Kinh nghiệm tại Malaysia, Thái Lan và Philippin cho thấy các nước này đều
có xu hướng giảm mức lãi suất chính sách khi căng thẳng tài chính gia tăng (Boon
và Kian, 2015). Dù việc giảm lãi suất có thể dẫn đến những kết quả khác nhau trong
việc giảm tình trạng căng thẳng tài chính, nhưng nghiên cứu thực nghiệm cho thấy,
nó có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế qua các kênh khác nhau. Nói cách
khác, nghiên cứu của Boon và Kian (2015) chỉ ra rằng cần thiết phải thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng khi căng thẳng tài chính xảy ra để bù cho những tác động
thu hẹp bất lợi mà các cú sốc tài chính gây ra cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để duy trì
ổn định tài chính cần thực hiện kết hợp với các biện pháp can thiệp khu vực tài
chính một cách trực tiếp, như các khoản cho vay ngắn hạn để giảm bớt tình trạng
thiếu hụt thanh khoản, bơm vốn trực tiếp cho các tổ chức tài chính giảm bớt nỗi lo
về khả năng thanh khoản và đảm bảo nguồn cung tín dụng thương mại cho các hoạt
động thương mại tiếp tục. Evans (2009) cũng cho rằng việc giảm lãi suất Fed fund
rate có thể ko đủ để giải quyết những vấn đề do căng thẳng tài chính gây ra, đặc biệt
những vấn đề liên quan đến khả năng thanh khoản và thực hiện trôi chảy các chức
năng của thị trường. Khi thị trường kém thanh khoản, tình trạng không chắc chắn về
giá trị tài sản tăng cao, người cho vay không sẵn sàng nắm giữ làm tài sản thế chấp
các tài sản kém thanh khoản hay khó định giá, do đó việc chuyển đổi các tài sản này
thành tiền gặp nhiều khó khăn. Do đó, để tăng tính thanh khoản cho thị trường, bên
cạnh việc cắt giảm lãi suất cần thực hiện các biện pháp như: cửa sổ chiết khấu, mở
rộng cho vay kỳ hạn cũng như hoán đổi ngoại tệ để tăng tính thanh khoản .
201 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 10/02/2022 | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu căng thẳng khu vực tài chính tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị gia tăng cao, những ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin,
điện tử, viễn thông; Hạn chế dự án FDI vào khu vực phi sản xuất, làm gia tăng
tình trạng nhập siêu, tiêu tốn năng lượng, khai thác không gắn với chế biến; Tạo
điều kiện để các công ty đa quốc gia xây dựng nhà máy sản xuất tiến hành các công
đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao tại Việt Nam như chế tạo, sản xuất linh kiện
Thứ ba, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa thu hút dòng vốn FPI. Dòng vốn FPI có
vai trò thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt
động; mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch; xác lập giá trị thị trường của các cổ
phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước
dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất
lượng quản trị doanh nghiệp Do đó, việc thu hút dòng vốn FPI một cách ổn định
có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy thị trường tài chính phát triển lành mạnh,
đồng thời khi thị trường tài chính phát triển, đảm bảo tính minh bạch của thị trường,
sản phẩm tài chính đa dạng và phong phú lại chính là cơ hội để tiếp tục thu hút dòng
vốn FPI. Để làm được điều đó, trước hết cần có những đánh giá đúng mức về tầm
quan trọng của luồng vốn FPI đối với các mục tiêu phát triển kinh tế trong chiến
lược chung về thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sự phát triển của các doanh nghiệp
161
Việt Nam thông qua thị trường vốn từ đó đưa ra những chính sách mới đặt trọng
tâm hướng đến việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế thông qua các
kênh hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng khoán trong nước.
3.2.3.2. Thực hiện biện pháp quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài
Cùng với các biện pháp thu hút dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam, cần có
những biện pháp nhằm kiểm soát dòng vốn ngoại một cách chặt chẽ.
Đối với nguồn vốn FPI, bên cạnh việc thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa thu hút
dòng vốn FPI, cần hạn chế các tác động tiêu cực của dòng vốn FPI và tăng cường
cơ chế giám sát quản lý đối với dòng vốn này. Mặc dù, hiện nay tổng vốn FPI vẫn
còn rất nhỏ so với FDI (thông thường vào khoảng 30-40%) và chủ yếu thông qua
kênh thị trường chứng khoán nhưng dòng vốn FPI lại tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các
kênh huy động vốn từ nước ngoài khác. Đây là dòng vốn mang tính đầu cơ
cao, chảy mạnh vào Việt Nam với kỳ vọng thu lợi nhuận nhanh chóng và tạo ra rất
nhiều “bong bóng” cho nền kinh tế như “bong bóng chứng khoán” và “bong bóng
bất động sản”, gián tiếp làm tăng tín dụng thông qua hệ thống ngân hàng.
Dòng vốn này rất nhạy cảm với niềm tin và “trạng thái tâm lý” của nhà đầu tư nên
khi thị trường hoặc nền kinh tế vĩ mô gặp bất lợi, dòng vốn FPI sẽ giảm rất nhanh
gây nên hiện tượng “xì bong bóng”. Trên thế giới, để hạn chế sự đảo ngược của
dòng vốn, các nước thường áp dụng cả biện pháp can thiệp trực tiếp và biện pháp
can thiệp gián tiếp. Các giải pháp trực tiếp hay gián tiếp cần phải được áp dụng linh
hoạt, nhất quán và phải dựa trên nền tảng cơ bản của nền kinh tế vững mạnh và ổn
định. Kinh nghiệm của Malayxia đã từng áp dụng thành công hệ thống thuế rút vốn,
đánh thuế giảm dần tương ứng với thời gian rút vốn của nhà đầu tư. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, việc sử dụng biện pháp nào cần rất thận trọng để không ảnh hưởng đến
dòng vốn vào trong tương lai.
Đối với nguồn vốn FDI, trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay việc thu hút FDI
đã có những bước tiến đáng kể với tốc độ rất nhanh, tuy nhiên việc giải ngân rất
chậm chạp, thậm chí có những dự án rất lớn bị ngừng kế hoạch đầu tư sau nhiều
năm thăm dò và trì hoãn. Theo báo cáo đánh giá tình hình thu hút FDI hơn 25 năm
162
qua của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KHĐT), tỷ lệ vốn thực hiện thấp so với vốn
đăng ký rất nhiều, chỉ khoảng 47,2%. Để đảm bảo tính hiệu quả và hạn chế tác động
tiêu cực của dòng vốn FDI, Bộ KHĐT cần kết hợp với các địa phương thực hiện
giám sát các hoạt động đầu tư đảm bảo đúng tiến độ, thiết kế ban đầu, có những chế
tài hợp lý với các dự án không đúng cam kết ban đầu, hay chậm tiến độ, thậm chí
thu hồi đất và giấy phép đầu tư đối với các các dự án FDI không có khả năng triển
khai, thu hồi diện tích đất dự án không sử dụng hết chuyển cho dự án khác...
Đối với nguồn vốn ODA, cần đổi mới căn bản phương thức quản lý và sử
dụng vốn vay, tích cực phòng chống thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Nguồn vốn
ODA thường là những nguồn vốn có ưu đãi cao (lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài
và có ân hạn), có những khoản vốn ODA không hoàn lại và có hỗ trợ kỹ thuật nên
cần được ưu tiên cho các dự án phù hợp, như các dự án không có khả năng hoàn
vốn như các nghiên cứu phát triển thể chế, nâng cao năng lực con người, hay các dự
án xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường đô thị đòi hỏi nguồn
vốn lớn và thời gian thu hồi vốn lâu. Đồng thời, các cấp chính quyền địa phương
cần tiếp tục rà soát và sửa đổi bổ sung các quy định về quản lý đầu tư xây dựng,
khung giá đất, cơ chế chính sách giải phóng mặt bằng cho phù hợp với các văn
bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước và phù hợp hơn với thông lệ quốc
tế, đáp ứng được yêu cầu và tính chuyên nghiệp trong quản lý dự án, đặc biệt là các
dự án sử dụng vốn ODA.
