Sử dụng lệnh imtest - white để kiểm định phương sai không đồng đều cho từng
mô hình tương ứng với biến độc lập là RelVol và SOA. Kết quả kiểm định của cả hai mô
hình cho giá trị: Prob > chi2 = 0.0000, p nhỏ nên bác bỏ giả thuyết H0, phương sai sai số
có thay đổi làm cho kết quả OLS không còn là ước lượng hiệu quả.
Như vậy, mô hình nghiên cứu đã được kiểm định đa cộng tuyến, thiếu biến,
phương sai thay đổi và kết quả cho thấy mô hình vi phạm giả thuyết phương sai sai số
thay đổi, do đó, mô hình có thể có khả năng bị nội sinh.
Lưu ý: Luận án không kiểm định tự tương quan (autocorrelation) do bản chất hồi
quy mô hình 2 là so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau, biến phụ thuộc được hồi
quy từ mô hình 1 nên không biến đổi theo thời gian (đặc điểm dữ liệu chéo)
142 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 370 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ổn định hóa cổ tức của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n án có một số nhận định về các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ ổn định hóa cổ tức của các DNNY trên TTCK Việt
Nam như sau:
Thứ nhất, Với biến cấu trúc sở hữu, luận án lần lượt sử dụng các biến đại diện
cho cấu trúc sở hữu của DN.
+ Sở hữu của cổ đông lớn: Các biến đại diện cho mức độ tập trung sở hữu là
tổng % sở hữu của toàn bộ cổ đông lớn (LARGE). Các hồi quy (1) cho mô hình
MH2.1 và MH2.2 cho kết quả khác biệt không đáng kể với mức ý nghĩa 1%, kết hợp
với thống kê mô tả các biến này. Đặc trưng cấu trúc sở hữu ở Việt Nam được đánh giá
là khá tập trung khi tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn chiếm trên 50% toàn bộ cổ phần
và số lượng cổ đông lớn tối đa chỉ có 8 cổ đông và bình quân có 3 cổ đông lớn trong
một doanh nghiệp. Do vậy, không có sự khác biệt đáng kể giữa các hệ số hồi quy với
tỷ lệ sở hữu của toàn bộ cổ đông lớn hay của 1 cổ đông lớn nhất và 3 cổ đông lớn nhất.
Sở hữu của cổ đông lớn ảnh hưởng đáng kể đến quyết định CSCT của các
DNNY. Mối quan hệ ngược chiều giữa % sở hữu của CĐL với mức độ ổn định hóa
cổ tức đã chứng minh lập luận của lý thuyết đại diện về xung đột lợi ích giữa cổ đông
và nhà quản lý DN, nghĩa là hiện tượng ổn định hóa cổ tức phù hợp với những DN có
cấu trúc sở hữu phân tán và không phù hợp với cấu trúc sở hữu tập trung (cùng kết
quả với nghiên cứu của Jinho, 2013; Javakhadze và cộng sự, 2014). Chấp nhận giả
thuyết H2.6
+ Sở hữu Nhà nước là đặc trưng cho cấu trúc sở hữu ở Việt Nam. Tỷ lệ sở hữu
Nhà nước càng lớn thì mức độ ổn định hóa cổ tức càng thấp, nghĩa là, doanh nghiệp
nào có sự kiểm soát của Nhà nước (với tỷ lệ sở hữu càng cao) thì sẽ ít phải đối diện
với vấn đề đại diện nên ít có khả năng thực hiện ổn định cổ tức. Giả thuyết H2.8 được
chấp nhận. Giả thuyết H2.8 được chấp nhận.
109
+ Sở hữu của tổ chức có hệ số hồi quy mang dấu âm nhưng không có ý nghĩa
thống kê, chứng tỏ đặc điểm sở hữu tổ chức không giải thích được hiện tượng ổn định
hóa cổ tức ở Việt Nam. Bác bỏ giả thuyết H2.7
- Thứ hai, mối quan hệ hình chữ U (với điểm cực tiểu là 10) giữa tuổi của DN
và mức độ ổn định hóa cổ tức cho thấy hiện tượng này phù hợp với những DN trẻ và
với các DN trong giai đoạn bão hòa. Lý thuyết tín hiệu chỉ giải thích được khi số năm
niêm yết dưới 10 năm. Còn khi doanh nghiệp càng trưởng thành đến giai đoạn bão hòa
thì ít có nhu cầu vốn cho đầu tư nên nhà quản lý DN sử dụng cổ tức như là phương
tiện truyền tín hiệu đến cổ đông. Ủng hộ giả thuyết H2.2 (mối quan hệ phi tuyến)
- Thứ ba, mức độ ổn định cổ tức có quan hệ cùng chiều với quy mô DN và rủi
ro kinh doanh. Doanh nghiệp càng lớn thì càng có khả năng thực hiện làm trơn cổ tức
(kết quả ngược lại với lý thuyết tín hiệu), doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao (biến
động lợi nhuận lớn, môi trường thông tin chưa đầy đủ) khiến DN thực hiện làm trơn cổ
tức để giảm thiểu vấn đề BCXTT giữa các bên liên quan (ủng hộ lý thuyết tín hiệu).
Chấp nhận giả thuyết H2.5, giả thuyết H2.1 bị đổi dấu.
- Thứ tư, tác động của dòng tiền tự do và cơ hội tăng trưởng. Hệ số hồi quy cả
hai mô hình đều cho thấy tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa cơ hội tăng trưởng
(GROWTH) và mức độ ổn định cổ tức, thể hiện khi cơ hội đầu tư tăng lên thì nhu cầu
vốn cho đầu tư cũng tăng theo, xung đột lợi ích giữa các bên được giảm thiểu. Do đó,
DN ít quan tâm đến việc ổn định cổ tức hơn.
Kết quả hồi quy với biến dòng tiền tự do FCF ở 2 mô hình không đồng nhất,
đồng thời, sự kém nhất quán về mối quan hệ thống kê của biến này với RelVol khi hồi
quy lần lượt với các biến đại diện cho cấu trúc sở hữu, kết hợp với Bảng 4.11 phân tích
ma trận hệ số tương quan giữa biến FCF và RelVol không có quan hệ thống kê. Với
các lý do đó, luận án khẳng định chưa đủ cơ sở để kết luận về dòng tiền của DN có ảnh
hưởng đến quyết định ổn định hóa cổ tức của DN. Bác bỏ giả thuyết H2.4
- Thứ năm, Về ảnh hưởng ngành:
Luận án sử dụng chỉ số HHI (Herfindahl-Hirchman Index) để thể hiện mức độ
cạnh tranh của ngành, được tính bằng tổng của các bình phương thị phần của các công
ty trong mỗi ngành. Nếu HHI cao thể hiện sự tập trung ngành lớn hơn nên mức độ
cạnh tranh ngành sẽ thấp hơn, phù hợp với giả thuyết DN hoạt động trong các ngành
có mức độ cạnh tranh cao có nhiều khả năng thực hiện ổn định hóa cổ tức hơn. Chấp
nhận giả thuyết H2.9
110
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Bằng phương pháp phân tích mô tả và phân tích định lượng, chương 4 nhằm trả
lời câu hỏi nghiên cứu thứ 2 của luận án.
Trước tiên, tác giả tập trung mô tả thực trạng đặc điểm nội tại của các doanh
nghiệp và đặc điểm theo nhóm ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Các DNNY ở Việt
Nam trong giai đoạn 2008-2018 có quy mô tăng dần và khi quy mô tài sản càng tăng
thì DPS càng giảm. Cấu trúc sở hữu tập trung và Nhà nước nắm quyền chi phối ở một
số doanh nghiệp thuộc một số ngành kinh tế quan trọng như Dầu khí, Tiện ích, Công
nghiệp. Với mục tiêu nhận diện mối quan hệ của các đặc điểm này đến mức độ ổn định
hóa cổ tức của DN, bằng cách thực hiện một số kỹ thuật như phân vị (tài sản, dòng tiền
tự do, cơ hôi tăng trưởng) hoặc sử dụng phân tích biểu đồ, luận án nhận thấy cơ hội
tăng trưởng, dòng tiền tự do và rủi ro của doanh nghiệp có quan hệ cùng chiều đến
mức thanh toán cổ tức, trong khi quy mô tài sản lại có chiều hướng ngược lại.
