1. Các quy định của WTO về trợ cấp đã hình thành từ GATT 1947 và phát
triển qua nhiều vòng đàm phán khác nhau. Trong quá trình phát triển, quan điểm về
trợ cấp của WTO có sự thay đổi nhất định với xu hướng đưa các thoả thuận về trợ cấp
vào khuôn khổ hơn, kiểm soát việc áp dụng trợ cấp của các thành viên nhiều hơn.
Nhưng chính các thành viên WTO đã thừa nhận trong các Hiệp định liên quan rằng
bảo hộ mậu dịch trong giai đầu và trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển của các nước đang phát triển. Bởi áp dụng và duy trì trợ cấp ở các nước đang
phát triển là hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh
nghiệp và của quốc gia tại các nước đang phát triển. Do vậy, trợ cấp không phải là
biện pháp phải loại bỏ hoàn toàn theo quy định của WTO. Các nước đang phát triển
được hưởng quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt trong việc áp dụng và duy trì trợ cấp
đối với ngành sản xuất trong nước trong thời gian đầu thực hiện thương mại tự do.
2. Quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt về trợ cấp của WTO đã bị ít nhiều xói
mòn, suy giảm so với giai đoạn trước. Dù vậy trong lĩnh vực trợ cấp, các nước đang
phát triển và kém phát triển vẫn nhận được những ưu đãi liên quan đến việc giảm bớt
nghĩa vụ cắt giảm trợ cấp cũng như lộ trình thực hiện việc cắt giảm. Tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy nước đang phát triển đang phải chấp nhận những quy tắc về trợ cấp
không công bằng và thoả đáng. Nhóm nước đang phát triển gia nhập WTO sau năm
1995 đều phải đưa ra cam kết xoá bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu cả trong lĩnh vực
công nghiệp và nông nghiệp. Việc áp dụng và duy trì trợ cấp trong điều kiện là thành
viên WTO ngày càng trở nên khó khăn. Do vậy, các nước đang phát triển đều phải nỗ
lực tận dụng những khoản trợ cấp được phép áp dụng để xây dựng pháp luật trợ cấp
cho sản xuất trong nước.
3. Từ góc độ pháp luật quốc tế, với tư cách là biện pháp bảo hộ mậu dịch,
WTO cũng như nhiều Hiệp định thương mại tự do khác đều không ủng hộ việc áp
dụng trợ cấp. Từ góc độ lợi ích xã hội, trợ cấp suy cho cùng vẫn là một biện pháp có
tác động suy giảm ngân sách nhà nước và từ đó cũng làm suy giảm những phúc lợi
xã hội khác. Vì vậy, việc sử dụng biện pháp trợ cấp trong Chính sách thương mại
quốc tế đòi hỏi phải phù hợp các quy định về trợ cấp của WTO và phải mang lại
những lợi ích khác để bù đắp cho việc suy giảm ngân sách. Xây dựng pháp luật về trợ
cấp của nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng phải xác định nguyên tắc
xuyên suốt: “Trợ cấp cần được áp dụng có mục tiêu trong một khoảng thời gian ngắn
và chỉ hướng đến các đối tượng quan trọng, cần được trợ cấp”. Nhóm đối tượng cần
hướng tới trong pháp luật về trợ cấp bao gồm 02 nhóm: các ngành công nghiệp ưu154
tiên mũi nhọn của quốc gia và những ngành cần bảo vệ để bảo đảm lợi ích xã hội.
4. Theo Hiệp định về trợ cấp như AOA, Hiệp định SCM và Tuyên bố Nairobi,
các nước đang phát triển chỉ được phép duy trì một số loại trợ cấp hoặc hỗ trợ: (1)
Trợ cấp xuất khẩu cho một số ít hàng nông sản (đến năm 2018, có thể kéo dài đến
2022 trong một số điều kiện hạn chế); (2) Trợ cấp xuất khẩu cho tiếp thị, chi phí vận
tải phù hợp với Điều 9.4 - AOA (đến năm 2023 với thành viên đang phát triển, hoặc
năm 2030 với thành viên kém phát triển); (3) Hỗ trợ trong nước cho hàng nông sản
không vượt quá 10% tổng trị giá sản lượng của một sản phẩm nông nghiệp cơ bản,
hoặc mức hỗ trợ không cho một sản phẩm cụ thể không vượt quá 10% trị giá tổng sản
lượng nông nghiệp của thành viên đó; (4) Hỗ trợ trong nước thuộc hộp xanh lục và
hộp xanh lam; và (5) Tất cả các biện pháp trợ cấp khác không gây tác động nghịch.
5. Sau ngày 11/1/2007, trên nguyên tắc tuân thủ quy định của WTO và cam
kết khi gia nhập, pháp luật về trợ cấp của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Theo đó,
trợ cấp bị cấm bao gồm trợ cấp xuất khẩu và nội địa hoá đã từng bước được loại bỏ
trong các văn bản pháp luật của Việt Nam. Các trợ cấp hoặc hỗ trợ khác tiếp tục được
duy trì: miễn thuế, giảm thuế, cấp tín dụng, bảo lãnh tín dụng hay hỗ trợ nông nghiệp.
Đối tượng hưởng trợ cấp được hướng tới bao gồm các ngành công nghiệp ưu tiên,
mũi nhọn; các địa bàn khó khăn; nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ gia đình Tuy
nhiên, chính sách pháp luật về trợ cấp của Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều điểm hạn chế
về lựa chọn biện pháp hỗ trợ tài chính thực sự hiệu quả, về lựa chọn đối tượng hưởng
trợ cấp và về tính mục đích cần phải có ở mỗi chương trình trợ cấp.
175 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 696 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về trợ cấp đối với các nước đang phát triển theo quy định của WTO – Bài học với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trợ cấp như một biện pháp hỗ trợ lâu dài và bền vững. Các giải pháp được
đề xuất dưới đây sẽ hướng tới mục tiêu hoàn thiện pháp luật về trợ cấp của Việt Nam
để nâng cao hiệu quả của hoạt động trợ cấp, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản
phẩm, doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời đảm bảo tuân thủ các cam kết của Việt Nam
trước WTO về trợ cấp.
4.3.1. Nhóm giải pháp nhằm tăng tính định hướng cho trợ cấp
Đối tượng trợ cấp, như đã phân tích, bao gồm sản phẩm và doanh nghiệp được
trợ cấp. Kinh nghiệm từ các nước đi trước đã chỉ ra, trợ cấp không nên áp dụng dàn
trải mà chỉ nên áp dụng tập trung cho một số lĩnh vực được xác định là đối tượng cần
trợ cấp. Xác định đúng đối tượng hưởng trợ cấp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật quốc gia về trợ cấp. Chính sách
pháp luật về trợ cấp chỉ thành công khi đối tượng hưởng trợ cấp được xác định hợp
lý. Để có thể xác định rõ đối tượng hưởng trợ cấp, cần phải chú trọng các giải pháp
sau:
Một là, nhanh chóng xây dựng hệ tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn ngành công
nghiệp ưu tiên, mũi nhọn. Thực tiễn cho thấy Việt Nam khá lúng túng trong việc lựa
144
chọn ngành công nghiệp ưu tiên, mũi nhọn. Để xây dựng hệ tiêu chuẩn, Chính phủ có
thể tổ chức nghiên cứu một cách đầy đủ và khoa học trên cơ sở lý luận và thực tiễn
bằng sự phối hợp nghiên cứu giữa nhiều cơ quan nghiên cứu, các hiệp hội ngành nghề
và các chuyên gia. Hiện nay, có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc lựa
chọn ngành công nghiệp ưu tiên, mũi nhọn. Chính phủ có thể cân nhắc cách tiếp cận
mới trong lựa chọn ưu tiên phát triển một số “lĩnh vực năng lực” phù hợp với mục
tiêu và chiến lược phát triển dài hạn của đất nước hoặc các tiếp cận truyền thống là
lựa chọn ngành công nghiệp ưu tiên trong đó hướng đến một số sản phẩm cụ thể. Dù
theo cách nào thì cũng cần có hệ tiêu chuẩn để soi chiếu ngành được lựa chọn. Nghiên
cứu cần được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn kinh nghiệm của các
quốc gia đã thực hiện trợ cấp và cơ sở thực tiễn của Việt Nam. Nghiên cứu cần được
thực hiện ở nhiều góc nhìn khác nhau để có kết quả đa chiều.
