Nói chung, cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về đầu tư trực
tiếp nước ngoài, trong đó có hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp.
Thứ nhất, các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài về cơ bản đã chỉ ra những
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp và một số nghiên cứu đã
quy các yếu tố này về các nhóm nhân tố “kéo” và các nhân tố “đẩy”. Các nghiên cứu
nước ngoài về ĐTTTRNN của các doanh nghiệp ở các nước châu Á đều đi đến khẳng
định các nhân tố chính thúc đẩy hoạt động này bao gồm tìm kiếm thị trường, tìm kiếm
hiệu quả, tìm kiếm nguồn lực và tìm kiếm tài sản chiến lược tuy từng trường hợp các
công ty với quy mô khác nhau, kinh doanh ở các lĩnh vực khác nhau và ở các nước khác
nhau cũng có những điểm khác nhau. Điều này góp phần củng cố thêm cho các lý thuyết
về ĐTTTRNN đã được giới nghiên cứu thừa nhận và sử dụng như là khung lý thuyết để
nghiên cứu từng trường hợp cụ thể. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng đã góp phần
kiểm chứng, củng cố thêm các lý thuyết này, nhất là những nghiên cứu thực nghiệm
được thực hiện nhằm giải thích lý do các doanh nghiệp ĐTTTRNN và chỉ ra các “động
cơ” thúc đẩy doanh nghiệp ĐTTTRNN ít nhiều cũng được nghiên cứu ở một vài quốc
gia cụ thể.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 29 trang
29 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 650 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp ở một số nước Châu Á - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Với Việt Nam, từ khi thực hiện chính sách mở cửa, tích cực tham gia vào các 
hoạt động đầu tư quốc tế đến nay đã cho thấy hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh 
nghiệp Việt Nam ra nước ngoài đã mang lại những kết quả tích cực, đóng góp quan 
trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhưng nhìn lại có thể thấy hoạt 
động này đang có những bất cập, hạn chế. Đó là tình trạng một số dự án đầu tư lớn chậm 
được triển khai hay một số trường hợp dự án chưa tính toán hết được các yếu tố rủi ro 
cả về quy mô vốn, thị trường cũng như các điều kiện về thủ tục pháp lý, các rào cản về 
ngôn ngữ, văn hóa... nên khi thực hiện gặp khó khăn, bị chậm trễ đã ảnh hưởng đến hiệu 
quả đầu tư. Hầu hết các dự án ĐTTTRNN của các doanh nghiệp lớn là những dự án 
 3
mang tính dài hạn, tập trung vào những lĩnh vực có thời gian thu hồi vốn dài (các dự án 
này chiếm khoảng 80-85% vốn đầu tư đã chuyển ra nước ngoài), hiệu quả đầu tư lại 
chưa lượng hoá rõ. Phần lớn các dự án ĐTTTRNN do các tập đoàn, công ty nhà nước 
làm chủ đầu tư chưa bảo đảm cho việc quản lý có hiệu quả nguồn vốn nhà nước, dễ dẫn 
đến nguy cơ thất thoát nguồn vốn đầu tư của Nhà nước Kết quả khảo sát thực tế cũng 
cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam ĐTTTRNN có những khó khăn lớn như: thiếu 
vốn; công nghệ, trình độ quản lý hạn chế, thiếu các chính sách hỗ trợ từ phía nhà nước 
và gặp nhiều rào cản như thiếu hiểu biết pháp luật, tôn giáo, tín ngưỡng nước sở tại, khó 
khăn trong tuyển lao động (Nguyễn Thị Nhung, 2017). 
Khi Việt Nam hiện nay đã được đánh giá là một quốc gia có mức thu nhập trung 
bình và chuyển sang giai đoạn phát triển mới thì việc gia tăng hiệu quả các hoạt động 
ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam là vấn đề rất quan trọng. Vì vậy, việc nghiên 
cứu làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến ĐTTTRNN của doanh nghiệp 
nhằm rút ra các bài học kinh nghiệm đồng thời luận giải khả năng vận dụng với Việt 
Nam là hết sức cần thiết. 
Đó cũng là lý do nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy 
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp ở một số nước châu 
Á – Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng với Việt Nam” làm nội dung của luận 
án tiến sĩ. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích làm rõ các yếu tố thúc đẩy hoạt động 
ĐTTTRNN của các doanh nghiệp ở một số nước châu Á để rút ra những bài học kinh 
nghiệm, đồng thời luận giải khả năng vận dụng những bài học kinh nghiệm đó với Việt 
Nam. Các câu hỏi nghiên cứu chính bao gồm: 
- Có những yếu tố nào có vai trò thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của các doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á? 
- Từ kết quả nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của các doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á có thể rút ra những bài học kinh nghiệm gì? Việt Nam có 
thể tham khảo vận dụng những bài học kinh nghiệm nào trong số các bài học kinh 
nghiệm đó? 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về các yếu 
tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp. 
 4
- Phạm vi nghiên cứu: 
Phạm vi về không gian, luận án nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy hoạt động đầu tư 
trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp ở một số nước châu Á, cụ thể là các doanh 
nghiệp ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc là những nước tiêu biểu cho sự thành công 
trong phát triển kinh tế, vươn hẳn lên về trình độ phát triển so với số đông các nước và 
vùng lãnh thổ khác ở châu Á. 
Phạm vi về thời gian, luận án nghiên cứu thực trạng các yếu tố thúc đẩy hoạt 
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp ở các nước châu Á lựa chọn từ 
khi các doanh nghiệp này bắt đầu thực hiện các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 
cho đến thời gian gần đây. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
Đề tài được nghiên cứu dưới giác độ lịch sử kinh tế, tiếp cận chủ đề nghiên cứu 
theo cả hai hướng: diễn dịch và quy nạp. Luận án cũng sử dụng đồng thời nhiều cách 
tiếp cận khác nhau để nghiên cứu và giải quyết các mục tiêu đề ra, bao gồm tiếp cận hệ 
thống, tiếp cận toàn diện, đa chiều, tiếp cận lịch sử cụ thể, tiếp cận liên ngành. Trong 
nghiên cứu, đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác, chủ yếu là các phương 
pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành lịch sử kinh tế, đó là: kết hợp phương pháp 
lịch sử và phương pháp lôgic; phương pháp kế thừa; phương pháp tổng hợp; phương 
pháp so sánh; phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp phân tích và tổng kết 
kinh nghiệm. 
5. Những đóng góp của đề tài luận án 
Về mặt lý luận: Thứ nhất là tổng quan được các công trình nghiên cứu lý thuyết 
và nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến chủ đề nghiên cứu. Thứ hai là đã xây dựng 
được khung phân tích xác định các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh 
nghiệp. Thứ ba là đi sâu phân tích các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á được lựa chọn để khẳng định các giả thuyết đưa ra, đồng 
thời phát hiện bổ sung một số yếu tố khác có vai trò thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của 
doanh nghiệp ở các nước châu Á lựa chọn. Thứ tư là rút ra được các bài học kinh nghiệm 
cho doanh nghiệp ĐTTTRNN và các bài học kinh nghiệm về hoạch định và thực thi 
chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 
Về mặt thực tiễn: Đề tài luận án đã luận giải khả năng vận dụng những bài học 
kinh nghiệm từ kết quả nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á vào điều kiện Việt Nam để từ đó đề xuất một số khuyến 
 5
nghị cụ thể về chính sách đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm hướng tới thực hiện 
các mục tiêu đề ra đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. 
