Kết quả nghiên cứu về các yếu tố liên quan tới bệnh tật tới nhập
khẩu thuốc của ba nhóm bệnh chính: nhiễm khuẩn, tim mạch và ung
thư đã cho thấy, có mối liên hệ giữa tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết do
bệnh năm trước đó với nhập khẩu thuốc điều trị nhóm bệnh đó vào
năm tiếp theo. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu
tại Iran vào năm 2013, theo đó, tại quốc gia này, sự chuyển đổi mô
hình dịch tễ từ các bệnh truyền nhiễm sang các vấn đề về ung thư và
các bệnh không truyền nhiễm đã ảnh hưởng đến cơ cấu và xu hướng
nhập khẩu theo hướng tăng tỷ trọng của nhóm thuốc điều trị bệnh
không truyền nhiễm.
Có khá nhiều quốc gia sử dụng các mô hình kinh tế y tế, trong đó
có các chỉ số đo lượng về bệnh tật như tỷ lệ hiện mắc, tỷ lệ mới mắc,
tỷ lệ chết, tỷ lệ tử vong để ước lượng chi tiêu cho y tế (hay chi tiêu
dành cho thuốc) của một số bệnh cụ thể, đặc biệt là nhóm bệnh
không truyền nhiễm hoặc các yếu tố nguy cơ của nhóm bệnh này.
Quản lý việc sử dụng thuốc thông qua mô hình bệnh tật đã được
chứng minh là biện pháp có hiệu quả nhằm tiết kiệm ngân sách dành
cho chi phí sử dụng thuốc tại một số quốc gia trên thế giới. Tuy
nhiên, tại Việt Nam việc sử dụng các dữ liệu về mô hình bệnh tật để
dự đoán sử dụng thuốc, từ đó điều tiết vấn đề nhập khẩu thuốc cũng
như sản xuất trong nước vẫn chưa được các nhà hoạch định chính
sách quan tâm. Ngay cả các doanh nghiệp nhập khẩu hay sản xuất20
trong nước cũng chưa quan tâm nhiều đến mô hình bệnh tật trong
nước ảnh hưởng như thế nào đến xu hướng các thuốc nhập khẩu
27 trang |
Chia sẻ: anhthuong12 | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu xu hướng nhập khẩu thuốc và một số yếu tố ảnh hưởng giai đoạn 2006 - 2014 (chuyên ngành: Tổ chức quản lý dược), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
Chu Quốc Thịnh
NGHIÊN CỨU
XU HƯỚNG NHẬP KHẨU THUỐC
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
GIAI ĐOẠN 2006-2014
CHUYÊN NGÀNH: TỔ CHỨC QUẢN LÝ DƯỢC
MÃ SỐ: 62.72.04.12
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC
Hà Nội, năm 2017
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Dược Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trương Quốc Cường
PGS. TS. Nguyễn Thị Thái Hằng
Phản biện 1: ..
..
Phản biện 2: ..
..
Phản biện 3: ..
..
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá cấp Trường
họp tại .
vào hồi .....giờ..ngày.thángnăm
Có thể tìm hiểu thêm tại: Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Trường Đại học Dược HN
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhu cầu sử dụng thuốc của Việt Nam ngày càng tăng cao, tiền
thuốc bình quân đầu người tăng gần 6 lần sau 15 năm từ 2000-2014,
trong khi đó, công nghiệp dược trong nước mới chỉ chiếm 45% trong
tổng chi phí thuốc và đang có xu hướng bị thay thế bởi thuốc nhập
khẩu do năng lực cạnh tranh kém, thể hiện sự trùng lắp về dạng bào
chế và các nhóm thuốc, không tận dụng hết năng lực sản xuất nhà
máy. Sự phụ thuộc của ngành Dược vào thuốc nhập khẩu là một
trong những nguyên nhân khiến cho chi phí tiền thuốc bình quân trên
đầu người trong tổng chi y tế của Việt Nam năm 2009 ở mức cao gần
2 lần so với trung bình của các quốc gia Châu Á và cao trên 3 lần so
với trung bình của các quốc gia châu Âu.
Để giảm gánh nặng của chi tiêu cho thuốc, Bộ Y tế luôn luôn
nhấn mạnh mục đích của việc nhập khẩu là nhập khẩu bổ sung các
thuốc trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa
đáp ứng đủ nhu cầu điều trị (nhập khẩu bổ sung) và nhập khẩu thay
thế các thuốc sản xuất trong nước không có lợi bằng nhập khẩu (nhập
khẩu thay thế). Để đạt được mục tiêu này, cần phải có các bằng
chứng rõ ràng để hỗ trợ cho các nhà hoạch định chính sách trong việc
xây dựng các chính sách nhằm điều tiết hoạt động nhập khẩu thuốc.
Đề tài được thực hiện với các mục tiêu:
1. Phân tích xu hướng nhập khẩu thuốc vào Việt Nam giai đoạn
2006-2014.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng nhập khẩu
thuốc vào Việt Nam giai đoạn 2006-2014.
Từ đó đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm quản lý tốt
hơn việc nhập khẩu thuốc và góp phần nâng cao việc đáp ứng nhu
cầu tiêu thụ thuốc của ngành công nghiệp dược Việt Nam.
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Thực trạng nhập khẩu thuốc của Việt Nam
Tiền thuốc bình quân đầu người của Việt Nam tăng 6 lần sau 15
năm từ 5,40 USD/người năm 2006 lên 32,22 USD/người năm 2014.
Mặc dù xét về mặt số lượng, thị phần thuốc sản xuất trong nước tại
Việt Nam đang ở mức cao nhất (74%) nếu so sánh với các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á (Malaysia: 45%, Thailand: 72%,
Indonesia: 70%, Philippines: 57%) nhưng xét về mặt giá trị, tỷ trọng
thuốc sản xuất trong nước thấp hơn và đang có xu hướng bị thay thế
bởi thuốc nhập khẩu; ngành công nghiệp dược trong nước đang thể
hiện sự trùng lắp về dạng bào chế và nhóm thuốc (tập trung vào
nhóm thuốc thông thường, dạng bào chế đơn giản), nhà máy trong
nước vẫn chưa được sử dụng hết công suất thiết kế (mới đạt khoảng
47%). Bối cảnh này dẫn đến việc nhập khẩu thuốc của Việt Nam là
điều tất yếu và cần thiết.
Việt Nam là quốc gia nhập siêu với khoảng hơn 50% thuốc thành
phẩm và 90% nguyên liệu dùng để sản xuất trong nước phải nhập
khẩu. Thuốc nhập khẩu bao phủ tất cả các nhóm tác dụng dược lý,
trong đó tỷ trọng SĐK của nhóm thuốc chống nhiễm khuẩn-ký sinh
trùng chiếm tỷ lệ cao nhất là 28,89%; tiếp theo là nhóm thuốc tim
mạch (7,05%), nhóm thuốc tác động lên dạ dày-ruột (6,68%). Về vấn
đề vi phạm chất lượng của thuốc nhập khẩu đang là vấn đề đáng báo
động, trong đó theo báo cáo của Cục Quản lý Dược, từ năm 2011 đến
tháng 7/2014, hai quốc gia Ấn Độ và Hàn Quốc có tỷ lệ thuốc vi
phạm chất lượng nhiều nhất (chiếm 73,78% và 11,59% tổng số 164
lô thuốc nhập khẩu vi phạm chất lượng). Điều này đặt ra cho các nhà
quản lý cần có các biện pháp để hạn chế nhập khẩu các thuốc từ các
quốc gia này.
