Những nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng về vốn nhân lực, vốn tổ chức,
vốn xã hội ở nước ta cho đến nay, vẫn còn dừng lại ở giai đoạn khởi động, cụ thể như
ở một số doanh nghiệp nằm trong khu vực đô thị, hoặc ở vài ba cộng đồng làng xã ở
khu vực nông thôn. Thế nhưng, trong thực tiễn, việc tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn
nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội lại đang diễn ra sôi động ở khắp mọi nơi. vv. Rõ
ràng, giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn đời sống ở ta đang tồn tại một khoảng
cách, do đó, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tời là phải lấp dần khoảng cách đó.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 50 trang
50 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực đồng bằng Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỹ La tinh, Fukuyama (2002) đã giải thích rằng 
vốn xã hội giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhiều doanh nghiệp ở Mỹ La 
tinh, và giúp cho nhiều người vượt ra khỏi những khó khăn trong giai đoạn suy thoái 
kinh tế ở khu vực này. Qua một nghiên cứu khác của Fukuyama (2001) khẳng định vốn 
xã hội là những chuẩn mực không chính thức thúc đẩy sự hợp tác giữa các cá nhân. 
Theo ông, trong các hoạt động kinh tế, mỗi cá nhân sẽ giảm được nhiều chi phí giao 
dịch nhờ vào vốn xã hội giữa họ. 
Vốn xã hội cũng có thể góp phần vào việc phát triển vốn con người, nhất là đối 
với thế hệ trẻ. Minh chứng cho nhận định này là công trình nghiên cứu: Vốn xã hội 
trong việc tạo ra vốn con người của Coleman (1988). Trong công trình này, Coleman đã 
trình bày những phát hiện của ông về tỷ lệ bỏ học của học sinh trong mối quan hệ với 
vốn xã hội trong gia đình. Từ đó Coleman chỉ ra rằng vốn xã hội của các bậc cha mẹ có 
ảnh hưởng rất lớn đến thành tích học tập của con cái họ. Vai trò của vốn xã hội trong 
việc hình thành vốn con người còn được thể hiện qua kiểm soát xã hội. Dựa vào dữ liệu 
từ nghiên cứu của Zhou và Bankston về cộng đồng liên kết chặt của người Việt Nam 
định cư ở New Orleans (Hoa Kỳ), nhà xã hội học Portes (1998) cũng cho rằng nhờ có 
vốn xã hội trong cộng đồng người Việt ở đây nên việc học tập của con cái họ được kiểm 
soát hiệu quả. 
Nói đến những tác động của vốn xã hội, các nhà nghiên cứu cũng không quên 
vai trò quan trọng của nó trong việc hình thành và phát triển xã hội dân sự. Theo 
Fukuyama (2002) vốn xã hội đóng vai trò thiết yếu đối với nền dân chủ, mà xã hội dân 
sự thì đi liền với nền dân chủ. Dựa vào vốn xã hội, các cá nhân tập hợp lại với nhau để 
hỗ trợ những nhu cầu tập thể, và cỗ vũ sự phân quyền trong xã hội. Trong khi đó 
Putnam (1995, 2000) chỉ ra rằng vốn xã hội mang sẵn trong nó hàng loạt các thuộc 
tính giúp cho xã hội vận hành hài hòa và trôi chảy, đó là tăng cường các chuẩn mực, 
làm đơn giản hóa sự hợp tác, cung cấp khuôn mẫu cho sự hợp tác, từ đó mang lại các 
giải pháp cho những tình huống khó khăn của các hành động tập thể. Qua nghiên cứu, 
Putnam rút ra nhận xét là: vốn xã hội không chỉ giúp nâng cao học vấn, cải thiện điều 
kiện chăm sóc trẻ em, nó còn mang lại sự an toàn cho cộng đồng và tạo ra hạnh phúc 
20 
cho các thành viên cộng đồng. Cũng theo nhà nghiên cứu này, vốn xã hội biểu thị sự 
cam kết công dân và là công cụ hướng tới sự thịnh vượng chung. 
Tuy nhiên, vốn xã hội cũng có mặt trái của nó. Theo nhà xã hội học Portes 
(1998: 1517) vốn xã hội chứa đựng trong nó ít nhất là bốn hậu quả tiêu cực. Thứ nhất, 
vốn xã hội mang lại cố kết bên trong nhóm, tuy nhiên, những cố kết như thế lại ngăn 
cản sự tham gia của những người bên ngoài. Thứ hai, vốn xã hội trong các cộng đồng 
và nhóm khép kín có thể ngăn cản sự thành công trong kinh doanh của các thành viên. 
Thứ ba, với những ràng buộc do nó tạo nên, vốn xã hội hạn chế tự do cá nhân của các 
thành viên. Thứ tư, với đặc tính liên kết, trong nhiều tình huống, sự thành công của cá 
nhân làm xói mòn cố kết nhóm. Bổ sung vào danh sách liệt kê này, Fukuyama (2002: 
27-28) còn cho rằng vốn xã hội trong các quan hệ họ hàng, mặc dù tạo ra sự trợ giúp 
hiệu quả cho cá nhân hoặc doanh nghiệp trong những thời điểm kinh tế khó khăn; song 
do những hệ quả tiêu cực kéo theo như sự thiếu tin cậy đối với người xa lạ, nên gây ra 
khó khăn khi mà các doanh nghiệp lớn mạnh, phát triển lên. Cũng trên tinh thần đó, 
Putnam còn cho rằng vốn xã hội có thể tạo ra bè phái và tham nhũng (trích theo Smith 
và cộng sự, 2002: 173). Nói tóm lại, bên cạnh những tác động tích cực, vốn xã hội 
cũng tạo ra những hệ quả tiêu cực đối với sự phát triển con người và xã hội. 
Ngoài ra, còn có Westlund (2003), đã đánh giá tầm ảnh hưởng của hai yếu tố 
VXH trong DN: mạng lưới quan hệ và chuẩn mực; Đầu tư vào ‘vốn xã hội’; Những 
khó khăn, trở ngại do những quy tắc trong phương pháp truyền thống khi phân tích và 
đánh giá kết quả đầu tư vào vốn xã hội trong DN; Cần có cách tiếp cận mới. 
Các nghiên cứu nước ngoài về vốn xã hội được tập hợp ở Bảng 1.2. 
Bảng 1.2: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VXH 
Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Nhận xét 
Leenders 
e.a. 
Vai trò của VXH đối với 
kết quả hoạt động DN 
Nhân tố ảnh hưởng đến kết quả 
hoạt động bao gồm: (1) môi 
trường hoạt động, (2) định hướng 
phát triển và (3) mạng lưới các 
mối liên hệ bên trong DN. 
Các nghiên cứu 
chưa cụ thể hóa ra 
các hoạt động của 
VXH liên quan 
đến năng lực hấp 
thụ công nghệ 
Grootaert 
(1997) 
Mối liên hệ giữa VXH 
và phát triển bền vững 
Lòng tin và vai trò của nó trong 
phát triển mối quan hệ bền vững. 
Vốn xã hội chỉ có thể phát huy 
khi kết hợp với những nguồn 
lực (vốn) khác. 
Chưa có mối liên 
hệ với năng lực 
hấp thụ 
Grootaert Kiểm định được vai trò, VXH chỉ có thể phát huy khi Chưa có khung lý 
21 
Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Nhận xét 
(1999) lòng tin, mối quan hệ 
giữa VXH và phát triển 
bền vững 
kết hợp với những nguồn lực 
(vốn) khác. VXH đơn lẻ và tập 
hợp các VXH đóng vai trò 
nhân tố tiền đề khi phân tích 
khả năng hấp thụ của DN. 
luận và các 
nghiên cứu về vai 
trò của vốn tri 
thức đối với năng 
lực hợp tác và sáng 
tạo của con người 
trong tổ chức 
Woolcock 
(2000) 
Tổng hợp những vấn 
đề lý luận và thực tiễn 
liên quan đến VXH 
Ba vấn đề lớn về VXH cần 
được nghiên cứu: (1) cách thức 
VXH, VCN và năng lực xã hội 
gắn kết với nhau; (2) cách thức 
xác minh VXH; và (3) làm thế 
nào để VXH được quan tâm 
nhiều hơn trong các mô hình 
kinh tế 
Chưa có mối liên 
hệ với năng lực 
hấp thụ 
Gabbay 
(1999) 
Đưa ra được một 
khuôn khổ lý luận và 
thực hành cho việc 
nghiên cứu về VXH 
trong DN 
VXH và mạng lưới xã hội trong 
DN được xác định là cơ sở cho 
việc đánh giá tác động của chúng 
ở các cấp độ tổ chức khác nhau. 