3.2.4. Khuyến nghị chính sách nhằm giảm thiểu tác động của căng thẳng tài chính
3.2.4.1. Khuyến nghị liên quan đến điều hành các chính sách vĩ mô
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 xảy ra tại Mỹ đã có những
tác động tiêu cực lên nhiều quốc gia trên thế giới, qua đó khẳng định tầm quan trọng
của ổn định tài chính đối với sự ổn định, lành mạnh của từng quốc gia nói riêng và
của nền kinh tế thế giới nói chung. Ổn định tài chính có thể được hiểu là khả năng
của hệ thống tài chính trong việc thực hiện toàn vẹn các chức năng kinh tế vĩ mô
như trung gian tài chính, trung gian thanh toán, quản lý rủi ro. Khi khu vực tài chính
gặp căng thẳng, làm gián đoạn việc thực hiện các chức năng của hệ thống tài chinh,
163
ảnh hưởng đến ổn định tài chính. Do đó, việc triển khai thực hiện các chính sách ổn
định vĩ mô, chính sách tiền tệ nhằm giảm thiểu tác động của căng thẳng tài chính có
ý nghĩa vô cùng thiết thực.
Kinh nghiệm tại Malaysia, Thái Lan và Philippin cho thấy các nước này đều
có xu hướng giảm mức lãi suất chính sách khi căng thẳng tài chính gia tăng (Boon
và Kian, 2015). Dù việc giảm lãi suất có thể dẫn đến những kết quả khác nhau trong
việc giảm tình trạng căng thẳng tài chính, nhưng nghiên cứu thực nghiệm cho thấy,
nó có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế qua các kênh khác nhau. Nói cách
khác, nghiên cứu của Boon và Kian (2015) chỉ ra rằng cần thiết phải thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng khi căng thẳng tài chính xảy ra để bù cho những tác động
thu hẹp bất lợi mà các cú sốc tài chính gây ra cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để duy trì
ổn định tài chính cần thực hiện kết hợp với các biện pháp can thiệp khu vực tài
chính một cách trực tiếp, như các khoản cho vay ngắn hạn để giảm bớt tình trạng
thiếu hụt thanh khoản, bơm vốn trực tiếp cho các tổ chức tài chính giảm bớt nỗi lo
về khả năng thanh khoản và đảm bảo nguồn cung tín dụng thương mại cho các hoạt
động thương mại tiếp tục. Evans (2009) cũng cho rằng việc giảm lãi suất Fed fund
rate có thể ko đủ để giải quyết những vấn đề do căng thẳng tài chính gây ra, đặc biệt
những vấn đề liên quan đến khả năng thanh khoản và thực hiện trôi chảy các chức
năng của thị trường. Khi thị trường kém thanh khoản, tình trạng không chắc chắn về
giá trị tài sản tăng cao, người cho vay không sẵn sàng nắm giữ làm tài sản thế chấp
các tài sản kém thanh khoản hay khó định giá, do đó việc chuyển đổi các tài sản này
thành tiền gặp nhiều khó khăn. Do đó, để tăng tính thanh khoản cho thị trường, bên
cạnh việc cắt giảm lãi suất cần thực hiện các biện pháp như: cửa sổ chiết khấu, mở
rộng cho vay kỳ hạn cũng như hoán đổi ngoại tệ để tăng tính thanh khoản ....
Như vậy có thể thấy, khi căng thẳng tài chính xảy ra, để giảm thiểu tác động
của căng thẳng tài chính cần có sự phối hợp của các chính sách vĩ mô như chính
sách tiền tệ, chính sách an toàn vĩ mô. Việc phối hợp thực hiện giữa các chính sách
vĩ mô khiến cho việc thực hiện mục tiêu của chính sách này có thể được hỗ trợ bằng
việc đạt được mục tiêu của chính sách kia và ngược lại do các chính sách có sự
164
tương tác và giao thoa lẫn nhau (Hình 3.2). Đồng thời, các chính sách này cũng
không thể thay thế được cho nhau, mà trong từng trường hợp, từng thời kỳ, tùy thuộc
vào mục tiêu ưu tiên sẽ có sự lựa chọn giải pháp tối ưu để đạt được mục tiêu đó.
Nguồn: Nier và Kang
Hình 3.2: Tƣơng tác giữa các chính sách vĩ mô
3.2.4.2. Chính sách hướng tới doanh nghiệp, hộ gia đình và hướng tới tăng
trưởng bền vững
Nghiên cứu trong chương 1 đã chỉ ra rằng căng thẳng khu vực tài chính xảy ra
đã dẫn tới gia tăng tình trạng không chắc chắn. Tình trạng không chắc chắn này lại
ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế thông qua việc khiến các chủ thể trong nền kinh tế
trì hoãn các hoạt động đầu tư, tiêu dùng và quyết định việc làm cho đến khi giải
quyết được tình trạng không chắc chắn và thông qua việc đẩy chi phí vốn tăng do
tăng mức bù rủi ro. Chính vì vậy, để giảm thiểu tác động của căng thẳng khu vực tài
chính đến nền kinh tế, bên cạnh các chính sách nhằm cải tổ hệ thống tài chính
hướng tới hoạt động bền vững hơn, các chính sách nâng cao hiệu quả của dòng vốn
vào thì rất cần các chính sách hướng tới doanh nghiệp và hộ gia đình thông qua việc
khuyến khích đầu tư và tiêu dùng của doanh nghiệp và hộ gia đình. Trong điều kiện
hệ thống tài chính rơi vào tình trạng căng thẳng, gia tăng tình trạng không chắc chắn
thì các biện pháp kích cầu sản xuất và cầu tiêu dùng trở lên có hiệu quả (Đinh Văn
Thông, 2009). Tại Singapore, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, chính phủ
Chính sách
tiền tệ
Chính sách
an toàn vĩ mô
Ổn định giá cả
Ổn định sản lượng
Ổn định tài chính
165
nước này đã đưa ra gói kích cầu trị giá gần 14 tỷ đô la Mỹ hỗ trợ tiền mặt cho chủ
sử dụng lao động giúp họ trang trải một phần chi phí lương và tránh sa thải lao
động, giảm 20% thuế thu nhập cá nhân, trợ cấp thêm 300 - 500 SGD/người/tháng
cho lao động khó khăn; giành 1,5 tỉ USD giúp các doanh nghiệp nhỏ tiếp cận tín
dụng để khuyến khích sản xuất, xuất khẩu.
Tại Việt Nam, để kích cầu tiêu dùng thì cần thiết phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp như: Khuyến khích các hoạt động chuyển đổi nghề nghiệp và triển khai
các chương trình đào tạo nghề và tạo việc làm mới. Thứ hai, kích cầu đầu tư: tăng
đầu tư không chỉ làm tăng GDP mà còn tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập.