Các tiêu chuẩn có thể cân nhắc trong quá trình xác định ngành công nghiệp ưu
tiên, mũi nhọn: (1) ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh; (2) ngành tạo ra động lực,
tác động lan toả tích cực cho các ngành khác trong nền kinh tế; (3) ngành có tốc độ
tăng trưởng tốt trong nước và trên thế giới; (4) ngành có sử dụng nhiều lao động tại
chỗ; (5) ngành có giá trị gia tăng, có thể tạo ra năng lực cạnh tranh mạnh mẽ trong
tương lai, có sự liên kết với các ngành sản xuất khác; (6) ngành có ít tác động tiêu cực
đến môi trường, cuộc sống của con người.
Hai là, thực hiện các nghiên cứu và phân tích sâu đối với các ngành công
nghiệp có thể được lựa chọn là ngành công nghiệp ưu tiên, mũi nhọn của Việt Nam.
Việc phân tích sâu từng ngành công nghiệp sẽ giúp Chính phủ nhìn rõ những ngành
nào đáp ứng tiêu chuẩn của một ngành công nghiệp ưu tiên trên cơ sở hệ tiêu chuẩn
cơ bản. Thậm chí, việc phân tích này có thể chỉ ra những nhóm hàng nhỏ trong ngành
mà không nhất thiết phải trợ cấp cho toàn bộ ngành công nghiệp. Những nghiên cứu
này cần được thực hiện theo từng giai đoạn cụ thể, bởi lợi thế so sánh, năng lực cạnh
tranh không phải là các đại lượng bất biến, có thể thay đổi theo thời gian. Việc
nghiên cứu và phân tích ở mức độ sâu này bên cạnh các cơ quan nghiên cứu, các
chuyên gia thì phải có sự tham gia của chính các ngành công nghiệp là đối tượng
nghiên cứu.
Ba là, thực hiện nghiên cứu về đối tượng trợ cấp là ngành sản xuất, loại hình
doanh nghiệp, nhóm lao động dễ bị tổn thương trước tự do hoá thương mại. Kết quả
nghiên cứu cũng phải chỉ ra những tiêu chí quan trọng để xác định đối tượng dễ bị
tổng thương, cần bảo vệ đồng thời thực hiện những phân tích sâu đối với các ngành
145
sản xuất, loại hình doanh nghiệp hay nhóm lao động được coi là thuộc nhóm dễ bị tổn
thương. Hiện nay, sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp
siêu nhỏ, người nông dân, người lao động đều là các đối tượng dễ chịu tác động tiêu
cực từ tự do hoá thương mại.
Bốn là, chủ động rà soát các đối tượng hưởng trợ cấp trong toàn bộ quá trình
thực hiện chương trình trợ cấp. Hoạt động rà soát đóng vai trò quan trọng trong việc
đánh giá tính đúng đắn của việc xác định đối tượng trợ cấp. Hoạt động rà soát cũng
góp phần điều chỉnh thu hẹp đối tượng được hưởng trợ cấp. Bởi sau những khoảng
thời gian nhất định trong chương trình trợ cấp, nếu đối tượng hưởng trợ cấp không
đạt được kết quả tăng trưởng như mục tiêu đặt ra, đối tượng hưởng trợ cấp này có thể
bị loại khỏi danh sách trợ cấp.
4.3.2. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện và tăng cường tính hiệu quả của
pháp luật về trợ cấp
Trên cơ sở danh mục các đối tượng trợ cấp phù hợp, bước quan trọng tiếp theo
là hoàn thiện nội dung chính sách pháp luật trợ cấp đối với từng đối tượng trợ cấp cụ
thể hướng tới các mục tiêu xác định. Việt Nam nên chú trọng đến những giải pháp
sau đây:
Một là, xây dựng mục tiêu cụ thể của từng chương trình trợ cấp đối với đối
tượng hưởng trợ cấp cụ thể trong từng giai đoạn xác định và trợ cấp phải đặt trên cơ
sở kết quả của đối tượng hưởng trợ cấp. Trợ cấp, dù dưới hình thức hỗ trợ tài chính
nào từ cấp vốn đến miễn thuế, phần lớn đều khiến cho ngân sách nhà nước suy giảm.
Khi ngân sách nhà nước suy giảm, những phúc lợi xã hội khác cũng cùng suy giảm.
Vì vậy, áp dụng và duy trì trợ cấp phải đảm bảo mang lại lợi ích bù đắp khác. Xây
dựng mục tiêu cụ thể của từng chương trình trợ cấp chính là việc đảm bảo lợi ích mà
trợ cấp mang lại cho xã hội. Mục tiêu cần được xây dựng bao gồm nhiều mục tiêu
ngắn hạn và dài hạn. Đối với những ngành công nghiệp ưu tiên, mũi nhọn, mục tiêu
đặt ra không chỉ đơn thuần là nâng cao năng lực cạnh tranh mà ngành phải hướng đến
mục tiêu trở thành ngành dẫn dắt, tạo động lực lan toả cho sự phát triển của các ngành
khác. Đối với những đối tượng dễ bị tổn thương, mục tiêu là nâng cao năng lực cạnh
tranh, có năng lực xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng như thị trường
trong nước. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp, ngành chỉ coi việc hưởng trợ cấp như
một biện pháp “hớt váng”, sau khi kết thúc trợ cấp không đạt được những mục tiêu
kỳ vọng. Do vậy, cùng với việc xây dựng mục tiêu, chúng ta cần kiên quyết cắt giảm
hoặc chấm dứt trợ cấp đối với những ngành hay doanh nghiệp ưu tiên không đạt được
146
những mục tiêu ngắn hạn cũng như mục tiêu dài hạn.
Hai là, thường xuyên thực hiện các hoạt động đánh giá kết quả hoạt động của
doanh nghiệp, của ngành trong và sau khi kết thúc chương trình nhằm mục đích làm
rõ tính hiệu quả của trợ cấp. Hoạt động đánh giá kết quả là hoạt động quan trọng, cần
thiết luôn đi song hành cùng với việc thực hiện mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của trợ
cấp. Đánh giá kết quả cho chúng ta thấy rõ sự tác động của trợ cấp đối với việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có thể đưa những nhận định
về việc đáp ứng mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của đối tượng hưởng trợ cấp đã đề ra
trong chính sách pháp luật về trợ cấp.
Ba là, rà soát và lựa chọn biện pháp hỗ trợ tài chính áp dụng trong từng chương
trình trợ cấp phù hợp với mục tiêu trợ cấp và đường lối phát triển kinh tế của đất nước
bởi áp dụng biện pháp trợ cấp hợp lý đối với từng ngành là yếu tố quan trọng quyết
định sự thành công của chính sách pháp luật về trợ cấp. Việc rà soát và lựa chọn cần
phối hợp thực hiện giữa các cơ quan nghiên cứu, cơ quan có thẩm quyền liên quan,
ngành sản xuất được lựa chọn trợ cấp và các chuyên gia. Ngoài cơ sở lý luận, việc lựa
chọn các biện pháp hỗ trợ tài chính trong chính sách pháp luật về trợ cấp cần dựa trên
nhu cầu trợ cấp của đối tượng hưởng trợ cấp cụ thể. Nhu cầu trợ cấp của doanh nghiệp
có thể tập trung có một số biện pháp: (1) Về vốn, đối với hầu hết doanh nghiệp Việt
Nam, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhóm doanh nghiệp start-up, khó
khăn về vốn luôn hạn chế sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các biện pháp hỗ
trợ tài chính cho nhóm cần tập trung vào việc tạo Quỹ để doanh nghiệp có thể vay
vốn hoặc được bảo lãnh để vay vốn tại Ngân hàng thương mại. Do đó, việc xây dựng
các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước tại các Ngân hàng là vô cùng cần thiết. Với
mức lãi suất phù hợp, việc cho vay vốn này hoàn toàn không cấu thành trợ cấp. Bên
cạnh đó, xây dựng Quỹ bảo lãnh tín dụng và đảm bảo các Quỹ này hoạt động hiệu
quả cũng vô cùng quan trọng. Tuy nhiên phạm vi hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín
dụng không được phép tự do mà chỉ giới trong những đối tượng nhất định. Huy động
nguồn vốn ngoài ngân sách cũng cần được chú trọng trong việc xây dựng Quỹ bảo
lãnh tín dụng; (2) Về thuế, đối với nhóm doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp
ưu tiên, mũi nhọn, cũng như các doanh nghiệp khác, nghĩa vụ thuế có thể là một bất
lợi cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Nhiều chuyên gia cho rằng mức thuế doanh
nghiệp mà Việt Nam áp dụng vẫn là mức cao so với các nước trong khu vực. Miễn
thuế và giảm thuế cần được cân nhắc trong chính sách pháp luật về trợ cấp. Trong đó
giảm thuế được đánh giá là biện pháp hỗ trợ tài chính an toàn hơn so với miễn thuế
theo các quy định của WTO.