Với các nhận diện ban đầu qua việc phân tích đặc điểm các DNNY cùng với
các lập luận về vấn đề BCXTT và vấn đề đại diện dẫn đến quyết định chính sách cổ
tức ổn định đã trình bày ở các chương trước, luận án thực hiện điều chỉnh mô hình sau
khi thực hiện các kiểm định cần thiết. Mô hình MH2.1 và MH2.2 sử dụng 2 thước đo
SOA và RelVol để kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ ổn định hóa cổ tức.
Sử dụng hồi quy 2SLS để kiểm định các khuyết tật của mô hình (phương sai sai số
thay đổi và hiện tượng nội sinh), luận án cho thấy việc sử dụng các biến công cụ trong
mô hình là phù hợp. Ước lượng theo biến RelVol cho kết quả có ý nghĩa kinh tế hơn.
Kết quả hồi quy đã bác bỏ hai giả thuyết H2.4 và H2.7 về mối quan hệ giữa
biến sở hữu tổ chức và biến dòng tiền với mức độ ổn định cổ tức của DN. Các giả
thuyết còn lại đều được chấp nhận, nghĩa là: Mức độ ổn định hóa cổ tức của doanh
nghiệp bị ảnh hưởng bởi sở hữu của cổ đông lớn, sở hữu tổ chức, quy mô, tuổi, rủi ro
kinh doanh của doanh nghiệp và mức độ cạnh tranh ngành.
111
CHƢƠNG 5:
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu của luận án
5.1.1. Kết quả về mức độ ổn định hóa cổ tức của các DNNY ở Việt Nam
Bằng cách sử dụng cả 2 mô hình để tính toán thước đo về mức độ ổn định hóa
cổ tức (thước đo SOA từ mô hình của Lintner, 1956 và thước đo RelVol từ mô hình
của Leary và Michaely, 2011), luận án đã cho thấy mặc dù có sự khác biệt về mức độ
điều chỉnh của tổng mẫu, theo sàn niêm yết hay theo ngành nhưng hai đường SOA và
RelVol có cùng chiều hướng biến động.
Trước hết, từ kết quả tính toán SOA theo mô hình của Lintner (1956), luận án
sử dụng để so sánh với kết quả của các nghiên cứu trên thế giới vì SOA là thước đo
được hầu hết các nghiên cứu về chủ đề “dividend smoothing“ sử dụng (Bảng 5.1)
Kết quả chứng minh rằng, tồn tại hiện tượng ổn định hóa cổ tức của các DNNY
ở Việt Nam. Theo mô hình Lintner, SOA cho cả mẫu là 0.662 có nghĩa là trung bình
trong cả giai đoạn, mức cổ tức được trả phụ thuộc vào thu nhập và cổ tức quá khứ,
trong đó mức hiệu chỉnh so với cổ tức kỳ trước bằng 0.338 lần.
Bên cạnh đó, nơi niêm yết cũng ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, các DNNY
ở HNX có mức độ làm trơn cổ tức hơn các DNNY trên HOSE. Thực tế, điều kiện
niêm yết trên HOSE chặt chẽ hơn điều kiện của HNX ở mức vốn điều lệ và yêu cầu về
cổ đông, hơn nữa HOSE bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2000 trong khi HNX mới hoạt
động từ 8/2005. Theo Frank và Goyal (2003), Leary và Michealy (2011) các proxy đại
diện cho sự trưởng thành của doanh nghiệp (như quy mô và số năm niêm yết) có quan
hệ ngược chiều với mức độ ổn định hóa cổ tức, vì những DN lớn hơn và hoạt động lâu
năm được kỳ vọng sẽ đối mặt với vấn đề BCXTT thấp hơn. Điều này được lập luận từ
lý thuyết tín hiệu. Do điều kiện niêm yết và các quy định về công bố thông tin, sự tồn
tại lâu năm hơn nên môi trường hoạt động tại HOSE được đánh giá là ít nghiêm trọng
về vấn đề thông tin cân xứng hơn HNX. Doanh nghiệp hoạt động trong môi trường
BCXTT càng lớn thì hiện tượng ổn định hóa cổ tức càng rõ ràng hơn.
Như vậy, các DNNY trên HOSE có quy mô và tính thanh khoản cao hơn các
DNNY tại HNX, hơn nữa quản trị DN của các DNNY trên HOSE cũng chặt chẽ hơn.
112
Do đó, vấn đề BCXTT ở HNX nghiêm trọng hơn nên các DNNY tại HNX có mức độ
ổn định cao hơn các DNNY tại HOSE.
Bảng 5.1: So sánh kết quả SOA theo Litner (1956) giữa các thị trƣờng
Thị trƣờng
Giai đoạn
nghiên cứu
SOA Nghiên cứu
Mỹ
1918-1953 0.30 Lintner (1956)
1950-1964
1965-1983
1984-2002
0.66
0.35
0.22
Brav và cộng sự (2005)
Malaysia 1993-2000 0.20-0.63 Pandey (2001)
Jordan 1994-2003 0.43 Al-Najjar (2009)
Oman 2001-2010 0.26
Al-Malkawi và cộng sự
(2014)
Ấn Độ 1995-2013 0.50
Labhane và Mahakud
(2018)
Hong Kong 1984-2002 0.68
Chemmanur và cộng sự
(2010)
Trung Quốc 2002-2011 0.36 Hu and Chen (2012)
Hàn Quốc 1981-2012 0.69 Jeong Jinho (2013)
Thổ Nhĩ Kỳ
2003-2008
2009-2012
0.58
0.53
Al-Najjar and
Kilincarslan (2017)
Việt Nam 2008-2017 0.662
Kết quả nghiên cứu
của luận án
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Sự khác biệt cũng được tìm thấy giữa các nhóm doanh nghiệp thuộc từng nhóm
ngành khác nhau. Tuy nhiên, mức độ điều chỉnh của các ngành có sự khác nhau khi
kết luận theo mô hình của Lintner và mô hình của Leary và Michaely. Lập luận về
ngành đã được giải thích kỹ hơn trong phần phân tích ảnh hưởng ngành đến mức độ ổn
định hóa cổ tức của các DN.
113
So sánh kết quả với các nghiên cứu trước (Bảng 5.1) cho thấy mức độ ổn định
hóa cổ tức ở Việt Nam hầu hết thấp hơn các nước ở thị trường phát triển và thị
trường mới nổi, bao gồm: Mỹ (Lintner, 1956; Brav và cộng sự, 2005), Jordan (Al-
Najjar, 2009), Malaysia (Pandey, 2001), Thổ Nhĩ Kỳ (Al-Najjar and Kilincarslan,
2017). Tuy nhiên, mức độ này tương ứng Hàn Quốc (Jeong Jinho, 2013), Hồng Kông
(Chemmanur và cộng sự, 2010). Mặc dù có thể do các giai đoạn nghiên cứu khác
nhau nên việc so sánh không thực sự phù hợp, nhưng kết quả cho thấy với các tiêu
chuẩn chọn mẫu rất chặt chẽ nên mẫu được chọn khá phù hợp với vấn đề nghiên cứu
của luận án.