Chưa có mối liên 
hệ với năng lực 
hấp thụ 
Westlund 
(2003) 
Phát triển VXH trong 
DN 
Nhấn mạnh tầm quan trọng VXH 
trong DN qua các yếu tố: mạng 
lưới quan hệ và chuẩn mực; 
Những khó khăn, trở ngại do 
những quy tắc trong phương 
pháp truyền thống khi phân 
tích và đánh giá kết quả đầu tư 
vào VXH trong DN 
Đầu tư vào VXH, 
cần có cách tiếp cận 
mới 
Fukuyama 
(1995) 
VXH như một tiêu chí 
cơ bản để so sánh cơ 
cấu kinh tế và xã hội 
các nước 
Niềm tin là một nhân tố cốt lõi 
của VXH bao hàm trong “chuẩn 
mực, mối quan hệ tương tác và 
sự phối hợp hành động giữa các 
cá nhân trong các mạng xã hội”. 
Chưa nghiên cứu 
VXH liên quan đến 
nhân lực trong tổ 
chức 
VXH được hình thành dựa trên 
những “đặc trưng văn hóa như 
đạo đức, các giá trị văn hóa, 
nhân cách”. 
Nguồn: Tác giả tổng hợp 
c. Về vốn tổ chức (VTC) 
22 
Becker và Peters (2000), phân tích tác động của các cơ hội công nghệ đối với 
hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp, tùy thuộc vào năng lực hấp thụ của họ. Tác 
giả sử dụng một mô hình lý thuyết đơn giản, sử dụng đầu vào là đổi mới, yếu tố công 
nghệ với các biến khả năng hấp thụ. Hơn nữa, đầu ra cũng là đổi mới của các doanh 
nghiệp bị ảnh hưởng tích cực bởi khả năng thích ứng, kiến thức bên ngoài một cách 
hiệu quả. Các công ty trong ngành sản xuất của Đức có năng lực hấp thụ nội tại và tầm 
quan trọng của kiến thức khoa học được đặc trưng bởi tỷ lệ bán các sản phẩm và đăng 
ký bằng sáng chế cao hơn các công ty khác. 
Patricia Lagunes và các cộng sự (2016), Nghiên cứu này nhằm mục đích tạo ra 
một mô hình xác định mức độ năng lực hấp thụ của các DNNVV trong lĩnh vực sản 
xuất thông qua bốn khía cạnh (đầu tư vào R&D, số lượng bằng sáng chế, cấu trúc công 
ty, đào tạo nhân viên). Điều quan trọng cần nhấn mạnh là trong mười năm qua, nghiên 
cứu về chủ đề này chủ yếu được tiến hành ở các nước Châu Á. 
Davide Dell anno và Manlio del Giudice (2015), Một số nghiên cứu về quản lý 
nêu bật tầm quan trọng của các mối quan hệ hợp tác đối với kiến thức và chuyển giao 
công nghệ. Nghiên cứu đã xem xét vai trò của năng lực hấp thụ và các tác nhân trong 
quá trình chuyển giao công nghệ bằng cách chỉ ra các yếu tố quan trọng có thể ảnh 
hưởng đến các hệ thống đổi mới trong khu vực. 
Mariano Nieto, Pilar Quevedo (2005), một bài viết nghiên cứu mang tính định 
lượng đã tập trung phân tích ảnh hướng của hai biến liên quan với cấu trúc DN (cơ hội 
nắm bắt công nghệ và phổ biến kiến thức) và một biến quản lý (khả năng hấp thụ) với 
nhân tố trung tâm là các nỗ lực sáng tạo của DN. Kết quả được thi thập từ 406 công ty 
sản xuất Tây Ban Nha với một mức độ hoàn thiện của hoạt động sáng tạo được quy 
định sẵn, đó là khả năng của bản thân DN có thể xác định, hấp thụ và áp dụng các 
công nghệ để tạo ra các bí quyết thương mại. 
Một hướng nghiên cứu rất thú vị của Huggins & Izushi (2007), nhấn mạnh vào 
việc quản lý tri thức ở các DN khi cho rằng tham khảo kiến thức để trở thành phương 
tiện chủ yếu để tạo ra của cải cho các cá nhân, DN và quốc gia. Tuy nhiên, do ngày 
càng cạnh tranh toàn cầu, các nhà lãnh đạo phải nhận thức được tầm quan trọng của lợi 
thế cạnh tranh, và làm thế nào để duy trì những lợi ích thu được. Thông thường việc duy 
trì lợi thế cạnh tranh đã đạt được thông qua tập trung vào khả năng tài chính, chiến lược 
và công nghệ. Do đó, lợi thế cạnh tranh bền vững đạt được bằng cách tập trung vào làm 
thế nào để quản lý được con người. Hơn nữa, lập luận rằng các DN phải xem xét lại 
23 
cách thức mới như mua bán lại, tái cấu trúc tổ chức để đối phó với sự cạnh tranh toàn 
cầu tăng lên. 
Các nghiên cứu nước ngoài về vốn tổ chức được tập hợp ở Bảng 1.3. 
Bảng 1.3: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VTC 
Tác giả 
Mục đích 
nghiên cứu 
Kết quả nghiên cứu Nhận xét 
Veugelers 
(1997) 
Xác định chi tiêu vào 
R & D ở các công ty 
Hợp tác về R & D có tác 
dụng tích cực đối với đầu tư 
vào R & D chỉ khi có khả 
năng hấp thụ. 
Chưa nêu rõ vai 
trò của VTC trong 
vốn tri thức của 
DN và trong việc 
định hình danh 
tiếng cho DN 
Becker và 
Peters (2000) 
Tìm hiểu mối quan hệ 
giữa công suất và sản 
lượng của các sáng 
kiến được hấp thụ 
Các nguồn liên quan đến kiến 
thức khoa học có ảnh hưởng 
mạnh mẽ tới các hoạt động 
sáng tạo của các công ty sản 
xuất tại Đức 
Chưa hình thành 
nghiên cứu rõ ràng 
về VTC 
Patricia 
Lagunes và 
các cộng sự 
(2016) 
Góp phần xây dựng lý 
thuyết và thực hành đo 
khả năng hấp thụ của 
kiến thức bổ ích của các 
tổ chức kinh doanh 
Khẳng định khả năng hấp 
thụ như một công cụ để 
nâng cao năng lực sáng tạo 
trong công ty 
Chỉ nghiên cứu 
được một yếu tố 
rhuộc VTC, liên 
quan đến khả năng 
hấp thụ 
Davide Dell 
anno và 
Manlio del 
Giudice 
(2015) 
Nhằm mục đích để 
khích lệ các nhà 
nghiên cứu để theo 
đuổi các nghiên cứu 
trong tương lai, đa 
dạng hóa về mối quan 
hệ giữa hấp thụ và 
năng lực hấp thụ 
trong mối quan hệ 
tương tác với nhau 
Quá trình chuyển giao công 
nghệ giữa các trường đại 
học và DN được coi như là 
một hệ thống tập con của 
chuyển giao kiến thức và có 
thể được hiểu từ nhiều quan 
điểm 
Nghiên cứu về 
kiến thức và 
chuyển giao công 
nghệ liên quan đến 
VTC và năng lực 
hấp thụ 
Mariano 
Nieto, Pilar 
Quevedo 
(2005) 
Đánh giá các nhân tố 
ảnh hưởng tới nhân tố 
các nỗ lực sáng tạo 
của DN 
Các biến có khả năng giải 
thích lớn nhất cho nỗ lực 
đổi mới sáng tạo của DN đó 
là hai biến cơ hội đổi mới 
Kết quả nghiên 
cứu chưa làm rõ 
các biến có khả 
năng giải thích lớn 
24 
Tác giả 
Mục đích 
nghiên cứu 
Kết quả nghiên cứu Nhận xét 
công nghệ và khả năng hấp 
thụ 
nhất cho nỗ lực đổi 
mới sáng tạo của 
DN đó là hai biến: 
cơ hội đổi mới 
công nghệ và khả 
năng hấp thụ thuộc 
vốn tổ chức. 