3
1.2. Chính sách quản lý nhập khẩu thuốc tại Việt Nam
Kể từ khi gia nhập chính thức Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) vào tháng 11/2006, chính sách quản lý nhập khẩu thuốc của
Việt Nam đã có những điều chỉnh nhất định để có thể vừa đảm bảo
mục đích của việc nhập khẩu (nhập khẩu bổ sung những mặt hàng
trong nước không sản xuất được hoặc không đủ nhu cầu; hoặc nhập
khẩu thay thế các mặt hàng trong nước sản xuất kém hiệu quả, không
có lợi bằng nhập khẩu) vừa phải cân đối một cách hợp lý việc bảo hộ
thị trường nội địa, đồng thời vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản
của hệ thống thương mại theo quy định của WTO.
Chính sách quản lý nhập khẩu thuốc tại Việt Nam được tóm tắt
trong sơ đồ sau:
Hình 1.1: Các chính sách quản lý nhập khẩu thuốc tại Việt Nam
1.3. Tổng quan về phương pháp phân tích xu hướng
Trong lĩnh vực y tế, mục tiêu cơ bản của phân tích xu hướng là để
dự báo cho sự thay đổi của sự kiện/hiện tượng, chẳng hạn như chi
tiêu cho thuốc, cho y tế trong tương lai. Các phương pháp sau đây
thường được áp dụng:
Chính sách
quản lý nhập
khẩu thuốc
Chính sách
thuế
Chính sách
phi thuế quan
Tác động lên
thương nhân
Hàng rào kỹ
thuật
Hạn chế số
lượng
Thương mại
tạm thời
Hành chính
4
1.3.1. Mô tả chuỗi số thời gian
Mô tả chuỗi thời gian sử dụng các chỉ số như: giá trị trung bình
qua thời gian; lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn, lượng tăng
(giảm) tuyệt đối định gốc, lượng tăng (giảm) tuyệt đối trung bình; tốc
độ phát triển liên hoàn, tốc độ phát triển định gốc, tốc độ phát triển
trung bình, tốc độ tăng (giảm) liên hoàn, tốc độ tăng (giảm) định gốc,
tốc độ tăng (giảm) trung bình. Sau đó, sử dụng các chỉ số này để dự
báo cho các giá trị trong tương lại, với giả định các chỉ số này ít có
sự thay đổi trong giai đoạn tiếp theo.
1.3.2. Sử dụng các mô hình xu hướng
Đối với mô hình xu hướng đơn biến, có 3 mô hình phổ biến
thường được sử dụng bao gồm mô hình xu hướng tuyến tính (linear
trend model); xu hướng lũy thừa (exponential trend model) và xu
hướng bậc hai (quadratic trend model). Bên cạnh đó, mô hình tự
tương quan (AR–autoregressive model), trung bình động (MA–
moving average) và ARIMA cũng là các mô hình xu hướng đơn biến
thường được nhắc đến.
Đối với mô hình xu hướng đa biến, người ta cũng sử dụng hồi
quy tuyến tính (linear regression), mô hình vector tự hồi quy VAR
(vector autoregressive model) hay Mô hình vector hiệu chỉnh sai số
VEC (vector error correction).
1.3.3. Một số phân tích đặc thù khác
Ngoài các phương pháp trên, phân tích chuỗi số thời gian theo
giai đoạn (interrupted time series analysis) là một trong các phương
pháp phân tích phổ biến trong các nghiên cứu liên quan đến y dược
để đánh giá tác động của một can thiệp/chính sách đối với chuỗi số
thời gian. Để có thể áp dụng phương pháp này, chuỗi thời gian cần
tối thiểu 9 quan sát và kiểm định điểm gãy (chow test) phải cho kết
5
quả ý nghĩa. Trong các nghiên cứu về sử dụng thuốc, mô hình hồi
quy từng phần (segmented regression model) là cách tiếp cận thống
kê hay được sử dụng do phù hợp với dữ liệu có số lượng quan sát
nhỏ để lượng giá các thay đổi về xu hướng (trend) và mức độ (level)
tiêu thụ thuốc.
1.4. Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam
Hầu hết các nghiên cứu về xu hướng thuốc nhập khẩu thuốc trên
thế giới đều nằm trong các nghiên cứu về thị trường thuốc nói chung.
Ngay cả các nghiên cứu với trọng tâm là thuốc nhập khẩu thì các kết
quả cũng được so sánh, bàn luận với các dữ liệu của thuốc sản xuất
trong nước, để từ đó có cái nhìn tổng quát về thị trường dược phẩm.
Các phân tích này đều đưa ra dự báo cho nền công nghiệp dược.
Các nghiên cứu về xu hướng tiêu thụ thuốc hay chi tiêu cho thuốc
trên thế giới cũng đã chỉ ra mối liên quan giữa các yếu tố thuộc về
kinh tế, xã hội (như: tổng sản phẩm quốc dân (GDP), chỉ số giá tiêu
dùng (CPI), kỳ vọng sống khi sinh, dân số, cấu trúc dân số, chất
lượng cuộc sống, sự thay đổi công nghệ kỹ thuật, hành vi sử dụng
thuốc); các yếu tố thuộc về bệnh tật (tỷ lệ hiện mắc, tỷ lệ mới mắc,
tỷ lệ chết, tỷ lệ tử vong) và các yếu tố thuộc về chính sách có ảnh
hưởng với xu hướng tiêu thụ, chi tiêu cho thuốc nói chung và thuốc
nhập khẩu nói riêng.
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu: phân tích dọc sử dụng bộ số liệu hồi cứu,
kết hợp định tính và định lượng theo 2 giai đoạn. Trong đó giai đoạn
1 là nghiên cứu định lượng nhằm phân tích xu hướng nhập khẩu, giai
đoạn 2 kết hợp định tính và định lượng nhằm phân tích một số yếu tố
ảnh hưởng đến xu hướng nhập khẩu
2.2. Nghiên cứu định lượng
6
- Đối tượng nghiên cứu: toàn bộ số liệu về thuốc, được quy đổi theo
tên hoạt chất, nhập khẩu vào Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2014,
trừ các hoạt chất thuộc nhóm đông y, sinh phẩm chẩn đoán invitro,
dịch chạy thận nhân tạo.
- Thời gian và địa điểm nghiên cứu: từ tháng 12/2010 đến tháng
12/2016 tại Hà Nội, Việt Nam.
- Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu toàn bộ, gồm:
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Số hoạt
chất 997 1049 1181 1247 1226 1059 1063 1059 1056
- Thu thập số liệu: dựa trên mẫu trích xuất số liệu được thiết kế sẵn
trên định dạng excel do Tổng cục Hải quan cung cấp, bổ sung trường
thông tin “hoạt chất”. Gắn các mã: ATC từ bậc 1 đến bậc 5; thuốc
mang tên gốc/tên thương mại; thuốc thuộc/không thuộc Danh mục
thuốc thiết yếu; mã quốc gia xuất xứ (nhóm 1: thuốc sản xuất tại các
nước tương tự Việt Nam về tiêu chuẩn chất lượng và trình độ công
nghệ sản xuất; nhóm 2: thuốc sản xuất tại các nước này có nguyên
tắc, tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc cao hơn các nhà máy tại
Việt Nam). Thu thập các biến số bổ sung về dân số, cơ cấu dân số, kỳ
vọng sống khi sinh, GDP, CPI, tỷ lệ hiện mắc, tỷ lệ chết do bệnh từ
năm 2006 đến năm 2014 từ các nguồn báo cáo chính thống.