5.1.2. Kết quả về các nhân tố tác động đến hiện tượng ổn định hóa cổ tức của
các DNNY ở Việt Nam
Dựa trên hai lý thuyết nền tảng về ổn định hóa cổ tức là lý thuyết tín hiệu và lý
thuyết người đại diện, luận án đã sử dụng các proxy (từ tổng quan các nghiên cứu
trước) đại diện cho mức độ BCXTT và mức độ mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên liên
quan. Các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng xuất phát từ hai luận điểm chính: (i)
DN nào tiềm ẩn xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các cổ đông lớn hơn thì có khả
năng làm trơn cổ tức nhiều hơn (lý thuyết đại diện); (ii) DN nào phải đối mặt với vấn
đề BCXTT hơn sẽ có khả năng làm trơn cổ tức hơn. Thông qua các proxy đại diện cho
hai vấn đề trên đây được sử dụng ở cấp độ doanh nghiệp và cấp độ ngành, được chia
thành hai nhóm: (i) Các nhân tố thuộc đặc điểm doanh nghiệp, (ii) Các nhân tố thuộc
ảnh hưởng của ngành. Kết quả nghiên cứu tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2018
được tổng hợp tại Bảng 5.2.
Bảng 5.2 trình bày tóm tắt các kết quả nghiên cứu về chiều hướng tác động theo
mức ý nghĩa thống kê của các nhân tố được tập hợp thành 2 nhóm. Nhóm thứ nhất bao
gồm 6 nhân tố là các biến đại diện cho các xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và cổ
đông (lý thuyết người đại diện). Nhóm thứ hai bao gồm 5 nhân tố đại diện cho mức độ
BCXTT của DN và của ngành kinh doanh.
114
Bảng 5.2: Tổng hợp kết quả nghiên cứu về các nhân tố ảnh hƣởng theo lý thuyết
Lý thuyết Nhân tố Biến
Giả
thuyết
Kết quả hồi quy
Vấn đề đại
diện
(Lý thuyết
người đại
diện)
Sở hữu tập trung LARGE - (-***)
Sở hữu của tổ chức INST + Không xác định
Sở hữu Nhà nước SO - (-***)
Cơ hội tăng trưởng GROWTH - (-***)
Dòng tiền tự do FCF + Không xác định
Mức độ cạnh tranh ngành HHI + (+**)
Vấn đề bất
cân xứng
thông tin
(Lý thuyết
tín hiệu)
Quy mô DN SIZE - (+
***
)
Tuổi của DN AGE -
Quan hệ phi tuyến (chữ U)
< 10 năm (-**)
>10 năm (+***)
Rủi ro kinh doanh RISK + (+***)
Sở hữu của tổ chức INST - Không xác định
Cơ hội tăng trưởng GROWTH + (-***)
(Nguồn: So sánh kết quả hồi quy và giả thuyết nghiên cứu theo lý thuyết)
- Về vấn đề đại diện: Kết quả hồi quy các biến trong nhóm này cho thấy sự
đồng thuận đáng kể về mối quan hệ giữa xung đột lợi ích và ổn định hóa cổ tức, phù
hợp với các mô hình của Easterbrook, 1984; Allen và cộng sự, 2000 đề; DeAngelo và
DeAngelo, 2007 đề xuất. Luận án thấy rằng, các DN phù hợp với hiện tượng ổn định
hóa cổ tức là DN có sở hữu phân tán hoặc tỷ lệ sở hữu Nhà nước thấp, ít có cơ hội tăng
trưởng và là các DN hoạt động trong ngành có mức độ cạnh tranh cao. Ngược lại, hiện
tượng ổn định hóa không phù hợp với DN có cấu trúc sở hữu tập trung, DN do nhà
nước nắm quyền chi phối, DN có nhiều cơ hội đầu tư tăng trưởng và là DN hoạt động
trong các ngành kinh doanh có mức độ cạnh tranh thấp. Leary và Michealy (2011)
nghiên cứu tại Mỹ có cùng kết quả về sự giải thích của lý thuyết tín hiệu. Shinozaki &
Uchida (2015) cũng có cùng kết quả về mối quan hệ giữa sở hữu tập trung và hiện
tượng ổn định hóa cổ tức. Tuy nhiên, Jeong (2013) nghiên cứu tại thị trường Hàn Quốc
lại không ủng hộ các lập luận này.
Do những cổ đông lớn (ở Việt Nam, cổ đông lớn là cổ đông có tỷ lệ sở hữu cổ
phần từ 5% trở lên) thường có cơ hội, nguồn lực và khả năng tham gia vào việc quản
115
lý và ra quyết định tại DN, cổ phần này thường mang tính chất ổn định vì cổ đông lớn
có mục tiêu dài hạn hơn là mục tiêu ngắn hạn. Do đó, tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn
được dùng để đánh giá cấu trúc sở hữu tập trung hay phân tán. Qua phân tích thực
trạng về cấu trúc sở hữu ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ sở hữu của 3 cổ đông lớn nhất
khoảng 50%, trong đó tỷ lệ sở hữu của toàn bộ cổ đông lớn cũng chỉ 51,41% với số
lượng cổ đông lớn tối đa chỉ là 8 cổ đông. Do đó, cấu trúc sở hữu của các DNNY trên
TTCK Việt Nam được đặc trưng bởi sở hữu tập trung.
Ngoài ra, sở hữu Nhà nƣớc cũng là một đặc trưng của cấu trúc sở hữu ở Việt
Nam, trong đó Nhà nước nắm quyền chi phối ở một số ngành kinh tế trọng điểm. Luận
án đã kỳ vọng vai trò của Sở hữu Nhà nước tác động đến hiện tượng ổn định hóa bằng
việc xây dựng giả thuyết nghiên cứu 2.8, kết quả nghiên cứu đã ủng hộ giả thuyết này.
Đây là một phát hiện mới của luận án.
Về sở hữu của tổ chức, theo như phân tích tại phần cơ sở lý luận và xây dựng
giả thuyết nghiên cứu, vai trò của cổ đông tổ chức có thể được luận giải theo cả hai lý
thuyết và luận án đã kỳ vọng lý thuyết tín hiệu sẽ là cơ sở giải thích mối quan hệ này
trên TTCK Việt Nam, nên dấu kỳ vọng là (-). Tuy nhiên, tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ
chức lại không phù hợp để giải thích hành vi cổ tức ở Việt Nam.
Cơ hội tăng trƣởng cũng ủng hộ lý thuyết người đại diện khi kết quả hồi quy
khẳng định mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ M/B và mức độ ổn định hóa cổ tức.
Mối quan hệ giữa dòng tiền tự do và mức độ ổn định hóa cổ tức cũng không
được khẳng định trong nghiên cứu này, mặc dù trong hồi quy với biến phụ thuộc
RelVol cho mức ý nghĩa 10% nhưng sự không nhất quát giữa các hồi quy, kết hợp với
phân tích ma trận hệ số tương quan. Luận án chưa đủ cơ sở để khẳng định tồn tại mối
quan hệ giữa dòng tiền tự do và mức độ ổn định hóa cổ tức ở Việt Nam.
- Về vấn đề bất cân xứng thông tin: Kết quả hồi quy 5 biến trong nhóm này
thì chỉ có biến về rủi ro của DN ủng hộ dấu của lý thuyết. Đây chính là biến được
xác định là biến nội sinh trong mô hình và được giải thích bằng biến tỷ lệ tài sản hữu
hình và rủi ro ngành. DN sử dụng đòn bẩy hoạt động bằng việc đầu tư nhiều vào tài
sản hữu hình và DN hoạt động trong ngành có mức độ BCXTT cao về việc tiếp cận
thông tin thì sẽ gặp rủi ro càng cao, và khi đó hiện tượng ổn định hóa cổ tức được tìm
thấy rất rõ ở DN có rủi ro cao. Javakhadze và cộng sự (2014) cũng cho kết quả tương
tự về chiều hướng tác động của biến này với mẫu nghiên cứu là các công ty từ 24
quốc gia trên thế giới.