Đồng thời, việc kích cầu cần được thực hiện ngay khi các doanh nghiệp chưa thu
hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm quá,
kích cầu có thể làm tăng áp lực lạm phát, nhưng nếu thực hiện chậm quá thì hiệu
quả của kích cầu sẽ giảm. Việc kích cầu cũng nên hướng đến những người có thu
nhập thấp hơn, để họ không phải giảm tiêu dùng, thậm chí còn tăng tiêu dùng, từ đó
tạo ra hiệu ứng lan tỏa, kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, các
biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng của Việt Nam nên được đặt trong bối cảnh
ngân sách Việt Nam còn nhiều khó khăn, các khoản thu ngân sách ngày càng thu
hẹp, do đó cần có những biện pháp nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội để
thực hiện kích cầu đầu tư và tiêu dùng nhanh chóng vượt qua tình trạng căng thẳng
khu vực tài chính, tiến tới ổn định và phát triển kinh tế bền vững.
Bài học kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy một trong
những giải pháp giúp giảm thiểu tác động tiêu cực của căng thẳng khu vực tài chính
đến tăng trưởng kinh tế là thực hiện tăng trưởng bền vững. Thực trạng tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam cho thấy tăng trưởng kinh tế hiện nay dựa chủ yếu vào vốn đầu
tư, số lượng lao động dồi dào, giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên trong khi lại
chưa quan tâm đúng mức đến các động lực khác của nền kinh tế, như khoa học -
công nghệ, nhu cầu của thị trường trong nước... Nghiên cứu trong chương 2 đã chỉ
ra tỷ lệ tổng vốn đầu tư/GDP trong giai đoạn 2005-2017 luôn ở mức cao, trên 30%,
cao hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực (Thái Lan: 26,8%; Indonesia:
166
24,9%; Malaixia: 21,9%; Philippin: 15,3%). Mô hình tăng trưởng kinh tế theo
chiều rộng như vậy hiện nay đã bị hạn chế về nguồn lực, tiềm tàng bất ổn về kinh tế
vĩ mô do đầu tư quá cao so với khả năng tiết kiệm của nền kinh tế, thâm hụt ngân
sách liên tục kéo dài càng khiến vay nợ đầu tư và thâm hụt gia tăng. Đã đến lúc cần
thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chú trọng nâng cao chất lượng tăng
trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Để nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và thế giới, một
số giải pháp cơ bản cần thực hiện bao gồm:
(1) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Tăng cường đầu tư cho phát triển
giáo dục-đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp các ngành, tổ chức tốt
công tác hướng nghiệp gắn việc chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của người lao động
phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế.
(2) Tăng cường đầu tư cho khoa học công ghệ, đặc biệt trong điều kiện cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Hiện nay, nguồn
vốn đầu tư cho khoa học công nghệ vẫn chủ yếu là nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước. Mặc dù trong những năm gần đây, đầu tư vốn cho phát triển khoa học công
nghệ có xu hướng tăng nhưng vẫn còn tương đối hạn chế, đôi khi còn phân tán, dàn
trải, thiếu tập trung, thiếu mục tiêu ưu tiên. Chính vì vậy cần có chiến lược phát
triển lâu dài cho hoạt động khoa học công nghệ trên các lĩnh vực, thực hiện thương
mại hóa các sản phẩm khoa học, công nghệ, khuyến khích sự tham gia của các
doanh nghiệp tư nhân vào lĩnh vực này.
(3) Khuyến khích các hoạt động đầu tư từ các thành phần kinh tế ngoài nhà
nước, giảm dần tỷ trọng đầu tư vốn Nhà nước. Tạo sân chơi bình đẳng, minh bạch
cho các thành phần kinh tế qua đó tạo môi trường cạnh tranh công bằng, khuyến
khích các thành phần kinh tế cùng phát triển, cải thiện chất lượng quản trị doanh
nghiệp, đóng góp vào quá trình tăng trưởng và phát triển của đất nước.
167
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Trong chương 3, tác giả đã khái quát định hướng phát triển lành mạnh khu vực
tài chính ở Việt Nam, trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những khuyến nghị chính sách
nhằm phòng ngừa căng thẳng khu vực tài chính và đảm bảo ổn định vĩ mô. Các
khuyến nghị chính sách gồm 3 nhóm: (1) khuyến nghị chính sách liên quan tới hình
thành các chỉ tiêu cảnh báo sớm giai đoạn căng thẳng khu vực tài chính, (2) Khuyến
nghị chính sách liên quan tới phát triển ổn định hệ thống tài chính, (3) Khuyến nghị
chính sách nhằm quản lý hiệu quả dòng vốn vào và (4) Khuyến nghị chính sách
nhằm giảm thiểu tác động của căng thẳng tài chính.
KẾT LUẬN CHUNG
Trong phạm vi gần 160 trang nghiên cứu, luận án đã giải quyết được các mục
tiêu cơ bản đặt ra bao gồm:
Thứ nhất, chương 1 đã xây dựng cơ sở lí luận về căng thẳng khu vực tài
chính. Khái niệm và đặc điểm của căng thẳng khu vực tài chính đã được xem xét kỹ
lưỡng để từ đó nghiên cứu về các nguyên nhân đến căng thẳng khu vưc tài chính,
cũng như những tác động của căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế thực.
Trong chương 1, kinh nghiệm của Singapore và Trung Quốc trong việc quản lý căng
thẳng khu vực tài chính cũng đã được nghiên cứu để từ đó rút ra những bài học quý
báu cho Việt Nam liên quan đến các biện pháp phòng ngừa căng thẳng khu vực tài
chính và các biện pháp quản lý nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của căng thẳng
khu vực tài chính đến nền kinh tế. Đây chính là cơ sở cho việc tìm hiểu và đánh giá
thực trạng căng thẳng khu vực tài chính ở Việt Nam trong chương 2.
Thứ hai, trong chương 2, tác giả đã khái quát sự phát triển thị trường tài
chính Việt Nam, trong đó tập trung vào giai đoạn từ năm 2005 đến 2017, đồng thời
đã xem xét thực trạng căng thẳng khu vực tài chính tại Việt Nam và tác động của
căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế thực. Bằng các phân tích định tính và
phương pháp xây dựng chỉ số căng thẳng khu vực tài chính dựa trên trọng số
phương sai bằng nhau, tác giả đã chỉ ra giai đoạn khu vực tài chính Việt Nam trải
qua căng thẳng nhất là giai đoạn từ đầu năm 2011 đến hết năm 2012. Bằng việc sử
dụng mô hình véc tơ tự hồi quy ngưỡng (TVAR) tác giả cũng đã chỉ ra tác động của
căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế thực, trong giai đoạn có căng thẳng
khu vực tài chính (FSI cao hơn ngưỡng), căng thẳng khu vực tài chính tăng tác động
tiêu cực đến GDP, làm cho GDP giảm.
Thứ 3, trên cơ sở lý luận và thực trạng căng thẳng khu vực tài chính ở Việt
Nam, trong chương 3, tác giả đã khái quát định hướng phát triển lành mạnh khu vực
tài chính ở Việt Nam, trên cơ sở đó, đưa ra những khuyến nghị chính sách nhằm
phòng ngừa căng thẳng khu vực tài chính và đảm bảo ổn định vĩ mô. Các khuyến
nghị chính sách gồm 4 nhóm: (1) khuyến nghị chính sách liên quan tới hình thành
các chỉ tiêu cảnh báo sớm giai đoạn căng thẳng khu vực tài chính, (2) Khuyến nghị
chính sách liên quan tới phát triển ổn định hệ thống tài chính, (3) Khuyến nghị
chính sách nhằm quản lý hiệu quả dòng vốn vào và (4) Khuyến nghị chính sách
nhằm giảm thiểu tác động của căng thẳng tài chính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Nguyễn Khắc Quốc Bảo, “Hệ thống phòng ngừa khủng hoảng tài chính cho
Việt Nam trong quá trình hội nhập”, Luận án tiến sỹ
2. Nguyễn Chí Đức và Hồ Thúy Ái, 2017, “Xây dựng chỉ số căng thẳng khu vực
tài chính cho Việt Nam”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ
3. Đỗ Thị Kim Hảo, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Nguyễn Thị Hoài Thu, Vũ Thị
Kim Oanh, Lê Hải Trung, Trần Việt Dũng, 2014, “Tăng trưởng tín dụng nóng và
những ảnh hưởng đối với sự lành mạnh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam‖,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành năm 2014.