Huggins & 
Izushi (2007) 
Tìm hiểu vai trò của 
quản lý tri thức ở các 
công ty để trở thành 
phương tiện chủ yếu để 
tạo ra của cải cho công 
ty và các thành viên 
trong đó. 
Quản lý tri thức tạo ra quá 
trình sáng tạo hơn, các sản 
phẩm và dịch vụ để đáp ứng 
nhu cầu của khách hàng, 
giúp nhân viên của công ty 
để chia sẻ ý tưởng, thông tin 
và hấp thụ kiến thức 
Chưa có mối liên 
hệ với năng lực 
hấp thụ 
Nguồn: Tác giả tổng hợp 
d. Về vốn con người (VCN) 
Krebs (2008), đã chỉ ra thách thức đối với DN trong thế kỷ 21, cụ thể: Sự thay 
đổi quan trọng: “quản lý định hướng con người”; Không dựa nhiều vào cá nhân, mà 
chủ yếu vào khả năng kết nối để hình thành chuỗi giá trị; Vai trò ngày càng lớn của hệ 
thống các mối quan hệ bên trong DN (HRIS) và hệ thống quản lý nhân lực (HRMS). 
Engelman, R.e.a. (2015), năng lực hấp thụ của một tổ chức phản ánh khả năng 
sao chép (bắt chước), phân tích, chuyển hóa, khai thác. Các yếu tố liên quan đến VCN 
(kỹ năng, chất lượng nhân lực), VXH (mức độ cởi mở, hợp tác, quan tâm), và VTC (cơ 
sở và hệ thống thông tin); Kiểm chứng mối quan hệ qua mô hình nghiên cứu. 
Hanna Salojärvi và Liisa-Maija Sainio (2006), đã đề xuất mô hình khả năng hấp 
thụ của DN nhấn mạnh vào vai trò của con người, Khả năng hấp thụ xây dựng đã được 
nghiên cứu từ quan điểm của một công ty chính là nhà cung cấp phục vụ một đối 
tượng khách hàng cụ thể. 
Các nghiên cứu nước ngoài về vốn tổ chức được tập hợp ở Bảng 1.4. 
25 
Bảng 1.4: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu nước ngoài về VCN 
Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Nhận xét 
Krebs (2008) Thách thức đối với DN 
trong thế kỷ 21 
Sự thay đổi quan trọng: “quản lý 
định hướng con người”; khả 
năng kết nối để hình thành chuỗi 
giá trị có vai trò chủ yếu, còn đối 
với cá nhân là thứ yếu. Vai trò 
của các mối quan hệ bên trong 
DN (HRIS) và hệ thống quản lý 
nhân lực (HRMS) ngày càng lớn. 
Nhu cầu về những mô hình và 
cấu trúc mới trong quản lý DN 
Engelman, 
R.e.a. (2015) 
Tác động của vốn nhân 
lực và VTC đến năng 
lực hấp thụ công nghệ 
và năng lực sáng tạo 
của DN 
Năng lực hấp thụ của một tổ 
chức phản ánh khả năng sao 
chép (bắt chước), phân tích, 
chuyển hóa, khai thác. Các yếu 
tố liên quan đến VCN (kỹ năng, 
chất lượng nhân lực), VXH (mức 
độ cởi mở, hợp tác, quan tâm), 
và VTC (cơ sở và hệ thống thông 
tin); Kiểm chứng mối quan hệ 
qua mô hình nghiên cứu 
Hanna 
Salojärvi và 
Liisa-Maija 
Sainio (2006) 
Đề xuất mô hình khả 
năng hấp thụ của DN 
nhấn mạnh vào vai trò 
của con người 
Khả năng hấp thụ xây dựng đã 
được nghiên cứu từ quan điểm 
của một công ty chính là nhà 
cung cấp phục vụ một đối tượng 
khách hàng cụ thể. 
Nguồn: Tác giả tổng hợp 
1.2. Các nghiên cứu trong nước 
Các nghiên cứu ở trong nước chỉ mới tập trung vào nghiên cứu Vốn xã hội, còn 
Vốn con người, Vốn tổ chức và năng lực hấp thụ hầu như chưa có công trình nào 
nghiên cứu, ngoại trừ tác giả Nguyễn Mạnh Quân, do vậy tác giả tổng quan các nghiên 
cứu về VXH như sau: 
26 
Trần Hữu Quang (2009), đã khẳng định vai trò quan trọng của vốn xã hội với 
các DN của Việt Nam. Trong bài viết này, Trần Hữu Quang bàn về quan điểm vốn xã 
hội của nhiều tác giả nước ngoài như Bourdieu, Putnam, Fukuyama, qua đó nhấn 
mạnh rằng vốn xã hội là một hiện thực đặc trưng của những mối dây liên kết giữa con 
người với nhau trong một cộng đồng hay một xã hội. Tác giả đã khẳng định về vốn xã 
hội trong mối quan hệ với chuẩn mực, sự cố kết, và hợp tác. Ông cũng lưu ý đến việc 
phân tích vốn xã hội trong bối cảnh văn hóa-xã hội và các định chế xã hội. Bàn về vốn 
xã hội còn có thêm các tác giả khác như Lê Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh. Lê Ngọc 
Hùng (2008) giới thiệu khái quát lí thuyết về vốn xã hội từ tiếp cận kinh tế để bàn sâu 
về vốn xã hội và mạng lưới xã hội ở Việt Nam. Hoàng Bá Thịnh (2009) tập trung phân 
tích quan niệm về vốn xã hội, mạng lưới xã hội. 
Với hướng nghiên cứu của Stephen. J Appold và Nguyễn Quý Thanh đã chỉ ra 
vai trò của vốn xã hội trong các doanh nghiệp nhỏ ở Hà Nội. Các tác giả cho biết vốn 
xã hội có vai trò quan trọng giúp các doanh nghiệp vay vốn để khởi nghiệp (Appold và 
cộng sự, 2004). Nghiên cứu Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một 
số nghiên cứu ở Việt Nam của Lê Ngọc Hùng (2008) bàn về các quan niệm khác nhau 
về vốn xã hội. Tác giả đề cập đến mô hình tổng hợp về vốn xã hội, vốn con người và 
mạng lưới xã hội. Trên cơ sở đó, ông bàn thêm về kết quả của một số nghiên cứu cụ 
thể trên các phương diện: mạng lưới xã hội của người lao động, mạng thông tin của 
doanh nghiệp, mạng di cư, vai trò của các loại vốn trong xóa đói, giảm nghèo. 
Nguyễn Trọng Hoài (2010), đã tổng hợp lý luận, đề xuất hướng nghiên cứu về 
phương pháp luận về khung phân tích vốn xã hội trong DN. Những khó khăn, bất lợi 
của DNNVV và sự cần thiết nghiên cứu thực tiễn để phát huy vốn xã hội tiềm ẩn trong 
hệ thống và con người Việt Nam. 
Trương Thị Thu Trang (2009), đề xuất biện phát phát triển VXH thông qua phát 
triển VCN. Mối quan hệ này có thể chứa đựng nhiều vấn đề về chính sách có thể vận 
dụng cho cả cấp vĩ mô và vi mô của DN trong việc phát triển nguồn nhân lực. 
Nguyễn Mạnh Quân (2010), đã vận dụng VHDN trong quản lý kinh doanh, cụ 
thể như sau: Triết lý đạo đức, niềm tin, chuẩn mực hành vi là những nhân tố quan 
trọng trong VHDN; VHDN là quá trình chuyển hoá các giá trị đạo đức, niềm tin, nhận 
thức, phương pháp và phong cách hành động của một cá nhân, tổ chức thành những 
kết quả thể hiện trách nhiệm của DN đối với xã hội; Văn hoá DN là công cụ quản lý 
các mối quan hệ con người, bên trong và bên ngoài DN. 
27 
Các nghiên cứu trong nước về vốn xã hội được tập hợp ở Bảng 1.5. 
