu quả cao nhất trong việc theo đuổi mục tiêu đề ra là tăng số lƣợng và chất lƣợng của thƣơng mại theo hƣớng: bên cạnh thu đƣợc lợi ích tĩnh thì còn tăng cƣờng năng lực thu đƣợc lợi ích động để thƣơng mại quốc tế đem lại tác động tích cực dài hạn đến tăng trƣởng kinh tế chứ không chỉ tận dụng lợi thế so sánh tĩnh để thúc đẩy tăng trƣởng trong ngắn hạn; các giải pháp chung và giải pháp bổ trợ cần thực hiện trƣớc hoặc tối thiểu phải đồng thời, mang tính tổng thể và đồng bộ với chính sách thƣơng mại. Các giải pháp tƣơng đối cụ thể đƣợc nêu trong nội dung của Luận án, trong phần này sẽ thể hiện đầu mục của các giải pháp. Giải pháp tổng thể gồm có: cải cách thể chế kinh tế trong nƣớc theo nguyên tắc thị trƣờng và đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Các giải pháp tổng 147 thể là tiền đề để thực hiện các giải pháp bổ trợ và triển khai các công cụ của chính sách thƣơng mại. Giải pháp bổ trợ cho chính sách thƣơng mại gồm có: - Hoàn thiện cơ sở hạ tầng; - Phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao; - Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; - Xây dựng các khu công nghiệp có tính đồng bộ; - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa hiện đại. Thực hiện các giải pháp bổ trợ trƣớc hoặc ít nhất là song song với chính sách thƣơng mại sẽ làm cho chính sách thƣơng mại đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình truyền tải tác động của thƣơng mại quốc tế đến tăng trƣởng kinh tế. Chính sách thƣơng mại gồm có: - Chính sách thúc đẩy xuất khẩu: (i) Cung cấp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cho các ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có đặc tính tính kinh tế theo quy mô, và có hiệu ứng lan tỏa lớn đến các ngành, sản phẩm và khu vực khác của nền kinh tế; (ii) Các cơ quan chức năng và Hiệp hội ngành hàng cần đồng hành với các doanh nghiệp xuất khẩu tham gia các hội chợ triển lãm và giới thiệu sản phẩm ở nƣớc ngoài; - Chính sách nhập khẩu: (i) Nhập khẩu có chọn lọc các loại đầu vào chất lƣợng để nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các ngành, doanh nghiệp nói riêng; 148 (ii) Xây dựng các công cụ bảo hộ tinh vi nhằm hỗ trợ cho các mục tiêu sản xuất trong nƣớc, hỗ trợ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng hiện đại; (iii) Sử dụng tỷ lệ nội địa hóa để giúp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp mũi nhọn, tuy nhiên, biện pháp này cần đi kèm với các giải pháp nhƣ nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, hợp tác chuyển giao công nghệ; (iv) Nâng cao vai trò mua sắm chính phủ trong việc hỗ trợ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nƣớc, nâng cao năng lực xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Ƣu điểm của Luận án là đã hệ thống hóa đƣợc các kênh truyền dẫn tác động từ thƣơng mại quốc tế đến tăng trƣởng kinh tế về mặt lý thuyết và thực tiễn của Việt Nam; đƣa ra hệ các giải pháp nhằm làm cho thƣơng mại quốc tế đem lại lợi ích động cho nền kinh tế chứ không chỉ lợi ích tĩnh. Nhƣợc điểm của Luận án là chƣa đo lƣờng định lƣợng đƣợc từng kênh tác động cho dù phân tích định tính đã đề cập đến độ lớn của từng kênh tác động. Vì thế, các đề xuất giải pháp khó tránh khỏi còn chung chung và chƣa thực cụ thể. Bên cạnh đó, lĩnh vực thƣơng mại quốc tế và tăng trƣởng kinh tế bao phủ một phạm vi nghiên cứu rất rộng lớn nhƣ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, thiết kế các công cụ bảo hộ tinh vi ; đây lại là lĩnh vực nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu khác, vì thế Luận án khi có những đề xuất liên quan thƣờng không thật cụ thể mà chỉ mang tính chung chung. Trong thời gian sắp tới, NCS sẽ tiếp tục theo đuổi hƣớng nghiên cứu của Luận án để làm rõ những câu hỏi mà Luận án chƣa trả lời dứt khoát. 