147
Bốn là, chủ động tận dụng quyền của nước đang phát triển trong việc áp dụng
và duy trì các biện pháp trợ cấp được phép. Trong đó, Việt Nam cần tập trung vào hai
nhóm: (1) Trợ cấp xuất khẩu cho hàng nông sản theo Điều 9.4 – hiệp định AOA và
(2) Hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp, là các biện pháp hỗ trợ tài chính được
WTO chấp nhận, không cấu thành trợ cấp. Vì vậy Việt Nam cần tận dụng các biện
pháp này để hỗ trợ doanh nghiệp, hay nông dân trong sản xuất nông nghiệp. Mức hỗ
trợ có thể được tăng lên so với mức hiện nay, các biện pháp hỗ trợ cũng có thể được
mở rộng hơn do Việt Nam chưa hỗ trợ nông nghiệp đạt mức 10% AMS và nhiều
khoản hỗ trợ thuộc hộp “xanh lục” hay “xanh lam” cũng chưa được áp dụng.
Năm là, bổ sung các quy định mới và thay đổi một số quy định pháp luật về
trợ cấp (bao gồm cả quy định về trợ cấp và chống trợ cấp) nhằm hướng tới mục tiêu
phát triển sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong nước một cách
hiệu quả nhất. Đối với việc bổ sung các quy định mới về trợ cấp, liên quan đến việc
áp dụng các khoản miễn giảm thuế nhập khẩu dựa trên tiêu chí xuất khẩu theo Điều
16 - Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016, cần bổ sung văn bản hướng dẫn phân
định nguồn nguyên liệu nhập khẩu dùng cho sản xuất xuất khẩu, bao gồm chiết khấu
thông thường cho phế liệu. Việc không phân định nguồn nguyên liệu nhập khẩu và
nguyên liệu trong nước mà thực hiện việc miễn thuế nhập khẩu hoặc thuế xuất khẩu
một cách đại trà đối với hàng xuất khẩu, biện pháp này có thể cấu thành trợ cấp xuất
khẩu. Bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành cũng là điều cần thiết đối với Luật
quản lý ngoại thương 2017, Chương IV – Biện pháp phòng vệ thương mại, mục 3 –
Chống trợ cấp đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Trong đó việc quy định cụ
thể cách xác định giá trị trợ cấp, giá trị lợi ích, biên độ trợ cấp, tính riêng biệt và thủ
tục tham vấn sẽ phải được hướng dẫn cụ thể.
Sáu là, tăng cường hoạt động hỗ trợ các vấn đề ngoài trợ cấp như đào tạo, kỹ
thuật, hành chính, quản trị doanh nghiệp cho các doanh nghiệp, ngành hưởng trợ cấp
để đạt được mục tiêu trợ cấp. Cần thấy rõ cái đích cuối cùng của việc áp dụng và duy
trì trợ cấp là nâng cao năng lực cạnh tranh cho các đối tượng hưởng trợ cấp để khi kết
thúc sự hỗ trợ của Nhà nước, đối tượng có đủ năng lực để cạnh tranh và phát triển.
Có nghĩa sự hao hụt ngân sách, sự hoán đổi các phúc lợi xã hội khác cho trợ cấp nhất
định phải có hiệu quả, tác động tích cực đối với đối tượng hưởng trợ cấp. Tuy nhiên,
năng lực quản trị và trình độ công nghệ thấp cộng với việc thiếu hụt nhân lực có trình
độ chuyên môn cao đã khiến cho doanh nghiệp, ngành hưởng trợ cấp không thể đáp
ứng mục tiêu trợ cấp. Sau khi kết thúc trợ cấp, các doanh nghiệp, ngành sản xuất này
vẫn không thể tự cạnh tranh và phát triển. Việc kéo dài các chương trình trợ cấp vì
148
vậy thường xảy ra. Do đó, để đạt được mục tiêu trợ cấp theo lộ trình đã định thì ngoài
sự hỗ trợ tài chính, doanh nghiệp, ngành được trợ cấp rất cần sự hỗ trợ khác của Nhà
nước về đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, hoàn thiện hồ sơ phương án kỹ thuật, phương
án kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, thực hiện các thủ tục hành chính
Bảy là, tăng cường hoạt động đào tạo nguồn nhân lực tham gia xây dựng và
thực hiện chính sách pháp luật về trợ cấp của Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, nếu chính
sách pháp luật về trợ cấp tốt cho doanh nghiệp và phù hợp với quy định của WTO,
nhưng quá trình thực hiện không đúng, không minh bạch, thì biện pháp trợ cấp đã áp
dụng có thể không mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp song hoàn toàn có thể bị kiện.
Vì vậy, đào tạo nguồn nhân lực có năng lực chuyên môn, có khả năng sử dụng ngoại
ngữ để tham gia xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật về trợ cấp là vô cùng
quan trọng. Chẳng hạn đối với nguồn nhân lực tại các cơ quan nhà nước tham gia xây
dựng chính sách pháp luật về trợ cấp cần phải có chuyên môn về pháp luật quốc tế,
pháp luật WTO về trợ cấp, năng lực chuyên môn về tài chính, kinh tế cũng như khả
năng sử dụng tốt tiếng Anh. Hay đối với nguồn nhân lực tại Quỹ bảo lãnh tín dụng
hay tham gia quản lý nguồn vốn tín dụng tại các ngân hàng phát triển cần phải có
năng lực chuyên môn để thẩm định hồ sơ, phương án kinh doanh của doanh nghiệp
tiếp cận nguồn vốn vay hay bảo lãnh.
Tám là, tăng cường công tác đào tạo pháp luật và nâng cao hiểu biết cho các
doanh nghiệp, các ngành sản xuất về chính sách pháp luật về trợ cấp. Việc chính các
đối tượng hưởng trợ cấp có hiểu biết đầy đủ về các tiêu chuẩn, lợi ích vật chất cũng
như mục đích chiến lược của trợ cấp có thể giúp các doanh nghiệp hay ngành sản xuất
chủ động hơn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn, tiếp cận chính sách, góp phần rất lớn
trong việc xác định đối tưởng hưởng trợ cấp một cách phù hợp. Đồng thời, việc hiểu
sâu sắc chính sách pháp luật về trợ cấp sẽ giúp đối tượng hưởng trợ cấp hiểu rõ hơn
ý nghĩa của trợ cấp, từ đó thực hiện những biện pháp cải tiến mạnh mẽ nhằm đạt được
mục tiêu của trợ cấp.
Tóm lại, hoàn thiện chính sách pháp luật về trợ cấp là nhu cầu cấp bách trong
tình hình sản phẩm, doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với những đối thủ cạnh
tranh mạnh và hầu hết đều nhận trợ cấp. Để hoàn thiện chính sách và pháp luật về trợ
cấp đòi hỏi sự phối hợp của không chỉ những cơ quan liên quan đến hoạt động xây
dựng và thực hiện chính sách pháp luật mà cả chính những đối tượng sẽ hưởng trợ
cấp.