- Nhập liệu, quản lý số liệu: Số liệu định lượng sau khi thu thập
được làm sạch, nhập vào máy tính với phần mềm Excel và được xử
lý bằng phần mềm STATA 10.0.
- Phân tích số liệu:
+ Tính toán các chỉ số: liều DDD/DID thuốc nhập khẩu/sản xuất
trong nước; kim ngạch nhập khẩu (KNNK), KNNK bình quân đầu
người, KNNK hiệu chỉnh lạm phát, tỷ lệ KNNK/DDD giữa thuốc
xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 và nhóm 2.
7
+ Sử dụng các chỉ số mô tả chuỗi số thời gian (tốc độ tăng tổng và
tốc độ tăng trung bình năm), mô hình đơn biến hồi quy tuyến tính
y=at+b để phân tích xu hướng nhập khẩu thuốc vào Việt Nam.
+ Sử dụng mô hình phân tích xu hướng đa biến để phân tích các yếu
tố thuộc về kinh tế, xã hội, bệnh tật và năng lực sản xuất trong nước
đến xu hướng nhập khẩu thuốc theo các bước như sơ đồ:
+ Sử dụng mô hình hồi quy từng phần (segmented regression
model) để phân tích ảnh hưởng của yếu tố chính sách:
2.3. Cấu phần nghiên cứu định tính
Biến có đặc tính không dừng
Đồng liên kết ở cùng cấp (biến
gốc hoặc cùng ở sai phân bậc 1)
Mô hình VAR Mô hình VEC
Kiểm định nhân quả Granger
Không Có
Không có đồng liên kết Có đồng liên kết
Định lượng mối liên hệ ngắn/dài hạn
8
- Đối tượng nghiên cứu: bao gồm 4 nhóm đại diện cho: nhà hoạch
định chính sách; chuyên gia; doanh nghiệp dược, bệnh viện.
- Địa điểm và thời gian nghiên cứu: từ tháng 10/2016-12/2016 tại
thành phố Hà Nội, Việt Nam.
- Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu có chủ đích, mỗi
nhóm 2 người như sau:
Stt Nhóm Đối tượng cụ thể
1. Nhà hoạch định
chính sách
1 lãnh đạo Cục quản lý Dược
1 lãnh đạo cấp phòng
2. Chuyên gia 1 chuyên gia dược
1 chuyên gia kinh tế y tế
3. Doanh nghiệp 1 lãnh đạo doanh nghiệp nhập khẩu thuốc
1 lãnh đạo văn phòng đại diện của công ty
dược đa quốc gia
4. Bệnh viện 1 lãnh đạo khoa dược bệnh viện trung ương
1 lãnh đạo khoa dược bệnh viện tỉnh/thành phố
- Phương pháp thu thập: Phỏng vấn sâu đối tượng dựa trên Bộ câu
hỏi hướng dẫn phỏng vấn sâu dành cho từng nhóm đối tượng. Mỗi
cuộc phỏng vấn sâu kéo dài từ 45 đến 90 phút, thông tin được ghi
chép hoặc ghi âm tuỳ thuộc vào yêu cầu của đối tượng.
- Thu thập, quản lý và phân tích số liệu: Tiến hành gỡ băng thu các
cuộc phỏng vấn sâu, tổng hợp các thông tin đã ghi chép. Các thông
tin dược mã hóa, dãn nhãn và làm sạch. Các thông tin sau khi được
mã hóa được phân tích theo chủ đề.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Xu hướng nhập khẩu thuốc thành phẩm vào Việt Nam
3.1.1. Tình hình nhập khẩu thuốc giai đoạn 2006-2014
Trong cả giai đoạn 2006-2014, thuốc nhập khẩu vào nước ta có
nguồn gốc xuất xứ từ 75 quốc gia, chứa 1.811 hoạt chất và tổng số
công ty nhập khẩu thuốc là 119 công ty. KNNK thuốc tăng nhanh, từ
502 triệu USD năm 2006 đến 1.767 triệu USD năm 2014 (R2 = 0,98),
9
tương ứng với mức tăng tổng là 252,0% và mức tăng trung bình năm
là 17,5%, KNNK tính theo bình quân đầu người và đã điều chỉnh
theo lạm phát tăng từ 6,28 USD năm 2006 lên đến 19,48USD năm
2014 (R2 = 0,97) tương ứng với tổng mức tăng và mức tăng trung
bình năm là 210,19% và 15,7%. Kết quả này cho thấy nhu cầu về
thuốc nhập khẩu của người dân Việt Nam là tăng thực tế, không phải
do tác động của các yếu tố về trượt giá hay tăng dân số.
Các nhóm thuốc nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao trong các năm từ
2006 đến 2014 đều không có sự thay đổi, bao gồm cả những nhóm
thuốc chữa bệnh thông thường (nhóm J-hệ kháng khuẩn với tỷ trọng
từ 21,10- 26,89%; nhóm A-thuốc đường tiêu hóa và chuyển hóa với
tỷ trọng từ 18,83- 20,31% và nhóm N- thuốc hệ thần kinh với tỷ
trọng từ 8,03- 9,10%) và nhóm thuốc chữa bệnh chuyên khoa đặc trị
(nhóm C-thuốc hệ tim mạch với tỷ trọng từ 9,05- 10,95%; nhóm L-
thuốc chống ung thư và tác nhân điều hòa miễn dịch với tỷ trọng từ
5,14- 9,35%; và nhóm B-thuốc hệ máu và cơ quan tạo máu với tỷ
trọng từ 7,21- 8,19%).
Xét về mặt xu hướng, các nhóm J-hệ kháng khuẩn, N-Thuộc hệ
thần kinh và P-chống ký sinh trùng (là những nhóm thuốc chữa bệnh
thông thường) có xu hướng giảm tỷ trọng KNNK (hệ số góc a<0, hệ
số R2 tương ứng là 0,67; 0,77 và 0,84). Ngược lại, các nhóm C-thuốc
tim mạch và L-thuốc chống ung thư và tác nhân điều hòa miễn dịch
(là những nhóm thuốc điều trị các bệnh chuyên khoa đặc trị) có xu
hướng tăng tỷ trọng KNNK (hệ số góc a>0, hệ số R2 tương ứng là
0,86 và 094).
Mười quốc gia có KNNK lớn nhất có cả các các quốc gia thuộc
nhóm 1 (Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan, Hong Kong, Singapore) và
nhóm 2 (Pháp, Đức, Thuỵ Sỹ, Italy, Anh, Mỹ, Bỉ, Australia), chiếm
10
72,98-76,85% tổng KNNK. Trong đó, tỷ trọng KNNK của các thuốc
sản xuất tại các quốc gia thuộc nhóm 1 có xu hướng tăng, thuốc sản
xuất tại các quốc gia thuộc nhóm 2 có xu hướng giảm (p<0,05).
