Đối với ý kiến của các doanh nghiệp, yếu tố tác động đến danh tiếng của CRA
doanh nghiệp tại Việt Nam bao gồm sản phẩm dịch vụ, đổi mới, phương pháp xếp
hạng, quản trị tổ chức, tính độc lập, lãnh đạo của tổ chức và hiệu quả hoạt động. Đồng
thời, nghiên cứu cũng đã chứng minh danh tiếng của CRA có tác động rõ nét đến sự
tin tưởng vào CRA và nhận dạng tổ chức CRA, từ đó tác động đến hành vi dự định
sử dụng dịch vụ XHTN của các doanh nghiệp tại Việt Nam cùng với nhân tố cam
kết. Dựa trên thang đo đã được kiểm chứng là phù hợp và thảo luận kết quả của các
mức đánh giá của từng nhân tố trong mô hình thông qua các phân tích thống kê mô
tả, nghiên cứu đã chỉ ra các đánh giá về hành vi dự định sử dụng có mức điểm chung
ở mức trung bình, các doanh nghiệp mặc dù biết PTR là tổ chức CRA duy nhất hiện
tại ở Việt Nam nhưng họ không thực sự xem đó là lựa chọn đầu tiên của họ khi nghĩ
về dịch vụ xếp hạng. Đồng thời danh tiếng của CRA có kết quả khảo sát cho kết quả
mức điểm của thang đo danh tiếng chỉ được đánh giá ở mức trung bình cho thấy các
doanh nghiệp có mức tin tưởng vào danh tiếng của CRA tại Việt Nam (cụ thể là Công
ty Sài Gòn Phát Thịnh Rating) là mức đánh giá không thực sự cao
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 329 trang
329 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 669 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát triển thị trường xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A có liên kết, liên doanh với CRA quốc tế là khác nhau 
- H0b: Trung bình mức độ hành vi dự định sử dụng dịch vụ XHTNDN có trả 
phí đối với CRA so với CRA có liên kết, liên doanh với CRA quốc tế là như 
nhau 
H1b: Trung bình mức độ hành vi dự định sử dụng dịch vụ XHTNDN có trả 
phí đối với CRA so với CRA có liên kết, liên doanh với CRA quốc tế là khác 
nhau 
cix 
Bảng 27. Kiểm định trung bình mức độ đánh giá danh tiếng, hành vi dự định 
sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp của CRA so với CRA có liên kết, liên doanh 
với CRA quốc tế 
Biến quan sát 
Levene's 
Test phương 
sai bằng 
nhau 
t-test trung bình bằng 
nhau 
F Sig. t Df 
Sig. (2-
tailed) 
REP1 
CRA này là một công ty 
được đánh giá cao trên thị 
trường 
0,001 0,982 -17,118 284 0,000 
REP2 
CRA này là một công ty 
thành công trong lĩnh vực 
của họ 
2,041 0,154 -15,875 284 0,000 
REP3 
CRA rõ ràng là hoạt động 
theo tiêu chuẩn cao nhất về 
chính trực 
0,130 0,719 -18,422 284 0,000 
REP4 
CRA tạo được sự tin tưởng 
đối với bên thứ ba 
0,315 0,575 -14,830 284 0,000 
PINT1 
Công ty tôi sẽ sử dụng các 
sản phẩm/dịch vụ của CRA 
trong tương lai 
3,843 0,051 -13,043 284 0,000 
PINT2 
Công ty tôi sẽ xem CRA là 
lựa chọn đầu tiên khi chúng 
tôi có nhu cầu 
0,231 0,631 -18,322 284 0,000 
PINT3 
Công ty sẽ xem xét sử dụng 
các sản phẩm, dịch vụ của 
CRA nhiều hơn khi chúng 
tôi có nhu cầu 
1,821 0,178 -13,442 284 0,000 
PPRE1 
Công ty tôi sẽ sử dụng các 
sản phẩm/dịch vụ của CRA 
với mức giá hiện tại 
0,112 0,738 -18,879 284 0,000 
PPRE2 
Công ty tôi sẽ sử dụng các 
sản phẩm/dịch vụ của CRA 
nếu giá có tăng hơn trong 
tương lai 
0,646 0,422 -13,620 284 0,000 
Nguồn: tác giả tổng hợp từ kết quả tính toán 
cx 
Kết quả kiểm định giá trị trung bình đánh giá cho kết quả không có gì bất ngờ 
khi các đại diện doanh nghiệp khi trả lời đưa ra ý kiến đánh giá của họ về CRA hiện 
tại (PTR) và CRA có liên kết, liên doanh với nước ngoài là có sự khác biệt nhau rõ 
rệt. Tồn tại sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình danh tiếng và hành vi dự định sử 
dụng dịch vụ XHTN có trả phí giữa CRA hiện tại so với CRA có liên kết, liên doanh 
với CRA quốc tế. Các giả thuyết H1a và H1b là chưa đủ cơ sở để bác bỏ. 
Cụ thể trong đó, mức đánh giá khi được hỏi về danh tiếng của CRA Việt Nam 
có liên kết, liên doanh với các CRA quốc tế thì các đánh giá đều tăng mạnh. Với 
thang đo được sử dụng trong nghiên cứu này là từ 1 đến 5 nên có thể chia mức độ 
đánh giá cơ bản của thang đo là 1 – 1,8: rất thấp; 1,8 – 2,6: thấp; 2,6 – 3,4 trung bình, 
3,4 – 4,2: cao và 4,2 – 5: rất cao. Tại một số đánh giá đối với PTR có mức đánh giá 
là trung bình (REP1, REP4) và mức thấp (REP2, REP3) đã được cải thiện một cách 
đang kể lên mức cao (REP2, REP3, REP4) thậm chí là ở mức đánh giá rất cao 
(REP1). 
Đối với hành vi dự định sử dụng dịch vụ XHTNDN, kết quả đưa ra cũng khá 
tương đồng khi các đánh giá từ mức thấp và trung bình đã được cải thiện lên mức cao 
hơn hẳn. Điều này là một phát hiện khá quan trọng để xác định hướng đi phù hợp đối 
với PTR nói riêng và CRA VIệt Nam nói chung là thúc đẩy nhanh tiến độ liên kết, 
liên doanh với các tổ chức CRA lớn trên thế giới và trong khu vực. 
7.2. KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH SỰ KHUYẾCH TÁN ĐỔI MỚI CỦA HOẠT 
ĐỘNG XẾP HẠNG TÍN NHIỆM TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM 
7.2.1. Kết quả kiểm định sự khuyếch tán đổi mới của hoạt động xếp hạng tín 
nhiệm trên thị trường Việt Nam đối với khách hàng cá nhân 
Kiểm định giá trị trung bình của thang đo hành vi dự định sử dụng XHTN 
được thực hiện dựa trên giả thuyết: 
- H0c: Trung bình mức độ hành vi dự định sử dụng XHTNDN của các cá nhân 
tại Việt Nam là không khác nhau giữa các thời điểm 
cxi 
- H1c: Trung bình mức độ hành vi dự định sử dụng XHTNDN của các cá nhân 
tại Việt Nam là có khác nhau giữa các thời điểm 
Kết quả kiểm định giá trị trung bình cho thấy hành vi hành vi dự định sử dụng 
kết quả xếp hạng của các cá nhân tại thị trường Việt Nam đã tăng lên khá rõ. Cụ thể 
là kiểm định cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình của ý định hành vi tại 
hai thời điểm trước và sau, chưa đủ cơ sở để bác bỏ giả thuyết H1c. 
Bảng 28. Kết quả kiểm định trung bình hành vi dự định sử dụng XHTN của các 
cá nhân 
Biến quan sát 
Levene's Test 
phương sai 
bằng nhau 
t-test trung bình bằng nhau 
F Sig. t Df 
Sig. (2-
tailed) 
Đã quyết định sử dụng IT1 0,002 0,968 -3,409 283 0,001 
Sẽ cố gắng sử dụng IT2 0,440 0,508 -3,168 283 0,002 
Có kế hoạch sử dụng IT3 1,572 0,211 -2,753 283 0,006 
Có ý định sử dụng IT4 0,037 0,848 -2,546 283 0,011 
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả tính toán 
Trong đó trung bình của các hành vi dự định càng về sau này càng cao hơn so 
với thời điểm nghị định mới ban hành, một số chỉ tiêu thay đổi từ mức đánh giá trung 
bình sang mức đánh giá cao. Điều đó tạo ra một triển vọng tốt cho thị trường 
XHTNDN của Việt Nam khi rõ ràng trong các cá nhân tại Việt Nam đã xuất hiện 
“người đổi mới”, “người chấp nhận sớm” và phần nào đó là đã tồn tại “số đông người 
đón nhận sự đổi mới”. Khi hoạt động của CRA được mở rộng và thông tin được 
truyền tải đến thị trường thì các cá nhân sẽ là các chủ thể tham gia thị trường đón 
nhận kết quả đó một cách tích cực. Có thể thấy, mức độ phát triển của thị trường 
XHTNDN đối với các cá nhân tại Việt Nam có thể được xếp vào trong giai đoạn thứ 
hai (giai đoạn thuyết phục) của các giai đoạn khuếch tán đổi mới, mức độ phát triển 
cxii 
này vẫn đang còn rất sơ khởi. Cá nhân sẽ dùng cả lý trí và cả các dự báo, suy nghĩ cá 
nhân để đưa ra quyết định chấp nhận hay từ chối hoạt động XHTN. Các cá nhân cũng 
sẽ nhạy cảm hơn với sự đổi mới ở giai đoạn này. Mức độ không chắc chắn về hoạt 
động của sự đổi mới và sự hỗ trợ xã hội từ những người khác (đồng nghiệp, bạn bè...) 