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 1. Nguyễn Quang Thuấn, Nguyễn Chiến Thắng, Nguyễn Xuân Trung, Phạm Sỹ An, (2013), “5 năm Việt Nam gia nhập WTO”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 2. Phạm Sỹ An và Trần Văn Hoàng (2013), “Các nhân tố của tăng trƣởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2011”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế (số 2 (417)), tr. 3- 10. 3. Phí Vĩnh Tƣờng và Phạm Sỹ An (2014), “Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị chính sách”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 203 (II), tháng 5/2014. 4. Phạm Sỹ An (2015), “Tác động của thƣơng mại đến tăng trƣởng kinh tế”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế (số 11 (450)), tr. 25-31. 5. Phạm Sỹ An (2015), “Hội nhập và tăng trƣởng – Các thách thức và chuẩn bị của nền kinh tế Việt Nam”, trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia “Kinh tế Việt Nam trƣớc những thách thức mới của hội nhập quốc tế”, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân (mã số ISBN: 978-604-946-028-9), tr. 21-29. 6. Phạm Sỹ An (2015), “Nền kinh tế Việt Nam trƣớc ngƣỡng cửa hội nhập”, trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia “Kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2015: cơ hội và thách thức trƣớc thềm hội nhập mới”, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân (mã số ISBN: 978-604-946-058-6), tr. 223-237. 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt: 1. Acemoglu, D. và Robinson, J. A. (2013), Tại sao các Quốc gia Thất bại, Nhà xuất bản Trẻ. 2. Athukorala, P. (2005), Cải cách chính sách thƣơng mại và cơ cấu bảo hộ ở Việt Nam, Chƣơng trình giảng dạy Kinh tế Fullbright Niên khóa 2011-2013 3. Hoàng Xuân Bình (2011), Mối quan hệ giữa mở cửa thƣơng mại và tăng trƣởng kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ, Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo. 4. Trần Võ Hùng Sơn và Châu Văn Thành (1998), Nguồn gốc tăng trƣởng: Phân tích kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-96 5. Davidson, P. (2007), Giải pháp Keynes: Con đƣờng dẫn đến sự thịnh vƣợng kinh tế toàn cầu, Nhà xuất bản Trẻ. 6. Devlin, Estevadeordal và Rodriguez-Clare (2006) trong Winters và Yusuf (2007), Vũ điệu với ngƣời khổng lồ: Trung Quốc, Ấn Độ và nền kinh tế toàn cầu, Ngân hàng Thế giới và Viện Nghiên cứu Chính sách. 7. Đinh Công Khải (2014), Chính sách Thƣơng mại ở Việt Nam, Bài giảng về Lý thuyết và chính sách thƣơng mại quốc tế. 8. Đàm Văn Nhuệ (2008), Phát triển bền vững các khu công nghiệp ở Việt Nam: Một vài suy nghĩ, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 17/2008. 9. Chang, H. (2016), Lên gác rút thang: Chiến lƣợng phát triển nhìn từ quan điểm lịch sử, Nhà xuất bản Lao động. 10. Easterly, W. (2009), Truy tìm căn nguyên tăng trƣởng, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. 11. Kiều Anh (2015), Doanh nghiệp Việt lờ nghiên cứu và phát triển, trang web Khoa học và Phát triển, truy cập ngày 29/2/2016 tại đƣờng link [ phat-trien/20151022021813563p1c785.htm] 151 12. Krugman, P. (2009), Sự trở lại của kinh tế học suy thoái và cuộc khủng hoảng năm 2008, Nhà xuất bản Trẻ. 13. Lạc Phong (2015), Nguyên liệu dệt may, da giày nhập khẩu gần 50%, Báo Sài Gòn Giải Phóng, truy cập ngày 14/3/2016 theo đƣờng link[] 14. Nhật Minh (2011), Vận dụng hai mô hình tăng trƣởng kinh tế ở Hàn Quốc thời kỳ những năm 1960-1980, Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc, truy cập ngày 2/8/2015 tạiđịa chỉ trang web [] 15. Nguyễn Xuân Thành (2010), Những trở ngại về cơ sở hạ tầng của Việt Nam, Chƣơng trình Việt Nam: Trung tâm Kinh doanh và Nhà nƣớc của Đại học Harvard và Chƣơng trình Phát triển Liên Hợp Quốc. 16. Nguyễn Quốc Việt và Nguyễn Minh Thảo (2012), Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực thông qua phát triển kỹ năng lao động và vai trò của giáo dục phổ thông, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh số 28 (2012), 185-192. 