Thuốc nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu mang tên thương mại
(trên 90%) và có xu hướng ngày càng tăng (R2=0,76). Thuốc biệt
dược gốc chiếm tỷ trọng từ 46,36–57,72%; thuốc thuộc danh mục
thuốc thiết yếu lần 6 chiểm 30-35%. Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa hai nhóm thuốc xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 và
nhóm 2 khi phân tích theo các cách phân loại này.
3.1.2. Xu hướng nhập khẩu một số nhóm thuốc điển hình
- Nhóm kháng khuẩn tác dụng toàn thân:
Nhóm kháng sinh có xu hướng nhập khẩu ngày càng tăng, cả về
mặt giá trị (KNNK tăng từ 96,3 triệu USD năm 2006 lên 367,1 triệu
USD năm 2014 tương ứng mức tăng tổng là 281,2% và mức tăng
trung bình năm là 18,9%) và số lượng tiêu thụ (liều DDD tăng từ
157,4 triệu liều năm 2006 lên 479,0 triệu liều năm 2014 tương ứng
mức tăng tổng là 204,3% và mức tăng trung bình năm là 16,2%).
Phân tích theo mã ATC bậc 3 và bậc 4, các nhóm được nhập khẩu
nhiều nhất là J01DD-Cephalosporin thế hệ 3; J01DB-Cephalosporin
thế hệ 1; J01DC-Cephalosporin thế hệ 2, J01CR-Các penicilin khác,
J01CA-Các penicilin phổ rộng, các penicillin; J01M- Quinolon; và
J01F-Macrolid và lincosamid. Về mặt xu hướng, các nhóm kháng
sinh thế hệ cao và thế hệ mới có xu hướng nhập khẩu ngày càng tăng
trong khi nhóm kháng sinh kinh điển, thế hệ thấp có xu hướng giảm.
Kháng sinh nhập khẩu chủ yếu có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 1,
mức độ chênh lệch giữa thuốc nhập khẩu xuất xứ từ quốc gia nhóm 1
so với nhóm 2 về cả KNNK và DDD đều có xu hướng tăng theo thời
gian (R2 tương ứng = 0,36 và 0,59). Các quốc gia nhóm 2 cung cấp
11
vào Việt Nam chủ yếu nhóm J01CR-Dạng kết hợp của penicilin bao
gồm ức chế beta-lactamase; J01DC-Cephalosporin thế hệ 2 và
J01DH-Carbapenem, các quốc gia nhóm 1 cung ứng vào Việt Nam
chủ yếu các nhóm kháng sinh Cephalosporin thế hệ 1, thế hệ 3 và thế
hệ 4 (J01DB, J01DD và J01DE) và nhóm penicillin phổ rộng
(J01CA), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Thuốc điều trị đái tháo đường
Thuốc điều trị đái tháo đường có xu hướng nhập khẩu ngày càng
tăng về cả giá trị (KNNK năm 2006 là 15,05 triệu USD tăng lên
57,43 triệu USD năm 2014, với mức tăng tổng 281,59% và mức tăng
trung bình năm 18,78%) và số lượng (liều DDD tăng từ 103,38 triệu
liều năm 2006 lên 261,82 triệu liều năm 2014, với mức tăng tổng
153,26% và mức tăng trung bình năm 13,22%).
Ba nhóm nhập khẩu nhiều nhất là Sulphonylurea, Biguanid và
Insulin (chiếm 94,22-98,46%liều DDD và 77,26-98,18% KNNK).
Về mặt xu hướng, nhóm Sulphonylurea, Insulin, thuốc điều trị đái
tháo đường thế hệ mới như nhóm Ức chế men DPP-4 và Meglitinide
có xu hướng tăng (R2>0,05, a>0 với p<0,05). Nhóm Biguanid và
Thiazolidinedione có xu hướng giảm (R2>0,05, a<0 với p<0,05).
Thuốc điều trị đái tháo đường chủ yếu được nhập khẩu từ các quốc
gia nhóm 2.
- Thuốc điều trị tăng huyết áp
Thuốc điều trị tăng huyết áp có xu hướng nhập khẩu tăng cả về
giá trị (KNNK tăng 320,22% sau 9 năm, mức tăng trung bình năm là
20,2%) và số lượng (liều DDD tăng từ 9,28 triệu liều năm 2006 lên
26,00 triệu liều năm 2014, với mức tăng tổng 180,17% và mức tăng
trung bình năm 14,66%).
12
Ba nhóm có tỷ trọng KNNK và tỷ trọng DDD cao nhất là
nhóm thuốc ức chế men chuyển (C09A và C09B), thuốc chẹn kênh
canxi (C08) và thuốc ức chế thụ thể angiotensin 1 (C09C và C09D).
Xét về mặt giá trị nhập khẩu, thuốc điều trị tăng huyết áp có xuất xứ
từ quốc gia nhóm 1 thấp hơn khoảng 2-5 lần so với quốc gia nhóm 2
nhưng xét về liều DDD, thuốc có xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 đang
dần chiếm ưu thế hơn so với quốc gia nhóm 2.
3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng tới xu hướng nhập khẩu thuốc
Kết quả kiểm định tính dừng cho thấy toàn bộ các biến số nghiên
cứu quan tâm đều không dừng tại điểm gốc nhưng có tính dừng khi
điều chỉnh bằng cách lấy sai phân bậc 1 (trừ biến kỳ vọng sống khi
sinh). Kết quả kiểm định tính đồng liên kết (sử dụng phương pháp
Johansen) giữa các biến số giả thuyết là có mối liên quan cho thấy
các biến này có tính đồng liên kết. Từ đó, mô hình VEC đã được áp
dụng để phân tích về mối liên quan giữa các chuỗi số thời gian.
3.2.1. Mối liên quan của KNNK với các yếu tố về kinh tế - văn hóa
– xã hội
Kết quả phân tích mối liên quan giữa KNNK và các biến số
KNNK tại độ trễ 1 chu kì, dân số, CPI và GDP sử dụng mô hình
VEC cho thấy trong cả ngắn hạn và dài hạn, không có yếu tố nào
được chỉ ra là có mối liên quan một cách có ý nghĩa thống kê đối với
biến số KNNK nói chung (p>0,05).
Kết quả phân tích mối liên quan giữa cơ cấu dân số, thể hiện
thông quan chỉ số tỷ trọng người dân dưới 15 tuổi và tỷ lệ người dân
từ 65 tuổi trở lên với KNNK cho thấy có mối liên hệ tỷ lệ thuận có ý
nghĩa thống kê giữa KNNK và tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên trong
cả ngắn hạn và dài hạn (p<0,0001). Kiểm định nhân quả Granger cho
13
thấy tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên gây ra nhân quả Granger đối
với KNNK (p<0,0001), không có mối liên hệ theo chiều ngược lại.
Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy yếu tố thuộc về văn hoá,
hành vi sử dụng thuốc (của cả người dân, người bán thuốc và bác sỹ
kê đơn thuốc) cũng có tác động rất lớn đến xu hướng nhập khẩu
thuốc.
3.2.2. Mối liên quan của KNNK với các yếu tố về tình hình bệnh tật
Sử dụng mô hình VEC và kiểm định Granger phân tích mối liên
quan giữa KNNK với các biến số liên quan đến tình hình bệnh tật
(biến số về tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ chết do bệnh) của 3 nhóm bệnh:
nhiễm khuẩn, tim mạch và ung thư.