6. Kết cấu của đề tài 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được kết cấu thành 4 chương. 
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 
Chương 2: Cơ sở lý luận về các yếu tố thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 
của doanh nghiệp 
Chương 3: Các yếu tố thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á 
Chương 4: Những bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng với Việt Nam 
 6
CHƯƠNG 1 
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu ngoài nước 
* Các công trình nghiên cứu lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một chủ đề nhận được sự quan tâm sâu rộng cả 
trên hai phương diện lý luận và thực tiễn nhưng trong thực tế đến những năm 1960, các 
lý thuyết về FDI mới được phát triển và cố gắng để tìm hiểu động lực phía sau những 
quyết định đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp. Các lý thuyết về FDI ban đầu 
được phát triển bởi MacDougall (1958) và sau đó là Kemp (1964). Mặc dù phần nào đã 
lý giải nguyên nhân của việc ĐTTTRNN nhưng các lý thuyết này có điểm hạn chế lớn 
nhất là dựa trên giả định thị trường cạnh tranh hoàn hảo – điều gần như không có trong 
thực tiễn. Về sau, các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài cơ bản được dựa trên giả 
định thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Có thể nêu lên các lý thuyết chính sau: 
- Lý thuyết FDI tiếp cận theo tổ chức ngành 
Hymer (1970, 1976) đưa ra lý thuyết về tổ chức ngành để giải thích cho xu hướng 
FDI của Mỹ. Đáng chú ý là trước đó, không có lý thuyết nào về FDI như vậy và cũng 
không có nhu cầu về mặt nhận thức để coi đầu tư trực tiếp là một trường hợp đặc biệt vì 
vậy có thể cho rằng khái niệm FDI bắt đầu phát triển khi có bước đột phá được thực 
hiện bởi Hymer. Trong nghiên cứu, Hymer thấy sự cần thiết phải phân biệt giữa đầu tư 
tài chính thuần túy (đầu tư danh mục) và đầu tư của các công ty lớn cho mục đích sản 
xuất mà tiêu chí phân định ranh giới giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư danh 
mục là kiểm soát. Đầu tư trực tiếp cho phép công ty kiểm soát các hoạt động kinh doanh 
ở nước ngoài còn danh mục đầu tư thì không (Ietto-Gillies, 2014). 
Theo Hymer, FDI như là một kết quả tự nhiên của sự tăng trưởng và phát triển 
của các công ty độc quyền ở Mỹ. Trong những năm 1960, để duy trì trạng thái độc 
quyền, một số công ty Mỹ đã mở rộng phạm vi hoạt động ra thị trường quốc tế nhằm 
khai thác lợi thế so sánh về công nghệ và quản lý mà các công ty trong cùng lĩnh vực tại 
các quốc gia khác không có được. Nghiên cứu của Hymer đã khởi đầu cho chuỗi nghiên 
cứu theo nhánh này mà có thể kể đến như Caves (1974), Dunning (1974), Vaitsos (1976) 
và Cohen (1975). Lý thuyết của Hymer cũng chỉ ra rằng hoạt động đầu tư ra nước ngoài 
thường gặp khá nhiều rủi ro về ngôn ngữ, văn hóa, hệ thống pháp luật hay thị hiếu khách 
 7
hàng. Thậm chí một số công ty còn phải đối mặt với những rủi ro về tỷ giá hối đoái. Do 
đó, các công ty đầu tư ra nước ngoài phải đạt được một sự vượt trội về sức mạnh thị 
trường như sở hữu công nghệ tiên tiến, thương hiệu mạnh, v.v. để có thể đảm bảo được 
khả năng tạo ra lợi nhuận mà trong đó công nghệ là yếu tố quyết định chính (Nayak and 
Choudhury, 2014). Một số nghiên cứu khác cũng đưa ra những lập luận ủng hộ quan 
điểm của Hymer. Graham and Krugman (1989) cho rằng các lợi thế về sở hữu công 
nghệ trong quá khứ của các công ty châu Âu đã dẫn đến sự đầu tư của các công ty này 
tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cũng có một số quan điểm phản bác lại lý thuyết trên như Robock 
and Simmonds (1983) lập luận rằng công ty có lợi thế không nhất thiết đi cùng với việc 
đầu tư ra nước ngoài mà thay vào đó có thể khai thác lợi thế thông qua xuất khẩu hoặc 
cấp giấy phép. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu cũng thường đi kèm với rủi ro sao chép 
công nghệ do thiếu đi sự kiểm soát tại thị trường nước ngoài. Nói chung, có nhiều 
nguyên nhân để doanh nghiệp lựa chọn đầu tư ra nước ngoài hoặc xuất khẩu như chính 
sách của chính phủ, quy mô thị trường, rủi ro đầu tư, v.v Lý thuyết của Hymer chỉ 
mới nêu được nguyên nhân của việc đầu tư ra nước ngoài, nhưng chưa giải thích được 
lý do chọn địa điểm đầu tư và thời điểm đầu tư của doanh nghiệp. 
- Lý thuyết FDI dựa trên sức mạnh độc quyền 
Lý thuyết của Kindleberger (1969) giải thích rằng nguyên nhân khiến một doanh 
nghiệp quyết định đầu tư ra nước ngoài là do sức mạnh độc quyền. Những sản phẩm 
mới thường có xu hướng độc quyền, giá thành thấp nên các công ty có sản phẩm mới có 
xu hướng mở rộng phạm vi sản xuất ra thị trường quốc tế để tận dụng lợi thế về quy mô. 
Lý thuyết của Kindleberger là sự mở rộng từ lý thuyết của Hymer. 
- Lý thuyết quốc tế hóa FDI 
Buckley and Casson (1976, 1985) đã chuyển trọng tâm lý thuyết từ cấp độ quốc 
gia sang cấp độ ngành và cấp độ doanh nghiệp, đồng thời giải thích việc đầu tư ra nước 
ngoài tập trung vào các yếu tố đầu vào và công nghệ trung gian. 
Lý thuyết của Buckley and Casson được xây dựng dựa trên 3 định đề: các doanh 
nghiệp sẽ tối đa hóa lợi nhuận trong điều kiện thị trường không hoàn hảo; thị trường về 
công nghệ là không hoàn hảo; và quá trình quốc tế hóa thương mại được dẫn dắt bởi các 
công ty đa quốc gia. Buckley and Casson (1976) còn xác định rõ năm loại không hoàn 
hảo của thị trường dẫn đến thương mại quốc tế đó là: sự phối hợp các nguồn lực đòi hỏi 
một khoảng thời gian dài; khai thác hiệu quả của sức mạnh thị trường đòi hỏi phải định 
giá theo hình thức phân biệt giá; độc quyền song phương tạo tình huống thương lượng 
không ổn định; người mua có thể không ước tính chính xác giá của hàng hoá; và can 
 8
thiệp của chính phủ vào thị trường quốc tế tạo ra động lực chuyển giá. Theo Buckley & 
Casson, các tập đoàn xuyên quốc gia thường ưa chuộng đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn 
so với chuyển giao công nghệ do khó định giá chính xác được công nghệ và chi phí giao 
dịch cao. Đầu tư ra nước ngoài và không chuyển giao công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp 
giữ được sự vượt trội về công nghệ so với đối thủ cạnh tranh tại các nước sở tại. Cũng 
theo Buckley and Casson, một lý do khác khiến cho việc chuyển giao công nghệ gặp 
khó khăn là sự không tương thích giữa nhà cung cấp và doanh nghiệp sử dụng, cụ thể là 
trước khi một sáng kiến mới về qui trình hay sản phẩm được lan truyền rộng rãi trên thị 
trường, những doanh nghiệp sử dụng tiềm năng có rất ít thông tin về chi phí cũng như 
lợi ích của sáng kiến đó và vì thế có thể cho rằng nó gắn liền với rủi ro cao nhưng một 
khi doanh nghiệp sử dụng công nghệ mới này là công ty con của các tập đoàn đa quốc 
gia thì rủi ro này sẽ giảm. 