ảnh hưởng đến quan điểm và niềm tin của cá nhân về đổi mới. 
Bảng 29. Giá trị trung bình hành vi dự định sử dụng XHTN của các cá nhân 
Biến quan sát Giai đoạn 
Mức đánh giá trung 
bình 
Đã quyết định sử dụng 
IT1 
2015 - 2016 4,5944 
2016 - 2017 5,1761 
Sẽ cố gắng sử dụng IT2 
2015 - 2016 4,8322 
2016 - 2017 5,3099 
Có kế hoạch sử dụng IT3 
2015 - 2016 4,8462 
2016 - 2017 5,2676 
Có ý định sử dụng IT4 
2015 - 2016 4,8462 
2016 - 2017 5,2254 
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả tính toán 
7.2.2. Kết quả kiểm định sự khuyếch tán đổi mới của hoạt động xếp hạng tín 
nhiệm trên thị trường Việt Nam đối với khách hàng doanh nghiệp 
Từ năm 2018 đến năm 2019, PTR đã công bố chi tiết hơn về các hoạt động 
của họ về phương pháp, mức phí xếp hạng, các dịch vụ cung cấp. Thị trường trái 
phiếu doanh nghiệp trong giai đoạn này cũng đạt được những kết quả thay đổi đáng 
khích lệ. Đồng thời với đó đầu tháng 2/2019 khi Nghị định 163/2018/NĐ-CP của 
Chính phủ quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp chính thức có hiệu lực đã 
mở ra một “chương mới” cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam. 
Với nhiều sự thay đổi đáng kể trên thị trường theo hướng tích cực thì nghiên 
cứu kỳ vọng rằng các đánh giá của các đại diện doanh nghiệp cũng sẽ có sự thay đổi 
cxiii 
tương đối rõ rệt. Một khảo sát với 286 phiếu trả lời của các đại điện doanh nghiệp 
được tác giả sàng lọc để đưa vào trong quá trình phân tích. Để kiểm chứng nhận định 
trên, kiểm định giá trị trung bình của thang đo danh tiếng và hành vi dự định sử dụng 
của các doanh nghiệp được thực hiện dựa trên giả thuyết: 
- H0d: Trung bình mức độ đánh giá danh tiếng của doanh nghiệp đối với CRA 
không thay đổi theo thời gian 
H1d: Trung bình mức độ đánh giá danh tiếng của doanh nghiệp đối với CRA 
có thay đổi theo thời gian 
- H0e: Trung bình mức độ hành vi dự định sử dụng dịch vụ XHTNDN có trả 
phí không thay đổi theo thời gian 
H1e: Trung bình mức độ hành vi dự định sử dụng dịch vụ XHTNDN có trả 
phí có thay đổi theo thời gian 
Để đảm bảo tính chính xác thì các phiếu trả lời đánh giá đối với CRA giả định 
có liên doanh, liên kết với CRA quốc tế được loại bỏ ra khỏi mẫu kiểm định. 
Kết quả kiểm định cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình của ý 
định hành vi tại hai thời điểm trước và sau, chưa đủ cơ sở để bác bỏ giả thuyết H1d 
và H1e. 
cxiv 
Bảng 30. Kết quả kiểm định trung bình mức độ đánh giá của doanh nghiệp về 
danh tiếng và dự định sử dụng dịch vụ XHTNDN có trả phí 
Biến quan sát 
Levene's Test 
phương sai 
bằng nhau 
t-test trung bình bằng 
nhau 
F Sig. t Df 
Sig. (2-
tailed) 
REP1 
CRA này là một công ty 
được đánh giá cao trên thị 
trường 
6,561 0,011 -7,052 168,644 0,000 
REP2 
CRA này là một công ty 
thành công trong lĩnh vực 
của họ 
0,571 0,451 -9,147 200 0,000 
REP3 
CRA rõ ràng là hoạt động 
theo tiêu chuẩn cao nhất 
về chính trực 
0,009 0,925 -7,336 200 0,000 
REP4 
CRA tạo được sự tin 
tưởng đối với bên thứ ba 
0,005 0,945 -6,571 200 0,000 
PINT1 
Công ty tôi sẽ sử dụng các 
sản phẩm/dịch vụ của 
CRA trong tương lai 
9,764 0,002 -3,880 149,634 0,000 
PINT2 
Công ty tôi sẽ xem CRA 
là lựa chọn đầu tiên khi 
chúng tôi có nhu cầu 
16,414 0,000 -3,832 126,126 0,000 
PINT3 
Công ty sẽ xem xét sử 
dụng các sản phẩm, dịch 
vụ của CRA nhiều hơn khi 
chúng tôi có nhu cầu 
2,211 0,139 -3,520 200 0,001 
PPRE1 
Công ty tôi sẽ sử dụng các 
sản phẩm/dịch vụ của 
CRA với mức giá hiện tại 
15,850 0,000 -2,975 120,632 0,004 
PPRE2 
Công ty tôi sẽ sử dụng các 
sản phẩm/dịch vụ của 
CRA nếu giá có tăng hơn 
trong tương lai 
20,658 0,000 -2,721 142,477 0,007 
Nguồn: tác giả tổng hợp từ kết quả tính toán 
cxv 
Với thang đo được sử dụng trong nghiên cứu này là từ 1 đến 5 nên có thể chia 
mức độ đánh giá cơ bản của thang đo là 1 – 1,8: rất thấp; 1,8 – 2,6: thấp; 2,6 – 3,4 
trung bình, 3,4 – 4,2: cao và 4,2 – 5: rất cao thì có thể thấy các đánh giá chi tiết trung 
bình về CRA tại Việt Nam có kết quả không cao. 
Đối với đánh giá về danh tiếng tại thời điểm năm 2018, các doanh nghiệp đều 
đánh giá CRA tại Việt Nam ở mức thấp. Cao nhất trong các đánh giá là REP1 
(2,4661/5) và thấp nhất là REP2 (2,1780) thể hiện sự nghi ngờ của các doanh nghiệp 
Việt Nam về khả năng thành công của PTR trên thị trường XHTNDN và chưa đánh 
giá cao về danh tiếng của tổ chức này. Đến thời điểm năm 2019 thì các kết quả này 
đã được cải thiện đáng kể. Các biến quan sát đo lường về danh tiếng của CRA đã 
tăng từ mức thấp lên mức trung bình. Trong đó, thấp nhất là REP3 (2,8571/5) và cao 
nhất là REP1 (3,1429). Điều đó thể hiện sự nỗ lực của PTR trong thời gian ngắn cũng 
đã được các đại diện doanh nghiệp ghi nhận và càng lúc họ càng có sự đánh giá tốt 
hơn về danh tiếng của PTR. 
Các đánh giá về danh tiếng ở mức thấp trong năm 2018 và ý kiến về PTR ở 
biến quan sát PINT2 – “Công ty tôi sẽ xem CRA là lựa chọn đầu tiên khi chúng tôi 
có nhu cầu” và PPRE1 - “Công ty tôi sẽ sử dụng các sản phẩm/dịch vụ của CRA với 
mức giá hiện tại” cũng bị đánh giá ở mức thấp (lần lượt là 2,3814 và 2,5169). Tuy 
nhiên đến năm 2019 thì tất cả các đánh giá về danh tiếng và hành vi dự định của 
doanh nghiệp Việt Nam với CRA doanh nghiệp đều ở mức trung bình và tăng lên so 
với thời điểm trước đó. 
Như vậy, giá trị trung bình cho thấy đánh giá về danh tiếng của CRA và hành 
vi dự định sử dụng kết quả xếp hạng của các doanh nghiệp tại thị trường Việt Nam 
đã tăng lên mức điểm cao hơn theo thời gian. Có thể rút ra ý tưởng về đánh giá mức 
độ phát triển của thị trường XHTNDN tại Việt Nam theo ý kiến của chính các doanh 
nghiệp thì cũng đang nằm trong giai đoạn thứ hai (thuyết phục) của các giai đoạn 
khuếch tán đổi mới. 