Đối với bệnh tim mạch: trong ngắn hạn tại độ trễ 1 kì, sự gia tăng
của KNNK nhóm thuốc tim mạch, tỷ lệ chết và tỷ lệ hiện mắc trước
đó 1 năm sẽ dẫn đến sự giảm đi của giá trị KNNK nhóm thuốc tim
mạch tại thời điểm hiện tại (p<0,0001). Trong dài hạn, các biến số về
tỷ lệ chết và hiện mắc của bệnh tim mạch giảm (hoặc tăng) lên 1% sẽ
dẫn tới KNNK thuốc tim mạch giảm (hoặc tăng) lên tương ứng là
11,35% và 3,08% (p<0,0001).
Đối với bệnh ung thư: trong ngắn hạn tại độ trễ 1 kì, KNNK
nhóm thuốc ung thư trước đó 1 năm giảm 1% thì KNNK thuốc ung
thư tại thời điểm hiện tại tăng 4,623% (p<0,001); tỷ lệ chết do ung
thư giảm 1% thì KNNK thuốc ung thư tăng 0,105% (p <0,0001) và
tỷ lệ hiện hiện mắc ung thư tăng 1% thì KNNk thuốc ung thư tăng
0,4778% (p=0,001). Trong dài hạn, khi tỷ lệ chết do ung thư giảm đi
1% thì KNNK thuốc ung thư tăng lên khoảng 0,64% (p=0,051).
Đối với bệnh nhiễm khuẩn: trong ngắn hạn tại độ trễ 1 kì, các
biến số về KNNK nhóm thuốc kháng khuẩn, tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ
chết do các bệnh truyền nhiễm ở kỳ trước đó không có mối liên quan
14
có ý nghĩa thống kê đối với KNNK nhóm thuốc kháng khuẩn hiện tại
(p>0,05). Trong dài hạn, tỷ lệ chết do các bệnh truyền nhiễm và tỷ lệ
hiện mắc các bệnh truyền nhiễm có liên quan có ý nghĩa thống kê với
KNNK thuốc kháng khuẩn ở mức ý nghĩa lần lượt là p<0,0001 và
p<0,10. Sự gia tăng 1% tỷ lệ chết do các bệnh truyền nhiễm được chỉ
ra là dẫn đến sự gia tăng của 3,979% KNNK thuốc kháng khuẩn
trong dài hạn (p<0,0001). Sự gia tăng 1% tỷ lệ hiện mắc các bệnh
truyền nhiễm dẫn đến sự gia tăng 0,6152% KNNK thuốc kháng
khuẩn.
Nghiên cứu định tính đưa ra các lý giải về chiều ảnh hưởng (tỷ lệ
thuận hay tỷ lệ nghịch) về mối liên quan giữa các yếu tố về bệnh tật
với KNNK nhóm thuốc là do bản chất của bệnh (cấp tính hay mãn
tính, khả năng phát hiện bệnh, có hay không có biện pháp dự phòng
bằng thuốc).
3.2.3. Ảnh hưởng của công nghiệp dược trong nước đến nhập
khẩu thuốc
Ba nhóm thuốc được phân tích là thuốc kháng sinh, thuốc điều trị
đái tháo đường và thuốc điều trị huyết áp.
Thuốc kháng sinh: đối với 4 nhóm kháng sinh thông thường là
J01CA-penicillin phổ rộng, C01CR-kết hợp của penicillin với thuốc
ức chế beta-lactamase, J01DB-Cephalosporin thế hệ 1 và J01DC-
Cephalosporin thế hệ 2, không tìm thấy có mối liên quan ngắn hạn
nào có ý nghĩa thống kê (p>0,05) nhưng lại có mối liên quan dài hạn
giữa DID thuốc sản xuất trong nước với DID thuốc khẩu khẩu có
xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 (p<0,05) theo chiều tỷ lệ nghịch. Cụ thể:
DID của thuốc kháng sinh nhóm J01CA, J01CR, J01DB, J01DC
trong nước cứ tăng 1% thì DID của thuốc kháng sinh nhập khẩu có
xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 giảm tương ứng 0,73%; 0,66%; 4,86%
và 1,56% (p<0,05). Riêng nhóm J01DD-cephalosporin thế hệ 3, về
15
mặt ngắn hạn và dài hạn, DID thuốc trong nước được chỉ ra là có mối
liên quan có ý nghĩa thống kê với DID thuốc nhập khẩu xuất xứ từ
quốc gia nhóm 1 (p<0,0001) theo chiều hướng tỷ lệ thuận: DID trong
nước của nhóm kháng sinh J01DD tăng lên 1% thì DID nhập khẩu
xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 cũng tăng lên với mức tăng cao hơn là
1,425% (về mặt ngắn hạn) và 0,520% (về mặt dài hạn).
Thuốc điều trị tăng huyết áp: DID của thuốc huyết áp trong nước
có mối liên hệ tỷ lệ thuận với DID của thuốc huyết áp nhập khẩu có
xuất xứ từ quốc gia nhóm 1. DID của thuốc huyết áp trong nước tăng
1% thì DID của thuốc huyết áp nhập khẩu nhóm 1 cũng tăng và mức
tăng lên đến 15,6%, tuy nhiên mối liên quan này không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Thuốc điều trị đái tháo đường: Trong dài hạn, nếu DID của
thuốc tiểu đường trong nước tăng 1% thì DID của thuốc tiểu đường
nhập khẩu có xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 cũng tăng nhưng mức tăng
là rất nhỏ bằng 0,164%.
Nghiên cứu định tính đưa ra các lý giải về sự khác nhau về chiều
của mối liên quan: đối với thuốc thông thường hoặc có dạng bào chế
thông thường, sự tăng trưởng của thuốc sản xuất trong nước sẽ dẫn
tới giảm nhập khẩu thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 1; ngược
lại, nếu thuốc chuyên khoa đặc trị hoặc có dạng bào chế hiện đại, sự
tăng trưởng của thuốc sản xuất trong nước ít ảnh hưởng tới nhập
khẩu thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 1, cả hai nhóm đều tăng
trưởng theo nhu cầu sử dụng.
3.2.4. Ảnh hưởng của các chính sách lên nhập khẩu thuốc
Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy, trong giai đoạn 2006-
2012, các chính sách tác động tới thuốc nhập khẩu theo hướng thúc
đẩy toàn diện việc nhập khẩu thuốc, đảm bảo mục tiêu cung ứng
thuốc và giai đoạn 2012-2016, các chính sách quản lý nhập khẩu tập
16
trung vào định hướng cơ cấu nhập khẩu thuốc, đảm bảo mục đích
nhập khẩu thuốc là nhập khẩu bổ sung những thuốc trong nước chưa
đáp ứng nhu cầu hay nhập khẩu thay thế thuốc mà sản xuất trong
nước không ưu việt hơn thuốc nhập khẩu về giá và hiệu quả điều trị.
Sự ra đời của các chính sách liên quan đến đấu thầu thuốc vào năm
2011-2012 đã thể hiện những nỗ lực của việc điều chỉnh cơ cấu này.