- Lý thuyết độc quyền nhóm (Oligopolistic theory) 
Knickerbocker (1973) từ nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và cạnh tranh trong 
những ngành độc quyền nhóm đã cho rằng có 3 động lực để doanh nghiệp đầu tư ra 
nước ngoài gồm: tiếp cận thị trường nước ngoài; tận dụng nguồn lực tại các nước sở tại; 
và đầu tư để đối phó với chiến lược của đối thủ. Một đặc điểm quan trọng của những 
ngành độc quyền nhóm là sự phụ thuộc lẫn nhau của các công ty tham gia. Hoạt động 
của một công ty có thể gây ảnh hưởng ngay lập tức tới những đối thủ cạnh tranh chính 
và buộc những công ty này phải có những hành động tương tự ví dụ khi một công ty 
trong nhóm có hành động giảm giá bán và điều đó có thể làm giảm thị phần của các đối 
thủ cạnh tranh nên sẽ buộc các công ty khác trong nhóm cũng phải giảm giá tương tự để 
duy trì thị phần. Như vậy, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các công ty trong độc quyền nhóm 
dẫn tới các hành vi bắt chước. Các đối thủ cạnh tranh thường bắt chước ngay những gì 
mà một công ty trong nhóm thực hiện. 
- Mô hình chiết trung (Eclectic Paradigm) của Dunning 
Mô hình chiết trung được phát triển bởi Dunning từ nửa cuối thập niên 1970. 
Theo Dunning, lợi thế về địa điểm là những lợi thế từ việc sử dụng các nguồn lực hoặc 
tài sản sẵn có gắn liền với một địa điểm cụ thể ở nước ngoài và cũng là những lợi thế có 
giá trị khi công ty kết hợp chúng với các tài sản riêng có của mình (như các bí quyết 
công nghệ, marketing hoặc quản lý). Sự kết hợp những tài sản hay nguồn lực gắn với 
một địa điểm cụ thể cùng với những tài sản riêng của công ty thông thường đòi hỏi công 
ty phải tiến hành thiết lập cơ sở sản xuất ở nơi có các tài sản hay nguồn lực đó. Để lựa 
chọn địa điểm đầu tư, doanh nghiệp quan tâm đến ba lợi thế chủ đạo: i) Lợi thế về sở 
hữu, có thể là một sản phẩm hoặc quy trình sản xuất có ưu thế hơn hẳn các doanh nghiệp 
 9
khác, hoặc cũng có thể là công nghệ, kỹ năng quản lý, v.v; ii) Lợi thế về địa điểm 
gồm lợi thế về yếu tố kinh tế xã hội, ví dụ như cấu trúc và quy mô thị trường, môi trường 
văn hóa, pháp luật hoặc môi trường chính trị và thể chế; iii) Lợi thế nội bộ hóa là việc 
sản phẩm hoặc quy trình sản xuất được sử dụng trong hệ thống công ty mẹ và các công 
ty con thay vì chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp bên ngoài. 
Từ sau năm 1972, dù Dunning liên tục công bố những thảo luận mới về chủ đề 
này và các kết quả nghiên cứu của ông có vai trò rất lớn trong việc giải thích hoạt động 
ĐTTTRNN nhưng mô hình chiết trung vẫn bị chỉ trích do nó bao hàm quá nhiều biến, 
khó bóc tách được động lực đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp. 
- Lý thuyết FDI dựa trên sức mạnh tiền tệ 
Mô hình dựa trên sức mạnh tiền tệ được phát triển bởi Aliber (1970). Tác giả cho 
rằng những quốc gia có đồng tiền yếu sẽ thu hút được nhiều vốn FDI hơn. Tuy nhiên, 
lý thuyết này chưa giải thích được sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia có đồng tiền 
mạnh hoặc giữa quốc gia đang phát triển (có đồng tiền yếu) sang quốc gia phát triển (có 
đồng tiền mạnh). 
- Lý thuyết FDI liên quan đến thương mại quốc tế 
Vernon (1966) đã dựa trên lý thuyết chu kỳ sản phẩm đề giải thích nguyên nhân 
thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, các doanh nghiệp sẽ chuyển 
quá trình sản xuất hàng hóa ra nước ngoài để tận dụng nguồn nhân công giá rẻ nhưng 
công nghệ, quá trình nghiên cứu và phát triển sản phẩm, vẫn sẽ được thực hiện trong 
nước do cần sử dụng nhiều vốn và nhân lực chất lượng cao. Trong ba giai đoạn của vòng 
đời của một sản phẩm quốc tế thì ở giai đoạn sản phẩm chín muồi công nghệ sản xuất 
sản phẩm mới sẽ được chuyển giao sang các nước phát triển khác để sản xuất với chi 
phí thấp hơn (do chi phí nhân công rẻ hơn hay một số các yếu tố khác có sẵn hơn ) và 
đến giai đoạn sản phẩm tiêu chuẩn hóa thì sản xuất lại tiếp tục được chuyển sang các 
nước đang phát triển để tận dụng chi phí thấp của các yếu tố sản xuất. 
Dựa trên các lý thuyết trên, nhiều học giả đã tiếp tục phát triển các lý thuyết về 
FDI. Kojima (1973, 1975, và 1985) đã đưa ra học thuyết về FDI của Nhật Bản. Ông đã 
kết hợp các lý thuyết thương mại với các lý thuyết đầu tư trực tiếp nước ngoài để giải 
thích hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các công ty Nhật Bản. Ông cho rằng hoạt động 
đầu tư ra nước ngoài sẽ làm gia tăng khả năng cạnh tranh và hiệu quả trên thị trường 
quốc tế cũng như để cải thiện quy trình sản xuất tại các quốc gia giàu tài nguyên. Kojima 
xác định tài nguyên, lao động và định hướng thị trường như ba động cơ chính đằng sau 
quá trình đầu tư quốc tế của một công ty. Mặc dù vậy, lý thuyết của ông không giải thích 
 10
được trường hợp ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác như Hàn Quốc, Trung Quốc, 
và Đài Loan. Helpman (1984) đã phát triển một mô hình cân bằng tổng thể của thương 
mại quốc tế trong đó các tập đoàn đa quốc gia (MNCs) đóng một vai trò quan trọng. Lý 
thuyết của Helpman tập trung vào một quốc gia có sự tương đồng về trình độ lao động 
và mức độ phát triển kinh tế. Khi đó, việc thành lập công ty tại nước ngoài sẽ giúp tiết 
kiệm các chi phí về vận tải và gia tăng khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài, đồng 
thời đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô. Lý thuyết của Helpman cũng chỉ ra rằng có 
sự khác biệt về khả năng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong cùng một 
ngành. Theo đó, chỉ có các doanh nghiệp có năng suất cao mới có thể đầu tư ra nước 
ngoài trong khi các doanh nghiệp có năng suất thấp chỉ có thể hoạt động trong thị trường 
nội địa. Nocke and Yeaple (2004) tiếp tục phát triển lý thuyết của Helpman và nghiên 
cứu sự khác nhau giữa việc mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A) và thành lập 
công ty con. Theo đó, sự khác biệt về chi phí sẽ khiến cho các doanh nghiệp quyết định 
thành lập các công ty con (việc thành lập công ty con với mức lợi nhuận đủ đề bù đắp 
cho chi phí đầu tư cao) trong khi sự khác biệt về khả năng kinh doanh sẽ khiến cho 
doanh nghiệp quyết định mua bán và sáp nhập. Mặc dù vậy, lý thuyết này cũng chưa 
giải thích được lý do khiến các quốc gia đang phát triển tiến hành đầu tư sang các nước 
phát triển. 