Đồng thời các đánh giá trong tương lai về CRA doanh nghiệp phần lớn đều ở 
tăng lên theo thời gian. Điều này cho thấy các doanh nghiệp hiện tại đang còn phân 
cxvi 
vân với việc sử dụng dịch vụ XHTNDN của CRA nhưng trong tương lai tới họ sẽ 
vẫn tin tưởng và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của CRA. Như vậy, triển vọng phát 
triển hoạt động của các CRA đang được doanh nghiệp đánh giá tốt và nếu như các 
hoạt động của CRA hiệu quả, CRA tạo lập được danh tiếng trên thị trường thì các 
doanh nghiệp sẽ sẵn lòng trả phí, dù có cao hơn hiện tại, để được cung cấp dịch vụ 
XTHN cho họ. Đó là một kết quả đáng ghi nhận để tạo tiền đề cho sự phát triển của 
thị trường XHTN Doanh nghiệp tại Việt Nam. 
cxvii 
Bảng 31. Kết quả đánh giá trung bình của doanh nghiệp về mức độ đánh giá 
danh tiếng và dự định sử dụng dịch vụ XHTNDN có trả phí 
Biến số 
Thời 
gian 
N Trung bình 
CRA này là một công ty được đánh giá cao trên 
thị trường 
REP1 1 118 2,4661 
2 84 3,1429 
CRA này là một công ty thành công trong lĩnh vực 
của họ 
REP2 1 118 2,1780 
2 84 3,0000 
CRA rõ ràng là hoạt động theo tiêu chuẩn cao nhất 
về chính trực 
REP3 1 118 2,2458 
2 84 2,8571 
CRA tạo được sự tin tưởng đối với bên thứ ba 
REP4 1 118 2,3559 
2 84 2,9524 
Công ty tôi sẽ sử dụng các sản phẩm/dịch vụ của 
CRA trong tương lai 
PINT1 1 118 2,7797 
2 84 3,2857 
Công ty tôi sẽ xem CRA là lựa chọn đầu tiên khi 
chúng tôi có nhu cầu 
PINT2 1 118 2,3814 
2 84 2,8095 
Công ty sẽ xem xét sử dụng các sản phẩm, dịch vụ 
của CRA nhiều hơn khi chúng tôi có nhu cầu 
PINT3 1 118 2,8814 
2 84 3,2857 
Công ty tôi sẽ sử dụng các sản phẩm/dịch vụ của 
CRA với mức giá hiện tại 
PPRE1 1 118 2,5169 
2 84 2,8571 
Công ty tôi sẽ sử dụng các sản phẩm/dịch vụ của 
CRA nếu giá có tăng hơn trong tương lai 
PPRE2 1 118 2,9746 
2 84 3,2976 
Ghi chú: 1: thời điểm khảo sát năm 2018, 2: thời điểm khảo sát năm 2019 
Nguồn: tác giả tổng hợp từ kết quả tính toán 
cxviii 
8 PHỤ LỤC 8. LÝ THUYẾT VỀ KHUẾCH TÁN ĐỔI MỚI TRÊN THỊ 
TRƯỜNG 
8.1. TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT KHUẾCH TÁN ĐỔI MỚI TRÊN THỊ 
TRƯỜNG 
Lý thuyết khuếch tán sự đổi mới (Diffusion of innovations theory) được 
Rogers xây dựng từ năm 1962 và sau đó được hiệu chỉnh qua nhiều phiên bản. Dooley 
(1999) và Stuart (2000) cho rằng lý thuyết của Rogers là một khuôn khổ lý thuyết 
được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực phổ biến và áp dụng các vấn đề mới trong xã 
hội. Hiện nay phiên bản thứ năm (Rogers, 2003) đang được sử dụng rộng rãi trong 
các nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, khoa học chính trị, giáo dục, y tế 
Theo Rogers (2003) việc sử dụng một cách đầy đủ sự đổi mới như phương thức hành 
động tốt nhất trong thực tế là hành vi chấp nhận sự đổi mới và quyết định từ chối là 
“không chấp nhận sự đổi mới”. Quá trình khuếch tán sự đổi mới được hiểu là một 
quá trình truyền tiếp sự đổi mới qua các kênh khác nhau đến các thành viên trong 
một hệ thống xã hội. Bốn yếu tố chính yếu của lý thuyết khuếch tán đổi mới chính là 
sự đổi mới, các kênh truyền dẫn đổi mới, thời gian và hệ thống xã hội. 
Thứ nhất, Rogers (2003) đưa ra mô tả về một sự đổi mới là một ý tưởng, thực 
tiễn hoặc dự án được coi là mới bởi một cá nhân hoặc đơn vị khác. Một sự đổi mới 
có thể đã được đã phát minh ra từ lâu, nhưng nếu các cá nhân và đơn vị trên thị trường 
nhận thấy nó là mới, thì nó vẫn có thể là một sự đổi mới cho họ một cách tương đối. 
Các đặc tính mới của việc tiếp nhận đổi mới có liên quan nhiều hơn đến ba bước 
(kiến thức, thuyết phục và quyết định) của quá trình quyết định đổi mới. 
Sự không chắc chắn là một trở ngại quan trọng đối với việc áp dụng các sáng 
kiến. Hậu quả của sự kiện là những thay đổi xảy ra trong một cá nhân hoặc một hệ 
thống xã hội do kết quả của chấp nhận hoặc từ chối một sự đổi mới (Rogers, 2003). 
Một kết quả của sự đổi mới có thể tạo ra sự không chắc chắn mà các cá nhân không 
thể biết trước một cách rõ ràng ngay khi họ chấp nhận hay từ chối đổi mới. Để giảm 
sự không chắc chắn của việc áp dụng đổi mới, các cá nhân nên được thông báo về 
những lợi thế và bất lợi của nó để làm cho họ nhận thức được tất cả hậu quả. Hơn 
cxix 
nữa, Rogers tuyên bố rằng hậu quả có thể được phân loại là mong muốn so với không 
mong muốn (chức năng hoặc rối loạn chức năng), trực tiếp so với gián tiếp (kết quả 
ngay lập tức hoặc kết quả sau đó của kết quả ngay lập tức) và dự đoán so với không 
dự đoán (được công nhận có dự định hay không). 
Thứ hai, yếu tố tiếp sau quá trình khuếch tán đổi mới là các kênh truyền thông. 
Đối với Rogers (2003), giao tiếp là một quá trình trong đó người tham gia tạo và chia 
sẻ thông tin với nhau để đạt đến một sự hiểu biết lẫn nhau. Giao tiếp này xảy ra thông 
qua các kênh thông tin giữa các nguồn phát tín hiệu. Nguồn thông tin là từ một cá 
nhân hoặc một tổ chức có nguồn gốc dữ liệu về sự đổi mới. Kênh truyền dẫn là 
phương tiện một truyền tải từ nguồn tới người nhận. Rogers (2003) nói rằng khuếch 
tán là một loại cụ thể giao tiếp và bao gồm các yếu tố truyền thông này: một sự đổi 
mới được thực hiện thông qua các bên tham gia và các kênh truyền thông. Truyền 
thông đại chúng và truyền thông giữa các cá nhân là hai giao tiếp chính. Trong khi 
các kênh truyền thông đại chúng bao gồm một phương tiện đại chúng như Internet, 
TV, đài hoặc báo thì giữa các cá nhân các kênh bao gồm một giao tiếp trực tiếp/gián 
tiếp hai chiều giữa hai hoặc nhiều cá nhân. 
Các kênh truyền thông cũng có thể được phân loại thành các kênh cá nhân và 
các kênh đại chúng giao tiếp giữa một cá nhân và các nguồn bên ngoài của hệ thống 
xã hội. Các kênh truyền thông đại chúng có ý nghĩa hơn về truyền tải kiến thức trong 
các giai đoạn đầu và các kênh cá nhân là quan trọng hơn ở giai đoạn thuyết phục của 
đổi mới - quyết định quá trình thực hiện đổi mới (Rogers, 2003). 
Hiện nay, với sự bùng nổ thông tin thì thực tế là các kênh giữa các cá nhân lại 
có mạnh mẽ hơn để tạo hoặc thay đổi thái độ mạnh mẽ của một cá nhân khác. Trong 
các kênh giữa các cá nhân, thông tin liên lạc có thể có một đặc điểm tương đồng, đó 
là mức độ mà hai hoặc nhiều cá nhân tương tác giống nhau ở một số thuộc tính nhất 
định, chẳng hạn như niềm tin, giáo dục, kinh tế xã hội trạng thái. Tuy nhiên, đa số 
phổ biến trong sự truyền dẫn đổi mới thì thương xuất hiện ít nhất một mức độ không 
đồng nhất ở một số thuộc tính nhất định, sẽ có những người khác biệt so với những 
người còn lại (Rogers, 2003). 
cxx 
Thứ ba là yếu tố thời gian để truyền tải đổi mới. Theo Rogers (2003), khía 
cạnh thời gian bị bỏ qua trong hầu hết các nghiên cứu hành vi. Ông lập luận rằng bao 
gồm cả chiều thời gian trong nghiên cứu khuếch tán minh họa một trong những thế 
mạnh của nó. Quá trình khuếch tán đổi mới, tiếp nhận phân loại và tỷ lệ chấp nhận 
tất cả phải bao gồm chiều thời gian. Do đó, để thực hiện đổi mới sẽ có những vấn đề 
được tiếp cận và quyết định rất nhanh, tuy nhiên cũng có những đổi mới phải cần có 
lộ trình, điều kiện và thời gian phù hợp mới có thể thực hiện thay đổi trong thị trường. 