4. Đỗ Thị Kim Hảo và Nguyễn Minh Nguyệt, 2015, “Nguyên nhân dẫn đến tăng
trưởng tín dụng nóng tại Việt Nam giai đoạn 2007-2010”, Tạp chí Khoa học đào tạo
Ngân hàng số 158
5. Đặng Thị Thu Hằng và Vũ Thị Kim Oanh, 2019, “Khả năng tiếp cận tín dụng
ngân hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khi có sự gia nhập của các
ngân hàng nước ngoài”, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 205, tháng
6/2019.
6. Nguyễn Thị Hòa, 2018, ―Các mô hình giám sát tài chính phổ biến trên thế giới
và liên hệ với Việt Nam‖, www.sbv.gov.vn
7. Lê Công Hội, “Tăng cường giám sát rủi ro hệ thống trong bối cảnh hội nhập
quốc tế’, Hội thảo quốc tế Học viện Ngân hàng, T 10-2016
8. Lê Quốc Hội (2013), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào bất động sản và bất ổn
kinh tế vĩ mô ở Việt Nam‖, T/c Kinh tế & Phát triển số 194 tháng 8/2013
9. Mai Thu Huyền và Vũ Thu Huyền, 2011, “Dự trữ ngoại hối củaViệt Nam: Thực
trạng và một số gợi ý chính sách”, Tạp chí Ngân hàng số 12 tháng 6 năm 2011
10. Nguyễn Thanh Nhàn, Phan Hoàng Yến và Bùi Thanh Hương, 2011, “Ảnh
hưởng của biến động lãi suất đến hoạt động của hệ thống ngân hàng trong 6 tháng
đầu năm 2011”, Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng
11. Nguyễn Văn Ngọc, 2006, “Từ điển kinh tế học‖, NXB Kinh tế Quốc dân 2006
12. Pham Minh Chính và Vương Quân Hoàng, 2009, “Kinh tế Việt Nam – Thăng
trầm và đột phá”, Nhà xuất bản Tri Thức
13. Vũ Thị Kim Oanh và Trần Việt Dũng, 2015, “Phương pháp xác định tăng
trưởng tín dụng nóng”, Tạp chí Khoa học đào tạo Ngân hàng số 159.
14. Ngân hàng Thế giới (NHTG), “Vietnam Financial Sector Review”, World Bank
Country Report, 1995; và IMF, “Vietnam Selected Issues”, IMF Staff Country Report No
99/55, T7/1999.
15. Tạ Thu Hồng Nhung, Nguyễn Mạnh Hùng và Bạch Thị Thu Hồng, 2017, “Mô
hình giám sát hệ thống tài chính hợp nhất tại Singapore và gợi ý cho Việt Nam”,
Tạp chí công thương
16. Phạm Thị Ánh Phượng, 2018, “Các mô hình giám sát tài chính trên thế giới và
hàm ý đối với Việt Nam”, Tạp chí Tài chính
17. Nguyễn Hữu Phước “Mô hình đánh giá mức độ căng thẳng tài chính hệ thống ngân
hàng Việt Nam (stress test), Áp dụng phương pháp VAR”, Luận văn thạc sỹ
Tài liệu Tiếng Anh
1. ADB, 2014, ―Vietnam Financial Sector Assessment, strategy and roadmap‖
2. Adjasi,C.K.D. & Biekpe, N., 2006, ―Stock market development and economic
growth: The case of selected African countries‖, African Development Review
18(1): 144-161
3. Adjasi,C.K.D. & Biekpe, N., 2006, ―Stock market development and economic
growth: The case of selected African countries‖, African Development Review
18(1): 144-161
4. Adrian, T. & Shin, H.S., 2007, “Liquidity and leverage”, 6th BIS Annual
Conference” Financial System and Macroeconomics Resilience, 2007.
5. Allen, F. & Gale, D., 2000, “Financial Contagion”, The journal of political
Economy, Volume 108, issue 1, Feb., 2000, 1-33, African countries, University of
Stellenbosch Business School, Cape Town, South Africa.
6. Ahmed, H. U., & Samad, Q. A. (2008), “Performance level of Dhaka stock
market: A quantitativeanalysis”, Daffodil International University Journal of
Business and Economics
7. Balakrishnan, R., Danninger, S., Elekdag, S., Tytell, I., 2009, “The transmission
of financial stress from advanced to emerging economies‖, IMF Working Paper
WP/09/133
8. Balakrishnan, R., Danninger, S., Elekdag, S., Tytell, I., 2009, “How Linkages
Fuel the Fire: The Transmission of Financial Stress from Advanced to Emerging
Economies”, World Economic Outlook (April 2009), International Monetary Fund.
9. Balakrishnan, R., Danninger, S., Elekdag, S., Tytell, I., 2011, “The
Transmission of Financial Stress from Advanced and Emerging Economies
Emerging Markets”, Finance and Trade 47. pp. 40–68.
10. Beck, H. (2001), “Banking is essential or not, the future of financial
intermediation”, 4th edition, Boston, USA, McGraw-Hill.
11. Bell, J. and D. Pain. 2000. “Leading Indicator Models of Banking Crises—A
Critical Review.” Bank of England Financial Stability Review 9: 113–29.
12. Bellas, D., Papaioannou, M. G & Petrova, I., 2010, “Determinants of Emerging
market sovereign Bond Spreads: Fundamentals vs Financial stress”, IMF working
paper, December 2010
13. Berge T.O và Boye K.G, 2007, “An analysis of banks problem loans‖, USA,
McGraw-Hill.
14. Bernanke, B. S., & Gertler, M., 1995, “Inside the black box: The credit channel
of monetary policy transmission”, NBER Working Paper No. 5146
issued in June 1995
15. Bernanke, B. S., và Lown, C.S., 1991. “The Credit Crunch,” Brookings Papers
on Economic Activity, no. 2, pp. 205-39.
16. Bernanke, B & James, H., 1991, “The gold standard, Deflation and financial
crisis in the great depression: An international comparison”, Financial market and
financial crisis, Chicago: University of Chicago Press, 1991.
17. Bernanke, B, M Gertler and S Glichrist (1999): “The financial accelerator in a
quantitative business cycle framework‖, in J Taylor and M Woodford (eds),
Handbook of Macroeconomics, Amsterdam.
18. Bloom, N., 2009, “The impact of uncertainty shocks”, NBER Working Paper
No. 13385 issued in September 2007
19. Bollerslev, T., Chou, R. và Kroner, K.F., 1992, “ARCH modelling in finance: A
review of the theory and empirical evidence”, Journal of Econometrics, 1992,
vol.52, issue 1-2, 5-59
20. Boon Hwa Tng & Kian Teng Kwek (2015), “Financial stress, economic activity and
monetary policy in the ASEAN-5 economies”, Applied Economics, 47:48, 5169-5185, DOI:
10.1080/00036846.2015.1044646
21. Borio, C., 2008, “The financial turmoil of 2007 – a preliminary assessment and
some policy considerations”, Bank for international settlements, March 2008
22. Brunnermeier, M, K. and Sannikov, Y., 2011, “A macroeconomic Model with a
financial sector”, Princeton University
23. Caballero, R.J. & Kurlat, P. D., 2008, “Flight to quality and BailoutsL Policy
Remarks and a literature review”, MIT department of economics working paper
No. 08-21
24. Calomiris, C. và Gorton, G., 1991, “The Origins of Banking Panics: Models,
Factsand Bank Regulation”, NBER Chapters, National Bureau of Economic
Research, Inc, pp109-174.