Xét một cách tổng thể thì các lý thuyết trên đều nhằm đến mục đích giải thích 
nguyên nhân dẫn đến hoạt động ĐTTTRNN ở các khía cạnh khác nhau nhưng các lý 
thuyết trên rõ ràng chưa thể giải thích được tất cả các trường hợp. 
* Các nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến hoạt 
động ĐTTTRNN 
Bên cạnh việc một số lý thuyết về FDI đã nêu ra các yếu tố ảnh hưởng đến 
ĐTTTRNN của doanh nghiệp như tổng hợp của Lei and Chen (2011): “Hầu hết các lý 
thuyết FDI đều cho rằng các lựa chọn đầu tư ra nước ngoài của một công ty đều là do 
nỗ lực muốn khai thác lợi thế riêng của công ty đó trên các thị trường nước ngoài 
(Caves, 1971; Dunning, 1988; Hymer, 1960)”; hay như khẳng định của Dunning (1993, 
2000) là có “bốn nhóm động cơ đầu tư trực tiếp nước ngoài: tìm kiếm thị trường, tìm 
kiếm hiệu quả, tìm kiếm nguồn lực và tìm kiếm tài sản chiến lược”, nhiều kết quả nghiên 
cứu thực nghiệm được công bố đã chỉ ra các công ty tham gia vào hoạt động đầu tư nước 
ngoài vì rất nhiều lý do như: đáp ứng các nhu cầu của thị trường nước ngoài, bắt chước 
đối thủ cạnh tranh, theo sau động thái của khách hàng, tìm kiếm thêm lợi nhuận trên 
những tài sản hiện có, tận dụng các cơ hội tăng trưởng mới tại các thị trường nước ngoài 
và trả đũa các đối thủ cạnh tranh nước ngoài (Root, 1987); đầu tư trực tiếp nước ngoài 
 11
có thể được hiểu là một cơ chế để các công ty tìm kiếm phát triển các nguồn lực, khả 
năng mới hoặc thu được các tài sản chiến lược cần thiết trên cơ sở toàn cầu (Frost, 2001); 
khi chi phí lao động tại các quốc gia hiện sản xuất tăng lên, các công ty sẽ được khuyến 
khích đầu tư vào các nước kém phát triển để giành lại được các lợi thế về chi phí lao 
động (Makino et al., 2002); thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các 
khu vực này, các công ty có thể trao đổi với các công ty khác tại một quốc gia nhận đầu 
tư để thu được các nguồn lực bổ sung cần thiết (Behrman, 1974; Dunning, 1993, 2000; 
Luo and Tung, 2007) hay như Aykut and Ratha (2004) phân loại các yếu tố ảnh hưởng 
đến hoạt động ĐTTTRNN thành 3 nhóm yếu tố “kéo”, “đẩy” và “các yếu tố chiến lược”. 
Nhìn chung, các nghiên cứu thực nghiệm đều hướng tới khẳng định những vấn đề đã 
được nêu ra trong các lý thuyết về FDI, có nghiên cứu còn chỉ ra cụ thể những yếu tố 
ảnh hưởng đến hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp như được tổng hợp ở trên. 
* Các nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài 
của một số nước châu Á 
Ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á, nhất là những nền kinh tế công nghiệp 
hóa mới (NIEs), cùng quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh trong khoảng thời gian nửa 
cuối thế kỷ XX dẫn đến những biến đổi quan trọng trong đời sống kinh tế ở các quốc 
gia và vùng lãnh thổ này nhưng cũng dẫn đến tình trạng khan hiếm dần các nguồn lực 
tăng trưởng kinh tế, đồng thời nhu cầu mở rộng thị trường và sự biến động của môi 
trường kinh doanh quốc tế đã làm nảy sinh nhu cầu ĐTTTRNN và thực tiễn đã cho thấy, 
hoạt động ĐTTTRNN của nhiều doanh nghiệp ở các nền kinh tế châu Á có xu hướng 
ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Thực tế này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều 
học giả từ nhiều nước trên thế giới, trong đó cũng có nhiều nghiên cứu về những yếu tố 
ảnh hưởng đến hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp. 
Khi nghiên cứu về ĐTTTRNN của các nước đang phát triển ở châu Á, Kumar 
(1995) nhận thấy, trong bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế có những thay đổi điển 
hình là xu hướng toàn cầu hóa với sự xuất hiện của nhiều khu vực thương mại tự do, sự 
gia tăng bảo hộ của các nước công nghiệp và khi khả năng cạnh tranh quốc tế của một 
số nước NICs Đông Á bị ảnh hưởng bởi sự mất giá tiền tệ cùng với xu hướng tăng lương 
trong nước thì các doanh nghiệp ở các nước bị ảnh hưởng đã phản ứng lại bằng cách di 
chuyển khu vực sản xuất ra nước ngoài để duy trì và tăng cường khả năng cạnh tranh 
dựa trên những yếu tố để có được lợi thế như thương hiệu, mạng lưới tiếp thị, nhân sự 
và kiến thức. Việc di dời mảng sản xuất sang các nước có mức tiền lương thấp hơn sẽ 
giúp mở rộng sản xuất, tạo ra các giá trị gia tăng còn việc đầu tư chiến lược tại các thị 
trường lớn có thể giúp ngăn chặn nguy cơ mất thị trường ở các nước công nghiệp phát 
 12
triển do bảo hộ gia tăng. Kumar khẳng định rằng ĐTTTRNN của các công ty thuộc các 
quốc gia đang phát triển được xem như một công cụ để tăng cường khả năng cạnh tranh. 
Cũng có nhiều công trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến ĐTTTRNN 
của một nước châu Á cụ thể có thể kể đến như: 
Với trường hợp Hàn Quốc, Moon (2007) chỉ ra những động lực lớn thúc đẩy các 
doanh nghiệp Hàn Quốc ĐTTTRNN là nguồn lao động rẻ ở nước ngoài, thị trường trong 
nước bão hòa, các chi phí bất lợi và sự cạnh tranh. Nhiều công ty Hàn Quốc đã đầu tư 
ra nước ngoài để gia tăng hiệu quả cũng như mở rộng thị trường và tìm kiếm tài sản 
chiến lược. Kim and Rhee (2009) nghiên cứu ở khía cạnh các xu hướng, các loại hình, 
nhân tố quyết định và động cơ ĐTTTRNN của Hàn Quốc dựa trên các yếu tố kinh tế vĩ 
mô của nước sở tại trong từng giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau và số liệu chính 
thức về ĐTTTRNN của Hàn Quốc từ năm 1994 đến năm 2005 đã góp phần cải thiện 
đáng kể cho những nghiên cứu trước đó về ĐTTTRNN của Hàn Quốc bằng việc khẳng 
định: ĐTTTRNN của Hàn Quốc có quan hệ chặt chẽ với quy mô tuyệt đối và tương đối 
của thị trường nước chủ nhà, không liên quan nhiều đến chi phí lao động của nước chủ 
nhà, có liên hệ tích cực với tỷ lệ bằng sáng chế ở nước sở tại. Công trình của Kim and 
Rhee (2009) có 2 điểm mới quan trọng: i) Với động cơ tìm kiếm tài sản chiến lược thì 
yếu tố bằng sáng chế là rất quan trọng, điểm này khác với nhiều nghiên cứu trước đó là 
đánh giá thấp vai trò của khi thác công nghệ. Kết quả này góp phần khẳng định thêm về 
động cơ tìm kiếm công nghệ như các nghiên cứu của Kogut and Chang (1991) với 
trường hợp một số doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư ở Mỹ dưới hình thức liên doanh với 
các công ty của Mỹ hay nghiên cứu của Chen and Chen (1998) với trường hợp các công 
ty Đài Loan khi đầu tư trực tiếp ở Mỹ; ii) Các biến GDP và dân số cho động cơ tìm kiếm 
thị trường là không phù hợp với các nghiên cứu của Sethi và cộng sự (2003). Nói chung, 
công trình của Kim and Rhee (2009) đã làm tăng thêm sự đồng thuận với các lý thuyết 
về FDI, đồng thời đóng góp vào các công trình nghiên cứu thực nghiệm về quyết định 
ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Hàn Quốc. 