Thứ tư, hệ thống xã hội là yếu tố cuối cùng trong quá trình khuếch tán. Rogers 
(2003) đã định nghĩa hệ thống xã hội là hệ thống các đơn vị có liên quan, tham gia 
vào việc giải quyết vấn đề chấp nhận/từ chối sự đổi mới để hoàn thành mục tiêu 
chung. Kể từ khi khuếch tán sự đổi mới diễn ra trong hệ thống xã hội, nó chịu ảnh 
hưởng của cấu trúc xã hội, các thói quen, văn hóa và sự sắp xếp theo khuôn mẫu của 
các đơn vị trong một hệ thống. Ông tuyên bố thêm rằng bản chất của hệ thống xã hội 
ảnh hưởng đến tính sáng tạo của cá nhân, đây là tiêu chí chính để phân loại người áp 
dụng. Do đó, tại các thị trường mà có tính sáng tạo cao thì số lượng cá nhận chấp 
nhận đổi mới thường sẽ nhiều, dễ dàng hơn và ngược lại. 
8.2. CÁC GIAI ĐOẠN ĐỂ KHUẾCH TÁN SỰ ĐỔI MỚI 
Theo đề nghị của Roger thì các khuếch tán sự đổi mới được chia thành năm 
giai đoạn: 
- Giai đoạn kiến thức là giai đoạn đầu tiên của quá trình đổi mới. Trong giai 
đoạn này, từng chủ thể trong nền kinh tế sẽ học hỏi về sự đổi mới, xem xét 
sự tồn tại và tìm kiếm thông tin về điều đó. Các câu hỏi cái gì, tại sao, làm 
như thế nào cần được trả lời. Các câu hỏi được xoay quanh ba loại kiến thức 
cơ bản: (i) Kiến thức – nhận thức (awareness-knowledge), (ii) Làm thế nào 
để có kiến thức (how-to-knowledge) và (iii) Tri thức – các nguyên tắc 
(principles-knowledge). Để tạo ra kiến thức mới, giáo dục công nghệ và thực 
tiễn cần cung cấp không chỉ là một kinh nghiệm làm thế nào và cũng là một 
kinh nghiệm hiểu biết tại sao (Seemann, 2003). Trên thực tế, một cá nhân có 
thể có tất cả các kiến thức cần thiết, nhưng điều này không có nghĩa là cá 
cxxi 
nhân sẽ chấp nhận sự đổi mới bởi vì thái độ của cá nhân chấp nhận hoặc từ 
chối đổi mới. 
Trong đó (i) kiến thức-tri thức thể hiện kiến thức về sự tồn tại của sự đổi 
mới. Kiểu kiến thức này có thể thúc đẩy cá nhân để tìm hiểu thêm về sự đổi 
mới và cuối cùng là để áp dụng nó. Ngoài ra, nó có thể khuyến khích một cá 
nhân để đi tìm hiểu về hai loại kiến thức khác. (ii) Làm thế nào để hiểu biết 
thể hiện việc có thông tin về làm thế nào sử dụng một cách đổi mới một cách 
chính xác (Wetzel (1993) và Spotts, 1999). Rogers đã chứng minh kiến thức 
này như một biến số thiết yếu trong quá trình ra quyết định đổi mới. Để tăng 
cơ hội chấp nhận một sự đổi mới, một cá nhân nên có một mức độ đầy đủ 
của kiến thức như thế nào trước khi tham gia vào quá trình thử nghiệm của 
sự đổi mới này. Do đó, kiến thức này trở nên quan trọng hơn cho những đổi 
mới tương đối phức tạp. (iii) Các nguyên tắc – tri thức bao gồm các nguyên 
tắc hoạt động, mô tả cách thức và lý do tại sao một đổi mới hoạt động 
được. Một sự đổi mới có thể được thông qua mà không có kiến thức về điều 
này, nhưng việc lạm dụng sự đổi mới theo kiểu không rõ thông tin này có thể 
làm cho nó không thể phát triển bền vững. Đối với Sprague và cộng sự (1999) 
đôi khi rào cản lớn nhất lại đến từ việc thiếu tầm nhìn về lý do tại sao hoặc 
làm thế nào để hội nhập của những người ảnh hưởng mạnh đến xã hội 
- Giai đoạn thuyết phục: Bước thuyết phục xảy ra khi cá nhân có thái độ tiêu 
cực hoặc tích cực đối với sự đổi mới. Sự hình thành một thái độ thuận lợi 
hoặc bất lợi đối với sự đổi mới không phải lúc nào cũng dẫn trực tiếp hoặc 
gián tiếp cho việc chấp nhận hoặc từ chối "(Rogers, 2003). Các cá nhân hình 
thành thái độ của mình sau khi họ biết về sự đổi mới, vì vậy giai đoạn thuyết 
phục đi cùng với giai đoạn kiến thức trong quá trình quyết định đổi mới. Giai 
đoạn kiến thức thể hiện về tính nhận thức cao hơn (hoặc hiểu biết) còn giai 
đoạn thuyết phục thể hiện về mặt tinh thần, cảm nhận (hoặc cảm giác). Vì 
vậy, cá nhân có liên quan sẽ nhạy cảm hơn với sự đổi mới ở giai đoạn thuyết 
phục. Mức độ không chắc chắn về hoạt động của sự đổi mới và sự hỗ trợ xã 
hội từ những người khác (đồng nghiệp, bạn bè ...) ảnh hưởng đến quan điểm 
cxxii 
và niềm tin của cá nhân về đổi mới. Đánh giá chủ quan của các đối tác về sự 
đổi mới làm giảm sự không chắc chắn về sự đổi mới và tác động của những 
người xung quanh thường mang kết quả là đáng tin cậy hơn đối với cá nhân 
(Sherry, 1997). Các cá nhân tiếp tục tìm kiếm thông tin và thông tin đánh giá 
đổi mới trong giai đoạn này trước khi thông qua giai đoạn quyết định 
- Giai đoạn quyết định: Ở giai đoạn quyết định, cá nhân chọn chấp nhận hoặc 
từ chối sự đổi mới. Trong khi việc nhận đổi mới đề cập đến việc sử dụng đầy 
đủ sự đổi mới làm phương thức hành động tốt nhất trong các phương thực 
hiện tại. Còn hành vi từ chối có nghĩa là không thể chấp nhận thông qua một 
sự đổi mới (Rogers, 2003). Nếu sự đổi mới có cơ sở thử nghiệm từng phần, 
thông thường nó được thông qua nhanh hơn, vì hầu hết các cá nhân đầu tiên 
muốn thử sự đổi mới trong tình huống của riêng họ và sau đó đi đến một 
quyết định thông qua. Rogers thể hiện hai loại từ chối hoạt động từ chối tích 
cực và từ chối thụ động. Trong một tình huống bị từ chối tích cực, một cá 
nhân cố gắng đổi mới và nghĩ về chấp nhận nó, nhưng sau đó người đó quyết 
định không chấp nhận nó. Một quyết định ngừng - từ chối một sự đổi mới - 
sau khi đã chấp nhận nó trước đó, có thể được xem như là một loại hoạt động 
loại bỏ tích cực. Trong một sự từ chối thụ động (hoặc không áp dụng) các cá 
nhân đơn giản là không nghĩ đến việc chấp nhận sự đổi mới. Rogers nói rằng 
thực tế phân loại hành vi từ chối này khó thể hiện trong thực nghiệm và thiếu 
các nghiên cứu cụ thể về nó. Trong xã hội có yếu tố văn hóa đặc thù như ở 
các nước phương Đông, trật tự về quá trình đổi mới có thể diễn ra theo kiểu 
quyết định đổi mới cá nhân ảnh hưởng và hình thành một quyết định đổi mới 
của cả tập thể (Rogers, 2003). 
- Giai đoạn thực hiện: Ở giai đoạn thực hiện, một đổi mới chính thức được 
đưa vào thực tiễn. Tuy nhiên, một sự đổi mới mang lại sự mới mẻ nhưng 
không không chắc chắn về kết quả vẫn còn tồn tại. Vì vậy, người thực hiện 
có thể cần hỗ trợ kỹ thuật từ sự thay đổi của các cơ quan quản lý, chuyên 
gia và những người khác để giảm mức độ không chắc chắn về hậu 
quả. Hơn nữa, quyết định đổi mới có thể sẽ bị kết thúc trong giai đoạn này 
cxxiii 
khi nó không đảm bảo chất lượng đặc biệt ban đầu của nó (Rogers, 2003). 