25. Calvo, G. A., A. Izquierdo, and E. Talvi, 2006, “Phoenix Miracles in Emerging
Markets: Recovering without Credit from Systemic Financial Crises,” NBER
Working Papers 12101, National Bureau of Economic Research.
26. Cambón M.I. và L. Estévez (2016), “A Spanish Financial Markets Stress
Index”, The Spanish Review of Financial Economics vol. 14, pp 23–41.
27. Caprio, G. và Honohan, P., 2010, “Finance for Growth; Policy Choices in a Volatile
World”, World Bank, 2010.
28. Crockett, Andrew, Trevor Harris, Frederic Mishkin và Eugene N. White: “Conflicts of
Interest in the Financial Services Industry: What should we do About Them?” Geneva
Reports on the World Economy, Number 5, 2003.
29. Cardarelli, R., Elekdag, S., Lall, S., 2009, “Financial Stress, Downturns, and
Recoveries”, IMF Working Paper, WP/09/100
30. Cardarelli, R., Elekdag, S., Kose, M.A., 2009, ―Capital inflows:
Macroeconomic Implication and policy responses‖, IMF Working Paper WP/09/40
31. Carriere-Swallow, Y. và Cespedes, L., 2013, “The impact of uncerstanty shocks
in emerging economies”, Journal of Internation Economics, 2013, vol 90, issued 2,
316-325
32. Ceevik, E.I, Dibooglu, S. và Kenc, T., 2013, “Measuring financial stress in
Turkey”, Journal of Policy Modelling, Volume 35, Issue 2, March – April 2013,
Pages 370-383
33. Chui, M.K.F, Hall, S. và Taylor, A., 2004, “Crisis Spillovers in Emerging
Market Economies Interlinkages, Vulnerabilities and Investor Behaviour”, Bank of
England Working Paper No.212
34. Claessens, S., Demirguc-Kunt, A. và Moshirian, F., 2009, “Global Financial
Crisis, Risk Analysis and Risk Measurement”, Journal of Banking and Finance 33
(11): 1949-1952
35. Crockett, A., 2011, “What financial system for the 21st century ?‖, retrieved
from https://www.bis.org/events/agm2011/sp110626.pdf
36. Davig, T. và Hakkio, C., 2010, “What Is the Effect of Financial Stress on
Economic Activity ?‖ Federal Reserve Bank of Kansas City, Economic Review
2010
37. Dufrénot, G., D. Furceri, and A. Zdzienicka (2011), “Financial globalization and
financial stress in Latin America: the case of Argentina, Brazil and Mexico”, preliminary
version of the paper, March, org/img/pdf/paper_march2011pdf.
38. Eichengreen, Barry, Andrew Rose, Charles Wyplosz (1993), “The Unstable
EMS”, Brooking Papers on Economic Activity, Vol. 1.
39. Eichengreen, Barry, Andrew Rose, Charles Wyplosz (1996), “Contagious
Currency Crises”, NBER. Working Paper, No. 5681.
40. Eichengreen, B. & Rose A. K.,, 1999, "Contagious Currency Crises: Channels
of Conveyance," National Bureau of Economic Research, NBER-EASE volume 7,
pages 29-56
41. Erbil, C. và Salman, F., 2006, “Revealing Turkey’s public debt burden: A
transparent payments approach”, Journal of Policy Modelling 28, p825-835
42. Evans, C.L., 2009, “Monetary policy in times of financial stress”, retrieved
from https://www.chicagofed.org/publications/speeches/2008/03-26-nyabe-remarks
43. Frankel, J. và Schmukler, S., 1998, “Country Funds and Assymetric
Information”, International Journal of Finance & Economics, 2000, vol.5, issue 3,
177-95
44. Freixas, X. và Rochet, J.C., 2008, “Microeconomics of Banking”, The MIT
Press, 2 edition
45. Gambacorta, L. và Marques-Ibanez, D., 2007, “The bank lending channel: Lessons
from the crisis”, Bank for International Settlements, No 345, May 2011
46. Garber, P.M., và Grilli, V.U., 1989, “Bank runs in open economy and the
international transmission of panics”, Journal of International Economics 27: 165-75
47. Glick, R., and Hutchison, M., 2011, “Currency crisis”, Working paper series,
Federal Reserves Bank of San Francisco
48. Glick, R. và Rose, A., 1999, “Contagion and Trade: Why are currency crises
regional ?”, Journal of International Money and Finance, 1999, vol.18, issue 4, 603-617
49. Gonzales, M.D và Bautista, M.S, 2013, “Financial Conditions Indexes for
Asian Economies”, ADB Economics Working Paper Series, No. 333
50. Goodhart, C., 2004, “Some New Directions for Financial Stability ?”The Per
Jacobsson Lecture, Zurich, Switzerland, 27 June
51. Gosselin, M. và Tkacz, G., 2001, “Evaluating Factor Models: An Application to
Forecasting Inflation in Canada”, Bank of Canada, Working Paper 2001-18
52. Grimaldi, M.B., 2010, “Detecting and interpreting financial stress in the Euro
area”, ECB Working Paper Series, No 1214, June 2010
53. Grunbichler, A. & Darlap, P., 2003, ―Regulation and Supervision of Financial
Markets and Institutions – A European Perspective‖, Zew
54. Guo, H. (2002), “Stock market returns, volatility, and future output”, Federal
Reserve Bank of St. Louis Review 84, 75-86.
55. Guttentag, J.M. & Herring, R.J., 1986, “Disaster myopia in international
banking”, essays in international finance,No. 164, September 1986
56. Hakkio, C. và Keeton, W., 2009, “Financial Stress: What Is It, How Can It Be
Measured, and Why Does It Matter ?”, Federal Reserve Bank of Kansas City,
Economic Review, 2009.
57. Hanschel, E. và Monnin, P., 2005, “Measuring and forecasting stress in the
banking sector: evidence from Switzerland‖, BIS vol.22, pp431-49, 2005.
58. Hodrick, R.J. và Prescott, E.C., 2009, “Postwar U.S. Business Cycle: An
Empirical Investigation‖, Journal of Money, Credit and Banking, Vol.29, No.1
(Feb, 1997), pp1-16.
59. Holló, D. (2012), “A system-wide financial stress indicator for the Hungarian financial
system”, Magyar Nemzeti Bank Occasional Paper, No. 105, September.
60. Holthausen, C. và Pill, H., 2010, “The forgotten markets: how understanding money
markets helps us to understand the financial crisis”
61. Hu, Y.W., 2010, “Management of China’s foreign exchange reserves: a case study on the
state administration of foreign exchange (SAFE)”, Economic Papers 421, July 2010.
62. Hubrich, K. & Tetlow, R.J., 2014, “Financial stress and economic dynamics:
The transmission of crises”, European Central Bank, Working paper series No
1728, September 2014
63. Hwa, T. B., 2014, “The transmission of financial stress and Monetary policy
Responses in the Asean-5 economies”, Australian Conference of Economists (ACE)
and Econometric Society Australian Meeting (ESAM), July 2014
64. Illing, M. and Y. Liu, 2003. “An Index of Financial Stress” Bank of Canada
Working Paper No.2003-14.
65. Illing, M. and Y. Liu, 2006, ―An index of financial stress for Canada”, Bank of
Canada Working Paper 2003-14, June 2003
66. IMF, 1998, “Financial Crises: Characteristics and Indicators of Vulnerability”
67. Jokipii, T. và Monnin, P., 2013, “The impact of banking sector stability on the
real economy”, Journal of International Money and Finance, 2013, vol. 32, issue C,
1-16
68. Kaminsky, G. (1999), "Currency and Banking Crises: The Early Warnings of
Distress" IMF Working Paper, No. 99/178.