Bảng 1.5: Bảng tổng hợp các công trình nghiên cứu trong nước về VXH 
Tác giả Mục đích nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Nhận xét 
Trần Hữu 
Quang (2009) 
Vai trò của mạng lưới 
xã hội, chuẩn mực, lòng 
tin xã hội 
Khẳng định vai trò quan trọng 
của VXH đối với Việt Nam 
Chỉ nghiên 
cứu riêng lẻ 
về VXH 
Nguyễn Trọng 
Hoài (2010) 
Tổng hợp lý luận, đề 
xuất hướng nghiên 
cứu 
Phương pháp luận về khung 
phân tích VXH trong DN, 
Những khó khăn, bất lợi của 
DNNVV và sự cần thiết nghiên 
cứu thực tiễn để phát hiện và 
phát huy VXH tiềm ẩn trong hệ 
thống và con người Việt Nam 
Chỉ nghiên 
cứu riêng lẻ 
về VXH 
Trương Thị Thu 
Trang (2009) 
Đề xuất biện phát 
phát triển VXH 
thông qua phát triển 
VCN 
Mối quan hệ này có thể chứa 
đựng nhiều vấn đề về chính 
sách có thể vận dụng cho cả 
cấp vĩ mô và trong DN trong 
việc phát triển nguồn nhân lực 
Chỉ nghiên 
cứu riêng lẻ 
về VXH 
thông qua 
VCN 
Nguyễn Mạnh 
Quân (2010) 
Vận dụng VHDN 
trong quản lý kinh 
doanh 
Những nhân tố quan trọng 
trong văn hoá DN là triết lý đạo 
đức, niềm tin, chuẩn mực hành 
vi; VHDN trở thành công cụ 
quản lý con người một cách 
hữu hiệu, nó điều chỉnh các 
mối quan hệ của con người với 
con người ở bên trong và cả ở 
bên ngoài DN 
Chưa tích hợp 
được đồng 
thời các 
nghiên cứu về 
năng lực hấp 
thụ 
Nguồn: Tác giả tổng hợp 
1.3. Một số kết luận được rút ra từ tổng quan 
Từ tổng quan nghiên cứu trong nước và nước ngoài, tác giả đã nghiên cứu và 
vận dụng được vốn xã hội trong quản lý kinh doanh, và đã chỉ ra mối quan hệ giữa vốn 
tri thức (vốn con người, vốn xã hội, vốn tổ chức), nguồn nhân lực với năng lực hấp thụ 
28 
và năng lực sáng tạo trong tổ chức. Năng lực hấp thụ của một tổ chức phản ánh khả 
năng sao chép (bắt chước), phân tích, chuyển hóa, khai thác. Các yếu tố liên quan đến 
vốn con người (chính sách quản lý và phát triển nhân lực), VXH (mối liên kết và thông 
tin trong tổ chức), và vốn tổ chức (cơ sở và hệ thống thông tin). Kiểm chứng mối quan 
hệ qua mô hình nghiên cứu. Năng lực của một tổ chức/doanh nghiệp nhận thức được 
giá trị của một thông tin mới, sao chép nó, và vận dụng nó vào mục đích thương mại 
mà chưa quan tâm đến cơ sở của năng lực hấp thụ công nghệ là tri thức, trí tuệ và 
thông tin ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ của DN. 
Qua đó có thể rút ra một số kết luận khi xem xét các nhân tố tác động đến năng 
lực hấp thụ công nghệ như sau: 
Thứ nhất, nhân tố năng lực hấp thụ công nghệ phụ thuộc vào 3 nhóm nhân tố cơ 
bản. Nhóm thứ nhất, bao gồm nhân tố thuộc vốn nhân lực. Nhóm thứ hai, bao gồm 
nhân tố thuộc vốn tổ chức. Nhóm thứ ba, bao gồm nhân tố thuộc vốn xã hội, môi 
trường kinh doanh, cụ thể như sau: 
- Nhìn chung, các nghiên cứu lý luận về vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội 
ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Do vậy, một trong những vấn đề đặt ra là chúng ta 
cần phải xây dựng những quan điểm lý thuyết mới, khái quát hóa từ thực tiễn của việc 
tạo dựng, duy trì và sử dựng vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội ở Việt Nam. 
Những luận điểm lý thuyết mới như vậy không chỉ soi đường cho các nghiên cứu thực 
nghiệm, mà quan trọng hơn nó còn giúp rất nhiều cho các nhà quản lý và hoạch 
định chính sách trong việc phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những 
biểu hiện tiêu cực kéo theo của vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội trong thực 
tiễn, cũng như trong việc xây dựng các dự án phát triển con người và xã hội ở Việt 
Nam trong thời gian sắp tới. 
- Chúng ta đều biết, mặc dù khái niệm vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội 
được du nhập vào nước ta chưa lâu, nhưng các nghiên cứu trong các tổ chức ẩn chứa 
nhiều nguồn vốn quan trọng. Và, từ trong đời sống cộng đồng, người ta đã biết khai 
thác, sử dụng các nguồn lực này để hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau không chỉ trong sản 
xuất và kinh doanh, mà còn trong tất cả các giai đoạn khác nhau trong chu trình đời 
người như sinh nở, cưới xin, tang ma, giỗ tết. Có thể nói, môi trường xã hội đặc thù ở 
Việt Nam đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và vận hành của vốn nhân 
lực, vốn tổ chức, vốn xã hội. Cho nên, cùng với việc đưa ra các quan điểm lý thuyết 
mới, chúng ta cũng rất cần có những nghiên cứu về lịch sử vốn nhân lực, vốn tổ chức, 
vốn xã hội ở Việt Nam. Công việc này không chỉ có ý nghĩa cho hiện tại, mà còn là sự 
29 
đóng góp những nét đặc thù và độc đáo của Việt Nam vào sự hiểu biết chung về vốn 
nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội trên phạm vi toàn thế giới. 
- Những nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng về vốn nhân lực, vốn tổ chức, 
vốn xã hội ở nước ta cho đến nay, vẫn còn dừng lại ở giai đoạn khởi động, cụ thể như 
ở một số doanh nghiệp nằm trong khu vực đô thị, hoặc ở vài ba cộng đồng làng xã ở 
khu vực nông thôn. Thế nhưng, trong thực tiễn, việc tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn 
nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội lại đang diễn ra sôi động ở khắp mọi nơi. vv... Rõ 
ràng, giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn đời sống ở ta đang tồn tại một khoảng 
cách, do đó, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tời là phải lấp dần khoảng cách đó. 
Thứ hai, những nghiên cứu này chỉ tập trung rời rạc từng nhân tố thuộc vốn 
nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội, môi trường kinh doanh, 
Thứ ba, cũng chưa có nghiên cứu nào đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng 
lực hấp thụ công nghệ của các DNNVV ở Việt Nam. Do đó, cần thiết phải có một 
đánh giá tổng quan về năng lực hấp thụ công nghệ của các DNNVV khu vực đồng 
bằng Sông Hồng như thế nào? 
Thứ tư, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến môi trường hoạt động tác động đến 
năng lực hấp thụ công nghệ của các DNNVV ở VN. 
Thứ năm, cũng chưa có nghiên cứu định lượng nào xem xét tác động của Vốn 
tổ chức, Vốn xã hội, Vốn con người đến năng lực hấp thụ công nghệ. 