Vì vậy, sự đổi mới cần có sự tái tạo thường xảy ra ở giai đoạn triển khai, 
Tái tạo sự đổi mới là liên tục cải tiến, thay đổi hoặc sửa đổi bởi một người 
sử dụng trong quá trình thông qua và thực hiện (Rogers, 2003). Ngoài ra, 
Rogers (2003) giải thích sự khác biệt giữa sáng chế và Đổi mới. Trong khi 
sáng chế là quá trình mà theo đó một ý tưởng mới được phát hiện hoặc tạo 
ra còn việc thông qua một đổi mới là quá trình sử dụng một ý tưởng hiện 
tại. Rogers tiếp tục thảo luận rằng vì tính chất đó thì đổi mới cần được cải 
tiến liên tục. 
- Giai đoạn xác nhận 
Quyết định đổi mới đã được thực hiện, nhưng ở giai đoạn xác nhận cá nhân 
tìm kiếm bằng chứng hỗ trợ cho quyết định của mình. Theo Rogers (2003), quyết 
định này có thể bị đảo ngược nếu cá nhân tiếp xúc với các thông điệp tiêu cực về sự 
đổi mới. Mặc dù vậy, trong giai đoạn này các cá nhân có xu hướng tránh xa những 
bàn luận tiêu cực, tìm kiếm những thông điệp ủng hộ xác nhận quyết định của họ. Như 
vậy, thái độ trở nên quan trọng hơn tại giai đoạn xác nhận. Tùy thuộc vào sự bằng 
chứng hỗ trợ tích cực cho việc thông qua đổi mới và thái độ của cá nhân mà chấp 
nhận hay từ chối đổi mới lại tiếp tục. Các cá nhân có thể từ chối sự đổi mới hiện tại 
để thông qua một đổi mới tốt hơn thay thế nó. Đây là loại quyết định ngừng được 
gọi ngừng do bị thay thế, còn có loại khác quyết định ngừng khác là ngừng do không 
đúng kỳ vọng. Trong trường hợp sau, cá nhân từ chối đổi mới bởi vì họ không hài 
lòng với hiệu suất mang lại, sự đổi mới không đáp ứng được kỳ vọng và nhu cầu của 
cá nhân. Do đó, các bằng chứng chứng minh sự đổi mới mang lại lợi ích tích cực cần 
được thể hiện một cách rõ ràng. 
8.3. PHÂN LOẠI CÁC THÀNH VIÊN TRONG HỆ THỐNG XÃ HỘI ĐỐI 
VỚI QUÁ TRÌNH KHUẾCH TÁN SỰ ĐỔI MỚI 
Rogers (2003) đã xác định phân loại các chủ thể tiếp nhận đổi mới là sự phân 
loại các thành viên của một hệ thống xã hội trên cơ sở sự sáng tạo của chủ thể đó. 
Tính sáng tạo là mức độ mà một đơn vị cá nhân hoặc đơn vị tiếp nhận tương đối sớm 
trong việc áp dụng những ý tưởng mới hơn so với các thành viên khác của một hệ 
cxxiv 
thống "(Rogers, 2003). Braak (2001) cho rằng sáng tạo đã giúp chủ thể hiểu được 
mong muốn và hành động của họ trong quá trình ra quyết định đổi mới. Do đó, ông 
phân loại người chấp nhận dựa trên tính đổi mới. Phân loại này bao gồm các nhà sáng 
tạo, người chấp nhận sớm, phần đông chấp nhận trước, phần đông chấp nhận sau và 
những người chậm trễ. 
Người đổi mới đối với Rogers (2003) là những người sẵn sàng trải nghiệm 
những ý tưởng mới. Vì vậy, họ cần được chuẩn bị để đối phó với đổi mới không có 
lợi, không thành công và mức độ không chắc chắn về sự đổi mới. Những người đổi 
mới là người khởi động, thúc đẩy đưa sự đổi mới trong hệ thống. Khó khăn như vạy 
nên đòi hỏi những người đổi mới phải có kiến thức kỹ thuật phức tạp, có sự nghiên 
cứu và hiểu biết đi trước so với phần đông những chủ thể còn lại. 
Người thừa nhận sớm là những người áp dụng sớm hạn chế hơn so với với 
ranh giới chung của hệ thống xã hội. Rogers (2003) lập luận rằng người thừa nhận 
sớm thường là người giữ vai trò lãnh đạo trong hệ thống xã hội, các thành viên khác 
đến với họ để được tư vấn hoặc thông tin về sự đổi mới. Nhà lãnh đạo đóng một vai 
trò trung tâm ở tất cả các giai đoạn của quá trình đổi mới, từ khi bắt đầu đến khi thực 
hiện, đặc biệt trong việc triển khai các nguồn lực mang lại sự thúc đẩy tiến bộ (Light, 
1998). Với vai trò như vậy, thái độ của người chấp nhận sớm đối với đổi mới là rất 
quan trọng. Các đánh giá chủ quan của họ về sự đổi mới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến 
sự tiếp cận của các thành viên khác. Vai trò lãnh đạo của người chấp nhận sớm trong 
việc áp dụng đổi mới làm giảm sự không chắc chắn về sự đổi mới trong quá trình 
khuếch tán. Đồng thời, người nhận thức sớm sẽ có vai trò quan trọng trong việc phê 
duyệt một ý tưởng mới bằng cách áp dụng nó bằng quy định (Rogers, 2003). 
Phần đông người chấp nhận trước là một số lượng lớn chủ thể trong hệ thống 
xã hội, có một tương tác tốt với các thành viên khác của xã hội. Họ thường không có 
vai trò lãnh đạo như những người chấp nhận sớm nhưng sự hiểu biết, chấp nhận và 
các tác động của họ có tác dụng khuếch tán đổi mới rất tốt. Phần đông chấp nhận 
trước là những người chấp nhận sự đổi mới ngay có tác động của người chấp nhận 
sớm, trước khi một nửa số lượng chủ thể còn lại của thị trường thông qua nó. Họ 
đang chấp nhận có chủ đích một sự đổi mới và họ không phải là người đầu tiên cũng 
cxxv 
không phải là người cuối cùng chấp nhận nó. Vì vậy, quyết định đổi mới của họ 
thường mất nhiều thời gian hơn, cần phải có những người đổi mới và người chấp 
nhận sớm tồn tại trước. 
Tương tự như vậy với phần đông người chấp nhận sau, họ sẽ thực hiện theo 
số đông khi đã tồn tại phần đồng người chấp nhận trên thị trường. Họ thường chiếm 
1/3 số thành viên của hệ thống xã hội, chờ đợi cho đến khi hầu hết các đồng nghiệp 
của họ chấp nhận sự đổi mới. Mặc dù họ hoài nghi về sự đổi mới và kết quả của nó, 
nhưng sự cần thiết về kinh tế, bằng chứng về lợi ích và áp lực của người xung quanh 
có thể dẫn họ đến việc thông qua đổi mới (Rogers, 2003). 
Người chậm trễ đổi mới theo Rogers (2003) là người có quan điểm truyền 
thống và họ hoài nghi về những đổi mới, họ là người thay đổi sau khi đã có sự thay 
đổi từ nhóm phần đông người chấp nhận sau. Họ thường là là nhóm người địa phương 
hoá nhất trong hệ thống xã hội, sự giao tiếp của họ khá hạn chế, thường chỉ là giữa 
các cá nhân với nhau. Hơn nữa, họ không có vai trò lãnh đạo và do nguồn lực hạn 
hẹp, sự thiếu hiểu biết về kiến thức về đổi mới nên trước tiên họ muốn đảm bảo rằng 
một đổi mới đã thực sự hoạt động tốt trước khi họ chấp nhận. Do đó, những người 
chậm trễ có xu hướng quyết định sau, xem xét đổi mới này đã được các thành viên 
khác của hệ thống xã hội thông qua chưa và có thành công trong quá khứ hay không. 
Với tất cả các đặc điểm này, thời kỳ đổi mới của những người chậm trễ là tương đối 
dài. 
Rogers (2003) gộp năm nhóm chủ thể này thành hai nhóm chính: người chấp 
nhận trước (bao gồm các nhà đổi mới, người chấp nhận sớm và phần đông chấp nhận 
sớm) và người chấp nhận sau (những người chậm trễ và phần đông chấp nhận sau). 