Với trường hợp Malaixia, Ariff and Lopez (2007), thông qua các tài liệu, số liệu 
được công bố công khai và bằng chứng thực tế của các công ty Malaysia, nhất là báo 
cáo của Ngân hàng Negara Malaysia (BNM), các tác giả đã chỉ ra các yếu tố “đẩy” là 
làm tăng lợi ích cho cả cá nhân và tập đoàn, tiết kiệm trong nước cao, chi phí lao động 
ở Malayxia tương đối cao so với các nước láng giềng trong khu vực, giới hạn thị trường 
trong nước, tự do hóa thương mại nói chung, đặc biệt là trong khu vực ASEAN; Các 
yếu tố “kéo” là nguồn cung cấp lao động giá rẻ, sự phong phú của tài nguyên, thị trường 
lớn, sự gần gũi về mặt địa lý, đặc biệt về thuế và các ưu đãi khác; Yếu tố chiến lược - 
 13
yếu tố địa lý là một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy ĐTTTRNN, đặc biệt là với 
các nước phía Nam, bao gồm việc hợp tác kỹ thuật và đầu tư phía Nam. Ariff and Lopez 
(2007) kết luận rằng các yếu tố chính thúc đẩy ĐTTTRNN của Malayxia tương tự như 
đối với các nước phát triển ngoài ra các nhân tố bổ sung là thương hiệu, công nghệ, tài 
sản chiến lược, phân cấp quản lý các hoạt động phân tán rủi ro và nâng cao lợi nhuận. 
Với trường hợp Đài Loan, nghiên cứu của Hsu and Liu (2004) khẳng định việc 
Đài Loan đầu tư ồ ạt ở Trung Quốc là nhằm sản xuất các hàng hóa trung gian cung cấp 
cho các công ty Đài Loan có trụ sở tại Trung Quốc chuyên sản xuất các loại hàng hóa 
sử dụng nhiều lao động để xuất khẩu sang thị trường Mỹ và Nhật Bản. Nghiên cứu của 
Lei and Chen (2011) với mục tiêu chính là làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa 
chọn địa điểm tiến hành các hoạt động đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Đài Loan ở 
Trung Quốc và Việt Nam với ba nhóm yếu tố tác động là lợi thế về quyền sở hữu, các 
đặc điểm mối quan hệ mạng lưới và động cơ tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp nước 
ngoài. Dựa trên các lập luận của Dunning (1993, 2000) về động cơ ĐTTTRNN của 
doanh nghiệp (tìm kiếm thị trường, tìm kiếm hiệu quả, tìm kiếm nguồn lực và tìm kiếm 
tài sản chiến lược); của Makino et al. (2002) cho rằng các công ty sẽ được khuyến khích 
đầu tư vào các nước kém phát triển để giành lại được các lợi thế về chi phí lao động; 
của Behrman (1974), Luo and Tung (2007) cho rằng thông qua FDI các công ty có thể 
trao đổi với các công ty khác tại một quốc gia nhận đầu tư để thu được các nguồn lực 
bổ sung cần thiết; của Frost (2001) cho rằng đầu tư trực tiếp là một cơ chế để các công 
ty tìm kiếm phát triển các nguồn lực cũng như khả năng mới hoặc thu được các tài sản 
chiến lược cần thiết; của Chen and Chen (1998), Kumar (1998), Luo and Tung (2007), 
Makino et al. (2002) cho rằng các công ty ở các nền kinh tế mới được công nghiệp hóa 
đầu tư tại các quốc gia phát triển nơi có sẵn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhân lực 
và các nguồn lực mạng lưới có xu hướng sử dụng FDI để nâng cao năng lực cạnh tranh 
của mình; của Luo và Tung (2007) cho rằng sự hỗ trợ của chính phủ nước sở tại cho sự 
phát triển toàn cầu cũng là những nhân tố ảnh đến việc lựa chọn địa điểm đầu tư tại nước 
ngoài của các công ty Lei and Chen (2011) đã kiểm định các giả thuyết đưa ra để đi 
đến khẳng định lợi thế về quyền sở hữu đóng vai trò quan trọng tác động đến quyết định 
lựa chọn địa điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài của một công ty; các động cơ tìm kiếm 
thị trường, tìm kiếm hiệu quả, tìm kiếm nguồn lực và tìm kiếm chiến lược đều có tác 
động đến quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư. Lei and Chen còn bổ sung thêm yếu tố 
các điểm chung về nền tảng văn hóa cũng như các mối quan tâm chính trị cũng có ảnh 
hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đài Loan tại Trung Quốc nhưng 
vẫn cần được tiếp tục làm rõ. 
 14
Cũng có khá nhiều nghiên cứu của các tác giả khác về các nhân tố tác động đến 
ĐTTTRNN của các doanh nghiệp ở các nước châu Á như các nghiên cứu của Wee 
(2007) về các nhân tố tác động chính, các tác động đối với năng lực cạnh tranh, khung 
chính sách, các biện pháp hỗ trợ và những trở ngại trong việc ĐTTTRNN của Thái Lan; 
nghiên cứu của Masron and Shahbudin (2010) về các nhân tố thúc đẩy ĐTTTRNN của 
Malaysia và Thái Lan; nghiên cứu của Qiu and Wu (2001) giải thích sự gia tăng đầu tư 
ra nước ngoài của Hồng Kông là do sự phát triển và việc cơ cấu lại nền của công nghiệp 
Hồng Kông biểu hiện ở làn sóng đầu tư vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao 
động ở Trung Quốc 
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước 
Chủ đề ĐTTTRNN cũng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả 
trong nước trong thời gian qua và có thể nêu ra một số nghiên cứu tiêu biểu như: 
- Lê Xuân Sang và Hoàng Văn Hải (2011) với công trình “Policies for outward 
investment - World trend, Experience and Implication for Vietnam” đã đi sâu làm rõ 
thêm các vấn đề lý luận về ĐTTTRNN theo quan điểm được nêu ra bởi UNCTAD, phân 
tích xu hướng vận động của dòng vốn đầu tư quốc tế, rút ra các bài học kinh nghiệm và 
luận giải khả năng vận dụng với Việt Nam. Tuy nghiên cứu của các tác giả tập trung 
vào vấn đề hoạch định chính sách nhưng đóng góp có thể coi là khá quan trọng của các 
tác giả là làm rõ thêm về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ĐTTTRNN của doanh 
nghiệp. Theo khái quát của các tác giả, có nhiều nhân tố là động cơ cho hoạt động 
ĐTTTRNN, trong đó có những nhân tố “đẩy” và những nhân tố “kéo”. Các nhân tố đẩy 
bao gồm: i) sự gia tăng trong chi phí sản xuất, hoặc sự khan hiếm các nguồn lực và đầu 
vào; ii) hạn chế trong điều kiện thương mại và thị trường trong nước; iii) cơ hội mới 
trong điều kiện kinh doanh tại nước sở tại; và iv) chính sách nhà nước của thúc đẩy và 
khuyến khích FDI hướng ra ngoài. “Các nhân tố kéo thường hỗ trợ những yếu tố đẩy”. 