116
Về biến quy mô của DN: Lý thuyết tín hiệu cho rằng, DN nhỏ hơn thường có
khuynh hướng sử dụng cổ tức như là một phương tiện truyền tín hiện nhằm giảm thiểu
các xung đột về vấn đề BCXTT. Giá trị trường của các DN lớn phán ánh thu nhập
chính xác hơn so với các DN nhỏ (Freeman, 1987; Kross và Schroeder, 1988). Tuy
nhiên, hệ số hồi quy của biến SIZE với biến phụ thuộc RelVol và SOA mang dấu âm
với mức ý nghĩa 1%, tức là tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô DN và mức độ
ổn định hóa cổ tức. Điều này có thể giải thích ngược lại theo lý thuyết đại diện, khi các
DN có quy mô càng lớn thì bộ máy tổ chức hoạt động càng phức tạp, các xung đột lợi
ích bắt đầu tăng lên và chi phí đại diện sẽ tăng theo. Do đó, để giảm thiểu chi phí đại
diện nên các DN này thực hiện ổn định hóa cổ tức. Kết quả này cũng phù hợp với nhận
diện ban đầu khi phân tích thực trạng mối quan hệ giữa quy mô của DN và biến động
cổ tức (Biểu đồ 3.5 thuộc chương 3).
Về biến tuổi của DN: Kết quả nghiên cứu về biến tuổi của DN là một phát hiện
mới của luận án về vấn đề ổn định hóa cổ tức. Với lập luận, DN càng trẻ càng phải đối
diện với vấn đề BCXTT hơn, nên để kiểm soát vấn đề này, nhà quản lý DN trẻ thường
có xu hướng ổn định dòng cổ tức chi trả, cho nên dấu kỳ vọng của mối quan hệ này là
quan hệ ngược chiều.
Tuy nhiên, kết quả kiểm định cho thấy tồn tại mối quan hệ phi tuyến (hình chữ
U) giữa biến tuổi của DN và mức độ ổn định hóa cổ tức, với giá trị cực tiểu xác định
được là 10 năm. Hiện tượng này có thể được giải thích thông qua chu kỳ hoạt động
kinh doanh và giai đoạn phát triển của DN đã được trình bày tại chương 2 của luận án
Theo Grullon và cộng sự (2002), tăng cổ tức và tăng các khoản thanh toán bằng
tiền khác truyền tải thông tin về những thay đổi trong vòng đời của DN khi chuyển từ
giai đoạn tăng trưởng (growth phase) sang giai đoạn trưởng thành hơn (mature phase).
Trong giai đoạn tăng trưởng, một DN sẵn có nhiều dự án đầu tư với NPV dương với
chi tiêu vốn cao, dòng tiền tự do thấp và thu nhập tăng trưởng nhanh chóng. Lúc này,
vấn đề đại diện tiềm ẩn thấp nên DN ít chú trọng đến CSCT ổn định. Khi DN tiếp tục
phát triển, các đối thủ cạnh tranh gia nhập ngành chiếm lĩnh thị phần của DN và làm
giảm lợi nhuận. Trong giai đoạn chuyển đổi này (thời gian niêm yết khoảng 10 năm),
cơ hội đầu tư bị giảm, tốc độ tăng trưởng chậm khiến chi tiêu vốn giảm và dòng tiền tự
do tăng. Lúc này, tiềm ẩn của việc đầu tư quá mức là rất cao khi một DN trải qua sự
thay đổi vòng đời của nó. Các xung đột lợi ích cũng trở nên nghiêm trọng hơn, để
giảm thiểu các xung đột này, nhà quản lý sẽ có xu hướng ổn định hóa cổ tức hơn.
117
Như vậy, giả thuyết về sự trưởng thành của DN hỗ trợ cho giả thuyết của dòng
tiền tự do cũng được giải thích từ vấn đề đại diện với giai đoạn phát triển của DN.
Tóm lại, từ các tổng hợp trên đây, có một số nhận định về hiện tượng ổn định
hóa cổ tức ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, hiện tượng ổn định hóa cổ tức trên TTCK Việt Nam được tìm thấy
rõ hơn tại các DN có đặc điểm: Sở hữu phân tán, sở hữu tư nhân, có ít cơ hội tăng
trưởng, quy mô lớn và có biến động lợi nhuận cao.
Hiện tượng ổn định hóa cổ tức còn tìm thấy ở những DN hoạt động trong các
ngành có mức độ cạnh tranh cao.
Thứ hai, về mối quan hệ giữa số năm niêm yết và mức độ ổn định hóa cổ tức
được chú ý tại thời điểm chuyển đổi từ giai đoạn tăng trưởng đến giai đoạn bão hòa (thời
gian niêm yết bình quân khoảng 10 năm). Từ lúc khởi sự đến giai đoạn tăng trưởng,
mức độ ổn định hóa giảm dần; khi chuyển sang giai đoạn bão hòa, mức độ ổn định cổ
tức sẽ tăng dần. Lý thuyết đại diện sẽ phù hợp hơn để giải thích mối quan hệ này.
Thứ ba, Các biến: Dòng tiền tự do, Sở hữu tổ chức chưa đủ cơ sở để giải thích
hiện tượng ổn định hóa cổ tức ở Việt Nam.
Thứ tư, Về sự giải thích của các lý thuyết.
Qua phân tích trên đây có thể khẳng định, lý thuyết người đại diện phù hợp để
giải thích chính sách cổ tức ở Việt Nam.
5.2. Một số khuyến nghị
Mục tiêu nghiên cứu của luận án hướng đến cung cấp thông tin về hiện tượng
ổn định hóa cổ tức, các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ ổn định hóa cổ tức của các
DNNY ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu được sử dụng để cung cấp thông tin cho ba
đối tượng chính: Nhà đầu tư, nhà quản lý doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách.
5.2.1. Đối với nhà đầu tư
Kết quả của luận án giúp nhà đầu tư đánh giá được tính thông tin của cổ tức, từ
đó ra quyết định đầu tư và lựa chọn cổ phiếu phù hợp hơn. Kết quả nghiên cứu về các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ ổn định hóa cổ tức sẽ là một kênh tham khảo hữu ích
với nhà đầu tư.
1) Một số gợi ý về nhận diện chính sách cổ tức từ đặc điểm của doanh nghiệp
như sau:
118
Thứ nhất, DN nào tiềm ẩn xung đột lợi ích lớn giữa các bên liên quan, đặc biệt
là giữa chủ sở hữu và nhà quản lý thì DN đó có xu hướng ổn định hóa cổ tức hơn.
Xung đột lợi ích phát sinh trong trường hợp người quản lý sử dụng dòng tiền để đầu tư
quá mức hay đầu tư vào dự án có lợi nhuận cao trong ngắn hạn, ngại chấp nhận rủi ro,
không nỗ lực vì DN mà vì lợi ích cá nhân (rủi ro đạo đức). Khi quyền sở hữu và quyền
điều hành giảm thì chi phí giám sát và chi phí hoạt động khác tăng lên. Để giảm thiểu
xung đột này, nhà quản lý DN có thể phải trả một khoản cổ tức cao và ổn định. Điều
này khiến các DN phải huy động nguồn vốn bên ngoài để đáp ứng nhu cầu về tài
chính, từ đó họ phải chịu một sự kiểm soát chặt chẽ và thường xuyên từ những chuyên
gia bên ngoài. Vì khi trả cổ tức, dòng tiền giảm đi, họ sẽ có ít cơ hội để hành động vì
những lợi ích của bản thân hơn và làm giảm chi phí đại diện. Do đó, trả cổ tức ổn định
sẽ là một phương thức giúp ngăn ngừa các nhà quản lý hành động vì lợi ích cá nhân
trên của cải của các cổ đông.
+ Những DN có cấu trúc sở hữu phân tán (tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn thấp)
thường có xu hướng ổn định hóa cổ tức hơn. Ngược lại, DN đặc trưng bởi sở hữu tập
trung ít phải đối diện với xung đột đại diện hơn vì mức độ sở hữu tập trung và quyền
kiểm soát cũng tập trung hơn.
+ Những DN có ít cơ hội đầu tư tăng trưởng sẽ ổn định hóa cổ tức hơn do nhu
cầu vốn cho đầu tư thấp, khiến dòng tiền dư thừa, từ đó phát sinh mâu thuẫn lợi ích
giữa các bên. Ổn định hóa cổ tức được sử dụng để giảm thiểu xung đột lợi ích này
bằng cách giảm bớt dòng tiền tự do và buộc các công ty tham gia vào thị trường vốn
bên ngoài để có thêm nguồn tài chính, tăng cường giám sát từ thị trường vốn.