17. Ngọc Toàn (2015), Nhiều hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu, truy cập ngày 17/5/2016 tại đƣờng link của trang web cafef.vn [ chinh-ngan-hang/nhieu-ho-tro-tin-dung-cho-doanh-nghiep-xuat-khau- 20151016120603874.chn] 18. Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2016), Việt Nam 2035: Hiện đại hóa nền kinh tế và phát triển khu vực tƣ nhân. 19. Nguyễn Lê (2016), Thu ngân sách Việt Nam từ dầu thô xuống dƣới 1% GDP, truy cập ngày 28/1/2016 từ địa chỉ trang web: 1-gdp-20160123013553422.htm 20. Nguyễn Quang Thuấn (chủ biên) (2013), 5 năm Việt Nam gia nhập WTO, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 152 21. Ohno, K. và Lê Hà Thanh (2015), Bẫy thu nhập trung bình tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới số 3 (227). 22. Perkins, D. H. (2002), Chính sách công nghiệp và chính sách tài chính ở Trung Quốc và Việt Nam: Một mô hình mới hay là sự tái hiện kinh nghiệm của Đông Á, trong Joseph E. Stiglitz và Shahid Yusuf, chủ biên (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 23. Phạm Tuyên (2016), Mở cửa thị trƣờng mua sắm công: Ngân sách hết bị rút ruột?, truy cập ngày 22/5/2016, từ trang web báo Tiền phong theo đƣờng link: [ ngan-sach-het-bi-rut-ruot-964571.tpo] 24. Phạm Sỹ An (2005), “Sự quay trở lại của chủ nghĩa bảo hộ - nhân tố của tăng trƣởng?”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 329. 25. Phạm Sỹ An (2007), “Tăng trƣởng kinh tế và ổn định tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 222. 26. Phí Vĩnh Tƣờng (2015) (chủ biên), Phát triển hạ tầng giao thông: Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp cho Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 27. Phùng Xuân Nhạ và Lê Quân (2013), Đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, tập 29, số 4 (2013), trang 1 – 11. 28. Schuman, M. (2010), Châu Á Thần Kỳ: Thiên sử thi về hành trình tìm kiếm sự thịnh vƣợng của châu Á, Nhà xuất bản Thời Đại. 29. Song Hà (2015), Hàng loạt khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy dƣới 30%, Thời báo Kinh tế Việt Nam, truy cập ngày 14/3/2016 tại đƣờng link [ day-duoi-30-20151104091633109.htm] 30. Khánh Huyền và Tuấn Đức (2014), Mua sắm công: hết thời mạnh ai nấy sắm, truy cập ngày 22/5/2016, từ trang web báo Tiền phong theo đƣờng link: 153 [ sam-794091.tpo] 31. Stiglitz, J. (2011), Rơi tự do: nƣớc Mỹ, các thị trƣờng tự do và sự chìm đắm của nền kinh tế thế giới, DTBooks và NXB Thời đại. 32. Trần Đình Thiên (2015a), Đổi mới: Từ góc nhìn so sánh, Bài trình bày tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam: Tổng kết 30 năm phát triển Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2015 tại Hà Nội. 33. Trần Đình Thiên (Chủ biên) (2015b), Kinh tế Việt Nam 2014: Nỗ lực thoát đáy, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 34. Trần Văn Thọ (2015), Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam, Nhà Xuất bản Tri thức. 35. Trần Thọ Đạt (2010), Tăng trưởng kinh tế thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nhà xuất bản trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 36. Trần Thọ Đạt (2011), Chuyển đổi mô hình tăng trƣởng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển. 37. Thủy Diệu (2015), Phụ trợ Samsung vẫn quá sức doanh nghiệp Việt, truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2016 từ trang web của Thời báo Kinh tế Việt Nam theo đƣờng link [ suc-doanh-nghiep-viet-20150715041030518.htm] 38. Trƣơng Đình Tuyển và cộng sự (2011), Tác động của cam kết mở cửa thị trƣờng trong WTO và các hiệp định khu vực thƣơng mại tự do (FTAs) đến hoạt động sản xuất, thƣơng mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Bộ Công Thƣơng giai đoạn 2011-2015, MUTRAP III. 39. Thủy Nhi và Kim Oanh (2008), “Những lợi ích từ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu”, truy cập ngày 5/6/2016 từ trang web của Thời báo Kinh tế Việt Nam theo đƣờng link: [ tin-dung-xuat-khau-60545.htm] 154 40. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Tỷ trọng xuất khẩu của khối FDI tăng dần đều trong 5 năm qua, truy cập theo đƣờng link: [ spx?ItemID=4353] 41. Winters, L. A. và Yusuf S. (2007), Vũ điệu với ngƣời khổng lồ: Trung Quốc, Ấn Độ và nền kinh tế toàn cầu, Ngân hàng Thế giới và Viện Nghiên cứu Chính sách. 42. Yusuf, S. (2001), Sự thần kỳ Đông Á bên thềm thiên niên kỷ, trong Joseph E. Stiglitz và Shahid Yusuf (2002), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tiếng Anh: 43. Acemoglu, D. và Zilibotti, F. (2001), Productivity Differences, The Quarterly Journal of Economics, 116(2): 563-606. 44. Acemoglu, D. (2002), Technical change, inequality, and the labor market, Journal of Economic Literature, 40(1): 7-72. 45. Barro, R. J. và Sala-I-Martin, X. I. (1995), Economic Growth, The MIT Press. 46. Berg, A. và Krueger, A. (2003), Trade, Growth, and Poverty: A Selective Survey, WP/03/30, IMF Working Paper, International Monetary Fund. 47. Bernard, A. B. và Jensen, J. B. (1999), “Exceptional Exporter Performance: Cause, Effect, or Both?”, Journal of International Economics, Vol. 47 (February): 1-25. 48. Bianchi, C. (2004), The growth performance and prospects in Europe: a Kaldorian approach, Universita degli studi di Pavia, Via San Felice, 5, I - 27100 Pavia, Marzo. 49. Bigsten, A. và cộng sự (2000), “Exports and Firm-Level Efficiency in African Manufacturing”, Centre for the Study of African Economies Working Paper No. 2000/16, University of Oxford, Oxford. 155 50. Brid J. C. M (2001), Capital Flows, Interest Payments and the Balance-of Payments Constrained Growth Model: a Theoretical and an Empirical Analysis, Prepared for the Conference an Old and New Growth theories: an Assessment Pisa, Italy, October 5-7. 51. Bordo, M. D. và Rousseau, P. L. (2011), Historical Evidence on the Finance- Trade-Growth Nexus, Working Paper 17024, NBER Working Paper Series, National Bureau of Economic Research. 52. Bhagwati, J. (1988), “Export-Promoting Trade Strategy: Issues and Evidence”, World Bank Research Observer, Vol. 3 (January): 27-57. 53. Bùi Trƣờng Giang và Phạm Sỹ An (2011), “Vietnam‟s trade deficit: A view from the economic growth pattern”, Vietnam‟s Socio-Economic Development, A Quarterly Review – No. 66, June 2011. 54. CIEM, FIA và USAID (2007), Assessment of the Five-Year Impact of the United States – Vietnam Bilateral Trade Agreement on Vietnam‟s Trade, Investment and Economic Structure, The National Political Publishing House. 55. Coe, D. T. và cộng sự (1997), “North-South R&D Spillovers”, Economic Journal, Vol. 107 (January): 134-49. 56. Crafts, N. (1999), “Implications of Financial Crisis for East Asian Trend Growth”, Oxford Review of Economic Policy 15(3); 110-31. 57. Connolly, M. and Yi, K. (2008), How Much of South Korea‟s Growth Miracle Can be Explained by Trade Policy, Working Paper Series, Working Paper 2008-23, Federal Reserve of San Francisco. 58. Chu Quang Khoi (2003), Sources of Economic Growth, the Case of Vietnam in the Period 1986-2001, Thesis of Master degree, MDE Hanoi. 59. Chow, G. C. (2005), Globalization and China‟s Economic and Financial Development”, CEPS Working Paper No. 115. 60. Dollar, D. (2002), Institutions, Trade, and Growth, Carnegie-Rochester Conference Series on Public Policy, The World Bank. 156 61. Dollar, D. và Kraay, A. (2004), “Trade, Growth, and Poverty”, The Economic Journal, Vol. 14, No. 493. 62. Edwards, S. (1998), Openness, productivity and growth: What do we really know? Economic Journal 108 (447): 383-398. 