Các nước phát triển có thể được hấp dẫn cho đầu tư nhờ vào các thị trường lớn, dễ dàng 
thâm nhập vì họ tham gia vào thỏa thuận đa phương (như WTO). Tuy nhiên, việc áp 
dụng các biện pháp bảo vệ cao của một số nhóm nước, đặc biệt là các nước phát triển 
sẽ làm xuất hiện xu hướng chuyển dịch đầu tư để tránh các chính sách bảo hộ. Đối với 
các nước đang phát triển, chi phí đầu vào thấp, và đặc biệt là sự sẵn có của các yếu tố 
đầu vào như: tài nguyên, lao động, đang là những nhân tố thu hút đầu tư trực tiếp nước 
ngoài. Các tác giả đưa ra nhận định các nhân tố quyết định trên được hỗ trợ bởi 5 động 
cơ chính thúc đẩy FDI nói chung là: i) Tìm kiếm, mở rộng thị trường để tăng doanh thu 
và lợi nhuận là chiến lược phổ biến nhất của các công ty đa quốc gia trong xu thế toàn 
cầu hóa; ii) Nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh thông qua việc giảm 
 15
chi phí, tăng mối liên kết giữa thị trường trong nước và nước ngoài; iii) Tìm kiếm và 
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Nói chung, động cơ tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên 
thông qua đầu tư trực tiếp không phải là rất phổ biến trong các công ty đa quốc gia từ 
các nước đang phát triển; iv) Tìm kiếm và sở hữu các tài sản từ đó sở hữu và quản lý 
công ty, thực hiện các chiến lược của công ty bao gồm cả chiến lược cạnh tranh; v) Đầu 
tư vì lý do chính trị hoặc vì lợi ích chiến lược của quốc gia chiến lược thực hiện dưới 
danh nghĩa chính phủ. 
- Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Hải Đăng (2013) “Đầu tư của các 
doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” đã 
nghiên cứu khá toàn diện về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt 
Nam. Tuy vậy, tác giả cũng chỉ tập trung đánh giá khái quát thực trạng ĐTTTRNN của 
doanh nghiệp Việt Nam, chỉ ra những lợi ích của hoạt động đầu tư ra nước ngoài, những 
hạn chế trong hoạt động ĐTTTRNN và những nguyên nhân của chúng để từ đó đề xuất 
các nhóm giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao 
hiệu quả ĐTTTRNN của các doanh nghiệp cũng như nâng cao hiệu quả quản lý nhà 
nước đối với hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam. Công trình nghiên 
cứu của tác giả nói chung đã thể hiện rõ được bức tranh toàn cảnh về hoạt động 
ĐTTTRNN của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2013. 
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Mai (2018) “Đầu tư trực tiếp ra nước 
ngoài của Việt Nam: Nhân tố tác động và hàm ý chính sách” nghiên cứu các nhân tố 
trong nước tác động đến dòng vốn ĐTTTRNN của Việt Nam để đưa ra các hàm ý chính 
sách đẩy mạnh ĐTTTRNN. Tác giả đã phân tích một số nhân tố tác động đến dòng vốn 
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam như: thương mại, chính sách của chính phủ, điều 
kiện kinh doanh của Việt Nam. Điểm quan trọng là tác giả cũng đã phân tích định lượng 
được mối quan hệ ĐTTTRNN của Việt Nam và một số nhân tố đầu tư trực tiếp vào 
trong nước, xuất khẩu, GDP và sự mở cửa nền kinh tế. Từ kết quả phân tích, tác giả luận 
án đã đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN. 
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Nhung (2017) “Vai trò của nhà nước với hoạt 
động ĐTTTRNN của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” đã vận dụng lý thuyết “đàn nhạn” 
và “lộ trình phát triển đầu tư” để giải thích hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam trong 
thời gian qua, trong đó tập trung vào xác định và phân tích vai trò của nhà nước với hoạt 
động này ở các nội dung có tác động trực tiếp đến hoạt động ĐTTTRNN. Dựa trên kết 
quả điều tra và phân tích định lượng, tác giả đã đánh giá ảnh hưởng, mức độ tác động 
của các yếu tố cấu thành vai trò nhà nước với ĐTTTRNN của doanh nghiệp Việt Nam. 
 16
Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả cũng đã đề xuất một số nhóm giải pháp 
nhằm phát huy những vai trò đó của nhà nước trong thời gian tới. 
- Ngoài ra còn một số nghiên cứu ở các khía cạnh cụ thể như về các giải pháp 
thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ĐTTTRNN có công trình của các tác giả Nguyễn Hữu 
Hiểu (2000); Đinh Trọng Thịnh và cộng sự (2006). Về kinh nghiệm các nước về 
ĐTTTRNN có công trình của Nguyễn Văn Thắng (2010).... 
1.2. Đánh giá về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và khoảng 
trống nghiên cứu 
1.2.1. Đánh giá về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
Nói chung, cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về đầu tư trực 
tiếp nước ngoài, trong đó có hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp. 
Thứ nhất, các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài về cơ bản đã chỉ ra những 
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp và một số nghiên cứu đã 
quy các yếu tố này về các nhóm nhân tố “kéo” và các nhân tố “đẩy”. Các nghiên cứu 
nước ngoài về ĐTTTRNN của các doanh nghiệp ở các nước châu Á đều đi đến khẳng 
định các nhân tố chính thúc đẩy hoạt động này bao gồm tìm kiếm thị trường, tìm kiếm 
hiệu quả, tìm kiếm nguồn lực và tìm kiếm tài sản chiến lược tuy từng trường hợp các 
công ty với quy mô khác nhau, kinh doanh ở các lĩnh vực khác nhau và ở các nước khác 
nhau cũng có những điểm khác nhau. Điều này góp phần củng cố thêm cho các lý thuyết 
về ĐTTTRNN đã được giới nghiên cứu thừa nhận và sử dụng như là khung lý thuyết để 
nghiên cứu từng trường hợp cụ thể. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng đã góp phần 
kiểm chứng, củng cố thêm các lý thuyết này, nhất là những nghiên cứu thực nghiệm 
được thực hiện nhằm giải thích lý do các doanh nghiệp ĐTTTRNN và chỉ ra các “động 
cơ” thúc đẩy doanh nghiệp ĐTTTRNN ít nhiều cũng được nghiên cứu ở một vài quốc 
gia cụ thể. 
Tuy nhiên, như nhận định của Ietto-Gillies (2014) các nghiên cứu lý về FDI chủ 
yếu mới chỉ tiếp cận ở giác độ kinh tế trong khi thực tế có nhiều điểm khác nhau về nội 
dung và phương pháp nghiên cứu của các nhà nghiên cứu kinh tế và các nhà nghiên cứu 
về kinh doanh, giữa phương pháp tĩnh và phương pháp động, vấn đề hiệu quả với các 
yếu tố chiến lược, vấn đề chiến lược đối với các đối thủ cạnh tranh và chiến lược đối 
với các thành phần khác trong hệ thống như lao động, chính phủ và nhà cung cấp, 
phương pháp tiếp cận đa ngành với đơn ngành. Nói cách khác, nếu không đặt các doanh 
nghiệp trong các bối cảnh lịch sử mà nó hoạt động, không xem xét theo cách tiếp cận 
liên ngành thì chưa đủ khả năng giải thích nhiều vấn đề liên quan đến FDI. Đáng chú ý 
 17
là phần lớn các công trình nghiên cứu đã công bố mới chủ yếu dừng lại ở việc giải thích 
về động cơ của hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp mà chưa đi sâu vào phân tích 
cụ thể các yếu tố có tác dụng “kích thích, tạo điều kiện, động lực” cho hoạt động 
ĐTTTRNN, hay phát triển mạnh hơn hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp. 