+ Những DN do tư nhân kiểm soát cũng có xu hướng ổn định hóa cổ tức hơn,
do DN nào có sự kiểm soát của Nhà nước sẽ ít phải đối diện với vấn đề đại diện nên ít
có khả năng thực hiện ổn định hóa cổ tức.
+ Những DN có quy mô càng lớn thì mức độ ổn định hóa cổ tức càng cao. Quy
mô DN được đo lường thông qua chỉ tiêu tổng tài sản hoặc chỉ tiêu doanh thu thuần.
+ Doanh nghiệp nào có thời gian niêm yết càng dài (trung bình tính từ sau 10
năm kể từ năm niêm yết) thì càng có xu hướng ổn định cổ tức hơn để giảm thiểu xung
đột lợi ích do ít cơ hội đầu tư tăng trưởng, dòng tiền dư thừa là nguyên nhân của vấn
đề đại diện.
Thứ hai, những doanh nghiệp có môi trường kinh doanh không minh bạch, khó
tiếp cận thông tin và thông tin không đầy đủ, nghĩa là gặp vấn đề bất cân xứng thông
tin lớn sẽ có xu hướng ổn định cổ tức hơn.
119
Về mặt lý thuyết, có rất nhiều đặc điểm thể hiện DN gặp vấn đề BCXTT cao
hay thấp, như: Cơ hội đầu tư tăng trưởng, sự trưởng thành của DN, rủi ro kinh doanh,
tỷ lệ tài sản hữu hình trên tổng tài sản thấp , Tuy nhiên, đặc điểm của các DNNY
trên thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ giải thích được mối quan hệ giữa biến rủi ro
kinh doanh của DN với mức độ ổn định hóa cổ tức. DN nào biến động lợi nhuận càng
cao thì càng có xu hướng ổn định hóa cổ tức để truyền tín hiệu về thu nhập triển vọng
trong tương lai của DN ra bên ngoài.
Thứ ba, DN hoạt động trong ngành có mức độ BCXTT cao và tiềm ẩn vấn đề
đại diện lớn hơn có xu hướng ổn định cổ tức hơn. Đó là các ngành có mức cạnh tranh
cao và biến động lợi nhuận lớn. Nhà quản lý DN trả cổ tức chủ yếu dựa vào thu nhập
và cổ tức quá khứ. Tuy nhiên, mỗi ngành lại có hành vi trả cổ tức khác nhau, trong đó,
một số ngành trả cổ tức khá ổn định như ngành Hàng và dịch vụ công nghiệp, Dược
phẩm và y tế. Khi thu nhập tăng hoặc giảm một cách không ổn định, họ vẫn duy trì
mức trả quá khứ, có điều chỉnh nhưng không đáng kể. Một số ngành lại dễ dàng
thay đổi mức trả cổ tức theo thu nhập mặc dù có phần dựa vào cổ tức quá khứ (như
ngành Hàng tiêu dùng, Công nghệ thông tin và Xây dựng & vật liệu), với những
ngành này, mức cổ tức trả phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập. Do vậy, nhà đầu tư cần
chú ý đến yếu tố ngành khi đưa ra các quyết định mua bán cổ phiếu để gia tăng thu
nhập từ kênh đầu tư này.
2) Nhà đầu tư cần nâng cao năng lực chuyên môn
Bên cạnh những gợi ý trên đây về nhận diện những đặc thù của doanh nghiệp
với quyết định phân phối cổ tức. Để có quyết định đầu tư đúng đắn và phù hợp thì nhà
đầu tư cần nâng cao kiến thức chuyên môn để có thể phân tích được các đặc thù của
DN, của ngành và tiếp nhận thông tin một cách linh hoạt và chủ động. Hơn nữa, thị
trường chứng khoán Việt Nam là thị trường không có hiệu quả, giả thuyết thị trường
dạng yếu không có bằng chứng tại thị trường này (Phan và Zhou, 2014). Nguyên nhân
là do hành lang pháp lý ở Việt Nam chưa hoàn thiện và trình độ của nhà đầu tư còn
hạn chế, bị chi phối nhiều bới các yếu tố tâm lý. Nhà đầu tư cần phải trang bị cho mình
đầy đủ các kiến thức về tài chính nói chung và kiến thức về chứng khoán nói riêng.
Theo nhận định, nhà đầu tư ở Việt Nam chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân với hạn
chế về kiến thức TTCK, còn tồn tại vấn đề BCXTT rất lớn trong môi trường đầu tư ở
Việt Nam. Do vậy, trước khi đưa ra chiến lược đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư cần nhận
thức đúng về CSCT của doanh nghiệp, đặc biệt là CSCT ổn định, cần phải thận trọng
trước những thông tin trên thị trường, đánh giá thông tin một cách khoa học và kịp
120
thời. Hơn nữa, đòi hỏi nhà đầu tư phải có kỹ năng phân tích và nhận định diễn biến
của thị trường. NĐT cần phải trang bị cho mình những kiến thức và kỹ năng này
(phân tích các chỉ số tài chính, báo cáo tài chính, nhận diện rủi ro, thu thập và xử lý
thông tin) để tránh đầu tư theo tâm lý “đám đông”, tâm lý “bầy đàn” (Nguyễn Đức
Hiển, 2012) trên TTCK.
5.2.2. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp
Kết quả nghiên cứu cũng đã cung cấp một số thông tin hữu ích về hiện tượng ổn
định hóa cổ tức cho các nhà quản lý DN. Bao gồm các chính sách cổ tức, ưu điểm và
nhược điểm của từng chính sách; lý thuyết về ổn định hóa cổ tức; xu hướng CSCT trên
thế giới; đồng thời, luận án cũng đã cung cấp tổng hợp về thực trạng CSCT nói chung
và ổn định hóa cổ tức nói riêng. Nhà quản lý DN sử dụng thông tin từ nghiên cứu để
có cái nhìn bao quát hơn về toàn bộ thị trường, từ đó đưa ra quyết sách về CSCT cho
doanh nghiệp.
Thứ nhất, cần phân biệt giữa các loại chính sách cổ tức, như: chính sách cổ tức
phần còn lại, CSCT tăng trưởng đều, CSCT ổn định và chính sách cổ tức thỏa hiệp. Từ
đó, chỉ ra được ưu nhược điểm của từng chính sách và lựa chọn CSCT phù hợp. Việc xây
dựng chính sách cần mang tính chiến lược, phù hợp với đặc thù DN và đặc thù ngành
nghề kinh doanh. Nếu muốn ổn định cơ cấu cổ đông để giảm thiểu chi phí đại diện và ổn
định trong quản trị doanh nghiệp, lựa chọn CSCT là phù hợp với mục tiêu này.
Thứ hai, từ kết quả các nhân tố ảnh hưởng đến hiện tượng ổn định hóa cổ tức.
Nhà quản lý DN từ đó có thể nhận biết được các đặc điểm nội tại của DN mình để điều
chỉnh theo mục tiêu, chiến lược của DN.
Thứ ba, kết quả về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ ổn định hóa cổ tức ở
Việt Nam chủ yếu được giải thích từ lý thuyết người đại diện. Các mâu thuẫn đại diện
càng tăng lên khi quyền sở hữu và quyền điều hành càng tách biệt. Do vậy, xuất phát
từ góc độ quản trị doanh nghiệp, DN cần làm gì để giải quyết các mâu thuẫn lợi ích đó
để giảm chi phí đại diện?
Nguyên tắc về quản trị doanh nghiệp của OECD được áp dụng khá rộng rãi trên
thế giới được xây dựng dựa trên lý thuyết người đại diện. Nhà quản lý DN có thể áp
dụng các nguyên tắc này,để điều hành DN, điều chỉnh chính sách cổ tức của DN sao
cho có thể tối đa hóa giá trị cổ phiếu.