Thứ sáu, theo quan điểm của tác giả, Cohen và Levinthal cùng các nghiên cứu 
hiện tại không thiết lập được mối liên kết giữa năng lực hấp thụ cấp độ cá nhân và tổ 
chức. Họ thực sự chưa lý giải được năng lực hấp thụ ở khía cạnh nhận thức cấp độ cá 
nhân và sự tương tác giữa các cá nhân. Thay vào đó, các tài liệu tham khảo về hấp thu 
công nghệ cấp độ cá nhân chủ yếu sử dụng lý thuyết nhận thức cá nhân, được sử dụng 
như phép ẩn dụ cho năng lực hấp thụ cấp độ tổ chức. Ví dụ, người ta cho rằng nghiên 
cứu tâm lý gợi mở tri thức sẵn có tích lũy được làm tăng khả năng thêm mới tri thức 
vào trí nhớ cũng như truy xuất và sử dụng chúng, các quan sát được cho là giúp chứng 
minh và làm giàu thêm cho khái niệm hấp thu công nghệ cấp độ tổ chức. Tuy nhiên, 
các nghiên cứu hiện tại không thực sự chỉ ra năng lực hấp thụ công nghệ cấp độ tổ 
chức có tác động như thế nào đến nhận thức và sự tương tác giữa các cá nhân (bao 
gồm việc học từ các cá nhân khác). Có thế nói, ở bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, vốn 
xã hội cũng được coi là một nguồn vốn quý, bên cạnh các loại vốn khác như vốn kinh 
tế, vốn con người, vốn văn hóa, vv... Nhưng, như đã nói, bên cạnh những tác động tích 
cực, vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội cũng có thể kéo theo nó những biểu hiện 
30 
tiêu cực đối với con người và xã hội. Tuy nhiên, nhìn lại các nghiên cứu về vốn nhân 
lực, vốn tổ chức, vốn xã hội ở Việt Nam, nhất là trong các nghiên cứu thực nghiệm, ta 
thấy trong khi tập trung khai thác mặt tích cực, các nhà khoa học thường bỏ qua hoặc 
xem nhẹ những biểu hiện tiêu cực của nó. Điều này dễ gây ngộ nhận, rằng vốn nhân 
lực, vốn tổ chức, vốn xã hội giống như một thứ “bảo bối” thần kỳ đem lại toàn những 
điều tốt đẹp. Cho nên, một vấn đề nữa cần phải đặt ra là, trong nghiên cứu chúng ta 
không được né tránh, và cũng không nên xem nhẹ mặt nào, mà phải mô tả và phản ánh 
về vốn nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội đúng như nó đang diễn ra trong cuộc sống. 
Chỉ có như vậy, khi trở lại thực tiễn, chúng ta mới có thể nói khai thác và sử dụng vốn 
nhân lực, vốn tổ chức, vốn xã hội một cách tối ưu, mà không sợ rơi vào những sai lầm 
đáng tiếc. 
Với những điểm còn thiếu và những điểm cần phải luận giải rõ hơn, việc luận 
án nghiên cứu “Nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ của DNNVV khu 
vực đồng bằng Sông Hồng”, có bổ xung thêm nhân tố “môi trường hoạt động” không 
chỉ đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu mà còn đáp ứng được sự hợp lý của nghiên 
cứu, góp phần bổ sung những khoảng trống trong nghiên cứu khai phá. 
31 
TÓM TẮT CHƯƠNG 1 
Chương 1 đã trình bày tổng quan về các nghiên cứu năng lực hấp thụ công 
nghệ ở trong nước và nước ngoài. Sau khi tổng hợp, đánh giá, tác giả nhận thấy các 
nghiên cứu có điểm chung là đều có sự liên quan đến các yếu tố như Vốn tổ chức, 
Vốn xã hội, Vốn con người. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước về năng lực hấp thụ 
công nghệ trong mối liên hệ với các yếu tố này còn nhiều hạn chế như: chỉ nhắc đến 
chứ chưa xem xét tác động, hoặc có xem xét tác động nhưng chưa tiếp cận dưới góc 
độ chính sách, Đây cũng chính là những điểm còn thiếu và điểm cần phải luận giải 
rõ hơn, việc luận án nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hấp thụ công nghệ 
của DNNVV khu vực đồng bằng Sông Hồng, là cơ sở để tác giả xây dựng các bước 
tiếp theo trong quy trình nghiên cứu của mình để hoàn thiện hơn cả về lý luận và 
thực tiễn. 
32 
CHƯƠNG 2: 
 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC HẤP THỤ CÔNG NGHỆ 
2.1. Khái niệm 
2.1.1. Khái niệm công nghệ và khả năng hấp thụ công nghệ 
Chúng ta thừa nhận định nghĩa công nghệ do “Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu 
vực Châu Á - Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia and the 
Pacific- ESCAP)” đưa ra: “Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ 
thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, 
phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ”. 
Định nghĩa công nghệ của ESCAP được coi là bước ngoặt trong quan niệm về công 
nghệ. Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới dùng công nghệ, mà khái 
niệm công nghệ đuợc mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Những lĩnh vực 
công nghệ mới mẻ dần trở thành quen thuộc công nghệ thông tin, công nghệ ngân 
hàng, công nghệ du lịch, công nghệ văn phòng. 
Cohen và Levinthal (1990) là những người đưa ra khái niệm Khả năng hấp thụ 
(AC). Kể từ đó, rất nhiều các tác giả đã tiến hành nghiên cứu và phát triển khái niệm 
này ở phạm vi rộng hơn. 
Cohen và Levinthal đã định nghĩa “AC là một khả năng của công ty nhận ra giá 
trị của thông tin, đồng hóa nó và để cuối cùng áp dụng chúng vào mục đích thương 
mại”. Khái niệm này nhấn mạnh rằng AC là khả năng tổ chức có được và phát triển 
thông qua một quá trình. Ngoài ra, định nghĩa cho thấy việc thu thập thông tin liên 
quan và có thể ảnh hưởng đến khả năng tăng doanh số và cạnh tranh trên thị trường 
của công ty là rất quan trọng để duy trì lợi thế cạnh tranh lâu dài. Vì vậy, bắt buộc một 
công ty phải đầu tư vào nỗ lực xây dựng năng lực bán hàng của mình và chiếm thị 
phần lớn hơn. 
Cohen và Levinthal đánh giá: sự quan trọng của việc nhận ra giá trị của kiến 
thức mới từ bên ngoài, để từ đó cải thiện AC của công ty. Các tác giả cũng đã nhấn 
mạnh rằng kiến thức như vậy phải được tích lũy tập thể theo thời gian thì việc nâng 
cao năng lực mới phát huy hiệu quả. Điều này là do bất kỳ thông tin nào sẽ chỉ hữu ích 
cho một tổ chức nếu có thể hiểu và tích lũy chúng, mà không có chúng sẽ không thể 
chuyển đổi, xác định hình và tái triển khai tài nguyên của tổ chức để khai thác kiến 
thức thu được. Nói cách khác, các tổ chức sẽ chỉ được hưởng lợi từ việc khai thác bất 
33 
kỳ thông tin nào bên ngoài mà họ nhận được nếu hiểu giá trị của nó đối với công ty và 
đồng hóa chúng trong các nhiệm vụ của họ. 
Khái niệm này được tiếp tục mở rộng bởi Zahra và George (2002). Họ đã thêm: 
“hai chiều khác vào quá trình chuyển đổi kiến thức thành hành động sẽ tạo ra lợi thế 
cạnh tranh - AC tiềm năng (potential AC) và AC hiện thực hóa (realized AC). Năng 
lực hấp thụ tiềm năng đề cập đến năng lực được nâng cao từ khả năng của hãng để thu 
nhận và đồng hóa thông tin vào kho kiến thức của nó. Mặt khác, năng lực thực hiện 
hóa đề cập đến các khả năng của công ty trong việc tăng cường năng lực thông qua 
việc chuyển đổi và khai thác các tài sản sản xuất hiện có (hoặc mới). Các tác giả lập 
luận rằng để bất kỳ thông tin nào bên ngoài hữu ích đối với một tổ chức, trước tiên, nó 
(công ty) phải có khả năng nhận ra các giá trị và có được chúng (lĩnh vực của việc mua 
sắm, acquisition). Thông tin này phải được xử lý để thành viên tổ chức có thể có sự 
hiểu biết chung về chúng và đồng hóa vào thói quen làm việc của họ (đồng hóa và 
chuyển đổi, assimilation and transformation). Chỉ số đó, họ mới có thể sử dụng kiến 
thức thu được vào việc mang lại mang lợi ích thương mại cho công ty (khai thác, 
exploitation)”. 
Các công trình nghiên cứu sau đó của Lane et al. (2006), Todorova và Durisin 
(2007) và Volberda et al. (2010) tiếp tục điều chỉnh các khái niệm và khả năng ứng 
dụng của nó trong thực tế. Lane et al (2006) lưu ý để tránh việc nghiên cứu AC đi 
chệch khỏi cấu trúc ban đầu được đề xuất bởi Cohen và Levinthal (1990). Họ lập luận 
rằng khả năng hấp thụ của DN phụ thuộc vào khả năng hiểu được các giá trị tiềm năng 
của kiến thức mới (bên ngoài), để đồng hóa chúng vào các hệ thống quản lý và sử 
dụng chúng để đạt được lợi thế thương mại. Khái niệm ‘biến đổi’ (transformation) của 
Cohen và Levinthal, đã kết hợp và được giả định là đã bao hàm ý nghĩa ‘đồng hóa” 
(assimilation), và khai thác (exploitation) mà các tác giả đã đưa ra. 