Thứ hai, các nghiên cứu trong nước về chủ đề này, ngoài kết quả chính là tổng 
hợp, hệ thống hóa lại các vấn đề lý thuyết về ĐTTTRNN của doanh nghiệp, xem xét, 
luận giải một số yếu tác động đến ĐTTTRNN nhưng vẫn còn có những hạn chế và cần 
tiếp tục được làm rõ. Như công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Nhung vẫn còn 
một số hạn chế mà chính tác giả đã tự chỉ ra, đặc biệt là chưa tiếp cận nghiên cứu vai 
trò của nhà nước ở khía cạnh thúc đẩy ĐTTTRNN xuất phát từ nhu cầu cụ thể của các 
doanh nghiệp. Điểm hạn chế trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Ngọc 
Mai (2018) chưa bàn luận sâu về các nhân tố kéo – nhân tố từ phía nước tiếp nhận đầu 
tư tác động đến hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như một 
số nhân tố khác có vai trò thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN như tác động của các hiệp 
định thương mại và đầu tư của Việt Nam đã ký kết với các nước, chính sách thuế, chi 
phí nhân công, các điều kiện kinh doanh khác... 
1.2.2. Khoảng trống nghiên cứu 
Những lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài, những công trình nghiên cứu 
thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp ở 
nhiều nước châu Á được công bố dù đã giúp giải thích về lý do ĐTTTRNN của các 
doanh nghiệp, chỉ ra được động cơ dẫn dắt hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp ở 
một số nước châu Á điển hình như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc nhưng nếu đi 
sâu phân tích từng trường hợp doanh nghiệp cụ thể có thể lại có những nhận định khác 
nhau. Câu hỏi đặt ra là, với cùng bối cảnh, cùng động cơ tương tự như vậy nhưng mức 
độ hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp khác nhau lại khác nhau. Có những 
doanh nghiệp liên tục mở rộng, phát triển các hoạt động ĐTTTRNN và lớn mạnh thành 
các công ty xuyên quốc gia thực thụ trong khi nhiều doanh nghiệp khác lại không như 
vậy? Thực tế cũng có những doanh nghiệp đã thất bại khi tiến hành ĐTTTRNN. 
Thực tiễn hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp cho thấy có “động cơ” 
không đồng nghĩa với việc sẽ biến ngay thành các hành động trong thực tiễn. Từ động 
cơ đến hành động thực tiễn là cả một quá trình. Trước khi thực hiện một hoạt động đầu 
tư kinh doanh nào đó, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng sẽ phải đều nghiên cứu, đánh 
giá cụ thể về khả năng cụ thể của mình, xem xét thực lực của doanh nghiệp liệu có thể 
thực hiện thành công hoạt động đó hay không, đồng thời còn phải nghiên cứu, xem xét 
 18
hàng loạt các vấn đề khác liên quan đến môi trường kinh doanh ở nơi dự định đầu tư 
như khả năng huy động các nguồn lực phục vụ sản xuất; đặc điểm, tập quán, thói quen 
của người lao động bản xứ; nhu cầu, thị hiếu, đặc điểm của người tiêu dùng; dung lượng 
thị trường; môi trường luật pháp, chính sách; số lượng và sức mạnh của các đối thủ cạnh 
tranh Thường thì doanh nghiệp sẽ chỉ quyết định thực hiện các hoạt động đầu tư khi 
hội tụ được nhiều yếu tố có lợi cho doanh nghiệp. 
ĐTTTRNN là một quá trình bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Từ động cơ, từ 
mục tiêu, mong muốn đến hành động ĐTTTRNN trong thực tiễn bao gồm nhiều khâu, 
nhiều bước khác nhau. Mỗi khâu, mỗi bước lại bao hàm những hành động cụ thể khác 
nhau và mỗi hành động đó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Ngoài những 
yếu tố từ chính doanh nghiệp còn có nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài. Đặc biệt, khi 
ĐTTTRNN, một môi trường đầu tư có thể có những điểm rất khác với môi trường đầu 
tư trong nước và có thể xuất hiện những rào cản đối với hoạt động đầu tư của doanh 
nghiệp. Thực tế, có những doanh nghiệp đã tìm cách vượt qua được những rào cản đó 
và tiếp tục thực hiện các hoạt động tiếp theo của quá trình đầu tư và cũng có những 
doanh nghiệp không thể vượt qua những rào cản đó và không tiếp tục thực hiện các hoạt 
động đầu tư. Từ động cơ ĐTTTRNN biến thành thực tiễn hoạt động ĐTTTRNN của 
doanh nghiệp, đặc biệt là khi nhìn ở góc độ doanh nghiệp đầu tư, rõ ràng còn có những 
yếu tố đóng vai trò “kích thích, tạo điều kiện, động lực”. Hiện tượng các doanh nghiệp 
phát triển mạnh hơn hoạt động ĐTTTRNN và lý do đằng sau hiện tượng này cũng không 
được nghiên cứu nhiều. Đây là những khoảng trống nghiên cứu về chủ đề này cần tiếp 
tục được làm rõ và cũng là trong những mục tiêu nghiên cứu của đề tài. 
1.2.3. Hướng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu của đề tài 
Từ khoảng trống nghiên cứu được phân tích ở phần trên, hướng nghiên cứu và 
cũng là mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xác định, phân tích và làm rõ các yếu tố có tác 
dụng “kích thích, tạo điều kiện, động lực” cho hoạt động ĐTTTRNN, phát triển mạnh 
hơn hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp ở một số nước châu Á, đồng thời rút ra 
những bài học kinh nghiệm đồng thời luận giải khả năng vận dụng với Việt Nam. 
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đó, các câu hỏi nghiên cứu cụ thể là: 
i) Những yếu tố nào có vai trò thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của các doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á được lựa chọn nghiên cứu, cụ thể những yếu tố đóng vai 
trò là động cơ, vai trò kích thích hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp và những yếu 
tố có vai trò “tạo điều kiện, động lực” cho hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp. 
 19
ii) Từ phân tích các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp 
ở một số nước châu Á lựa chọn đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm gì? 
iii) Việt Nam có thể tham khảo vận dụng những bài học kinh nghiệm nào trong 
số những bài học kinh nghiệm đó? Cụ thể những gợi ý chính sách cho Việt Nam trong 
hoạch định và thực hiện chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh hiện 
nay gồm những nội dung gì? 
1.3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 
1.3.1. Cách tiếp cận nghiên cứu 
Đề tài được nghiên cứu dưới giác độ lịch sử kinh tế và tiếp cận chủ đề nghiên 
cứu theo cả hai hướng: diễn dịch và quy nạp. 
- Theo phương pháp diễn dịch: Từ các lý thuyết, từ các giải thích mang tầm khái 
quát, từ những giả định cơ bản sẽ suy ra các giả định hoặc giả thiết. Phương pháp tiếp 
cận này sẽ được áp dụng trong việc xác định, chỉ ra các yếu tố có vai trò thúc đẩy hoạt 
động ĐTTTRNN của doanh nghiệp. Cụ thể, dựa trên các khái niệm cơ bản và đặc điểm 
của FDI, các vấn đề lý thuyết về FDI, về doanh nghiệp, về các TNC để từ đó xác định 
các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp. 