Thứ tư, công bố thông tin và minh bạch thông tin để giảm chi phí vốn cổ phần.
Đồng thời nâng cao vai trò của quản trị doanh nghiệp.
121
Một yêu cầu đặt ra khi quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế là doanh
nghiệp cần công khai minh bạch hoạt động của mình. Ngoài việc tổ chức đại hội đồng
cổ đông hàng năm thì doanh nghiệp nên thường xuyên tổ chức các hoạt động định kỳ,
thông báo tình hình hoạt động của công ty và truyền tải chiến lược phát triển công ty
5.2.3. Đối với nhà hoạch định chính sách
Kết quả của luận án khẳng định: (i) Tồn tại hiện tượng ổn định hóa cổ tức của
các DNNY ở Việt Nam, mức độ ổn định có sự khác biệt giữa DNNY trên HOSE và
DNNY trên HNX, mức độ ổn định cũng có sự khác biệt giữa các nhóm ngành kinh
doanh; (ii) Lý thuyết đại diện phù hợp để giải thích hiện tượng ổn định hóa cổ tức ở
Việt Nam, trong đó, doanh nghiệp có cấu trúc sở hữu phân tán, tỷ lệ sở hữu của cổ
đông là tổ chức thấp, ít cơ hội đầu tư sẽ có xu hướng ổn định hóa cổ tức hơn vì các DN
này tiềm ẩn xung đột lợi ích lớn nên việc thực hiện ổn định hóa cổ tức nhằm giảm
thiểu các chi phí đại diện; (iii) Mặc dù không đầy đủ, nhưng lý thuyết tín hiệu cũng
phù hợp để giải thích hiện tượng ổn định hóa cổ tức ở Việt Nam, khi mức độ rủi ro của
DN càng cao thì vấn đề BCXTT mà DN gặp phải càng lớn, do dó DN thực hiện ổn
định hóa cổ tức nhằm làm tăng tín hiệu giá trị.
Từ các thông tin mà luận án cung cấp được, nhà hoạch định chính sách có thể sử
dụng thông tin để phân tích và dự báo tốt hơn về tài sản và sức khỏe của DN, từ đó có
nhiều thông tin hơn cho việc xây dựng chính sách liên quan đến thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ, tính minh bạch thông tin thấp,
thiếu cơ chế trong việc bảo vệ NĐT, thị trường hoạt động chưa hiệu quả, năng lực
quản trị của các DNNY còn thấp thì việc xây dựng và hoạch định chính sách cổ tức
của DN còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, các hàm ý chính sách về việc tăng tính
minh bạch thông tin và kiểm soát hoạt động công bố thông tin đối với các DNNY;
đồng thời xây dựng cơ chế bảo vệ NĐT là cần thiết; Ngoài ra, cần đề cao vai trò của
giới phân tích chứng khoán rong việc giám sát độc lập đến các hành vi không vì lợi ích
của cổ đông để thông tin truyền đến NĐT nhanh chóng và kịp thời hơn.
5.3. Hạn chế của luận án và hƣớng nghiên cứu tiếp theo
5.3.1. Hạn chế của luận án
Với các tiêu chuẩn chọn mẫu chặt chẽ và việc thu thập dữ liệu được thực hiện
rất công phu, cùng với sự nỗ lực trong quá trình tổng quan nghiên cứu, luận án đã cung
cấp một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, luận án vẫn còn một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, Còn nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến các hành vi ổn định hóa cổ
tức chưa được kiểm soát trong luận án như các hình thức thanh toán cổ tức hay vấn đề
quản trị doanh nghiệp và quản trị thu nhập. Mặc dù luận án đã chỉ ra thực trạng của
122
các hình thức thanh toán cổ tức ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là bằng tiền mặt, tuy
nhiên các nhà đầu tư ở Việt Nam được cho là nhạy bén với các thông tin về cổ tức và
các hình thức thanh toán cổ tức. Do vậy, hành vi trả cổ tức bằng cổ phiếu hoặc hành vi
mua lại cổ phiếu của DN có thể có ảnh hưởng đến hành vi ổn định hóa cổ tức.
Thứ hai, Mục tiêu nghiên cứu của luận án hướng đến việc cung cấp thông tin về
hiện tượng ổn định hóa cổ tức, kết quả nghiên cứu được sử dụng để cung cấp thông tin
cho nhà đầu tư, nhà quản lý DN và cả nhà hoạch định chính sách. Do vậy, luận án
không hướng đến việc đánh giá hiện tượng ổn định hóa cổ tức là tốt hay không tốt.
Theo như tổng quan của tác giả, các nghiên cứu đưa ra kết quả trái chiều về tác động
của hiện tượng ổn định hóa cổ tức đến giá trị DN, mục tiêu của luận án lại không nhằm
đến việc đánh giá mối quan hệ đó. Do vậy, kết quả nghiên cứu sẽ không đủ để đưa ra
các hàm ý chính sách nhằm khuyến khích hay hạn chế hiện tượng này.
Thứ ba, Về vấn đề dịch thuật chủ đề “dividend smoothing”. Tác giả còn gặp
khó khăn trong việc sử dụng thống nhất từ khóa cho chủ đề này, nên trong luận án đôi
khi tác giả còn sử dụng đa thuật ngữ.
5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo
Với một số hạn chế của nghiên cứu, đề tài gợi ý các hướng nghiên cứu tiếp theo
thông qua một số câu hỏi còn bỏ ngỏ như: Hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu có ảnh
hưởng đến hành vi ổn định hóa cổ tức không? Ổn định hóa cổ tức có phải là hành vi
của quản trị thu nhập không? Ổn định hóa cổ tức có tác động như thế nào đến giá trị
doanh nghiệp?
Các công trình nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rằng ngoài các nhóm
nguyên nhân bắt nguồn từ vấn đề nội tại của DN thì mức độ ổn định hóa cổ tức còn
xuất phát từ thị trường chứng khoán, các quy định về pháp luật về thể chế hay các vấn
đề phát sinh từ khủng hoảng kinh tế. Do đó, các nghiên cứu sau này có thể triển khai
theo hướng xem xét ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô.
123
KẾT LUẬN
Với kết cấu 5 chương, luận án đã thực hiện được những nội dung sau:
- Đã kiểm định và khẳng định sự tồn tại và mức độ ổn định hóa cổ tức của
DNNY ở Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2018. Điều này khẳng định trên thị trường
chứng khoán cận biên, các DNNY có xu hướng ổn định hóa cổ tức, tuy nhiên với mức
độ thấp hơn ở thị trường phát triển và thị trường mới nổi.
- Đã kiểm định và chỉ ra mối quan hệ giữa các biến: Tuổi, quy mô, tăng
trưởng, rủi ro kinh doanh, sở hữu cổ đông lớn, sở hữu Nhà nước, cạnh tranh ngành ảnh
hưởng đến mức độ ổn định hóa cổ tức. Luận án không tìm thấy sự tác động của biến sở
hữu tổ chức và dòng tiền đến mức độ ổn định hóa cổ tức.
- Đã mô tả được biến động về mức cổ tức và thu nhập bình quân một cổ phiếu
trên toàn bộ mẫu nghiên cứu, theo sàn và theo ngành trong giai đoạn 2008-2018. Đồng
thời, mô tả được các đặc điểm nội tại của các DNNY với biến động cổ tức.
- Luận án đã đưa ra một số đề xuất, khuyến nghị cho các nhà đầu tư, nhà quản
lý doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách về chính sách cổ tức.
Với những kết quả đạt được, luận án cung cấp một bức tranh đầy đủ về các đặc
điểm và hiện tượng ổn định hóa cổ tức của các DNNY trên TTCK Việt Nam. Đây có
thể được xem như một trường hợp nghiên cứu điển hình cho thị trường cận biên, từ đó
góp phần ủng hộ lý thuyết người đại diện.