149
4.3.3. Những vấn đề về trợ cấp mà Việt Nam cần quan tâm khi tham gia các
thoả thuận thương mại tự do
Dựa trên toàn bộ nghiên cứu và phân tích nêu trên có thể nhận thấy, Việt Nam
và nhiều nước đang phát triển khác đang chấp nhận những luật lệ không công bằng
và thoả đáng về trợ cấp trong khuôn khổ WTO. Trợ cấp xuất khẩu được xoá bỏ tại
các nước đang phát triển như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan thì tại các nước phát
triển, trợ cấp xuất khẩu vẫn được phép duy trì. Nhu cầu trợ cấp cho sản xuất trong
nước của các nước đang phát triển là rất lớn song khả năng tài chính để hỗ trợ doanh
nghiệp lại hạn chế. Trong khi đó, các nước phát triển lại luôn có khả năng tài chính
để hỗ trợ lớn cho sản xuất trong nước. Chính bản thân các nước thành viên WTO cũng
nhận rõ, những thoả thuận về trợ cấp tại vòng đàm phán Uruguay là rất bất lợi với các
thành viên đang phát triển. Tuy nhiên, việc đề xuất sửa đổi các quy định của WTO là
không mang tính khả thi bởi toàn bộ Hiệp định đã được đưa ra theo các Gói cam kết.
Hướng tới việc bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, của quốc gia cũng như nhiều lợi ích
xã hội khác, đồng thời hướng tới việc xây dựng những thoả thuận quốc tế công bằng
và hỗ trợ cho nước đang phát triển, Việt Nam cần quan tâm một số vấn đề trong các
vòng đàm phán tiếp theo của WTO cũng như khi tham gia các Hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới. Cụ thể:
Thứ nhất, các quy định về “tạo ra lợi ích” mà trợ cấp tạo ra cho đối tượng
hưởng trợ cấp cần được làm rõ hơn trong các thoả thuận quốc tế về trợ cấp.
“Tạo ra lợi ích” là yếu tố tiên quyết để xác định một khoản hỗ trợ tài chính có
phải là trợ cấp hay không. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, ngoài một số biện pháp
xác định lợi ích khi xảy ra tranh chấp được quy định tại Điều 14 – Hiệp định SCM,
các quy định về trợ cấp của WTO đều không đưa ra khái niệm “lợi ích vật chất”. Việc
xác định “lợi ích vật chất” phụ thuộc lớn vào sự giải thích của cơ quan giải quyết
tranh chấp, vì vậy trở nên khá khó khăn. Trong các vòng đám phán sau này, WTO
cần làm rõ hơn khái niệm “lợi ích vật chất” trong các Hiệp định liên quan.
Thứ hai, các nước đang phát triển cần được hưởng quy chế đối xử đặc biệt và
đặc biệt về trợ cấp một cách trọn vẹn hơn và phù hợp hơn.
Quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt về trợ cấp đã bị xói mòn và suy giảm sau
nhiều vòng đàm phán. Song trên thực tiễn, nhiều nước đang phát triển còn phải đưa
ra những cam kết về trợ cấp theo hướng “từ bỏ” quy chế đặc biệt và khác biệt về trợ
cấp đã bị xói mòn đó. Tức là cam kết về trợ cấp mà các thành viên này đưa ra còn ở
mức tự do hoá thương mại cao hơn các thành viên phát triển nhiều lần. Đây là một
150
điều thực sự không hợp lý trong khi nhu cầu áp dụng và duy trì trợ cấp ở các nước
đang phát triển là thực sự tồn tại. Nguyên nhân của sự không thoả đáng này là sự gia
nhập WTO muộn của nhiều nước đang phát triểncùng với nhu cầu khai thác thị trường
xuất khẩu tại các nước phát triển quá lớn. Thêm vào đó các nước đang phát triển nhận
rõ khả năng tài chính của Chính phủ trợ cấp cho doanh nghiệp là rất hạn chế, trong
khi đó tại các nước phát triển thì ngược lại. Vì vậy, Việt Nam và nhiều nước đang
phát triển cần có chiến lược trong đàm phán về trợ cấp để hướng tới sự trọn vẹn và
hợp lý của quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt trong các quy định mới về trợ cấp của
WTO cũng như các thoả thuận thương mại tự do khác.
Thứ ba, quan điểm về “nước đang phát triển” cần được thể hiện rõ hơn, cập
nhật hơn và phân nhóm phù hợp trong các quy định về trợ cấp nhằm đảm bảo ý nghĩa
thực sự của quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt.
Hiện nay, quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt về trợ cấp của WTO áp dụng
cho hai nhóm thành viên: các nước kém phát triển và các nước đang phát triển. Các
nước đang phát triển được tiếp cận theo hai phân nhóm: nhóm các nước có GNI bình
quân đầu người dưới một nghìn đô-la Mỹ và trên một nghìn đô-la Mỹ. Quan điểm
phân nhóm các “nước đang phát triển” của WTO đã có phần lạc hậu trong sự phát
triển kinh tế không ngừng của các nước đang phát triển. Sự phân nhóm cụ thể hơn
nhằm xác định rõ từng phân nhóm nước đang phát triển có điều kiện kinh tế - xã hội
tương đồng là vô cùng quan trọng. Quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt về trợ cấp sẽ
được áp dụng riêng đối với từng phân nhóm để đảm bảo ý nghĩa của sự hỗ trợ từ WTO
dành cho thành viên phát triển.
Thứ tư, cần có thái độ kiên quyết và lập luận thuyết phục để các thoả thuận
quốc tế về trợ cấp xuất khẩu cần hướng tới nguyên tắc công bằng và thoả đáng.
Trợ cấp xuất khẩu là một trong những nội dung đàm phán cơ bản của các thoả
thuận thương mại tự do. Nếu thoả thuận có hướng tiếp cận xoá bỏ hoàn toàn trợ cấp
xuất khẩu thì nghĩa vụ này cần được đặt ra một cách công bằng cho tất cả thành viên.
Thực tiễn cho thấy nhiều nước đang phát triển đang phải chấp nhận những thoả thuận
về trợ cấp xuất khẩu thực sự không công bằng và thoả đáng. Việc xoá bỏ trợ cấp xuất
khẩu chỉ được thực hiện ở một số nước, một số nước khác vẫn duy trì trợ cấp xuất
khẩu. Trong khi đó, nghĩa vụ xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu cần được đặt ra một cách bình
đẳng cho tất cả các thành viên tham gia thoả thuận, không phân biệt thành viên gia
nhập trước, thành viên gia nhập sau, nước đang phát triển hay thành viên phát triển.
Nếu thoả thuận có hướng tiếp cận cho phép duy trì trợ cấp xuất khẩu trong giai đoạn
151
đầu hội nhập đối với các nước đang phát triển thì thoả thuận này cần được tôn trọng.
Các nước có thể mở cửa thị trường hay loại bỏ trợ cấp rộng hơn so với cam kết (WTO
cộng), song điều này cần được đặt trên nguyên tắc tự nguyện tuyệt đối. Việc buộc
phải đưa ra những cam kết WTO cộng với các nước đang phát triển là một việc không
công bằng. Để có được những thoả thuận quốc tế về trợ cấp xuất khẩu công bằng và
thoả đáng, Việt Nam cần có thái độ kiên quyết trong đàm phán cũng như sự chuẩn bị
đầy đủ để có thể thuyết phục các thành viên khác đồng thuận với quan điểm này.
152
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Với tư cách là thành viên WTO gia nhập sau năm 1995, các cam kết về trợ cấp
của Việt Nam hoàn toàn tuân thủ các quy định về trợ cấp của WTO, thể hiện một quan
điểm thực hiện thương mại tự do mạnh mẽ. Trợ cấp xuất khẩu, trợ cấp nội địa hoá đối
với hàng nông sản hay phi nông sản đều được cam kết không áp dụng hay duy trì.