Sử dụng mô hình hồi quy từng phần để đánh giá sự tác động của
chính sách đấu thầu thuốc. Kết quả cho thấy: các quy định về đấu
thầy có tác dụng điều chỉnh lại cơ cấu thuốc nhập khẩu theo hướng
giảm tỷ trọng các nguồn gốc từ các quốc gia như Ấn Độ, Hàn Quốc;
tăng tỷ trọng các thuốc có nguồn gốc từ Châu Âu, Mỹ. Kết luận này
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) ở các nhóm thuốc: B-Máu và cơ quan
tạo máu, C-Hệ tim mạch, J-Hệ kháng khuẩn, R-Hệ hô hấp, S-Giác
quan. Đây là các nhóm được sử dụng chủ yếu tại bệnh viện và cũng
là các nhóm thuốc có sự cạnh tranh giữa quốc gia nhóm 1 và nhóm 2.
Nghiên cứu định tính cũng chỉ ra các chính sách khác như: chính
sách thuốc mang tên gốc, thuốc generic, thuốc thiết yếu còn yếu và
chưa được được triển khai đầy đủ trên thực tế.
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Xu hướng nhập khẩu thuốc tại Việt Nam
So với các quốc gia đang phát triển, mức tăng trưởng thị trường
thuốc nhập khẩu của Việt Nam đứng ở mức trung bình, thấp hơn so
với Iran hay Bangladesh, nhưng lại cao hơn so với Ấn Độ. So với
thuốc sản xuất trong nước, thuốc nhập khẩu có mức tăng nhanh hơn
và như vậy, mục tiêu phát triển ngành Dược Việt Nam đến năm 2020
sản xuất trong nước chiếm 80% tổng giá trị thuốc là rất khó đạt được.
So sánh danh mục hoạt chất thuốc nhập khẩu với số lượng hoạt
chất thực tế của thuốc sản xuất trong nước, nhận thấy vẫn còn 843
hoạt chất có trong danh sách hoạt chất của thuốc nhập khẩu nhưng
17
không có trong danh sách hoạt chất thuốc sản xuất trong nước, trong
đó có 67 hoạt chất là thuốc thiết yếu. Danh sách hoạt này có ý nghĩa
rất lớn đối với cả nhà quản lý và các doanh nghiệp dược.
Thuốc nhập khẩu vào Việt Nam trùng lắp với sản xuất trong nước
gồm các nhóm: chống nhiễm khuẩn; thuốc đường tiêu hóa và chuyển
hóa bao gồm vitamin, thuốc bổ, thuốc tác dụng trên dạ dày, ruột. Một
số nhóm là cần do sản xuất trong nước còn hạn chế như thuốc tim
mạch, thuốc chống ung thư và thuốc hệ máu và cơ quan tạo máu. Cơ
cấu và xu hướng nhập khẩu phù hợp xu hướng về mô hình bệnh tật
tại Việt Nam (bệnh truyền nhiễm giảm, không truyền nhiễm tăng)
Thuốc sản xuất tại các quốc gia nhóm 1 ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong việc cung cấp thuốc vào Việt Nam. Thực trạng này
cũng tương tự như một số quốc gia kém hoặc đang phát triển trên thế
giới (Malaysia, Bangladesh, Iran...). Các nhà quản lý cần phải lưu ý
điều này vì thuốc xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 (Ấn Độ, Hàn Quốc) có
tỷ lệ vi phạm chất lượng cao nhất.
Đối với nhóm thuốc điều trị bệnh truyền nhiễm, sản xuất trong
nước hiện vẫn đóng góp chính vào nhu cầu tiêu thụ của người dân
Việt Nam. Tuy nhiên, nhóm kháng sinh nhập khẩu đang có tốc độ
tăng nhanh hơn so với kháng sinh sản xuất trong nước. Đây là một
chỉ báo đáng lo ngại cho ngành công nghiệp dược trong nước vì
kháng sinh là mặt hàng đang được các doanh nghiệp trong nước tập
trung sản xuất và có năng lực sản xuất.
So sánh liều DID của nhóm thuốc này sử dụng tại Việt Nam với
các quốc gia Châu Âu và Hàn Quốc, mức độ tiêu thụkháng sinh ở
Việt Nam cao gấp 2- 3 lần so với trung bình các quốc gia Châu Âu,
gấp 3,5-6,5 lần so với nước Châu Âu có mức tiêu thụ kháng sinh thấp
nhất (Hà Lan), gấp gần 2 lần so Hàn Quốc. Việc sử dụng quá mức
18
nhóm kháng khuẩn tác dụng toàn thân là một trong nguyên nhân gây
ra tình trạng kháng thuốc. Vì vậy, cần có những chính sách để hạn
chế nhập khẩu và sử dụng thuốc nhập khẩu kháng sinh, đặc biệt với
những nhóm trong nước đã đáp ứng hầu hết nhu cầu điều trị.
Đối với nhóm điều trị đái tháo đường và tăng huyết áp, khi so
sánh với dữ liệu thuốc sản xuất trong nước nhận thấy, năng lực sản
xuất trong nước còn hạn chế, Việt Nam vẫn phụ thuộc vào thuốc
nhập khẩu. Thuốc nhập khẩu đái tháo đường và tăng huyết áp đã bao
phủ tất cả các nhóm điều trị theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của
Bộ Y tế. Kết quả phân tích theo nguồn gốc xuất xứ cho thấy, đối với
cả hai nhóm này, nhập khẩu chủ yếu có nguồn gốc từ quốc gia nhóm
2, tuy nhiên ngày càng có xu hướng chuyển dịch sang các quốc gia
nhóm 1. Điều này thể hiện sự bất hợp lý trong việc nhập khẩu nhóm
thuốc này và sự bất cập của nền công nghiệp dược trong nước. Ngay
cả đối với các nhóm thuốc năng lực sản xuất trong nước có khả năng
đáp ứng nhu cầu như Biguanid, Sulphonylurea và thuốc chẹn kênh
canxi, liều DDD thuốc sản xuất trong nước vẫn giảm nhanh.
4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng tới nhập khẩu thuốc tại Việt Nam
Một trong các yếu tố được chỉ ra là có liên quan một cách có ý
nghĩa thống kê đến KNNK thuốc nói chung trong nghiên cứu này là
cơ cấu dân số trên 65 tuổi (thể hiện mức độ dân số “già” của một
quốc gia). Trong nghiên cứu này, trong cả ngắn hạn và dài hạn, tỷ
trọng dân số trên 65 tuổi được chỉ ra là có mối liên hệ thuận chiều
với KNNK nói chung, hay nói cách khác, sự gia tăng dân số ở nhóm
tuổi từ 65 trở lên sẽ dẫn đến sự gia tăng về KNNK thuốc nói chung.
Kết quả này khá tương đương với một số kết luận về mối liên quan
giữa sự già hóa và chi tiêu y tế đã được nghiên cứu trên thế giới.
19
Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy tâm lý “thích dùng
thuốc ngoại” “sợ thuốc nội” của cả cán bộ y tế và người dân Việt
Nam có ảnh hưởng lớn đến xu hướng nhập khẩu thuốc. Vấn đề này
đã được nhìn nhận bởi các nhà quản lý ngành y tế Việt Nam nhưng
rất cần những nỗ lực thực sự để giải quyết.