Về mặt kỹ thuật, việc kiểm định sự phù hợp của thước đo biến động tương đối
giữa dòng cổ tức thực so với dòng cổ tức mục tiêu đã giúp khẳng định thêm về sự phù
hợp của thước đo RelVol bên cạnh thước đo truyền thống. Ngoài ra, trong mô hình các
nhân tố ảnh hưởng, kết quả gợi ý thước đo RelVol của Leary và Michaely (2011) cho
kết quả có ý nghĩa kinh tế hơn.
Cuối cùng,“bên cạnh những kết quả đạt được, luận án cũng thừa nhận một số
hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện cũng như hướng nghiên cứu trong tương lai được trình
bày chi tiết trong nội dung luận án.”
124
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Nguyễn Thị Hải Yến, Nguyễn Văn Định (2019), “Dividend smoothing:
Empirical evidence from listed firms on Vietnamese stock exchanges”, Kỷ yếu
hội thảo quốc tế: The 5th international conference on accounting and finance
2019 (ICOAF 2019), Đại học kinh tế - Đại học Đà Nẵng, tháng 7/2019.
2. Nguyễn Thị Hải Yến (2019), “Kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng
lựa chọn hình thức trả cổ tức của các DNNY ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự
báo, Số 18, tháng 6/2019, trang 181-184.
3. Nguyễn Văn Định, Nguyễn Thị Hải Yến (2018), “Testing effects of changes in
earning to dividend actions of listing firms on Vietnamese stock exchanges using
the multinomial logistic regression model”, VNU Journal of Science - Economics
and Business, Vol.34, No.2, 2018, p.44-53.
4. Nguyễn Thị Hải Yến, Nguyễn Văn Định (2018), “Nhận diện chính sách trả cổ
tức của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp
chí Kinh tế và Dự báo, Số 18, tháng 6/2018, trang 29-32.
125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abor Joshua và Godfred A Bokpin (2010), “Investment opportunities, corporate
finance, and dividend payout policy: Evidence from emerging markets”, Studies
in Economics and Finance, Số 27 (3),Trang: 180-194.
2. Adaoglu Cahit (2000), “Instability in the dividend policy of the Istanbul Stock
Exchange (ISE) corporations: evidence from an emerging market”, Emerging
Markets Review, Số 1(3),Trang: 252-270.
3. Aivazian Varouj, Laurence Booth và Sean Cleary (2003), “Do emerging market
firms follow different dividend policies from US firms?”, Journal of Financial
research, Số 26(3),Trang: 371-387.
4. Allen Franklin và Roni Michaely (1995), “Dividend policy”, Handbooks in
operations research and management science, Số 9,Trang: 793-837.
5. Allen Franklin và Roni Michaely (2003), “Payout policy”, Handbook of the
Economics of Finance, Số 1,Trang: 337-429.
6. Allen Franklin, Antonio E Bernardo và Ivo Welch (2000), “A theory of dividends
based on tax clienteles”, The Journal of Finance, Số 55(6),Trang: 2499-2536.
7. Almeida Heitor, Murillo Campello và Michael S Weisbach (2004), “The cash
flow sensitivity of cash”, The Journal of Finance, Số 59(4),Trang: 1777-1804.
8. Al-Najjar Basil (2009), “Dividend behaviour and smoothing new evidence from
Jordanian panel data”, Studies in Economics and Finance, Số 26(3),Trang: 182-197.
9. Al-Najjar Basil và Erhan Kilincarslan (2017), “Corporate dividend decisions and
dividend smoothing: New evidence from an empirical study of Turkish firms”,
International Journal of Managerial Finance, Số 13(3),Trang: 304-331.
10. Al-Yahyaee KH, TM Pham và TS Walter (2011), “Dividend smoothing when
firms distribute most of their earnings as dividends”, Applied Financial
Economics, Số 21(16),Trang: 1175-1183.
11. Andres Christian, André Betzer, Marc Goergen và Luc Renneboog (2009),
“Dividend policy of German firms: A panel data analysis of partial adjustment
models”, Journal of Empirical Finance, Số 16(2),Trang: 175-187.
12. Baker H Kent và Gary E Powell (2000), “Determinants of corporate dividend
policy: a survey of NYSE firms”, Financial Practice and education, Số
10,Trang: 29-40.
126
13. Bates Thomas W, Kathleen M Kahle và René M Stulz (2009), “Why do US firms
hold so much more cash than they used to?”, The Journal of Finance, Số
64(5),Trang: 1985-2021.
14. Bhattacharya Sudipto (1979), “Imperfect information, dividend policy, and “the
bird in the hand” fallacy”, Bell journal of economics, Số 10(1),Trang: 259-270.
15. Brav Alon, John R Graham, Campbell R Harvey và Roni Michaely (2005),
“Payout policy in the 21st century”, Journal of financial economics, Số
77(3),Trang: 483-527.
16. Brennan Michael J và Anjan V Thakor (1990), “Shareholder preferences and
dividend policy”, The Journal of Finance, Số 45(4),Trang: 993-1018.
17. Chaney Paul K và Craig M Lewis (1995), “Earnings management and firm
valuation under asymmetric information”, Journal of Corporate Finance, Số
1(3),Trang: 319-345.
18. Chang Rosita P và S Ghon Rhee (1990), “The impact of personal taxes on
corporate dividend policy and capital structure decisions”, Financial
Management,Trang: 21-31.
19. Chateau Jean-pierre d (1979), “Dividend policy revisted: Within-and out-of-sample
tests”, Journal of Business Finance and Accounting, Số 6(3),Trang: 355-370.
20. Chemmanur Thomas J, Jie He, Gang Hu và Helen Liu (2010), “Is dividend
smoothing universal?: New insights from a comparative study of dividend
policies in Hong Kong and the US”, Journal of Corporate Finance, Số
16(4),Trang: 413-430.
21. Đào Lê Minh (2002), Chính sách cổ tức và tác động của nó tới doanh nghiệp-
Những gợi ý cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Ủy ban chứng
khoán Nhà nước.
22. DeAngelo Harry và Linda DeAngelo (2007), “Capital structure, payout policy,
and financial flexibility”, Working paper.
23. Dewenter Kathryn L và Vincent A Warther (1998), “Dividends, asymmetric
information, and agency conflicts: Evidence from a comparison of the dividend
policies of Japanese and US firms”, The Journal of Finance, Số 53(3),Trang:
879-904.
127
24. Đinh Bảo Ngọc và Nguyễn Chí Cường (2014), “Các nhân tố ảnh hưởng đến
chính sách cổ tức của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 290,Trang: 42-60.
25. Fama Eugene F và Harvey Babiak (1968), “Dividend policy: An empirical
analysis”, Journal of the American statistical Association, Số 63(324),Trang:
1132-1161.
26. Frank Murray Z và Goyal Vidhan K (2003), “Testing the Pecking Order Theory
of Capital Structure”, Journal of Financial Economics, Số 67, Trang: 217-248.
27. Freeman Robert N (1987), “The association between accounting earnings and
security returns for large and small firms”, Journal of Accounting and
Economics, Số 9(2),Trang: 195-228.
28. Fudenberg Drew và Jean Tirole (1995), “A theory of income and dividend
smoothing based on incumbency rents”, Journal of political economy,Trang: 75-93.
29. Garrett Ian và Richard Priestley (2000), “Dividend behaviour and dividend signaling”,
Journal of financial and Quantitative analysis, Số 35(02),Trang: 173-189.
30. Glen Jack D, Yannis Karmokolias, Robert R Miller và Sanjay Shah (1995),
Dividend policy and behavior in emerging markets: To pay or not to pay, The
World Bank.
31. Grullon Gustavo, Michaely Roni and Swaminathan Bhaskaran (2002), “Are
dividend changes a sign of firm maturity?”, The Journal of Business, Số 75,
Trang: 387-424.
32. Gugler, K. (2003), „Corporate Governance, Dividend Payout Policy, and the
Interrelation between Dividends, R&D, and Capital Investment‟, Journal of
Banking and Finance, Số 27, Trang 1297–1321.
33. Guttman Ilan, Ohad Kadan và Eugene Kandel (2001), “A Theory of Dividend
Smoothing”, Working Paper.