Đối với Rogers, không có sự khác biệt đáng kể giữa các lứa tuổi giữa hai nhóm nhưng 
sự khác biệt tồn tại ở tình trạng kinh tế xã hội, các biến số cá nhân riêng và các hành 
vi truyền thông liên quan đến tính đổi mới. Những người gần nhất với lợi ích của đỏi 
mới thường sẽ hành động sớm và những người có hiểu biết thấp, ít quan tâm, tiềm 
lực tài chính hạn chế thường là những người cuối cùng thông qua một sự đổi mới 
(Rogers, 2003). 
cxxvi 
9 PHỤ LỤC 9. HỆ THỐNG KÝ HIỆU VÀ Ý NGHĨA KÝ HIỆU XẾP HẠNG 
CỦA GCRA VÀ DCRA TRÊN THỊ TRƯỜNG XHTNDN VIỆT NAM 
9.1. HỆ THỐNG KÝ HIỆU VÀ Ý NGHĨA KÝ HIỆU XẾP HẠNG CỦA MIS, 
S&P VÀ FR 
Theo Naciri (2015) các GCRA có cách phân loại khác nhau các hệ thống nhưng sử 
dụng cách tiếp cận tương tự trong việc đánh giá nguy cơ tổn thất trong dài hạn và 
ngắn hạn. Các ký hiệu xếp hạng, thang đánh giá và các định nghĩa liên quan đến xếp 
hạng khác của các CRA sẽ được phổ biến rộng rãi ra thị trường từ các ấn phẩm được 
cập nhật hàng kỳ cũng như công bố trên website và trong các báo cáo xếp hạng của 
CRA. 
Bảng 32. Hệ thống ký hiệu cơ bản XHTNDN trong dài hạn của MIS, S&P và FR 
Moody’s S&P Fitch 
Ý nghĩa cơ bản về khả năng và rủi 
ro tài chính 
Aaa AAA AAA 
Khả năng tài chính doanh nghiệp cực 
kỳ mạnh mẽ - Extremely strong 
Aa1; Aa2; Aa3 
AA+; AA; 
AA- 
AA+; AA; 
AA- 
Khả năng tài chính rất mạnh - Very 
strong 
A1; A2; A3 A+; A; A- A+; A; A- Khả năng tài chính mạnh - Strong 
Baa1;Baa2;Baa3 
BBB+; BBB; 
BBB- 
BBB+; 
BBB; BBB- 
Doanh nghiệp có đầy đủ khả năng trả 
nợ- Adequate 
Ba1; Ba2; Ba3 
BB+; BB; 
BB- 
BB+; BB; 
BB- 
 Doanh nghiệp có nguy cơ vỡ nợ 
nhưng rất ít - Less vulnerable 
B1; B2; B3 B+; B; B- B+; B; B- 
 Nhiều nguy cơ tổn thất khoản nợ hơn 
nhóm hạng trên - More vulnerable 
Caa; Ca CCC; CC; C CCC; C; C 
Tương ứng với nguy cơ tổn thất cao 
hơn - Currently vulnerable, highly 
vulnerable, highly likely to provide 
non-payment 
C D D Doanh nghiệp bị vỡ nợ - Failed to pay 
e, p pr Expected Đánh giá dự kiến ban đầu 
WR Thu hồi xếp hạng 
 SD RD 
Vỡ nợ theo bộ phận, các khoản nợ 
khác vẫn có khả năng hoàn trả 
Nguồn: Naciri (2015) 
cxxvii 
Ngoài hệ thống ký hiệu xếp hạng dài hạn được phổ biến rộng rãi, hệ thống ký 
hiệu xếp hạng trong ngắn hạn và đánh giá triển vọng cũng được các CRA sử dụng. 
Xếp hạng ngắn hạn của S&P (S&P, 2018) bao gồm các xếp hạng từ A-1 đến D, cụ 
thể là: 
 A-1: DN được đánh giá cao nhất trong hạng mục ngắn hạn, DN có khả năng 
đáp ứng các cam kết về nghĩa vụ tài chính mạnh mẽ. 
 A-2: DN nhạy cảm hơn với những tác động bất lợi của sự thay đổi trong hoàn 
cảnh, điều kiện kinh tế hơn so với hạng trên. Tuy nhiên, khả năng để đáp ứng 
các cam kết về nghĩa vụ tài chính của DN là thỏa đáng. 
 A-3: Thể hiện DN có khả năng trả nợ đầy đủ. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế bất 
lợi hoặc hoàn cảnh thay đổi trong ngắn hạn có nhiều khả năng dẫn đến một 
khả năng suy yếu khả năng đáp ứng các cam kết về nghĩa vụ tài chính của DN 
 B: được coi là hạng dễ bị tổn thương, DN trong ngắn hạn có khả năng đáp ứng 
các cam kết tài chính, tuy nhiên, DN luôn phải đối mặt với nguy cơ lớn dẫn 
đến khả năng đáp ứng các cam kết tài chính không đầy đủ. 
 C: Hạng đánh giá này dễ bị tổn thương với việc không thanh toán vì DN phụ 
thuộc nhiều vào việc kinh doanh thuận lợi, tài chính, và các điều kiện kinh 
tế mới đáp ứng các cam kết về nghĩa vụ tài chính của mình. 
 D: DN không đủ khả năng hoàn trả cam kết tài chính, hạng này sẽ được sử 
dụng khi thanh toán nghĩa vụ không được thực hiện vào ngày đến hạn, trừ khi 
tin rằng các khoản thanh toán đó sẽ được thực hiện trong thời gian tới hoặc 
phải gia hạn nợ, việc gia hạn này chỉ có thể trong ngắn hạn. Đánh giá 'D' cũng 
sẽ được sử dụng để ra quyết định khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh 
nghiệp hoặc xem như cảnh báo nguy hiểm đối với khoản nợ của khách hàng. 
MIS sử dụng các ký hiệu từ P-1 đến P-3 để mô tả tính chất rủi ro của các thực thể 
trong ngắn hạn. Trong đó: 
 P-1: nghĩa là tổ chức phát hành (hoặc tổ chức bảo lãnh) được xếp hạng Prime-
1 có khả năng vượt trội trong việc trả các nghĩa vụ nợ ngắn hạn. 
cxxviii 
 P-2: Tổ chức phát hành (hoặc tổ chức bảo lãnh) được xếp hạng Prime-2 có khả 
năng mạnh mẽ để trả các nghĩa vụ nợ ngắn hạn. 
 P-3 Tổ chức phát hành (hoặc tổ chức hỗ trợ) được xếp hạng Prime-3 có khả 
năng chấp nhận để trả các nghĩa vụ ngắn hạn. 
 NP: Nhà phát hành (hoặc tổ chức hỗ trợ) được xếp hạng NP nghĩa là không 
nằm trong bất kỳ danh mục xếp hạng Prime nào của MIS. 
Đối với FR thì hệ thống ký hiệu xếp hạng ngắn hạn của họ được sử dụng cho các 
đánh giá khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính trong thời hạn lên đến 13 tháng đối 
với các nghĩa vụ của công ty (FR, 2018). Các ký hiệu này bao gồm: 
 F1 - Chất lượng tín dụng ngắn hạn cao nhất. Xếp hạng này cho thấy năng lực 
nội tại mạnh nhất để thanh toán kịp thời các cam kết tài chính. FR có thể có 
thêm "+" để biểu thị bất kỳ tính năng tín dụng đặc biệt mạnh nào đó trong quá 
trình đánh giá. 
 F2 - Chất lượng tín dụng ngắn hạn tốt: Năng lực nội tại tốt để thanh toán kịp 
thời các cam kết tài chính. 
 F3 - Chất lượng tín dụng ngắn hạn khá: Năng lực nội tại để thanh toán kịp thời 
các cam kết tài chính là đủ. 
 B: Chất lượng tín dụng ngắn hạn trung bình: Khả năng ở mức tối thiểu để có 
thể thanh toán kịp thời các cam kết tài chính, đồng thời tăng cao khả năng dễ 
bị tổn thương trước những thay đổi bất lợi trong điều kiện tài chính và kinh tế. 
 C - Rủi ro vỡ nợ ngắn hạn cao: việc không thanh toán nghĩa vụ tài chính là 
một khả năng thực sự có thể xảy ra. 
 RD: Rủi ro vỡ nợ bị hạn chế: Kết quả xếp hạng này cho biết một thực thể đã 
không có khả năng thanh toán về một hoặc nhiều cam kết tài chính của nó, 
mặc dù nó vẫn có khả năng tiếp tục đáp ứng các nghĩa vụ tài chính khác. 
 D - Vỡ nợ: Biểu thị một sự kiện vỡ nợ trên diện rộng đối với một thực thể hoặc 
không có khả năng thanh toán được đối với một nghĩa vụ tài chính ngắn hạn. 
cxxix 
9.2. HỆ THỐNG KÝ HIỆU VÀ Ý NGHĨA KÝ HIỆU XẾP HẠNG CỦA CÁC 
DCRA TẠI VIỆT NAM 
Bảng 33. Ký hiệu và ý nghĩa mức XHTNDN được Vietnam Credit công bố năm 
2009 
AAA Doanh nghiệp có khả năng cao nhất trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính 
của mình 
AA 
Có khả năng cao trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình nhưng thấp 
hơn AAA 
A 
Mức độ rủi ro trong giao dịch với các doanh nghiệp này rất thấp, tuy nhiên chịu 
ảnh hưởng của những thay đổi hoàn cảnh và môi trường kinh tế 
BBB Mức độ an toàn tương đối tốt, môi trường kinh tế và các thay đổi bất lợi có thể 
gia tăng mức độ rủi ro lớn 
BB Trở nên tổn thương rõ ràng khi các yếu tố như điều kiện kinh doanh, tài chính 
không thuận lợi 
B Dễ bị mất khả năng trả nợ mặc dù vẫn có khả năng thực hiện các cam kết tài 
chính. 