Kết quả nghiên cứu về các yếu tố liên quan tới bệnh tật tới nhập
khẩu thuốc của ba nhóm bệnh chính: nhiễm khuẩn, tim mạch và ung
thư đã cho thấy, có mối liên hệ giữa tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết do
bệnh năm trước đó với nhập khẩu thuốc điều trị nhóm bệnh đó vào
năm tiếp theo. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu
tại Iran vào năm 2013, theo đó, tại quốc gia này, sự chuyển đổi mô
hình dịch tễ từ các bệnh truyền nhiễm sang các vấn đề về ung thư và
các bệnh không truyền nhiễm đã ảnh hưởng đến cơ cấu và xu hướng
nhập khẩu theo hướng tăng tỷ trọng của nhóm thuốc điều trị bệnh
không truyền nhiễm.
Có khá nhiều quốc gia sử dụng các mô hình kinh tế y tế, trong đó
có các chỉ số đo lượng về bệnh tật như tỷ lệ hiện mắc, tỷ lệ mới mắc,
tỷ lệ chết, tỷ lệ tử vong để ước lượng chi tiêu cho y tế (hay chi tiêu
dành cho thuốc) của một số bệnh cụ thể, đặc biệt là nhóm bệnh
không truyền nhiễm hoặc các yếu tố nguy cơ của nhóm bệnh này.
Quản lý việc sử dụng thuốc thông qua mô hình bệnh tật đã được
chứng minh là biện pháp có hiệu quả nhằm tiết kiệm ngân sách dành
cho chi phí sử dụng thuốc tại một số quốc gia trên thế giới. Tuy
nhiên, tại Việt Nam việc sử dụng các dữ liệu về mô hình bệnh tật để
dự đoán sử dụng thuốc, từ đó điều tiết vấn đề nhập khẩu thuốc cũng
như sản xuất trong nước vẫn chưa được các nhà hoạch định chính
sách quan tâm. Ngay cả các doanh nghiệp nhập khẩu hay sản xuất
20
trong nước cũng chưa quan tâm nhiều đến mô hình bệnh tật trong
nước ảnh hưởng như thế nào đến xu hướng các thuốc nhập khẩu.
Kết quả này đã cho thấy các thuốc sản xuất trong nước cạnh tranh
với các thuốc có xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 (có tiêu chuẩn kỹ thuật,
công nghệ sản xuất tương tự Việt Nam) trong việc cung ứng thuốc tại
Việt Nam. Còn thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 2 đang có “sân
chơi” riêng tại thị trường Việt Nam. Điều này cũng là hợp lý trong
bối cảnh năng lực của công nghiệp dược trong nước còn hạn chế,
chưa sản xuất được các thuốc có dạng bào chế hiện đại, chuyên khoa
đặc trị và không có thuốc phát minh nên các thuốc này vẫn phụ thuộc
vào nhập khẩu từ quốc gia nhóm 2.
Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra hiệu quả ban đầu của các quy
định mới trong chính sách đấu thầu thuốc tại Việt Nam trong việc
điều chỉnh cơ cấu thuốc nhập khẩu: làm tăng giá trị nhập khẩu thuốc
có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 2 và làm giảm giá trị nhập khẩu của
của thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 1. Đây là các kết quả thể
hiện tác động tích cực bước đầu của chính sách và cũng phù hợp với
phản hồi của xã hội trong thời gian áp dụng chính sách này.
Kết quả nghiên cứu về tỷ trọng thuốc biệt dược gốc trong tổng giá
thuốc nhập khẩu vào Việt Nam cho thấy thuốc biệt dược gốc chiếm
tỷ trọng trị khá cao (48-58%). Cùng với kết quả nghiên cứu định tính
về ảnh hưởng của chính sách cho thấy, hiện nay Việt Nam không
những đang thiếu các chính sách thúc đẩy sử dụng thuốc generic, các
quy định về đấu thầu thuốc hiện đang thực thi lại tạo một sân chơi
riêng cho nhóm thuốc biệt dược gốc. Điều này có thể sẽ làm cho tình
trạng sử dụng thuốc biệt dược gốc ngày càng gia tăng nếu không có
những điều chỉnh phù hợp. Trong khi đó, tại nhiều quốc gia trên thế
giới, chính sách thúc đẩy sử dụng thuốc generic đã được chứng minh
21
là làm giảm tỷ lệ sử dụng thuốc biệt dược gốc do đó tiết kiệm được
chi phí sử dụng thuốc quốc gia.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
- Về xu hướng nhập khẩu thuốc giai đoạn 2006-2014
Trong giai đoạn 2006-2014, KNNK thuốc có mức tăng tổng và
mức tăng hàng năm tương ứng là 252,0% và 17,5%, cao hơn mức
tăng của thuốc sản xuất trong nước.
Trong tổng số 1.811 hoạt chất được nhập khẩu vào Việt Nam giai
đoạn 2006-2004, có 843 hoạt chất (tương ứng 46,83%) công nghiệp
dược trong nước chưa sản xuất được. Trong 843 hoạt chất này có 67
hoạt chất thuộc danh mục thuốc thiếu yếu.
Nhập khẩu thuốc vào Việt Nam phù hợp với xu hướng bệnh tật
tuy nhiên còn một số điểm chưa phù hợp. Bao gồm: còn trùng lắp với
sản xuất trong nước, chủ yếu nhập khẩu thuốc xuất xứ từ các quốc
gia có tiêu chuẩn kỹ thuật tương tự Việt Nam, tỷ trọng thuốc mang
tên thương mại, biệt dược gốc cao (tương ứng trên trên 95% và
khoảng 50%), tỷ trọng thuốc thiết yếu không có xu hướng giảm.
Nhóm kháng kháng sinh nhập khẩu có xu hướng tăng cả về
KKNK và liều DDD, trong đó tốc độ tăng liều DID cao hơn so với
sản xuất trong nước (tăng 179,3% so với tăng 38,5% trong 9 năm).
Tuy nhiên, liều DDD của kháng sinh sản xuất trong nước gấp 3,5-7
lần so với nhập khẩu, đóng góp chính vào tiêu thụ của người dân.
Tổng tiêu thụ kháng sinh của Việt Nam ở mức cao so với các nước
Châu Âu và Hàn Quốc và có xu hướng ngày càng tăng.
Các quốc gia nhóm 2 cung cấp vào Việt Nam chủ yếu các nhóm
cần thiết cho nhu cầu điều trị trong khi đó, các quốc gia nhóm 1 cung
ứng vào Việt Nam chủ yếu nhóm thuốc không cần thiết khi trong
22
nước đã đáp ứng phần lớn nhu cầu tiêu thụhoặc nhóm thuốc cần thiết
nhưng năng lực trong nước có khả năng đáp ứng.
KNNK và liều DID nhóm thuốc điều trị đái tháo đường và điều trị
tăng huyết áp nhập khẩu tăng nhanh sau 9 năm (thuốc điều trị đái
tháo đường KNNK tăng gần 4 lần và DID tăng 2 lần; con số này đối
với nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp là 4 lần và 3 lần). Thuốc sản
xuất trong nước chưa đáp ứng được hết các nhóm thuốc trong hướng
dẫn điều trị của Bộ y tế, tiến tới phụ thuộc vào các quốc gia nhóm 1.