- Theo phương pháp quy nạp: Từ những quan sát thực tế, từ những tài liệu, dữ 
liệu, thông tin thu thập được về một loại sự kiện, hiện tượng nào đó để khái quát hóa 
thành các giả định, giả thiết. Phương pháp tiếp cận này sẽ được sử dụng trong quá trình 
tìm hiểu, phân tích các yếu tố có vai trò thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á lựa chọn. Tác giả sẽ thực hiện thu thập tư liệu dùng để 
phân tích, đánh giá và tổng hợp các yếu tố có thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và luận giải khả 
năng vận dụng một số bài học kinh nghiệm đó với Việt Nam. 
Trong nghiên cứu, luận án sử dụng đồng thời nhiều cách tiếp cận khác nhau để 
nghiên cứu và giải quyết các mục tiêu đề ra. Đó là: 
Tiếp cận hệ thống: Việc tiếp cận hệ thống nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc 
xem xét các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp trong một thể 
thống nhất và mối quan hệ giữa các yếu tố này theo từng thời kỳ cụ thể và đặc biệt là 
toàn bộ quá trình đi đến quyết định đầu tư ra nước ngoài và mở rộng, phát triển hoạt 
động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài. 
Tiếp cận toàn diện, đa chiều: Đề tài sẽ nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy hoạt động 
ĐTTTRNN của doanh nghiệp ở một số nước châu Á lựa chọn dưới những góc nhìn của 
 20
nhiều đối tượng: doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư, các cơ quan quản lý nhà 
nước về đầu tư nước ngoài ở quốc gia xuất xứ cũng như quốc gia tiếp nhận đầu tư, các 
nhóm lợi ích khác nhau liên quan đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Các ý kiến, 
các câu chuyện, hồi ký của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp về quá trình và các hoạt động 
đầu tư trực tiếp ở nước ngoài thu thập được cũng được tổng hợp, phân tích để có được 
cái nhìn tổng quan, đa chiều hơn về các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh 
nghiệp ở một số nước châu Á lựa chọn. 
Tiếp cận lịch sử cụ thể: Với cách tiếp cận lịch sử cụ thể, việc nhận diện và xem 
xét các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp ở một số nước châu Á 
sẽ được đặt trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể mà doanh nghiệp tiến hành các hoạt động 
đầu tư trực tiếp ở một quốc gia cụ thể với những yếu tố tác động từ trong nước, từ chính 
bản thân doanh nghiệp, từ phía quốc gia tiếp nhận đầu tư trong thời kỳ đó nhờ đó sẽ 
giúp giải thích rõ hơn về vai trò thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp. Cách 
tiếp cận lịch sử cụ thể còn giúp làm rõ hơn về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn qua 
đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra những đề xuất khuyến nghị cho 
hoạt động thực tiễn. 
Tiếp cận liên ngành: Theo cách tiếp cận liên ngành, việc xác định định và phân 
tích các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp sẽ dựa trên sự kết hợp 
của các chiều cạnh khác nhau nhằm tránh đánh giá vấn đề một cách phiến diện, chủ 
quan, bỏ qua sự tương tác của các nhân tố quyết định. 
1.3.2. Mô hình nghiên cứu và quy trình nghiên cứu 
1.3.2.1. Mô hình nghiên cứu 
Trước hết, từ giải thích rõ hơn về thuật ngữ “các yếu tố thúc đẩy” đó là các yếu 
tố có tác dụng “kích thích, tạo điều kiện, động lực” hay cụ thể hơn đó là các yếu tố 
mang tính chất là “động cơ” hoặc có tác dụng “kích thích” hoặc những yếu tố nhằm 
“tạo điều kiện”, “động lực” cho hoạt động, phát triển mạnh hơn các hoạt động theo một 
hướng nào đó, thường là hướng tốt, đề tài sẽ phân loại các yếu tố thúc đẩy hoạt động 
ĐTTTRNN của doanh nghiệp theo hai nhóm để đi sâu thảo luận, phân tích, cụ thể là: 
các yếu tố đóng vai trò là động cơ, kích thích hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp 
và các yếu tố có vai trò tạo điều kiện, động lực cho hoạt động ĐTTTRNN của doanh 
nghiệp. 
Thứ hai, mục đích là phân tích các yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của 
doanh nghiệp ở một số nước châu Á nhưng đề tài lựa chọn tập trung đi sâu tìm hiểu, 
 21
phân tích đối tượng các doanh nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Bởi các 
lý do sau: 
i) Ba nước này tiêu biểu cho câu chuyện về phát triển kinh tế thành công ở châu 
Á trong mấy thập kỷ vừa qua, hiện nay đang đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh 
tế khu vực và đặc biệt là ở các quốc gia này đã xuất hiện những công ty xuyên quốc gia 
thực thụ thông qua quá trình phát triển ĐTTTRNN, không chỉ ở các nước, các nền kinh 
tế đang phát triển mà cả ở các nước phát triển và hiện nằm trong số những nhà đầu tư 
nước ngoài lớn trên phạm vi thế giới; 
ii) Ba nước này nằm trong nhóm các nước đầu tư FDI nhiều nhất vào Việt Nam, 
trong đó Hàn Quốc đứng ở vị trí số 1, Nhật Bản ở vị trí thứ hai, còn Trung Quốc mặc 
dù mới đứng ở vị trí thứ 7 nhưng số lượng các dự án cũng như số vốn FDI vào Việt Nam 
có xu hướng tăng nhanh trong thời gian gần đây (số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài tính 
đến ngày 20/09/2020, dẫn theo Mạnh Chung, 2020), hoạt động của các doanh nghiệp 
FDI của các nước này thực sự có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của 
nền kinh tế Việt Nam hiện tại, trong tương lai với những hiệp định thương mại song 
phương, hiệp định thương mại đa phương trong đó có các quốc gia này được ký kết và 
có hiệu lực, quan hệ hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và các nước này có nhiều điều kiện 
thuận lợi để tiếp tục phát triển và vấn đề là Việt Nam làm thế nào để khai thác có hiệu 
quả cơ hội thuận lợi này; 
iii) Cả Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều có những điểm tương đồng, có 
những mối quan hệ đặc biệt trong quá khứ cũng như hiện tại có tác động quan trong đến 
các quan hệ kinh tế, đầu tư giữa Việt Nam và doanh nghiệp ở các nước này. 
Mặc dù đề tài giới hạn tập trung đi sâu tìm hiểu, phân tích đối tượng là các doanh 
nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc nhưng trong một số nội dung nghiên 
cứu cụ thể, các trường hợp doanh nghiệp ở một số nước châu Á khác cũng được đề cập, 
phân tích để góp phần bổ sung và làm rõ thêm những nhận định rút ra từ nghiên cứu. 
Thứ ba, để nhận diện, xác định và phân tích các yếu tố thúc đẩy hoạt động 
ĐTTTRNN của doanh nghiệp ở một số nước châu Á được lựa chọn, đề tài sẽ tổng hợp 
các vấn đề lý thuyết và tìm hiểu thực tiễn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của 
doanh nghiệp ở các nước được lựa chọn nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu 
được công bố trước đó và trong các tài liệu, dữ liệu thu thập được để phân tích, kiểm 
chứng những yếu tố đã được chỉ ra bởi các công trình nghiên cứu đã công bố trước đó, 
đồng thời phát hiện thêm những yếu tố có vai trò thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN của 
doanh nghiệp ở các nước được lựa chọn.