CCC Có mức độ rủi ro cao, nếu điều kiện kinh tế bất lợi thì có ít khả năng thực hiện 
các cam kết tài chính 
CC Có nợ và nguy cơ không trả được nợ rất cao 
C Thấy rõ việc phá sản tuy nhiên vẫn đang cố găng dàn xếp việc trả nợ 
D Doanh nghiệp đã thực sự vỡ nợ 
Nguồn: Vietnamcredit (2009) 
cxxx 
Bảng 34. Ký hiệu và ý nghĩa mức XHTNDN được CRV công bố năm 2010 
Loại Nội dung 
AAA 
Loại tối ưu: doanh nghiệp hoạt động hiệu quả cao, khả năng tự chủ tài chính 
rất tốt, triển vọng phát triển lâu dài, tiềm lực tài chính mạnh và rủi ro rất thấp 
AA 
Loại ưu: Doanh nghiệp hoạt động khá hiệu quả và sức cạnh tranh khá cao. Khả 
năng tự chủ tài chính khá tốt. Sử dụng chi phí khá hiệu quả. Rủi ro thấp 
A 
Loại tốt: Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Khả năng tự 
chủ tài chính tốt. Sử dụng chi phí hiệu quả. Rủi ro tương đối thấp. 
BBB 
Loại khá: Doanh nghiệp hoạt động tương đối hiệu quả và sức cạnh tranh trung 
bình. Có khả năng tự chủ tài chính. Sử dụng chi phí tương đối hiệu quả. Rủi ro 
trung bình khá. 
BB 
Loại trung bình khá: Doanh nghiệp hoạt động và có sức cạnh tranh không cao. 
Khả năng tự chủ tài chính thấp. Sử dụng chi phí chưa hiệu quả. Rủi ro trung 
bình 
B 
Loại trung bình: Doanh nghiệp hoạt động và có sức cạnh tranh thấp. Chưa có 
khả năng tự chủ tài chính. Sử dụng chi phí kém hiệu quả. Rủi ro cao 
CCC 
Loại trung bình yếu: Doanh nghiệp hoạt động và có sức cạnh tranh rất thấp. 
Gần như không có khả năng tự chủ tài chính. Sử dụng chi phí hết sức kém hiệu 
quả. Rủi ro khá cao. 
CC 
Loại yếu: Doanh nghiệp hoạt động và có sức cạnh tranh cực kì thấp. Không có 
khả năng tự chủ tài chính. Sử dụng chi phí hết sức kém hiệu quả. Rủi ro rất cao. 
C 
Loại yếu kém: doanh nghiệp hoạt động yếu kém, thua lỗ kéo dài, không tự chủ 
được về tài chính. Năng lực sản xuất kinh doanh yếu kém và không có khả 
năng trả nợ, rủi ro rất cao 
Nguồn: CRV( 2010) 
cxxxi 
Bảng 35. Ký hiệu và ý nghĩa mức XHTNDN dài hạn của Saigon Phatthinh Credit 
Rating 
Mức xếp 
hạng 
Định nghĩa 
vnAAA 
Một tổ chức được xếp hạng AAA có khả năng rất cao trong việc thực 
hiện các cam kết tài chính. AAA là mức xếp hạng tín nhiệm cao nhất 
trong thang điểm của Saigon Phatthinh Credit Rating. 
vnAA 
Một tổ chức được xếp hạng AA có khả năng cao trong việc thực hiện 
các cam kết tài chính. Đồng thời, mức xếp hạng AA cũng không quá 
cách biệt so với mức xếp hạng AAA. 
vnA 
Một tổ chức được xếp hạng A có khả năng tương đối cao trong việc 
thực hiện các nghĩa vụ tài chính, tuy nhiên khả năng này có thể bị 
tác động trước các thay đổi bất lợi trong môi trường kinh doanh và 
điều kiện kinh tế. 
vnBBB 
Một tổ chức được xếp hạng BBB có khả năng thực hiện đầy đủ các 
cam kết tài chính. Tuy nhiên, khả năng nay dễ bị tác động trước các 
thay đổi bất lợi trong môi trường kinh doanh và điều kiện kinh tế. 
vnBB 
Một tổ chức được xếp hạng BB sẽ ít bị ảnh hưởng trong ngắn hạn 
hơn các nhà phát hành bị xếp hạng thấp hơn. Tuy nhiên, việc dễ phải 
chịu ảnh hưởng lớn từ những vấn đề bất ổn trong hoạt động kinh 
doanh và điều kiện kinh tế, tài chính bất lợi có thể khiến doanh 
nghiệp/ định chế không đủ khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính. 
vnB 
Một tổ chức được xếp hạng ở mức B sẽ có khả năng vỡ nợ cao hơn 
mức BB, song vẫn đủ khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính. 
Các điều kiện kinh doanh, tài chính, kinh tế bất lợi hoàn toàn có thể 
làm suy giảm khả năng hay mức độ sẵn sàng đáp ứng các cam kết tài 
chính. 
cxxxii 
vnCCC 
Một tổ chức xếp hạng CCC đang trong tình trạng dễ bị tác động tiêu 
cực bởi rủi ro mất khả năng thanh toán và chỉ đáp ứng được các nghĩa 
vụ tài chính khi tình hình kinh doanh, tài chính, kinh tế ở điều kiện 
thuận lợi. 
vnCC 
Một tổ chức xếp hạng CC đang trong tình trạng phải đối mặt với rủi 
ro mất khả năng thanh toán. Viễn cảnh vỡ nợ chưa xảy ra nhưng theo 
ước đoán sẽ xảy ra trong tương lai, dù chưa chắc chắn về thời điểm 
vỡ nợ. 
vnR 
Một tổ chức xếp hạng R đang bị đặt dưới sự giám sát của các cơ quan 
có thẩm quyền do tình hình tài chính của họ. Trong quá trình giám 
sát, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu bên đi vay ưu tiên thanh 
toán một hay một vài khoản nợ trước các khoản nợ khác. 
vnSD và 
vnD 
Mức xếp hạng tín nhiệm SD hoặc D áp dụng cho các tổ chức đã mất 
khả năng thanh toán với một hay nhiều nghĩa vụ nợ khi tới hạn, kể 
cả nghĩa vụ được xếp hạng hay chưa xếp hạng, ngoại trừ các nghĩa 
vụ phát sinh từ công cụ lai được tính trong vốn pháp định hay không 
cần thanh toán. Mức xếp hạng tín nhiệm D được áp dụng khi có cơ 
sở đầy đủ để nhận định rằng tổ chức đã vỡ nợ toàn diện và không thể 
thanh toán toàn bộ hay gần như toàn bộ nghĩa vụ nợ khi tới hạn. 
Mức xếp hạng tín nhiệm SD được áp dụng khi có cơ sở đầy đủ để 
nhận định rằng tổ chức đã vỡ nợ một phần đối với một nghĩa vụ nợ 
cụ thể hoặc một loại nghĩa vụ nợ, song vẫn sẽ đáp ứng đúng hạn với 
các nghĩa vụ hay loại nghĩa vụ nợ còn lại. Xếp hạng tín nhiệm với tổ 
chức bị hạ xuống mức SD hay D nếu doanh nghiệp/ định chế đó đang 
trong quá trình giải thể hoặc sát nhập để giải quyết khủng hoảng. 
Nguồn: PTR (2019) 
cxxxiii 
Bảng 36. Ký hiệu và ý nghĩa mức XHTNDN ngắn hạn của Saigon Phatthinh 
Credit Rating 
Mức xếp 
hạng 
Định nghĩa 
vnA-1 
A-1 là mức xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn cao nhất cho một tổ chức 
phát hành trong thang điểm của Saigon Phatthinh Credit Rating. 