34. Guttman Ilan, Ohad Kadan và Eugene Kandel (2010), “Dividend stickiness and
strategic pooling”, Review of Financial studies, Số 23(12),Trang: 4455-4495.
35. Harries Milton và Raviv Artur (1991), “The theory of capital structure”, Journal
of Finance, Số 46, Trang: 297-355.
128
36. Holder Mark E, Frederick W Langrehr và J Lawrence Hexter (1998), “Dividend
policy determinants: An investigation of the influences of stakeholder theory”,
Financial Management,Trang: 73-82.
37. Hu Fang và Xiude Chen (2012), “Dividend smoothing and firm value: Evidence
from Chinese firms”, Kỷ yếu hội thảo: 2012 International Conference on
Information Management, Innovation Management and Industrial Engineering,
Trang 98-101.
38. Jensen Michael C và William H Meckling (1976), “Theory of the firm:
Managerial behavior, agency costs and ownership structure”, Journal of financial
economics, Số 3(4),Trang: 305-360.
39. Jeong Jinho (2013), “Determinants of dividend smoothing in emerging market:
The case of Korea”, Emerging Markets Review, Số 17,Trang: 76-88.
40. John Kose và Anzhela Knyazeva (2006), “Payout policy, agency conflicts, and
corporate governance”, Agency Conflicts, and Corporate Governance (May 2006).
41. John Kose và Joseph Williams (1985), “Dividends, dilution, and taxes: A
signalling equilibrium”, The Journal of Finance, Số 40(4),Trang: 1053-1070.
42. Kighir Apedzan Emmanuel, Normah Haji Omar và Norhayati Mohamed (2015),
“Corporate cash flow and dividends smoothing: a panel data analysis at Bursa
Malaysia”, Journal of Financial Reporting and Accounting, Số 13 (1),Trang: 2-19.
43. Koch Paul D và Catherine Shenoy (1999), “The information content of dividend
and capital structure policies”, Financial Management,Trang: 16-35.
44. Kumar Praveen (1988), “Shareholder-manager conflict and the information
content of dividends”, Review of Financial studies, Số 1(2),Trang: 111-136.
45. Kumar Praveen và Bong-Soo Lee (2001), “Discrete dividend policy with
permanent earnings”, Financial Management,Trang: 55-76.
46. La Porta Rafael, Florencio Lopez-de-Silanes, Andrei Shleifer và Robert Vishny
(2000), “Investor protection and corporate governance”, Journal of financial
economics, Số 58(1),Trang: 3-27.
47. Lambrecht Bart M và Stewart C Myers (2010), “A Litner Model of Payout and
Managerial Rents”, National Bureau of Economic Research.
48. Larkin Yelena, Leary Mark T và Roni Michaely (2017). “Do investors value
dividend smoothing stocks differently?”, Management Science, Số 63 (12),
Trang: 3999-4446.
129
49. Lasfer M Ameziane (1996), “Taxes and dividends: The UK evidence”, Journal
of Banking and Finance, Số 20(3),Trang: 455-472.
50. Leary Mark T và Michaely Roni (2011), “Determinants of dividend smoothing:
Empirical evidence”, Review of Financial studies, Số 24(10),Trang: 3197-3249.
51. Lemmon Michael L và Zender Jaime F (2010), “Debt capacity and tests of
capital structure theories”, Journal of Financial and Quantitative Analysis, Số
45, Trang: 1161-1187.
52. Marsh Terry A và Robert C Merton (1987), “Dividend behavior for the aggregate
stock market”, Journal of Business,Trang: 1-40.
53. McDonald John G, Bertrand Jacquillat và Maurice Nussenbaum (1975), “Dividend,
investment and financing decisions: empirical evidence on French firms”, Journal of
financial and Quantitative analysis, Số 10(05),Trang: 741-755.
54. Michaely Roni và M Roberts (2006), “Dividend smoothing, agency costs, and
information asymmetry: Lessons from the dividend policies of private firms”,
Unpublished working paper.
55. Miller Merton H và Franco Modigliani (1961), “Dividend policy, growth, and the
valuation of shares”, the Journal of Business, Số 34(4),Trang: 411-433.
56. Miller Merton H và Kevin Rock (1985), “Dividend policy under asymmetric
information”, The Journal of Finance, Số 40(4),Trang: 1031-1051.
57. Miller và Scholes (1978), “Dividends and Taxes”, Journal of Financial
Economics, Số 6, Trang: 333-364.
58. Modigliani Franco và Merton H Miller (1958), “The cost of capital, corporation
finance and the theory of investment”, The American economic review, Số
48(3),Trang: 261-297.
59. Ngô Thị Quyên (2016), Các nhân tố tác động đến chính sách cổ tức tại các
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sĩ,
Đại học Kinh tế Quốc dân.
60. Nguyễn Minh Kiều (2012), Chính sách cổ tức, từ liên kết:
61. Nguyễn Thị Minh Huệ (2015), “Tác động của thông báo cổ tức lên giá cổ phiếu
của các doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM”, Tạp chí
Phát triển kinh tế, Số 26(5),Trang: 44-59.
130
62. Nguyễn Thị Minh Huệ, Nguyễn Thị Thùy Dung và Nguyễn Thị Thùy Linh (2014),
“Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách chi trả cổ tức của các doanh nghiệp cổ
phần tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 210,Trang: 33-42.
63. Nguyen Xuan Minh và Quoc Trung Tran (2016), “Dividend Smoothing and
Signaling Under the Impact of the Global Financial Crisis: A Comparison of US
and Southeast Asian Markets”, Tạp chí International Journal of Economics and
Finance, Số 8(11),Trang: 118.
64. Pandey Indra M (2001), “Corporate dividend policy and behaviour: the
Malaysian experience”, Working paper No. 2001-11-01.
65. Pruitt Stephen W và Lawrence J Gitman (1991), “The interactions between the
investment, financing, and dividend decisions of major US firms”, Financial
review, Số 26(3),Trang: 409-430.
66. Rozycki John J (1997), “A tax motivation for smoothing dividends”, The
Quarterly Review of Economics and Finance, Số 37(2),Trang: 563-578.
67. Shinozaki Shinya và Konari Uchida (2014), “Ownership structure, tax regime,
and dividend smoothing: International evidence”.
68. Tô Thị Thanh Trúc (2016), “Tình hình chi trả cổ tức tiền mặt của các doanh nghiệp
niêm yết trên HOSE”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, Số 134, Trang: 58-71.
69. Trần Thị Hải Lý (2012), “Quan điểm của các nhà quản lý doanh nghiêp Việt
Nam về chính sách cổ tức với giá trị doanh nghiệp”, Tạp chí Phát triển và Hội
nhập, Số 4,Trang: 13-20.
70. Trần Thị Tố Uyên (2015), Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ ổn định cổ tức:
Trường hợp của Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
71. Trần Thị Tuấn Anh (2016), “Các yếu tố tác động đến chính sách cổ tức của
doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận bằng hồi quy phân vị”, Tạp chí Phát triển kinh
tế, Số 2,Trang: 108-127.
72. Trương Thị Thu Hương (2019), Nghiên cứu mối quan hệ giữa thay đổi cổ tức và
khả năng sinh lợi của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân.
73. Võ Xuân Vinh (2014), “Sở hữu quản lý và chính sách cổ tức: Nghiên cứu các
doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ Ngân
hàng, Số 100,Trang: 15-22.
131
74. Vũ Văn Ninh (2008), Hoàn thiện chính sách trả cổ tức trong các doanh nghiệp cổ
phần niêm yết chứng khoán ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
75. Wei Gang và Jason Zezhong Xiao (2009), “Equity ownership segregation,
shareholder preferences, and dividend policy in China”, The British accounting
review, Số 41(3),Trang: 169-183.
76. Zahid Ali, Assad Ullah và Arshad Ali (2019), “Board structure and dividend
smoothing: A case of Pakistani listed firms”, Bussiness Review, Số 14(2), Trang
65-91.