Thay vào đó, các ngành sản xuất trong nước kỳ vọng vào các khoản hỗ trợ trong nước
hay các khoản trợ cấp khác để giúp doanh nghiệp cạnh tranh trong bối cảnh các doanh
nghiệp của nước phát triển đều nhận được trợ cấp. Tuy nhiên các khoản hỗ trợ trong
nước và các trợ cấp khác đang được áp dụng và duy trì ở Việt Nam đều khá thưa thớt
và chưa đạt được hiệu quả. Pháp luật về trợ cấp của Việt Nam vì vậy chưa tạo ra được
động lực cho các ngành mũi nhọn phát triển.
Dựa trên các quy định của WTO cũng như thực tiễn về trợ cấp tại các nước
thành viên đang phát triển, Chương 4 nêu ra 6 bài học kinh nghiệm và 12 đề xuất
hướng đến việc xây dựng và hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật về trợ cấp
của Việt Nam trong xu hướng tự do hoá thương mại. Trong đó khẳng định nguyên tắc
xuyên suốt trong việc xây dựng các chương trình trợ cấp trong nước: trợ cấp chỉ nên
áp dụng trong thời gian ngắn cho nhóm ngành sản xuất được xác định là các ngành
kinh tế ưu tiên, mũi nhọn nhắm hướng đến mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh
trên thị trường quốc tế, tạo động lực lan toả cho sự phát triển của các ngành khác, thúc
đẩy kinh tế phát triển hoặc áp dụng cho các đối tượng đặc biệt, dễ bị tổn thương nhằm
hướng đến mục tiêu đảm bảo lợi ích xã hội.
Như vậy, dù các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng đang
cố gắng xoá bỏ trợ cấp để gây tác động cắt giảm trợ cấp đến các nước phát triển, song
vẫn không thể phủ nhận là các ngành sản xuất trong nước vẫn cần đến trợ cấp của
Nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật về trợ cấp đảm bảo việc tuân
thủ các cam kết quốc tế của Việt Nam nhưng vẫn bảo vệ và hỗ trợ doanh nghiệp trong
nước là vô cùng quan trọng.
153
KẾT LUẬN CHUNG CỦA LUẬN ÁN
1. Các quy định của WTO về trợ cấp đã hình thành từ GATT 1947 và phát
triển qua nhiều vòng đàm phán khác nhau. Trong quá trình phát triển, quan điểm về
trợ cấp của WTO có sự thay đổi nhất định với xu hướng đưa các thoả thuận về trợ cấp
vào khuôn khổ hơn, kiểm soát việc áp dụng trợ cấp của các thành viên nhiều hơn.
Nhưng chính các thành viên WTO đã thừa nhận trong các Hiệp định liên quan rằng
bảo hộ mậu dịch trong giai đầu và trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển của các nước đang phát triển. Bởi áp dụng và duy trì trợ cấp ở các nước đang
phát triển là hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh
nghiệp và của quốc gia tại các nước đang phát triển. Do vậy, trợ cấp không phải là
biện pháp phải loại bỏ hoàn toàn theo quy định của WTO. Các nước đang phát triển
được hưởng quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt trong việc áp dụng và duy trì trợ cấp
đối với ngành sản xuất trong nước trong thời gian đầu thực hiện thương mại tự do.
2. Quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt về trợ cấp của WTO đã bị ít nhiều xói
mòn, suy giảm so với giai đoạn trước. Dù vậy trong lĩnh vực trợ cấp, các nước đang
phát triển và kém phát triển vẫn nhận được những ưu đãi liên quan đến việc giảm bớt
nghĩa vụ cắt giảm trợ cấp cũng như lộ trình thực hiện việc cắt giảm. Tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy nước đang phát triển đang phải chấp nhận những quy tắc về trợ cấp
không công bằng và thoả đáng. Nhóm nước đang phát triển gia nhập WTO sau năm
1995 đều phải đưa ra cam kết xoá bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu cả trong lĩnh vực
công nghiệp và nông nghiệp. Việc áp dụng và duy trì trợ cấp trong điều kiện là thành
viên WTO ngày càng trở nên khó khăn. Do vậy, các nước đang phát triển đều phải nỗ
lực tận dụng những khoản trợ cấp được phép áp dụng để xây dựng pháp luật trợ cấp
cho sản xuất trong nước.
3. Từ góc độ pháp luật quốc tế, với tư cách là biện pháp bảo hộ mậu dịch,
WTO cũng như nhiều Hiệp định thương mại tự do khác đều không ủng hộ việc áp
dụng trợ cấp. Từ góc độ lợi ích xã hội, trợ cấp suy cho cùng vẫn là một biện pháp có
tác động suy giảm ngân sách nhà nước và từ đó cũng làm suy giảm những phúc lợi
xã hội khác. Vì vậy, việc sử dụng biện pháp trợ cấp trong Chính sách thương mại
quốc tế đòi hỏi phải phù hợp các quy định về trợ cấp của WTO và phải mang lại
những lợi ích khác để bù đắp cho việc suy giảm ngân sách. Xây dựng pháp luật về trợ
cấp của nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng phải xác định nguyên tắc
xuyên suốt: “Trợ cấp cần được áp dụng có mục tiêu trong một khoảng thời gian ngắn
và chỉ hướng đến các đối tượng quan trọng, cần được trợ cấp”. Nhóm đối tượng cần
hướng tới trong pháp luật về trợ cấp bao gồm 02 nhóm: các ngành công nghiệp ưu
154
tiên mũi nhọn của quốc gia và những ngành cần bảo vệ để bảo đảm lợi ích xã hội.
4. Theo Hiệp định về trợ cấp như AOA, Hiệp định SCM và Tuyên bố Nairobi,
các nước đang phát triển chỉ được phép duy trì một số loại trợ cấp hoặc hỗ trợ: (1)
Trợ cấp xuất khẩu cho một số ít hàng nông sản (đến năm 2018, có thể kéo dài đến
2022 trong một số điều kiện hạn chế); (2) Trợ cấp xuất khẩu cho tiếp thị, chi phí vận
tải phù hợp với Điều 9.4 - AOA (đến năm 2023 với thành viên đang phát triển, hoặc
năm 2030 với thành viên kém phát triển); (3) Hỗ trợ trong nước cho hàng nông sản
không vượt quá 10% tổng trị giá sản lượng của một sản phẩm nông nghiệp cơ bản,
hoặc mức hỗ trợ không cho một sản phẩm cụ thể không vượt quá 10% trị giá tổng sản
lượng nông nghiệp của thành viên đó; (4) Hỗ trợ trong nước thuộc hộp xanh lục và
hộp xanh lam; và (5) Tất cả các biện pháp trợ cấp khác không gây tác động nghịch.
5. Sau ngày 11/1/2007, trên nguyên tắc tuân thủ quy định của WTO và cam
kết khi gia nhập, pháp luật về trợ cấp của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Theo đó,
trợ cấp bị cấm bao gồm trợ cấp xuất khẩu và nội địa hoá đã từng bước được loại bỏ
trong các văn bản pháp luật của Việt Nam. Các trợ cấp hoặc hỗ trợ khác tiếp tục được
duy trì: miễn thuế, giảm thuế, cấp tín dụng, bảo lãnh tín dụng hay hỗ trợ nông nghiệp.
Đối tượng hưởng trợ cấp được hướng tới bao gồm các ngành công nghiệp ưu tiên,
mũi nhọn; các địa bàn khó khăn; nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ gia đình Tuy
nhiên, chính sách pháp luật về trợ cấp của Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều điểm hạn chế
về lựa chọn biện pháp hỗ trợ tài chính thực sự hiệu quả, về lựa chọn đối tượng hưởng
trợ cấp và về tính mục đích cần phải có ở mỗi chương trình trợ cấp.
6. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trợ cấp của Việt Nam phù hợp với các
quy định về trợ cấp của WTO và đạt được mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia cần chú
trọng tới việc nghiên cứu các quy định của WTO cũng như kinh nghiệp của nhiều
nước đang phát triển khác. Các bài học kinh nghiệm cần chú trọng trong quá trình
hoàn thiện chính sách pháp luật về trợ cấp của Việt Nam:
- Luôn tuân thủ quy định về xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hoá
cả trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp;
- Nỗ lực nghiên cứu và áp dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính không cấu
thành trợ cấp và các biện pháp trợ cấp được phép áp dụng;
- Lựa chọn các biện pháp hỗ trợ tài chính phù hợp, mang lại lợi ích trước mắt
và lâu dài cho đối tượng hưởng trợ cấp;
- Xây dựng mục tiêu ngắn hạn và dài hạn cho từng đối tượng hưởng trợ cấp
khác nhau đồng thời có thái độ kiên quyết đối với những đối tượng hưởng trợ cấp
không đáp ưng yêu cầu của chương trình trợ cấp;
155
- Thực hiện nghĩa vụ rà soát và chỉnh sửa các văn bản pháp luật về trợ cấp
cũng như thực hiện nghĩa vụ thông báo các chương trình trợ cấp kịp thời trước WTO
đáp ứng nguyên tắc minh bạch;
7. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận án đề xuất một số giải pháp trong hoàn
thiện Chính sách pháp luật về trợ cấp của Việt Nam.
Một là, để khắc phục sự lúng túng trong xác định đối tượng hưởng trợ cấp,
tăng tính định hướng cho trợ cấp luận án đề xuất 04 (bốn) giải pháp. Cụ thể, Việt Nam
cần: (1) nhanh chóng xây dựng hệ tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn ngành công nghiệp
ưu tiên, mũi nhọn; (2) thực hiện các nghiên cứu và phân tích sâu đối với các ngành
công nghiệp có thể được lựa chọn là ngành công nghiệp ưu tiên, mũi nhọn; (3) thực
hiện nghiên cứu về đối tượng trợ cấp là ngành sản xuất, loại hình doanh nghiệp, nhóm
lao động dễ bị tổn thương trước tự do hoá thương mại; (4) chủ động rà soát các đối
tượng hưởng trợ cấp trong toàn bộ quá trình thực hiện chương trình trợ cấp.
Hai là, để tăng cường tính hiệu quả cho các chương trình trợ cấp, gắn liền trợ
cấp với tính mục tiêu, luận án đề xuất 08 (tám)giải pháp. Cụ thể, Việt Nam cần: (1)
xây dựng mục tiêu cụ thể của từng chương trình trợ cấp đối với đối tượng hưởng trợ
cấp cụ thể trong từng giai đoạn xác định và trợ cấp phải đặt trên cơ sở kết quả của đối
tượng hưởng trợ cấp; (2) thường xuyên thực hiện các hoạt động đánh giá kết quả hoạt
động của doanh nghiệp, của ngành trong và sau khi kết thúc chương; (3) rà soát và
lựa chọn biện pháp hỗ trợ tài chính áp dụng trong từng chương trình trợ cấp phù hợp
với mục tiêu trợ cấp và đường lối phát triển kinh tế của đất nước; (4) chủ động tận
dụng quyền của nước đang phát triển trong việc áp dụng và duy trì các biện pháp trợ
cấp được phép; (5) bổ sung các quy định mới và thay đổi một số quy định pháp luật
về trợ cấp (bao gồm cả quy định về trợ cấp và chống trợ cấp) nhằm hướng tới mục
tiêu phát triển sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong nước một
cách hiệu quả nhất; (6) tăng cường hoạt động hỗ trợ các vấn đề ngoài trợ cấp như đào
tạo, kỹ thuật, hành chính, quản trị doanh nghiệp cho các doanh nghiệp, ngành hưởng
trợ cấp để đạt được mục tiêu trợ cấp; (7) tăng cường hoạt động đào tạo nguồn nhân
lực tham gia xây dựng và thực hiện pháp luật về trợ cấp của Việt Nam; (8) tăng cường
công tác đào tạo pháp luật và nâng cao hiểu biết cho các doanh nghiệp, các ngành sản
xuất về pháp luật về trợ cấp.
Ba là, để khắc phục sự không công bằng và thoá đáng tại các thoả thuận quốc
tế về thương mại tự do, luận án đề xuất bốn nội dung mà Việt Nam cần quan tâm khi
tham gia các vòng đàm phán sau của WTO cũng như nhiều Hiệp định thương mại tự
do khác. Cụ thể, Việt Nam cần chú trọng đến các vấn đề: (1) các quy định về “lợi ích
156
vật chất” mà trợ cấp tạo ra cho đối tượng hưởng trợ cấp cần được làm rõ hơn trong
các thoả thuận quốc tế về trợ cấp; (2) các nước đang phát triển cần được hưởng quy
chế đối xử đặc biệt và đặc biệt về trợ cấp một cách trọn vẹn hơn và phù hợp hơn ;(3)
quan điểm về “nước đang phát triển” cần được thể hiện rõ hơn, cập nhật hơn và phân
nhóm phù hợp trong các quy định về trợ cấp nhằm đảm bảo ý nghĩa thực sự của quy
chế đối xử đặc biệt và khác biệt; (4) cần có thái độ kiên quyết và lập luận thuyết phục
để các thoả thuận quốc tế về trợ cấp xuất khẩu cần hướng tới nguyên tắc công bằng
và thoả đáng./
157
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
1. Tháng 10/2012, Trợ cấp xuất khẩu đối với quốc gia đang phát triển trong
khuôn khổ tổ chức thương mại thế giới WTO, Tạp chí Luật học, tr 54-60;
2. Tháng 6/2015, Quy định về cấm áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với các
nước đang phát triển của WTO, Tạo chí Dân chủ và Pháp luật, tr 29-34;
3. Tháng 10/2016, Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt của WTO trong
lĩnh vực trợ cấp, Tạp chí Luật học, tr. 62 – 73.
158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
I. VĂN KIỆN ĐẢNG – VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Nghị quyết 08//NQ-TW ngày 05/02/2007 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá X “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh
và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”;
2. Nghị quyết 22/NQ-TW ngày 10/4/2013 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá XI về “Hội nhập quốc tế”;
3. Biểu cam kết gia nhập WTO của Việt Nam;
4. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12, sửa đổi bổ sung bằng
Luật số 32/2013/QH13 và Luật số 71/2014;
5. Luật hỗ trợ DNVVN số 04/2017/QH14;
6. Luật quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14;
7. Nghị định số 50/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ
trợ phát triển;
8. Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư;
9. Nghị định 32/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/03/2017 về tín dụng đầu
tư của Nhà nước;
10. Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 8/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về tín dụng cho thương nhân hoạt động thương mại tại địa bàn khó khăn ;
11. Quyết định số 1049/2009/QĐ-TTg ngày 26/6/2014 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn;
12. Quyết định 72/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế xây dựng và quản
lý Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia;
13. Quyết định 307/2016/QĐ-TTg về điều chỉnh mức cho vay đối với thương
nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn;
14. Thông tư 96/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp;
15. Thông tư 83/2016/TT-BTC ngày 17/6/2016 của Bộ tài chính hướng dẫn
thực hiện ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật đầu tư năm 2014 và Nghị định
118/2015/NĐ-CP;
159
16. Quy chế Thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV, Ban hành kèm theo Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm
2013 của Thủ tướng Chính phủ;
17. Quy chế bảo lãnh tín dụng đầu tư ban hành kèm Quyết định số 76 /QĐ-
HĐQL ngày 20 tháng 12 năm 2007 của Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát triển Việt
Nam;
II. LUẬN ÁN
18. Phạm Quang Minh (2012), “Xây dựng pháp luật trợ cấp nông nghiệp Việt
Nam theo các quy định của tổ chức TMTG (WTO)’, Luận án tiến sỹ Luật học- Khoa
Luật ĐHQGHN, Hà Nội;
19. Nguyễn Thu Hương (2017), “Các biện pháp phòng vệ thương mại theo
Hiệp định thương mại tự do”, Luận án tiến sỹ Luật học – Học viện Khoa học xã hội;
III. SÁCH – BÁO – TẠP CHÍ
20. Bùi Trường Giang (2010), “Hướng tới chiến lược FTA của Việt Nam: cơ
sở lý luận và thực tiễn Đông Á”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội;
21. Dương Đình Giám (2017), “Công nghiệp Việt nam, một số kiến nghị về
chính sách phát triển đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035”, Tài liệu phục vụ Hội
thảo quốc tế “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm
nhìn đến năm 2035” của Ban tế Trung ương 3/2017;
22. Hoàng Thị Thu Hiền (2016), “Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016:
Những đổi mới quan trọng theo yêu cầu hội nhập”, Tạp chí tài chính kỳ 1, số tháng
7/2016;
23. Montague Lord, Nguyễn Trường Sơn (9/2005), “Việt Nam gia nhập WTO:
phân tích thuế quan, ngành và trợ cấp – Quyển 2: Trợ cấp và gia nhập WTO: tính
tuân thủ quy định WTO và tác động về mặt chính sách đối với Việt Nam”, Tài liệu
phục vụ hội thảo quốc tế, NXB Tài chính, Hà Nội;
24. Nguyễn Thị Anh Thơ (2014), “Vai trò của án lệ trong cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO”, Tạp chí Nghề luật, 7/2014;
25. Nguyễn Thị Thu Trang (2010), “Cẩm nang khởi kiện chống bán phá giá và
chống trợ cấp tại liên minh châu Âu”, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