Mức tiêu thụ thuốc cả hai nhóm thuốc điều trị đái tháo đường
(4,79-8,70DID) và tăng huyết áp (12,57–33,41DID) đang có xu
hướng tăng nhưng đang ở mức thấp so với các quốc gia có cùng tỷ lệ
mắc bệnh.
- Về một số yếu tố liên quan đến xu hướng nhập khẩu thuốc
Nghiên cứu định lượng đã chỉ ra ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê
của sự gia tăng dân số ở nhóm tuổi từ 65 trở lên (thể hiện mức độ
“già” hoá dân số) dẫn tới sự gia tăng về KNNK thuốc. Điều này dự
báo về khả năng chi tiêu dành cho thuốc sẽ tăng nhanh trong thời
gian tới do dân số Việt Nam đang già hoá. Ngoài ra, nghiên cứu định
tính cũng cho thấy tâm lý thích dùng thuốc ngoại, không tin tưởng
vào thuốc sản xuất trong nước cũng tác động đến xu hướng nhập
khẩu thuốc.
Tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ chết do bệnh có ảnh hưởng tới KNNK của
nhóm thuốc điều trị bệnh đó năm tiếp theo. Chiều của mối quan hệ
tuỳ thuộc vào bản chất của bệnh cấp tính hay mãn tính và khả năng
dự phòng của bệnh. Đối với bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, tỷ lệ hiện
mắc và tỷ lệ chết do bệnh càng tăng sẽ dẫn tới tăng KNNK trong
năm tiếp theo. Đối với bệnh mãn tính, dễ phát hiện, có biện pháp dự
phòng bằng thuốc (bệnh đái tháo đường), tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ chết
do bệnh càng giảm sẽ dẫn tới tăng KNNK trong năm tiếp theo. Còn
đối với bệnh mãn tính, phát hiện muộn, không có biện pháp dự
23
phòng bằng thuốc (ung thư), tỷ lệ hiện mắc tăng và tỷ lệ chết do bệnh
giảm sẽ làm tăng KNNK trong năm tiếp theo.
Năng lực sản xuất trong nước có tác động tới xu hướng nhập khẩu
thuốc xuất xứ từ quốc gia nhóm 1. Đối với các thuốc thông thường,
năng lực sản xuất trong nước càng tăng, xu hướng nhập khẩu nhóm
thuốc này từ quốc gia nhóm 1 càng giảm. Còn đối với các thuốc
chuyên khoa đặc trị hoặc có dạng bào chế hiện đại, năng lực sản xuất
trong nước càng tăng, xu hướng nhập khẩu thuốc này từ quốc gia
nhóm 1 vẫn tăng và với tốc độ nhanh hơn so với sản xuất trong nước.
Các quy định mới về đầu thuốc tại Thông tư 01 & Thông tư 36 đã
có tác động tích cực trong việc điều chỉnh xu hướng nhập khẩu
thuốc: làm tăng giá trị và liều DID nhập khẩu thuốc có nguồn gốc từ
quốc gia nhóm 2 và làm giảm giá trị và liều DID nhập khẩu của của
thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 1, thể hiện rõ tác động ở các
nhóm thuốc sử dụng nhiều tại các cơ sở khám chữa bệnh. Tuy nhiên,
các quy định này tiềm ẩn nguy cơ làm tăng tỷ trọng của thuốc biệt
dược gốc. Các chính sách liên quan đến thuốc thiết yếu, thuốc
generic và thuốc mang tên gốc gần như chưa có tác dụng điều chỉnh
cơ cấu nhập khẩu thuốc.
KIẾN NGHỊ
* Đối với Bộ Y tế:
Thường xuyên cập nhật và công bố hoạt chất trong nước chưa bao
phủ được để định hướng cho doanh nghiệp sản xuất trong nước. Đối
với hoạt chất thuộc danh mục thuốc thiết yếu trong chưa bao phủ
được, Bộ Y tế xem xét phân công doanh nghiệp trong nước đầu tư
sản xuất đồng thời tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư và
cấp phép nhanh thuốc sản xuất trong nước.
Đưa các thuốc hiện sử dụng nhiều, được nhập khẩu chủ yếu từ các
quốc gia nhóm 1 và doanh nghiệp dược trong nước có năng lực sản
24
xuất vào danh sách thuốc trong nước đáp ứng nhu cầu điều trị không
chào thầu nhập khẩu đối với thuốc có xuất xứ từ quốc gia nhóm 1.
Dự đoán cụ thể mức gia tăng chi tiêu dành cho thuốc nói riêng và
cho y tế nói chung trong bối cảnh tốc độ già hoá dân số của Việt
Nam khá nhanh để từ đó có các chính sách đáp ứng phù hợp.
Sử dụng các dữ liệu về mô hình bệnh tật để dự đoán mức độ sử
dụng và chi tiêu dành cho thuốc, từ đó điều tiết vấn đề nhập khẩu
thuốc cũng như sản xuất trong nước.
Tiếp tục theo dõi để đánh giá tác động dài hạn của chính sách đấu
thầu thuốc để phát huy các điểm tích cực, đồng thời có giải pháp điều
chỉnh cơ cấu nhập khẩu đối với thuốc biệt dược gốc.Tăng cường việc
thực hiện chính sách thuốc thiết yếu và chính sách kê đơn thuốc
mang tên gốc để điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu thuốc.
Triển khai các biện pháp hạn chế sử dụng thuốc phát minh như
giảm giá thuốc phát minh thanh toán bảo hiểm y tế thông qua đàm
phán giá thuốc hoặc quy định thuốc phát minh đấu thầu cạnh tranh
với nhóm thuốc tương đương về tiêu chuẩn kỹ thuật thay vì được
tham gia gói thầu riêng.
* Đối với doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp sản xuất trong: ưu tiên sản xuất hoạt chất trong
nước chưa sản xuất được ngay khi Cục Quản lý dược công bố.
Dự báo xu hướng nhập khẩu sử dụng các chỉ số về kinh tế, xã hội
và bệnh tật để nhập khẩu thuốc phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
* Các nhà nghiên cứu:
Tiếp tục theo dõi và phân tích dữ liệu trong thời gian dài hơn. Tận
dụng bộ số liệu để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đối với việc nhập
khẩu của từng hoạt chất hoặc phân nhóm nhỏ.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1. Chu Quốc Thịnh, Điều Huy Quân Anh, Nguyễn Vĩnh Nam
(2015), “Trends in the consumption of imported diabetic agent in
Vietnam from 2006-2011: a quantitative study”, The 1st
International Conference on Pharmacy Education and Research
Network of Asean, Bangkok, pp.107-111.
2. Chu Quốc Thịnh, Hứa Thanh Thủy (2016), “Tiêu thụ
kháng sinh tại Việt Nam và mức độ đáp ứng của công nghiệp dược
trong nước giai đoạn năm 2006-2014”, Tạp chí dược học Số 487,
tr.2-8.
3. Chu Quốc Thịnh, Hứa Thanh Thủy (2016), “Tiêu thụ
thuốc điều trị đái tháo đường nhập khẩu tại Việt Nam và mức độ đáp
ứng của công nghiệp dược trong nước giai đoạn năm 2006-2014.”,
Tạp chí dược học Số 488, tr.65-69.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2_tom_tat_luan_an_7909_2118520.pdf