69. Kaminsky, G., S. Lizondo and G. M. Reinhart (1997),“Leading Indicators of
Currency Crises” IMF Working Paper, No. WP/97/79.
70. Kaminsky, G. and C. M. Reinhart (1999), “The Twin Crises: The Causes of
Banking and Balance-of-Payments Problems,” American Economic Review, Vol.
89, No. 3
71. Kaminsky, G., C. M. Reinhart & Vegh, C. A., 2003, “The Unholy trinity of
financial contagion”, NBER working paper 10061, October 2003
72. Kappler, M. và Schleer, F., 2013, ―How many factors and shocks cause
financial stress?‖, Zew – Centre for European Economic Research Discussion
paper No. 13-100
73. Kashyap, A. K. và Stein, J. C., 1999, “What do a million observations on Banks
say about the transmission of Monetary Policy ?”, June 1997 NBER working paper.
74. Kindleberger, C. và Aliber, R., 2005, “Manias, Panics and Crashes: A History
of Financial Crises”, Palgrave Macmillan
75. Kiyotaki, N and J Moore (1997): “Credit cycles”, Journal of Political Economy,
vol 105, pp 211–48.
76. Kunt, A., Detragiache, E., 1996, “The determinants of banking crises in
developed and developing countries‖, International Monetary Fund Staff Papers 45,
81–109
77. Laeven, L. và Valencia, F., 2013, “Systemic banking crises database”, IMF Econ Rev
61:225–270
78. Lardy, N. và Borst, L., 2013, “A Blueprint for rebalancing the Chinese
Economy”, Peterson Institute for International Economics, No. PB13-02
79. Lee, G., Salyer, K. và Strobel, J., 2016, “Hump-shape Uncertainty, Agency
costs and Aggregate Fluctuations”, September 25, 2016
80. Levine, R. và Zervos, S. (1998), “What we have learnt about policy and growth
from cross-country regressions”, American Economic Review, 83(2) 426-440
81. Louis, D.P. và Vouldis, A.T., 2013, “A financial systemic stress index for Greece”,
82. Manamperi, N.P. (2013), “A Comparative Analysis of US Financial Stress
Indicators‖, Texas Tech University, Lubbock, Texas, Macroprudential Research
network, Working Paper Series No 1563, July 2013
83. Mallick, S. và Sousa, R., 2011, “The real efects of financial stress in the Euro zone”,
No 12/2011, NIPE Working Papers from NIPE - Universidade do Minho
84. Maness, T. và Zietlow, J. (2004), “Short-term financial management”,
Australia: Southwestern Press
85. Monetary Authority of Singapore, Annual report 2009
86. Marszk, A., 2014, “Economic Integration and Foreign Direct Investment:
Review of Main Theoretical Concepts”, Entrepreneurial Business and Economics
Review 2(3): 79-89
87. Mishkin, F.S., 1991, “Anatomy of financial crisis”, NBER Working Paper No.
3934 issued in December 1991
88. Mishkin, F.S., 1992, “The economics of money, banking and financial markets”,
HarperCollins Publisher
89. Minsky, H., 1992, “The financial instability hypothesis. The Jerome Levy
Economics” Institute Working Paper, No. 74 (May)
90. Mitnik, S. & Semmler, W., 2013, “The real consequences of financial stress”,
Journal of Economic Dynamics and Control, 2013, vol.37, issue 8, 1479-1499
91. Morrison, W.M., 2019, “China’s Economic Rise: History, Trends, Challenges
and Implications for the United States”, Congressional Research Service
92. Morttinen, L., Poloni, P., Sandars, P. and Vesala, J., 2005, “Analysing banking
sector conditions – How to use macro-prudential indicators”, European Central
Bank, Occasional Paper Series, No. 26
93. Nier, E. và Kang, H., “Monetary and macroprudential policies – exploring
interactions”, retrieved from https://www.bis.org/publ/bppdf/bispap86e.pdf
94. Oet, M. V., Eiben, R., Bianco, T., Gramlich, D., và Ong, S., 2011, “The
Financial Stress Index: Identification of Systemic Risk Conditions”, Federal Reserve
Bank of Celveland, Working Paper, No. 11/30, November 2011
95. Oet, M. V., T. Bianco, D. Gramlich, và S. Ong, 2012, “Financial Stress Index:
A Lens for Supervising the Financial System”, Federal Reserve Bank of Celveland
Working Paper, No. 12/37, December
96. Park, C.Y and Mercado, R.V. 2013, “Determinants of financial stress in
emerging market economies‖, Journal of Banking and Finance, 2013
97. Pham, Anh., 2015, “Early Warning System of Currency Crisis Based on
Exchange Market Pressure: The Case of Vietnam”, retrieved from
https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2595608
98. Reinhart, C.M & Rogoff, K.S, 2009, “The aftermath of financial crises”, the
National Bureau of Economics Research, Working Paper No. 14656
99. Reinhart, C.M & Rogoff, K.S, 2009, “This Time is Different: Eight Centuries of
Financial Folly‖, Princeton Press
100. Sakar, A. và Patel, S.A., 1998, “Stock Market Crises in Developed and
Emerging Markets”
101. Sandahl, J. F., Holmfeldt, M., Ryden, A. and Stromqvist, M., 2011, ―An index
of financial stress for Sweden‖, Sveriges Risksbank Economic Review.
102. Sida, 2004, “Financial Sector Development”, November 2004, Market
Division
103. Sinenko, N., D. Titarenko, and M. Arinš (2012), “Latvian Financial Stress
Index”, Discussion Paper, 1-2012, Latvijas Banka.
104. Sinha, A., 2011, “Financial sector regulation and implications for growth”,
CAFRAL-BIS International Conference on Financial Sector Regulation for Growth,
Equity and Financial Stability in the post-crisis world
105. Stock, J. H. và Watson, M.W., 1998, “Business Cycle Fluctuations in U.S
Macroeconomic Time Series”, NBER Working Paper No.6528.
106. Sun, L., Huang, Y., 2016, “Measuring the Instability of China’s Financial
System: Indices Construction and an Early Warning System‖, Discussion Paper
No.2016-4, Jaanuary 27, 2016
107. Taylor, J. B. và Williams, J.C., 2009, “A Black Swan in the Money Market”,
American Economic Journal: Macroeconomics, Vol. 1, No.1, Jannuary 2009, pp.58-83.
108. Thangavelu, S.M., Yong, Y.W. và Chongvilaivan, A., 2009, “FDI, Growth
and the Asian Financial Crisis: The experience of Selected Asian Countries”, The
World Economy, Volume 32, Issue 10
109. Tobin, J., 1969, “A General Equilibrium Approach to Monetary Theory”, Journal
of Money, Credit and Banking, Vol. 1, No. 1 (February 1969), pp.15-29.