63. Elliot, D.R. and Rhodd, R. (1999), 'Explaining Growth Rate Differences in Highly Indebted Countries: an Extension to Thirlwall and Hussain,' Applied Economics 31. 64. Ferreira, A. L. and Canuto, O., (2003), Thirlwall's Law and Foreign Capital in Brazil, Enero-Febrero de 2003, núm 125. 65. Frankel, J. and Romer, D. (1999), Does trade cause growth? American Economic Review 89 (3): 379-399. 66. Inada, K. (1963), "On a Two-Sector Model of Economic Growth: Comments and a Generalization". The Review of Economic Studies 30 (2): 119–127. 67. Grossman, G. M. và Helpman, E. (1991), Innovation and Growth in the Global Economy, MIT Press, Cambridge and London. 68. Hallward-Driemeier và cộng sự (2000), “Manufacturing in East Asia: Firm- Level Evidence”, Development Research Group (unpublished), World Bank. 69. Hong, S. G. (1979), The Political Economy of Industrial Policy in East Asia: The Semiconductor Industry in Taiwan and South Korea, Edward Elgar, Cheltenham, U.K. 70. Herath, H. M. S. P. (2009), Impact of Trade Liberalization on Economic Growth of Sri Lanka: An Economic Investigation, Department of Banking and Finance, Faculty of Business Studies and Finance, Wayamba University of Sri Lanka, Kuliyapitiya, Sri Lanka. 71. Kaur, I. N. và Singh, N. (2013), China, India and Industrial Policy for Inclusive Growth, University of California, Santa Cruz. 72. Kokko, A. (1998), Managing the Transition to Free Trade: Vietnamese Trade Policy for the 21 st Century, Policy Discussion Paper No. 98/05, Centre for International Economic Studies, University of Adelaide, Adelaide, Australia. 157 73. Keynes, J. M. (1936) The General Theory of Employment, Interest and Money, Macmillan, London. 74. Kraay, A. (1999), “Exports and Economic Performance: Evidence from a Panel of Chinese Enterprises”, Revue d’Economie du Development, Vol. 7 (June): 183-207. 75. Krueger, A. O. và Tuncer, B. (1982), “An Empirical Test of the Infant Industry Argument”, American Economic Review, Vol. 72 (December): 1142-52. 76. Krugman, P. và Obstfeld, M. (2001), International Economics: Theory and Policy, World Student Series. 77. Learner, E. E. (1988), “Measures of Openness”, in Trade Policy Issues and Empirical Analysis, ed. By Robert E. Baldwin (NBER Conference Report series), University of Chicago Press, Chicago and London. 78. Lucas, R. E. (1988). 'On the Mechanics of Economic Development,' Journal of Monetary Economics 22, 1,3-42. 79. Lo, D. và Wu, M. (2012), The state and industrial policy in Chinese economic development, paper solicited by the ILO-UNCTAD for the project „After the Money‟s Gone: Why Industrial Policy Matters for Inclusive Growth and Job Creation‟. 80. Lê Đăng Doanh, Võ Trí Thành, Phạm Thị Lan Hƣơng, Đinh Hiền Minh, và Nguyễn Quang Thắng (2002), Explaining Growth in Vietnam, East Asian Development Network, Global Development Network, Hanoi. 81. Marelli, E. và Signorelli, M. (2011), China and India: Openness, Trade and Effects on Economic Growth, The European Journal of Comparative Economics, Vol. 8, n.1, pp. 129-154. 82. Misselden, E. (1623), The Centre of the Circle of Commerce, J. Dawson for N. Bourne, London. 158 83. Nguyen Thi Ha Trang, Nguyen Thi Thanh Tam, và Vu Hoang Nam (2011), An Inquiry into the determinants of Vietnamese product export, Working Paper Series No. 2011/08, Depocen, Hanoi, Vietnam. 84. Nguyen Tien Dung, Impacts of East Asian Integration on Vietnam: A CGE Analysis, College of Economics, Vietnam National University, Hanoi. 85. Oostendrop, R. H. và Quang, D. H. (2010), The Impact of Trade Liberalization on the Return to Education in Vietnam: Wage Versus Employment Effect, Tinbergen Institute Discussion Pape, TI 2011-060/3. 