Todorova và Durisin (2007) cũng đã bình luận về Zahra và George's (2002) 
rằng loại bỏ sau đó phần việc “nhận ra giá trị” trong lý thuyết về AC của Cohen và 
Levinthal (1990) là không phù hợp vì AC hiện thực hóa không phải là hậu quả của 
AC tiềm năng như cách Zahra và George quan niệm. Todorova và Durisin lập luận 
rằng các phần việc “đồng hóa” và “biến đổi” trong AC của Zahra và George là hệ 
quả “qua lại” (và tương tác) với các phần việc trước đó là “mua sắm” và lại trở 
thành tiền đề cho việc “khai thác”. 
Tuy nhiên, quan điểm của Zahra và George (2002) về AC được Volberda et al. 
(2010), cho rằng cần phải xem tiền đề nội bộ của tổ chức (intra-organizational 
antecedent) và các tiền đề về quản lý (managerial antecedents) là các yếu tố cần thiết 
34 
trong phát triển AC. Những tiền đề này bao gồm cấu trúc của tổ chức và cách thức cấu 
trúc hỗ trợ để rốt cuộc cho phép các thành viên tổ chức khai thác kiến thức vào mục 
đích lợi ích thương mại ví dụ như những nhiệm vụ liên quan đến kiến thức, hình thức 
tổ chức, cơ cấu động viên khen thưởng, mạng lưới không chính thức và phương tiện 
truyền thông nội bộ trong tổ chức. 
Công trình của Lane et al (2006) rất thú vị khi giới thiệu việc áp dụng các lý 
thuyết tổ chức là một cách để hiểu khái niệm về AC. Mặt khác, Todorova và Durisin 
(2007), bằng cách nhắc đến việc loại trừ của Zahra và George (2002) về một khía cạnh 
quan trọng trong lý thuyết ban đầu về AC của Cohen và Liventhal (1990), đã đưa ra 
một lập luận thuyết phục để đặt câu hỏi về sự cần thiết phải chia tách khái niệm AC 
thành AC tiềm năng và AC hiện thức hóa. Cuối cùng, Volberda et al. (2010) đã đóng 
góp vào sự phát triển của lý thuyết AC bằng cách nêu bật các tiền đề ở nhiều cấp độ 
(multi-level antecedents) và các yếu tố điều kiện (contingent) có thể ảnh hưởng đến 
việc hình thành AC của tổ chức. Ngoài ra, nghiên cứu của Volberda và cộng sự đã 
nhấn mạnh khả năng ứng dụng của AC như một lĩnh vực nghiên cứu trong Quản lý 
chiến lược. Phối hợp lại, những phát hiện này đã chỉ ra số lượng lớn các quan điểm mà 
AC có thể được nghiên cứu và được nhận thức. Họ cũng nêu bật sự bất lực của một 
viễn cảnh duy nhất có thể mô tả đầy đủ AC trong sự tồn tại tự nhiên của nó. 
Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây về AC bắt nguồn từ công trình của Cohen 
và Levinthal (1990) và các công trình nghiên cứu sau đó của nhiều tác giả chi phối 
những công trình lý luận về AC trước đây (ví dụ Zahra và George, 2002; Lane & 
Lubatkin, 1998), cho thấy đã chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi cách tiếp cận suy diễn - giả 
định hay quy nạp-giả định (deductive-hypothetical) của nghiên cứu thực chứng 
(positivistic) truyền thống. Nhiều lời chỉ trích đã được cố tạo ra sự cân bằng (levelled) 
bằng cách lập luận cách tiếp cận này đã giả định rằng AC tồn tại trong một môi trường 
không xác định về không gian và thời gian. Quy luật của khoa học vẫn đang vận hành 
và mối quan hệ giữa AC với các hiện tượng khác trong hoạt động của tổ chức đã không 
được đánh giá. 
2.1.2. Khái niệm năng lực công nghệ 
Cuối những năm 1970, sự phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển chủ 
yếu thông qua chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Các nghiên cứu hàn lâm 
viện và của các tổ chức quốc tế về công nghệ đã chỉ ra được yêu cầu thành công đối 
với bên tiếp nhận công nghệ là phải có trình độ nhận thức, năng lực để giải quyết các 
hoạt động tự lập, giải quyết sự cố một cách chủ động mà không hoàn toàn dựa vào bên 
35 
giao. Sự phát triển công nghệ thành công đòi hỏi bên tiếp nhận công nghệ cần có năng 
lực công nghệ nhất định. Trong bối cảnh như vậy, đã có rất nhiều nỗ lực để đưa ra 
quan niệm về năng lực công nghệ. Dưới đây là một số khái niệm theo giáo trình: Quản 
lý công nghệ (2013), Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. 
Tổ chức Phát Triển Công Nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) đưa ra 5 yếu tố cấu 
thành năng lực công nghệ là: “khả năng đào tạo nhân lực; khả năng tiến hành nghiên 
cứu cơ bản; khả năng thử nghiệm các phương tiện kỹ thuật; khả năng tiếp nhận và 
thích nghi các công nghệ; khả năng cung cấp và xử lý thông tin”. 
Ngân Hàng Thế Giới (WB) đề xuất 3 nhóm cấu thành năng lực công nghệ, đó 
là: Năng lực sản xuất, Năng lực đầu tư, Năng lực đổi mới. 
M. Fransman (năm công bố) đưa ra quan điểm về năng lực công nghệ gồm 5 
yếu tố: năng lực tìm kiếm và thay thế công nghệ; năng lực am hiểu và sử dụng công 
nghệ; năng lực thích nghi công nghệ phù hợp với đơn vị sử dụng; năng lực cung cấp 
công nghệ đã có và năng lực đổi mới; năng lực thể chế hoá quá trình nghiên cứu 
những đổi mới và đột phá quan trọng nhờ phát triển các phương tiện nghiên cứu và 
thiết kế; tiến hành nghiên cứu cơ bản để tiếp tục nâng cấp công nghệ. 
Các quan niệm trên đây cho thấy rằng năng lực công nghệ là sự kết hợp của 
nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có hai yếu tố cần phải được làm rõ và đánh giá, đó là 
khả năng đồng hoá công nghệ nhập khẩu và năng lực nội sinh tạo ra công nghệ mới. 
Khả năng đồng hoá công nghệ nhập khẩu là việc hiểu rõ và vận dụng được 
công nghệ nhập khẩu phù hợp với đơn vị sử dụng. 
Khả năng nội sinh trong việc tạo ra công nghệ mới là việc tự sáng tạo, cải tiến 
công nghệ đã từng được sử dụng tại một địa điểm khác, hoặc nâng cấp công nghệ đó, 
hoặc tạo ra công nghệ hoàn toàn mới. 
Trong các công trình nghiên cứu về năng lực công nghệ thì S. Lall (năm công 
bố) đưa ra được định nghĩa năng lực công nghệ mang tính tổng quát nhất. Theo tác giả 
này thì: Năng lực công nghệ của một quốc gia (ngành hoặc cơ sở) là khả năng triển 
khai những công nghệ đã có một cách có hiệu quả và đương đầu được với những thay 
đổi công nghệ lớn. Theo định nghĩa này: có hai mức hoạt động phát triển công nghệ, 
cũng là hai cơ sở để phân tích năng lực công nghệ. Đó là: sử dụng có hiệu quả công 
nghệ sẵn có và thực hiện đổi mới công nghệ thành công. Định nghĩa này cũng đã khái 
quát được hai mặt cơ bản của năng lực công nghệ là khả năng đồng hoá công nghệ và 
khả năng phát triển công nghệ nội sinh. 
36 
Từ khái niệm đánh giá năng lực công nghệ là chọn những tiêu chí nào phản ánh 
một cách đầy đủ năng lực công nghệ của một doanh nghiệp và những tiêu chí đó có 
thể đo lường được. Theo lý thuyết và thực tế có thể rút ra một hệ thống các tiêu chí 
như sau khi đánh giá công nghệ của một cơ sở: 
Năng lực vận hành bao gồm: Khả năng chọn đúng đầu vào cho công nghệ; 
Khả năng duy trì quá trình biến đổi ổn định: khả năng sử dụng và kiểm tra kỹ thuật, 
vận hành các dây chuyền sản xuất hoạt động theo quy trình; Khả năng quản lý sản 
xuất: xây dựng, đảm bảo việc sản xuất và chất lượng sản phẩm, kiểm soát đầu vào, 
kiểm soát và khắc phục sự cố; Khả năng marketing sản phẩm. 