110. Turner, P., 2007, ―Are banking systems in East Asia Stronger ?‖, Asian
Economic Policy Review, Volume 2, issue 1,June 2007, pages 75-95
111. Valdes, R. & Goldfajn, I., 1997, “Capital Flows and the twin crises: The role
of liquidity”, IMF Working Paper No. 97/87
112. Vermeulen, R., Hoeberichts, M., Vasicek, B., Zigraiova, D., Smidkova, K. và
Haan, J., 2015, “Financial Stress Indices and Financial Crises”, Open Economic
Review, July 2015, Volume 26, Issue 3, pp 383-406
113. Williem, J., 2013, “Amacroprudential approach to address liquidity rish with
the Loan-to-deposit ratio”, DNB Working Paper
114. Wong, Christine (2011), “The Fiscal Stimulus Programme and Public
Governance Issues in China”, OECD Journal on Budgeting, Vol. 11/3
115. Yiu, M., W.-Y. Ho, L. Jin. 2010, ―A Measure of Financial Stress in Hong
Kong [China] Financial Market—the Financial Stress Index‖, HKMA Research
Note 02/2010, Hong Kong Monetary Authority
PHỤ LỤC 1: HỆ THỐNG CÁC BIẾN SỐ PHẢN ÁNH CĂNG THẲNG
KHU VỰC TÀI CHÍNH
Chỉ số Diễn giải +/- Nguồn
Khu vực tiền tệ
Chênh lệch
TED (TED
spread)
Là chênh lệch giữa lãi suất của một
khoản vay liên ngân hàng không có đảm
bảo (ví dụ: Stockholm Interbank Offered
Rate) với lãi suất của tín phiếu kho bạc
với cùng kỳ hạn
+ Sandahl và các
tác giả, 2011
Euribor 3
tháng/
Chênh lệch
T-bill Đức 3
tháng
Euribor được xem là ngưỡng cho mức lãi
suất cho vay ngắn hạn thị trường liên
ngân hàng. Chênh lệch giữa Euribor 3
tháng và T-bill 3 tháng phản ánh rủi ro
đối tác và rủi ro thanh khoản.
+ Hakkio và
Keeton, 2009
Chênh lệch
rủi ro liên
ngân hàng
Chênh lệch rủi ro liên ngân hàng = Lt 3
tháng – TBRt 3 tháng. Trong đó: - Lt 3
tháng là lãi suất cho vay 3 tháng trên thị
trường liên ngân hàng Trung Quốc; TBRt
3 tháng là lãi suất trái phiếu chính phủ 3
tháng.
+ Sun và Huang
(2016)
Khu vực ngân hàng
Tín
dụng/GDP
Tín dụng tăng trưởng quá mức dẫn đến
tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng, chất
lượng tín dụng suy giảm, ảnh hưởng đến
hệ số CAR của ngân hàng
+ Sun và Huang
(2016)
Tỷ lệ cho
vay/huy
động
Biến số này phản ánh căng thẳng và rủi
ro vỡ nợ của khu vực ngân hàng Trung
Quốc. Tỷ lệ này tăng phản ánh tình trạng
căng thẳng thanh khoản của khu vực
+ Sun và Huang
(2016)
ngân hàng, nguy cơ dẫn đến căng thẳng
tài chính.
Gap tiền gửi Gap tiền gửi âm cho thấy tiền gửi nằm
dưới đường xu hướng là dấu hiệu của
căng thẳng do ngân hàng sẽ gặp khó khăn
về thanh khoản và do đó có thể ngân
hàng phải bán các tài sản với mức giá
thấp, ảnh hưởng đến bảng cân đối của
ngân hàng
+ Reinhart và
Rogoff (2009),
Sun và Huang
(2016)
Gap cho vay Gap cho vay âm có thể được hiểu là dấu
hiệu của việc không sẵn sàng cho vay của
ngân hàng (có thể do vấn đề từ bên nợ
của ngân hàng) hoặc do sự suy giảm nhu
cầu tín dụng
+ Sun và Huang
(2016)
Nợ xấu/tổng
tài sản
Tỉ lệ nợ xấu tăng cao phản ánh chất
lượng tài sản của ngân hàng suy giảm
+ Reinhart và
Rogoff (2009),
Sun và Huang
(2016)
Giá thị
trường của
cổ phiếu
ngân hàng
(Chỉ số cổ
phiếu ngân
hàng)
Chỉ số cổ phiếu ngành ngân hàng thường
phản ánh kỳ vọng của thị trường về viễn
cảnh khu vực ngân hàng: khi chỉ số này
tăng có thể ám chỉ tình trạng tiềm ẩn
bong bóng (impending stress – căng
thẳng sắp đến) trong khi tình trạng suy
giảm kéo dài chính là một dấu hiệu của
căng thẳng
- Reinhart và
Rogoff (2009)
Blix Grimaldi
(2010)
Mức độ biến
động của chỉ
số ngành
Phản ánh sự không chắc chắn của các nhà
đầu tư về giá trị của khu vực ngân hàng.
+ Louis và Vouldis
(2016)
ngân hàng
Βeta của hệ
thống ngân
hàng
Hệ số Beta phản ánh rủi ro của khu vực
ngân hàng, hệ số Beta tăng phản ánh khu
vực ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro
+ Balakrishman và
đồng sự (2011)
Rủi ro đặc
thù của giá
cổ phiếu
ngân hàng
Rủi ro đặc thù của ngành ngân hàng, như
rủi ro gắn với sự kiện cụ thể ngành ngân
hàng, được xác định bằng phương sai của
phần dư của mô hình thị trường
+ Louis và Vouldis
(2016)
Thị trường ngoại hối
Giảm giá của
đồng tiền nội
tệ
Đồng nội tệ giảm giá cho thấy sự gia tăng
mức độ không chắc chắn về giá trị của
đồng tiền quốc gia.
+ Eichengreen và
đồng sự (2004),
Sụt giảm dữ
trữ ngoại hổi
Dự trữ ngoại hối giảm tác động tiêu cực
tới khả năng thanh toán quốc tế cũng như
an ninh tài chính tiền tệ của nước đó, gia
tăng mức độ rủi ro của thị trường ngoại
hối.
+ Kaminsky,
Lizondo và
Reinhart (1998)
và Caramazza,
Ricci, và
Salgado (2000)
Thị trường chứng khoán
Chỉ số giá
chứng khoản
Chỉ số giá chứng khoán giảm cho thấy
tổn thất dự tính lớn hơn, rủi ro cao hơn
hay tăng mức độ không chắc chắn về lợi
nhuận trong tương lai của doanh nghiệp.
- Bollerslev và
đồng sự (1992)
Mức biến
động của chỉ
số cổ phiếu
chung ASE
Mức biến động của chỉ số cổ phiếu chung
ASE tăng phản ánh tăng tính không chắc
chắn về các điều kiện cơ sở và hành vi
của các nhà đầu tư
+ Hakkio và
Keeton, 2009
Thị trường nợ
Nợ nước
ngoài
Vay nợ quá mức các khoản nợ tích lũy-
chính là một khoản thuế với sản lượng
trong tương lai, cản trở các hoạt động đầu
tư tư nhân có hiệu quả và tạo ra rất nhiều
gánh nặng lên các nỗ lực của chính phủ
+ Erbil và Salman
(2006)
Chênh lệch
lợi tức trái
phiếu
Chênh lệch giữa lợi tức trái phiếu dài hạn
và lợi tức trái phiếu ngắn hạn được xem
là chỉ báo cho suy thoái kinh tế và là biến
đại diện cho sự không chắc chắc trên thị
trường trái phiếu chính phủ.
+ Sun và Huang
(2016)
Chênh lệch
trái phiếu
chính phủ
Chênh lệch này được xác định bằng lợi
tức TPCP Trung Quốc 10 năm và lợi tức
TPCP Mỹ 10 năm.
+ Sun và Huang
(2016)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Dấu +/- phản ánh tác động cùng chiều/ngược chiều của biến số đến căng
thẳng khu vực tài chính.
PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ MÔ HÌNH TVAR
Dependent Variable: GDP
Method: Threshold Regression
Date: 10/24/19 Time: 07:39
Sample (adjusted): 2005Q2 2017Q4
Included observations: 51 after adjustments
Threshold type: Bai-Perron tests of L+1 vs. L sequentially determined
thresholds
Threshold variable: FSI(-1)
Threshold selection: Trimming 0.15, , Sig. level 0.05
Threshold value used: 0.3062018
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
FSI(-1) < 0.3062018 -- 42 obs
GDP(-1) 0.652164 0.131424 4.962285 0.0000
FSI(-1) -0.005913 0.008416 -0.702597 0.4863
CPI(-1) -0.076877 0.066223 -1.160887 0.2524
INT(-1) 0.000639 0.001102 0.580002 0.5651
C 0.023236 0.009132 2.544423 0.0148
0.3062018 <= FSI(-1) -- 9 obs
GDP(-1) -0.331978 0.143502 -2.313395 0.0258
FSI(-1) -0.130317 0.027574 -4.726012 0.0000
CPI(-1) -0.218805 0.173050 -1.264406 0.2132
INT(-1) 0.005917 0.004180 1.415519 0.1645
C 0.100173 0.028093 3.565756 0.0009
R-squared 0.683170 Mean dependent var 0.064893
Adjusted R-squared 0.613622 S.D. dependent var 0.016930
S.E. of regression 0.010524 Akaike info criterion -6.096506
Sum squared resid 0.004541 Schwarz criterion -5.717717
Log likelihood 165.4609 Hannan-Quinn criter. -5.951760
F-statistic 9.822991 Durbin-Watson stat 2.305405
Prob(F-statistic) 0.000000
PHỤ LỤC 3: XÁC ĐỊNH ĐỘ TRỄ TỐI ƢU
VAR Lag Order Selection Criteria
Endogenous variables: GDP FSI CPI INT
Exogenous variables: C
Date: 10/24/19 Time: 08:13
Sample: 2005Q1 2017Q4
Included observations: 47
Lag LogL LR FPE AIC SC HQ
0 109.8490 NA 1.30e-07 -4.504211 -4.346751 -4.444958
1 181.4676 127.9994* 1.22e-08 -6.870964 -6.083667* -6.574698*
2 205.3077 38.54988* 8.90e-09* -7.204583 -5.787449 -6.671306*
3 221.9197 24.03435 9.03e-09 -7.230625 -5.183653 -6.460335
4 236.6002 18.74113 1.03e-08 -7.174478 -4.497669 -6.167177
5 257.1314 22.71531 9.73e-09 -7.367293* -4.060646 -6.122979
* indicates lag order selected by the criterion
LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level)
FPE: Final prediction error
AIC: Akaike information criterion
SC: Schwarz information criterion
HQ: Hannan-Quinn information criterion
PHỤ LỤC 4: ĐỒ THỊ HÀM PHẢN ỨNG CÁC BIẾN TRONG MÔ HÌNH
-.01
.00
.01
.02
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of GDP to GDP
-.01
.00
.01
.02
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of GDP to FSI
-.01
.00
.01
.02
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of GDP to CPI
-.01
.00
.01
.02
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of GDP to INT
-.1
.0
.1
.2
.3
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of FSI to GDP
-.1
.0
.1
.2
.3
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of FSI to FSI
-.1
.0
.1
.2
.3
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of FSI to CPI
-.1
.0
.1
.2
.3
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of FSI to INT
-.01
.00
.01
.02
.03
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of CPI to GDP
-.01
.00
.01
.02
.03
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of CPI to FSI
-.01
.00
.01
.02
.03
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of CPI to CPI
-.01
.00
.01
.02
.03
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of CPI to INT
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of INT to GDP
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of INT to FSI
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of INT to CPI
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of INT to INT
Response to Cholesky One S.D. Innov ations ± 2 S.E.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
A. Bài báo khoa học, kỷ yếu khoa học
1. Oanh Vu Thi Kim, “Detecting financial stress and its impacts in Vietnam‖,
International Conference on Banking and Finance ICBF 2019, accepted papers
2. Nhan Nguyen, Yen Vu and Oanh Vu, “Assessing the Determinants of Interest
Rate Transmission in Vietnam”, accepted papers for the ECONVN’2020 Springer
volume
3. Vũ Thị Kim Oanh, Nguyễn Thanh Nhàn, 2019, “Thực trạng khu vực tài chính ở
Việt Nam và khuyến nghị hình thành các chỉ tiêu cảnh báo sớm”, Tạp chí Thị
trường Tài chính Tiền tệ số 15, 2019.
4. Vũ Thị Kim Oanh, 2018, “Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ báo cáo tài
chính các NHTM”, Tạp chí Khoa học đào tạo Ngân hàng số 195, tháng 8/2018.
5. Vũ Thị Kim Oanh, 2018, “Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính – Kinh nghiệm
quốc tế và bài học cho Việt Nam”, Khoa học đào tạo Ngân hàng số 191, tháng
4/2018.
6. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi Huy Trung, 2018,
“A Framework for Macro Stress-testing the Credit risk of Commercial Banks: The
Case of Vietnam”, Asian Pacific Financial Markets
7. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi Huy Trung, 2016,
“Xây dựng mô hình thử sức chịu đựng rủi ro tín dụng – Từ lý thuyết đến thực tiễn
tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng số tháng 11, 2016
8. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi Huy Trung, 2016,
―International experience on credit risk stress testing – Policy recommendations‖,
Developing financial market in international integration context 3570-
19/QĐXB/NXBDT
9. Vũ Thị Kim Oanh, Trần Việt Dũng, 2015, “Phương pháp xác định tăng trưởng
tín dụng nóng”, Tạp chí Khoa học đào tạo Ngân hàng số 159, 2015
10. Vũ Thị Kim Oanh, Nguyễn Thanh Tùng, 2014, “Quản lý nhà nước đối với hoạt
động tín dụng – Nhìn từ góc độ nợ xấu”, Thị trường Tài chính tiền tệ số 23, 2014
11. TS. Nguyễn Thùy Dương, ThS. Vũ Thị Kim Oanh, 2014, “Vai trò của tín dụng
ngân hàng với sự phát triển các ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2010-2013”,
Tạp chi Khoa học và đào tạo ngân hàng số 147, tháng 8/2014.
12. Vũ Thị Kim Oanh, 2014, “Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng – Công cụ phòng
ngừa rủi ro hữu hiệu cho các NHTM”, Tạp chí Ngân hàng số 8, 2014
B. Đề tài nghiên cứu khoa học
1. Tô Kim Ngọc, 2019, “Nghiên cứu mức độ đánh đổi của bộ ba bất khả thi và gợi ý
cho Việt Nam”, đề tài cấp Ngành, thành viên
2. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, “Xây dựng mô hình thử sức chịu đựng rủi ro tín
dụng của hệ thống ngân hàng dưới sự biến động của các yếu tố vĩ mô”, Đề tài đạt
giải Nhì cấp Bộ, 2018, đồng chủ nhiệm
3. Đỗ Thị Kim Hảo, 2015, “Tăng trưởng tín dụng nóng và những ảnh hưởng đối
với sự lành mạnh của các NHTM Việt Nam”, Đề tài cấp Ngành, thành viên
4. Nguyễn Thị Hồng Hải, 2016, “Nghiên cứu mô hình đánh giá khả năng chịu đựng
rủi ro thị trường của NHTM Việt Nam”, Đề tài cấp Ngành, thành viên
5. Nguyễn Thùy Dương, 2014, “Đánh giá thực trạng tín dụng thời gian qua. Định
hướng và giải pháp điều hành cho giai đoạn từ nay đến năm 2015‖, Đề tài cấp
Ngành, thư ký.
6. Tô Kim Ngọc, 2017, “Nghiên cứu chính sách và giải pháp tín dụng cho hộ gia đình
trong xây dựng nông thôn mới”, Đề tài nhánh cấp nhà nước, thư ký đề tài nhánh