Hà Nội 2010;
26. Nguyễn Thị Thu Trang (2010), Cẩm nang khởi kiện chống bán phá giá và
chống trợ cấp tại Hoa Kỳ, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hà Nội 2010;
160
27. Nông Quốc Bình (2011), “Pháp luật về trợ cấp trong Thương mại quốc tế
lý luận và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp trường, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
28. Phạm Quang Minh (9/2012), “Trợ cấp nông nghiệp trong tổ chức TMTG
và vấn đề áp dụng chính sách pháp luật trợ cấp nông nghiệp tại Hoa kỳ và Liên minh
châu Âu”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật, 3/2012, tr66-
72;
29. Phạm Quang Minh (9/2012), “Cơ sở lý luận về việc xây dựng Luật trợ cấp
nông nghiệp Việt Nam theo các cam kết quốc tế trong Tổ chức thương mại thế giới
(WTO)”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28/2012, tr49-55;
30. Raj Bhala (2006), Luật thương mại quốc tế: Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Bản dịch, NXB Tư pháp, Hà Nội;
31. Trần Việt Dũng (2013), “Chính sách áp đặt đồng thời các biện pháp chống
bán phá giá và chống trợ cấp lên hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thụ
trường của Hoa Kỳ và EU: hợp pháp hay bất hợp pháp trong khuôn khổ WTO”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 10/2013, tr. 48 – 58;
32. Trường Đại học Cần Thơ (2010), “Tóm tắt những vụ tranh chấp điển hình
của WTO: Báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm từ năm 1995 – 2010”,
NXB Đại học Cần Thơ;
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thương mại quốc tế,
-– NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình song ngữ: Textbook
international trade and business law, Luật thương mại và kinh doanh quốc tế, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội;
35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận chung Nhà nước
và Pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
36. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Luật thương mại quốc
tế, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội;
37. Vũ Thành Tự An (2017), “Xác định các ngành công nghiệp ưu tiên trong
chính sách công nghiệp quốc gia”, Tài liệu phục vụ Hội thảo quốc tế “Chính sách
công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” của Ban
kinh tế Trung ương 3/2017;
38. Trần Thị Thuỳ Dương (2014), “Tìm hiểu Luật WTO qua một số vụ kiện về
trợ cấp”, NXB Hồng Đức, Hà Nội;
161
IV. TÀI LIỆU TỪ CÁC TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ
39. Lãi suất cho vay, truy
cập ngày 10/5/2018;
40. Lãi suất cho vay,
https://www.vietcombank.com.vn/news/vcb_news.aspx?id=6337, truy cập ngày
10/5/2018;
41. Thống kê các vụ điều tra chống trợ cấp đối với hàng hoá Việt nam tính
đến 18/5/2017,
doi-voi-hang-hoa-viet-nam-tinh-den-18052017-n13888.html, truy cập lần cuối ngày
11/5/2018;
42. Quốc hội thông qua luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, có gì khác?,
gi-khac-20170522093626499.htm truy cập ngày 30/5/2018;
B. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
I. VĂN BẢN PHÁP LUẬT
43. The Accession of the People’s Republic of China (WT/L/432);
44. The Agreement on Agriculture (AOA);
45. The Agreement on Subsidies and Countervailing Measures (SCM);
46. Committee on Subsidies and Countervailing Measures – Subsidies – New
and full notification pursuant to article XVI:1 of the GATT 1994 and article 25 of the
Agreement on Subsidies and Countervailing Measures – Brazil
(G/SCM/N/315/BRA);
47. Committee on Subsidies and Countervailing Measures – Subsidies – New
and full notification pursuant to article XVI:1 of the GATT 1994 and article 25 of the
Agreement on Subsidies and Countervailing Measures – USA, G/SCM/N/315/USA
48. Committee on Subsidies and Countervailing Measures – Subsidies – New
and full notification pursuant to article XVI:1 of the GATT 1994 and article 25 of the
Agreement on Subsidies and Countervailing Measures –China, G/SCM/N/220/CHN;
G/SCM/N/253/CHN; G/SCM/N/284/CHN;
49. Committee on Subsidies and Countervailing Measures – Subsidies – New
and full notification pursuant to article XVI:1 of the GATT 1994 and article 25 of the
Agreement on Subsidies and Countervailing Measures –Vietnam,
G/SCM/N/253/VNM;
162
50. Committee on Agricuture – Notification – Vietnam – Domestic Support
G/AG/N/VNM/6;
51. The General Agreement on Tariffs and Trade (GATT) 1994;
52. The General Agreement on Trade in Sevices (GATS);
53. The Nairobi Ministerial Declaration 2015;
54. The Marrakesh Agreement Establishing the World Trade Organization;
55. National development and reform commission of the People’s Republic
China, Policy for development of iron and steel industry, 08/7/2005;
56. Uruguay Round ministerial decisions and Declarations 1994;
II. LUẬN ÁN
57. Bui Ngoc Anh (4/2007), “WTO laws on subsidies and the accession and
participation of transition economies: Vietnam’s case study” – Georgetown
University Law Center – Washington D.C;
III. SÁCH – BÁO – TẠP CHÍ – ÁN LỆ
58. Appellae Body Report, DS 8, 10, 11 – Japan – Average Alcoholic
Beverages II;
59. Appelle Body Report, DS 108 – US – Foreign Sales Corporations;
60. Appelle Body Report, DS 257 - US – Soffwood Lumber IV;
61. Appelle Body Report, DS 379 – US – Anti-dumping and Countervailing
Duties;
62. Appelle Body Report, DS437 – US – Countervailing Measure;
63. Aegis Europe (2015), “10 Commitments China made when it joined the
WTO and has not respected”, Publication of Aegis Europe;
64. Alan O. Sykes (2003), “The Economics of WTO Rules on Subsidies and
Countervailing Measures”, Chicago magazine- John M. Olin Law & Economics
working paper No. 186;
65. Carlos A. Primo Braga & Kjersti Brokhaug (2/2005), “Services and The
Doha Development Agenda”, paper prepared for the Working Group on Trade of the
Parliamentary Network on World Bank, Washington D.C;
66. China charmber of commerce of metals, minerals, chemicals importers and
exporters (5/2007), “China’s steel industry: Dealing with growth, consolidation and
rationalization”, tài liệu trực tuyến từ
163
67. Clive Standbrook, Philip Bentley (1996), “Dumping and subsidies: The law
and procedures governing the imposition of anti-dumping and countervailing duties
in the European Community”, Kluwer Law International, United Kingdom;
68. Christian Tietje (2004), “Current Developments under the WTO
Agreement on Subsidies and Countervailing Measures
as an Example for the
Functional Unity
of Domestic and International Trade Law”, Christian
Tietje/Gerhard Kraft/Rolf Sethe (Hrsg.), Beiträge zum Transnationalen
Wirtschaftsrecht, Heft 26;
69. Daniel Brou, Michele Ruta (2012), “A Commitment Theory of Subsidy
Agreements”, Staff Working Paper ERSD-2012-15, WTO;
70. Economic and Social Development Department – FAO (2000),
“Agriculture, trade and food security issues and options in the WTO negotiations from
the perspective of developing countries”;
71. Eric S. Reinert (2007), “How Rich Countries got Rich and Why Poor
Countries Stay Poor”, Public Affairs, New York;
72. Fabrice Defever and Alejandro Riano (2012), “China's Pure Exporter
Subsidies”, CEP Discussion Paper No. 1182;
73. George A. Berman, Petros C. Mavroisid (2007), “WTO Law and
Developing Countries”, Cambridge Universiry Press, New York;
74. Gustavo E. Luenco, Herrianclez de Madrid (2006), “Regulation of
Subsidies and state Aids in WTO and EC law”, Kluwer Law International, Spain;
75. International Trade Center (2009), “Export Promotion and The WTO: A
brief guide, Geneva;
76. Isabelle Schluep và Harry de Gorter (2000), “The Definition of Export
Subsidies and the Agreement on Agriculture”, Prepared for the World Bank’s
Agricultural Trade Group;
77. Jonas Kasteng, Arne Karlsson, Carina Lindberg (6/2004), “Differentiation
between Developing Countries in the WTO”, Swedish Board of Agriculture -
International Affairs Division;
78. Joost Pauwelyn (2003), “Conflict of norms in public international law :
how WTO law relates to other rules of international law”, Cambridge University
Press, Cambridge;
164
79. Lars Brink (2/2014), Commitments under the WTO agreement on
Agriculture and the Doha draft modalities: “How do they compare to current policy?”,
OECD Global Forum on Agriculture: Issues in Agricultural Trade Polic, Paris;
80. Lin, B., and Z.Jiang (2011), “Estimates of energy subsidies in China and
Impact of Energy reform”, Energy Economics 33:273 – 83;
81. Marc Benitah (2001), The law of subsidies under the GATT/WTO system –
The Hague Kluwell Law International, Hague;
82. Melaku Geboye Desta (2002), “The law of international trade in
agricultural products: from GATT 1947 to the WTO agreement on agriculture”,
Kluwer Law International;