Năng lực tiếp nhận công nghệ bao gồm: Khả năng tìm kiếm, đánh giá và 
chọn ra công nghệ thích hợp; Khả năng lựa chọn hình thức tiếp nhận công nghệ 
phù hợp nhất (liên doanh, hợp tác); Khả năng thương lượng giá cả, nội dung 
của hợp đồng chuyển giao công nghệ; khả năng học tập, tiếp thu công nghệ mới; 
Khả năng triển khai nhanh công nghệ đã tiếp nhận; Khả năng tìm kiếm thị trường 
cho sản phẩm mới. 
Năng lực hỗ trợ cho tiếp nhận công nghệ: Năng lực hỗ trợ tiếp nhận công 
nghệ của một cơ sở là khả năng của cơ sở đó trong việc giao công nghệ cho một 
cơ sơ khác cùng trong lãnh thổ của một quốc gia. Nó bao gồm các khía cạnh sau: 
Khả năng tìm kiếm được đối tác thích hợp để giao công nghệ; Khả năng chủ trì dự 
án giao công nghệ; Khả năng đào tạo nguồn nhân lực cho bên tiếp nhận công 
nghệ; Khả năng tìm kiếm nguồn tài chính và hình thức thanh toán thích hợp cho 
bên tiếp nhận công nghệ; Khả năng tìm kiếm thị trường để tiêu thụ sản phẩm cho 
bên tiếp nhận công nghệ. 
Năng lực đổi mới công nghệ bao gồm: Khả năng thích nghi công nghệ đã tiếp 
nhận; Khả năng sao chép; Khả năng thích nghi công nghệ được chuyển giao thông qua 
việc thay đổi quy trình công nghệ; Khả năng nghiên cứu và vận dụng, thiết kế quy 
trình công nghệ; Khả năng sáng tạo ra công nghệ và sản phẩm mới. 
2.1.3. Nội dung đánh giá công nghệ 
Đánh giá công nghệ là một vấn đề còn khá mới mẻ đối với Việt Nam và một số 
nước đang phát triển khác. Đây được coi như bước đầu tiên để đề ra kế hoạch phát 
triển công nghệ và xây dựng các chính sách kinh tế xã hội. Tuy nhiên không phải tất 
cả sự đổi mới công nghệ đều mang lại lợi ích cho xã hội. Vì vậy cần phải thực hiện 
đánh giá công nghệ có phù hợp với thực tế hay không. 
37 
Định nghĩa đánh giá công nghệ 
Đánh giá công nghệ có thể được hiểu là quá trình nghiên cứu, tổng hợp, phân 
tích một công nghệ để đưa ra kết luận về sự khả thi và tiềm năng áp dụng của công 
nghệ đó đối với đơn vị sử dụng. 
Đánh giá công nghệ 
Do sự phức tạp và đa dạng của công nghệ mà chưa có sự thống nhất về 
phương pháp để đánh giá công nghệ. Một nhóm nghiên cứu của trường ĐH Stanford 
đã đưa ra phương pháp đánh giá công nghệ gồm 3 bước là mô tả công nghệ; đánh giá 
tác động; và phân tích chính sách. 
- Mô tả công nghệ 
Ở bước này gồm ba công đoạn: thu thập dữ liệu; giới hạn phạm vi; và đưa ra 
các phương án phác thảo. 
Công đoạn đầu tiên là thu thập dữ liệu liên quan đến công nghệ từ các kênh 
khác nhau như internet, sách, báo, hội thảo, Tiếp theo thực hiện giới hạn phạm vi 
đánh giá công nghệ, trong đó việc đánh giá phụ thuộc vào kinh phí được cấp, trình độ 
của các chuyên gia thực hiện đánh giá, thời gian đánh giá, kỹ thuật, địa lý, thể chế tổ 
chức, các cơ cấu giá trị xã hội, Cuối cùng là phác thảo các phương án sẽ sử dụng để 
đánh giá với các tiêu chí như xuất xứ, thông số sử dụng, 
- Đánh giá tác động 
Việc đánh giá tác động được thực hiện căn cứ vào các yếu tố đã được nêu ở trên 
với các bước sau: Trước tiên, lựa chọn tiêu chuẩn để đánh giá (tính khả thi, độ linh 
hoạt,). Tiếp theo tiến hành đo lường thông qua các tiêu chuẩn đã được lựa chọn. Sau 
đó, so sánh kết quả thu được để có cơ sở kết luận trong phần phân tích chính sách tiếp 
theo. 
- Phân tích chính sách 
Dựa theo kết quả từ đánh giá tác động để đưa ra phân tích về phương án tốt 
nhất và thiết lập quy trình thực hiện phương án đó; đồng thời phân tích các yếu tố trở 
ngại tiềm tàng để thực hiện phương án đó. 
2.2. Các hướng nghiên cứu 
Các quan điểm được nhiều nhà khoa học về năng lực hấp thụ AC xử lý trước 
đây tập trung vào việc định dạng và đánh giá các yếu tố và tiền đề giúp nâng cao năng 
lực AC cho một tổ chức. Tuy nhiên, có hai hướng chính có thể được nhận ra từ các 
38 
nghiên cứu trước đây về AC. Thứ nhất, là các câu hỏi về những loại nhân tố nào đóng 
góp cho sự cải thiện AC - khả năng của các tổ chức trong việc xác định giá trị, tiếp 
nhận, đồng hóa và sử dụng kiến thức từ bên ngoài để làm tăng lợi qua thương mại (ví 
dụ Cohen và Levinthal, 1990; Jansen et al., 2005). Mặt khác, theo hướng thứ hai, các 
nhà phân tích đã nghiên cứu các hình thức gây ảnh hưởng của AC đến kết quả thực 
hiện (performance) của DN (Escribano et al., 2009). 
Theo hướng thứ nhất, các nhà nghiên cứu khảo sát các tiền đề của AC. Ở cấp 
độ tổ chức, trong các nhân tố đã xác định là những yếu tố như kiến thức ban đầu của tổ 
chức (Cohen và Levinthal, 1990; Van den Bosch et al, 1999), kinh nghiệm tìm kiếm tri 
thức (Fosfuri & Tribo, 2008), chính thức hóa (Vega-Jurado et al., 2008) và khả năng 
kết hợp (Van den Bosch et al, 1999; Jansen et al., 2005). Ở cấp độ riêng tư hoặc cá 
nhân, AC đã được chỉ ra là được thúc đẩy bởi sự tương đồng giữa cơ sở tri thức, cấu 
trúc tổ chức, chính sách thù lao và hệ thống cung ứng hiện hành trong tổ chức. 
Lane và cộng sự (2006), đã xem xét kỹ 64 bài báo được xuất bản trong quá 
trình tổng quan tài liệu về Quản lý giai đoạn 1991-2002. Các bài viết này đã được 
chọn vì chúng sử dụng khái niệm AC này để khám phá các chủ đề và bối cảnh nơi 
AC đã được áp dụng. Họ xác định bảy chủ đề. Ba chủ đề liên quan đến các đặc 
điểm tĩnh (static) của tiền đề hoặc hệ quả của AC (kiến thức, cơ cấu tổ chức và 
phạm vi tổ chức). Ba chủ đề khác liên quan đến các đặc điểm động (dynamic) có 
mối quan hệ ‘lặp’ (recursive) với AC (việc học tập trong tổ chức, học tập lẫn nhau 
giữa các tổ chức và đổi mới sáng tạo). Chủ đề cuối cùng tập trung vào việc xác 
định và đo lường chính khái niệm AC. Bài viết này (Lane et al., 2006) rất có ý 
nghĩa vì nó nhấn mạnh những điều sau đây: 
- Nhiều nhà nghiên cứu đã xem và đưa vào áo dụng AC như là một cơ sở tri 
thức, phản ánh mức độ “nội dung” của kiến thức trước đó của công ty. Vì vậy, AC đã 
được nghiên cứu bằng cách sử dụng các biến được coi là biến số đại diện (proxy) cho 
mức dự trữ kiến thức hiện hữu trong công ty, như cường độ R&D, nội dung kiến thức, 
nề nếp tổ chức và quy trình tổ chức. Các biến đại diện như tuổi thọ và quy mô cũng 
được sử dụng để lập luận rằng các công ty lớn hơn và lâu đời hơn có khả năng tích lũy 
kiến thức nhiều hơn, có nề nếp phát triển hoàn thiện hơn và có các quy trình được thiết 
kế ổn định và chặt chẽ hơn; Vì vậy, họ thường có AC cao hơn. Tuy nhiên, những phát 
hiện để hỗ trợ quan điểm này là không thuyết phục. 