86. Pacheco-López (2003), The impact of trade liberalization on the trade balance, the balance of payments and economic growth: the case of Mexico, European trade study group, fifth annual conference, 11-13 September 2003, Madrid, Spain. 87. Phạm Sỹ An (2006), “Economic growth and balance of payments constraint in Vietnam”, Vietnam Economic Management Review No 1 & No 2. 88. Ranis, G. (2007), Taiwan‟s success and vulnerability: Lessons for the 21st century, trong Robert Ash và J. Megan Greene, 2007, Taiwan in the 21 st Century, Routledge, USA. 89. Romer, R. M. (1986) 'Increasing Returns and Long Run Growth,' Journal of Political Economy 94, 5: 1002-37. 90. Rodrik, D. (2006), What‟s So Special About China‟s Exports? China & World Economy, Vol. 14, No. 5, September-October. 91. Sachs, J. D. and Warner, A. (1995), Economic reform and the process of global integration, Brookings Papers on Economic Activity 1995 (1): 1-118. 92. Schumpeter, J. (1934), The Theory of Economic Development: An Inquiry into Profits, Capital, Credit, Interest and the Business Cycle. 93. Solow. R. M. (1957) 'Technical Change and the Aggregate Production Function,' Review of Economics and Statistics 39: 312-320. 94. Solow, R. M. (1956), “A contribution to the theory of economic growth”, Quarterly Journal of Economics, 70 (1). 159 95. Sun, P. và Heshmati, A. (2010), International Trade and its Effects on Economic Growth in China, Discussion Paper No. 5151, The Institute for the Study of Labor (IZA), Bonn, Germany. 96. Stiglitz, J. E. và Charlton, A. (2012), The Right to Trade, A Report for the Commonwealth Secretariat on Aid for Trade, Commonwealth Secretariat. 97. Thirlwall, A.P. (1979) 'The Balance of Payments Constrain as an Explanation of International Growth Rate Differences,' Banca Nazionale del Lavoro Quarterly Review 128, 791: 45-53. 98. Thirlwall, A. P. (1994), Growth and Development with Special Reference to Developing Economies, (5th edn), MacMillan Press Ltd, Hong Kong. 99. Thirlwall, A. P. (2000), Trade, Trade Liberalization and Economic Growth: Theory and Evidence, Economic Research Papers No. 63, African Development Bank. 100. Thirlwall, A. P. (2002), The Nature of Economic Growth: An Alternative Framework for Understanding the Performance of Nations, Edward Elgar, UK. 101. Thirlwall, A. P. and Hussain, M. N. (1982), "The Balance of Payments Constraint, Capital Flows and Growth Rate Differences Between Developing Countries", Oxford Economic Paper. 102. Tran Tho Dat, Nguyen Quang Thang và Chu Quang Khoi (2004), “Sources of Vietnam‟s Economic Growth 1986-2004”, National Economics University, Hanoi. 103. Tran Vo Hung Son và Chau Van Thanh (1998), “Analysis of the Sources of Economic Growth of Vietnam”, CAS Discussion Paper No. 21, CAS- CIMDA. 104. Tsegaye, D. L. (2015), Trade and Growth Nexus in South Korea: Analysis Using Vector Error Correction Model and Granger Causality Test, Global Development Network, Working Paper No. 88, Korea International Cooperation Agency. 160 105. Ventura, J.(1997), “Growth and Interdependence”, Quarterly Journal of Economics, Vol. 112: 57-84. 106. Waczirg, R. (1997), “Trade, Competition, and Market Size” (unpublished), Harvard University, Cambridge. 107. Westphal, L. E. and Kim, K. S. (1977), Industrial Policy and Development in Korea, World Bank Staff Working Paper 263. 108. Young, A. (1991), “Learning by Doing and the Dynamic Effects of International Trade”, Quarterly Journal of Economics, Vol. 106 (May): 369- 405. 109. Scitovsky, T. (1985), Economic Development in Taiwan and South Korea: 1965-81, Food Research Institute Studies, Vol. XIX, No. 3.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmoi_quan_he_giua_thuong_mai_va_tang_truong_kinh_te_va_khung_kho_chinh_sach_thuong_mai_viet_nam_6684.pdf
Luận văn liên quan