83. Mehdi Shafaeddin (1998). "How did Developed Countries Industrialize?
The History of Trade and Industrial Policy: the Cases of Great Britain and the
USA". United Nations Conference on Trade and Development, UNCTAD Discussion
Papers;
84. Michael N. Cardwell, Margaret Rosso Grossman, and Christopher P.
Rodgers (2003), “Agriculture and international trade: law, policy and the WTO”,
Cambridge, MA:CABI Publishing, Wallingford, UK;
85. Mitsuo Matsushita, Dukgeun Ahn, Tain-Jy Chen (2007), The WTO trade
remedy system: East Asian perspectives, Cameron May, London, United Kingdom;
86. Memorandum of Understanding, DS358, 359
87. Panel Report (1958), Italian Discrimination against Imported Agricultural
machinery, L/833, Supplement BISD (1958);
88. Panel Report – DS 70 - Canada – Measures affecting to the export civilian
aircraft;
89. Panel Report, DS 194 - US – Measures treating export restraints as subsidy;
90. Panel Report, DS 273 – Korea – Commercial Vessels;
91. Panel Report, DS 436 – US – Carbon Steel;
92. Peter Gallagher (2000), “World Trade Organization and developing
countries”, Kluwer Law International, London;
93. Peter A.G. Van Bergeijk & Dick L. Kabel (1993), “Strategic Trade
Theories and Trade Policy”, Journal of World Trade, Volume 27, Issue 6;
165
94. Peter Van Den Bossche (2009), The Law and Policy of the World Trade
Organization, Cambrigde University Express, United Kingdom;
95. Robert E. Hudec (1987), “Developing Countries in the GATT Legal
System”, Hampshire: Gower Publishing Company Ltd;
96. Robert Gilpin (1987), “The polotical economic of international relations”,
Princeton University Press;
97. Ryan E.Lee (2006), “Dogfight: Criticizing the Agreement on Subsidies and
Countervailing Measures Amidst the Largest Dispute in World Trade Organization
History”, 32 N.C. J. Int'l L. & Com. Reg. 115;
98. Steel Business Briefing (2005), China’s Steel Industry Development
Policy;
99. Summary of the dispute, DS222 – Canada – Aircraft Credits and
Guarantees;
100. Summary of the dispute, DS46 – Brazil – Aircraft;
101. Summary of the dispute, DS108 - US – Foreign Sales Corporations;
102. Summary of the dispute, DS257 – US – Softwood Lumber IV;
103. Summary of the dispute, DS379 - US – Anti-dumping and Countervailing
Duties;
104. Summary of the dispute, DS437 – US – Countervailing Duty Measures;
105. Summary of the dispute, DS449 – US – Countervailing and Anti-
Dumping Measures;
106. Thomas Weishing Huang (2003), Trade Remedies: Laws on dumping,
subsidies and safeguards in China, The Hague Kluwer Law International, Hague;
107. United Nation (2003), “Dispute Settlement – World Trade Organization
– 3.7. Subsidies and Countervailing Measures” in the Course “Dispute Settlement in
International Trade, Investment and Intellectual Property”, New York and Geneva;
108. US Genaral Accounting Office (GAO – 10/2002), “Analysis of China’s
Commitment to other members”, Report to Congressinal Committee;
109. Usha C.V. Haley và Geogre T. Haley (2013), “Subsidies to Chinese
Industry: State capitalism, Bussiness Strategy and Trade Policy”, Oxford University
Press;
166
110. Victor Menotti (1993), “The case against Free Trade: GATT, NAFTA
and the globalization of Corporate power”, Earth Island Press and North Atlantic
Books, Hoa Kỳ;
111. William E. Schrank (2003), “Introducing Fisheries Subsidies”, Fao
Fisheries technical paper, số 437, trang 6;
IV. TÀI LIỆU TỪ CÁC TRANG THÔNG TIN TỬ
112. Aegis Europe, “10 Commitments China made when it joined the WTO
and has not respected”,
296715af19/1452243910341/The+10+WTO+Committments+of+China.pdf;
, truy cập ngày 10/5/2018;
113.
114. “Brief note: Agriculture Issues”,
https://www.wto.org/english/thewto_e/minist_e/mc10_e/briefing_notes_e/brief_agri
culture_e.htm#exportcompetition truy cập ngày 30/5/2018;
115. “China's Pure Exporter Subsidies”, CEP Discussion Paper No. 1182,
truy cập ngày 10/5/2018;
116. “China Revises 2004 auto policy”,
policy, truy cập ngày 30/5/2018;
117. China’s Steel Industry Development Policy,
https://www.steelbb.com/files/PDFDownloads/Chinese_steel_policy.pdf, truy cập
ngày 10/5/2018;
118.
119. Export Subsidies, https://stats.oecd.org/glossary/detail.asp?ID=915, truy
cập ngày 10/5/2018;
120. Introducing Fisheries Subsidies (2003), Fao Fisheries Technical Paper,
Số 437, trang 6.:
truy cập lần cuối ngày 28/4/2018;
121. Laws and Regulations under which enforcement and Compliance
operates, https://enforcement.trade.gov/regs/index.html, truy cập ngày 30/5/2018;
167
122. Least Developed Country,
truy cập lần cuối ngày 10/4/2018;
123. “Members and Observers”,
https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/org6_e.htm, truy cập lần cuối
ngày 10/5/2018;
124. Supporting tables relating to commitments on agriculture products in
Part IV of the Schedule,
https://www.wto.org/english/tratop_e/agric_e/schedule_e/tha.pdf, truy cập ngày
30/5/2018;
125. The case for open trade,
https://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/fact3_e.htm, truy cập ngày
05/06/2018;
126. “Who are the developing country in WTO?”,
https://www.wto.org/english/tratop_e/devel_e/d1who_e.htm, truy cập lần cuối ngày
10/4/2108;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_phap_luat_ve_tro_cap_doi_voi_cac_nuoc_dang_phat_trie.pdf