39 
- Các nghiên cứu về AC đang tiến triển và ngày càng phát triển. Ngoại trừ bốn 
nghiên cứu, các nghiên cứu khác đã chuyển hướng, mở rộng và phát triển thêm rất 
nhiều định nghĩa ban đầu của Cohen & Levinthal thành một năng lực năng động rộng 
hơn từ góc nhìn của các công ty nhiều đơn vị. Bối cảnh, tương tác đa chiều và các quá 
trình, và mối quan hệ hợp tác được xem là các biến mới hoặc yếu tố mới có thể đóng 
góp vào AC của một công ty. Trọng tâm trong nghiên cứu AC dần hướng sang các yếu 
tố như việc học tập của tổ chức, và các vấn đề quản lý chiến lược liên quan đến liên 
minh đối tác và định vị chiến lược để duy trì lợi thế cạnh tranh. Do đó, các khái niệm 
về AC tiềm năng và AC hiện thực hóa được đề xuất bởi Zahra & George, 2002) cần 
được phát triển và xây dựng thêm trong nghiên cứu AC. 
- Có hai trọng tâm nghiên cứu liên quan đến các đặc điểm kiến thức ảnh hưởng 
đến sự hấp thụ và đồng hóa của một tổ chức. Thứ nhất là về cách nhận biết loại kiến 
thức có ý nghĩa và có thể nâng cao khả năng của tổ chức, và thứ hai là về cách thức 
một tổ chức đồng hóa và khai thác chúng vào mục đích thương mại, một khi đã xác 
định được thông tin nào đó có giá trị và có liên quan. Do đó, các nhà khoa học đã phân 
tích những nội dung của kiến thức như kỹ năng, chiến lược, văn hóa và cấu trúc sẽ 
được tổ chức áp dụng để xác định, xử lý và lựa chọn “kiến thức đúng đắn” để cuối 
cùng triển khai chiến lược phù hợp nhằm vượt qua các mối đe dọa và hoàn cảnh. Song 
song, một số nhà nghiên cứu khác lại tập trung vào việc tìm hiểu các quy trình và cơ 
cấu mà thông qua đó kiến thức được xác định có thể được đồng hóa và khai thác, và 
nhờ đó cho phép tổ chức thực hiện một chiến lược đã chọn. 
- Cơ cấu tổ chức rất quan trọng trong việc tạo điều kiện chuyển giao kiến thức 
và định hình AC của công ty. Điều này là do các cải thiện về AC phụ thuộc vào các 
quy trình và nề nếp trong tổ chức để có thể tạo thuận lợi cho quá trình xác định, nắm 
bắt, nhận thức ý nghĩa của thông tin mới, chia sẻ, truyền đạt và chuyển giao kiến thức 
đã nhận thức được thực hiện. Trong các thỏa thuận hợp tác và mở rộng phạm vi, các 
liên minh chiến lược và các mối quan hệ đối tác bên ngoài phải được quản lý thông 
qua một hệ thống quản lý phù hợp. Hơn nữa, để việc học tập diễn ra và các đổi mới 
sáng tạo được đưa vào thực tế, phải có cấu trúc phù hợp để xử lý, lưu trữ và truyền đạt 
thông tin liên quan đến những người ra quyết định cho họ hành động một cách chắc 
chắn. Tuy nhiên, các tác giả lưu ý rằng “phần lớn các nghiên cứu dành sự tập trung 
vào nội dung tri thức đã bỏ qua vai trò của cơ cấu tổ chức trong việc xác định AC của 
công ty”. Trong một phần khác của bài báo, các tác giả cũng đã nhắc lại rằng đã có rất 
40 
ít nghiên cứu chỉ rõ vai trò của cấu trúc và quy trình tổ chức trong việc ảnh hưởng đến 
cách các tổ chức tận dụng và khai thác nền tảng kiến thức của họ. 
Theo hướng thứ hai, các nghiên cứu tập trung vào vai trò của AC và các tác 
động mà AC có thể gây ra đối với hoạt động của tổ chức. Các nghiên cứu đã được thực 
hiện nhằm gắn kết các khả năng của tổ chức trong việc xác định giá trị, thu nhận và 
đánh giá thông tin, đồng hóa kiến thức ‘mới’ vào kho kiến thức hiện có của nó với 
cách thức hành động một cách chắc chắn để mang lại lợi ích thương mại. Như vậy, AC 
được coi là một quá trình để nâng cao năng lực của DN trong việc tìm giải pháp cho 
các vấn đề hiện có và ứng phó với các thách thức đến từ thị trường (Song, 2015; 
Calantone et al., 2002). Huber (1991) và Dibella et al. (1996) cho rằng, thông qua 
kinh nghiệm, các tổ chức học hỏi và có được những kỹ năng và hiểu biết mới. Các 
mối quan hệ mới được xây dựng, kinh nghiệm được chia sẻ, phổ biến và cuối 
cùng được đồng hóa trong cấu trúc tổ chức hiện có. Điều đã xảy ra là các kho tri 
thức hiện hữu sẽ tự điều chỉnh và tự làm mới mình. Trong quá trình này, giá trị 
của kho kiến thức hiện có của DN tăng lên, giúp tổ chức có thêm năng lực và đáp 
ứng nhu cầu mới của môi trường. Tóm lại, AC được cho là đóng vai trò quan 
trọng trong việc cho phép các tổ chức mở rộng kiến thức, kỹ năng để trở thành 
động lực cải thiện khả năng đồng hóa của tổ chức, sử dụng thông tin trong tương 
lai và khai thác kiến thức mới để đối phó với các mối đe dọa nhận ra được về kết 
quả thực thi công việc và vị thế cạnh tranh (Jimenez-Jimenez và Sans-Valle, 
2011; Tsai, 2001). 
Một số nghiên cứu đã được thực hiện về sự gắn kết giữa AC với đổi mới (Song, 
2015; Tsai, 2001; Calantone et al., 2002), và với khả năng đáp ứng những thách thức 
mới (SantosVijande et al., 2012), cung cấp ý tưởng và cảm hứng cho phát triển các sản 
phẩm mới (Wetterings và Boschma, 2009) cũng như đáp ứng nhu cầu của các thị 
trường mới nổi (Jansen và cộng sự, 2006; Lichtenthaler, 2009). Một mối đe dọa chung 
xuyên qua tất cả các nghiên cứu này là nếu kiến thức thu được không thể được tích 
hợp hoặc biến đổi thông qua AC, năng lực đổi mới sáng tạo và các mối đe dọa đối với 
tổ chức sẽ bị ảnh hưởng bất lợi. 
2.3. Khung lý thuyết 
Từ tổng quan nghiên cứu về AC rất đa dạng cả về quan điểm tiếp cận, lý thuyết 
và phương pháp. Do đó cần phải có sự tích lũy và thống nhất tri thức thông qua các nỗ 
lực nghiên cứu về năng lực hấp thụ công nghệ. Để quá trình tích lũy tri thức thuận lợi, 
41 
tác giả đề xuất một khung thống nhất làm nổi bật các khối nghiên cứu chính và kết quả 
của năng lực hấp thụ công nghệ theo bảng 1 dưới đây. Khung này xác định các phạm 
vi nghiên cứu chung theo quan điểm phân chia các tiền đề năng lực hấp thụ công nghệ 
thành nhiều cấp độ (quản trị, bên trong tổ chức, bên ngoài tổ chức và tri thức sẵn có), 
quy mô của năng lực hấp thụ công nghệ (sáp nhập, đồng hóa, chuyển giao và khai 
thác), kết quả (đầu ra) của năng lực hấp thụ công nghệ (lợi thế cạnh tranh, đổi mới, 
hiệu suất) và các nhân tố ngữ cảnh tác động đến năng lực hấp thụ công nghệ (sự nhiễu 
loạn của môi trường tri thức).