Khả năng của tổ chức phát hành trong việc đáp ứng các nghĩa vụ 
tài chính phát sinh từ khoản nợ là cao. Trong hạng A-1, các tổ chức 
phát hành có độ an toàn tín dụng cao nhất sẽ được đánh giá ở mức 
A-1+, đồng nghĩa bên đi vay có khả năng đáp ứng các cam kết tài 
chính rất cao. 
vnA-2 
Một tổ chức phát hành có mức xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn A-2 sẽ 
dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bất lợi trong môi trường kinh doanh 
và tình hình kinh tế hơn mức xếp hạng A-1. Tuy nhiên, chúng tôi 
vẫn tin tưởng vào khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của tổ 
chức phát hành. 
vnA-3 
Một tổ chức phát hành có mức xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn A-3 
thể hiện khả năng đáp ứng đầy đủ các cam kết tài chính của tổ chức 
phát hành. Tuy nhiên, khả năng này dễ bị tác động bởi các thay đổi 
bất lợi trong môi trường kinh doanh và điều kiện kinh tế hơn các 
mức xếp hạng cao hơn. 
vnB 
Một tổ chức phát hành có mức xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn B dễ 
bị tác động tiêu cực bởi rủi ro phá sản và có các tính chất đầu cơ rõ 
rệt. Mặc dù bên đi vay vẫn đủ khả năng thanh toán các nghĩa vụ 
phát sinh từ khoản vay, song phải đối mặt với nhiều bất ổn trong 
hoạt động kinh doanh mà có thể dẫn tới việc thiếu hụt khả năng đáp 
ứng các cam kết tài chính. 
vnC 
Một tổ chức phát hành có mức xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn C đang 
trong tình trạng dễ bị tác động tiêu cực và bên đi vay chỉ đáp ứng 
cxxxiv 
được các nghĩa vụ tài chính khi tình hình kinh doanh, tài chính, 
kinh tế ở điều kiện thuận lợi. 
vnR 
Một tổ chức phát hành xếp hạng R đang bị đặt dưới sự giám sát của 
các cơ quan có thẩm quyền do tình hình tài chính của họ. Trong quá 
trình giám sát, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu bên đi vay ưu 
tiên thanh toán một hay một vài khoản nợ trước các khoản nợ khác. 
vnSD và 
vnD 
Mức xếp hạng tín nhiệm SD hoặc D áp dụng cho các tổ chức phát 
hành đã mất khả năng thanh toán với một hay nhiều nghĩa vụ nợ 
khi tới hạn, kể cả nghĩa vụ được xếp hạng hay chưa xếp hạng, ngoại 
trừ các nghĩa vụ phát sinh từ công cụ lai được tính trong vốn pháp 
định hay không cần thanh toán. Tổ chức phát hành được đánh giá 
là đã vỡ nợ, trừ khi có cơ sở hợp lý để xác định các nghĩa vụ tài 
chính sẽ được thực hiện trong thời gian gia hạn nợ (không tính quá 
5 ngày). 
Mức xếp hạng tín nhiệm D được áp dụng khi có cơ sở đầy đủ để 
nhận định rằng tổ chức phát hành đã vỡ nợ toàn diện và không thể 
thanh toán toàn bộ hay gần như toàn bộ nghĩa vụ nợ khi tới hạn. 
Mức xếp hạng tín nhiệm SD được áp dụng khi có cơ sở đầy đủ để 
nhận định rằng tổ chức phát hành đã vỡ nợ một phần đối với một 
nghĩa vụ nợ cụ thể hoặc một loại nghĩa vụ nợ, song vẫn sẽ đáp ứng 
đúng hạn với các nghĩa vụ hay loại nghĩa vụ nợ còn lại. Xếp hạng 
tín nhiệm với tổ chức phát hành bị hạ xuống mức SD hay D nếu 
doanh nghiệp/ định chế đó đang trong quá trình giải thể hoặc sát 
nhập để giải quyết khủng hoảng. 
Nguồn: PTR (2019) 
cxxxv 
10 PHỤ LỤC 10. MỨC PHÍ XHTNDN CỦA SAIGON PHATTHINH CREDIT 
RATING 
Bảng 37. Mức phí Xếp hạng tín nhiệm đối với tổ chức phát hành 
Giá trị tổng tài sản theo số liệu báo cáo 
tài chính gần nhất 
Phí XHTN cơ bản (chưa bao gồm 
VAT) 
Dưới 100 tỷ VNĐ 70 – 100 triệu VND 
Từ 100 tỷ – 200 tỷ VNĐ 100 – 130 triệu VND 
Từ 200 tỷ – 400 tỷ VNĐ 130 – 170 triệu VND 
Từ 400 tỷ – 1.000 tỷ VND 170 – 210 triệu VND 
Từ 1000 tỷ – 2.000 tỷ VND 210 – 250 triệu VND 
Hơn 2.000 tỷ – 10.000 tỷ VND 250 – 300 triệu VND 
Hơn 10.000 tỷ – 20.000 tỷ VND 300 – 400 triệu VND 
Hơn 20.000 tỷ – 40.000 tỷ VND 400 – 600 triệu VND 
Trên 40.000 tỷ VND 600 triệu VND trở lên 
Nguồn: PTR (2019) 
cxxxvi 
Bảng 38. Phí trần hàng năm đối với Doanh nghiệp phi tài chính 
Trái phiếu không bảo đảm hàng năm 
được phát hành 
Phí trần hàng năm 
Dưới 1.000 tỷ VND 700 triệu VND 
1.000 tỷ – 5.000 tỷ VND 1.1 tỷ VND 
5.000 tỷ – 10.000 tỷ VND 1.6 tỷ VND 
Trên 10.000 tỷ VND 2.5 tỷ VND 
Nguồn: PTR (2019) 
Bảng 39. Phí dịch vụ XHTN tổ chức bảo lãnh 
Tổng tài sản (VND) Lệ phí 
Dưới 20.000 tỷ VND 200 – 400 triệu VND 
20.000 tỷ – 40.000 tỷ VND 400 – 600 triệu VND 
Trên 40.000 tỷ VND 600 triệu VND trở lên 
Nguồn: PTR (2019) 
cxxxvii 
BẢN TỔNG HỢP CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 
TT Tên bài báo/công trình 
Số tác giả/ 
Mức độ, 
Vai trò 
tham gia 
Tên tạp chí 
hoặc kỷ yếu 
khoa học 
Số 
trích 
dẫn 
của 
bài 
báo 
Tập/số 
Tháng/
Năm 
công bố 
Trước khi khi nghiên cứu sinh 
1 
Chất lượng của hệ thống xếp 
hạng tín nhiệm nội bộ doanh 
nghiệp tại ngân hàng thương 
mại việt nam - Tiếp cận dựa 
trên đánh giá của người sử 
dụng 
1 
Tạp chí Công 
nghệ Ngân hàng 
ISSN:
1859-
3682 
Số 81 
12/ 
2012 
2 
Bàn thêm về kỹ thuật phân 
loại nợ bằng xếp hạng tín 
dụng nội bộ trong các ngân 
hàng thương mại Việt Nam 
1 
Tạp chí Công 
nghệ Ngân hàng 
ISSN:
1859-
3682 
Số 87 
06/ 
2013 
Từ khi bắt đầu Nghiên cứu sinh 
1 
Nhân tố ảnh hưởng đến tiếp 
cận sử dụng dịch vụ bảo lãnh 
tín dụng của doanh nghiệp 
nhỏ và vừa tại TP.HCM 
1 
Tạp chí Phát 
triển Kinh tế 
ISSN: 
1859-
1124 
Số 27 
(04) 
04/ 
2016 
2 
Đề tài cấp Thành phố: Hoạt 
động bảo lãnh tín dụng cho 
doanh nghiệp nhỏ và vừa 
trên địa bàn thành phố Hồ 
Chí Minh. 
Chuyên đề số 13: Giải pháp 
xây dựng mô hình xếp hạng 
tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ 
và vừa tại Quỹ Bảo lãnh tín 
Thành viên 
Đề tài UBND TP 
Hồ Chí Minh, 
đơn vị chủ trì: 
trường Đại học 
Ngân hàng 
TP.HCM, Chủ 
nhiệm: PGS. TS 
Hạ Thị Thiều 
Dao 
06/ 
2016 
cxxxviii 
dụng doanh nghiệp nhỏ và 
vừa Thành Phố Hồ Chí Minh 
3 
Nhân tố tác động rủi ro vỡ nợ 
của các doanh nghiệp niêm 
yết ngành thủy sản Việt Nam 
1 
Tạp chí Công 
thương 
ISSN: 
0866-
7756 
Số 07 
05/ 
2018 
4 
Nhân tố tác động đến việc sử 
dụng dịch vụ xếp hạng tín 
nhiệm doanh nghiệp của các 
cá nhân tại thị trường Việt 
Nam 
1 
Tạp chí Công 
thương 
ISSN: 
0866-
7756 
Số 20 
11/ 
2019 
5 
Kiểm định rủi ro vỡ nợ bằng 
phương pháp Logit va DA: 
Trường hợp doanh nghiệp 
niêm yết ngành xây dựng và 
bất động sản Việt Nam 
1 
Tạp chí Công 
thương 
ISSN: 
0866-
7756 
Số 20 
11/ 
2019 
6 
Yếu tố vĩ mô tác động đến sự 
phát triển thị trường xếp 
hạng tín nhiệm doanh nghiệp 
tại các quốc gia ASEAN+3 
1 
Tạp chí Công 
thương 
ISSN: 
0866-
7756 
Số 10 
05/ 
2020 
7 
Hoạt động của các tổ chức 
xếp hạng tín nhiệm doanh 
nghiệp tại Việt Nam và so 
sánh với các quốc gia Châu 
Á 
1 
Tạp chí Công 
thương 
ISSN: 
0866-
7756 
Số 11 
05/ 
2020 
8 
Đánh giá danh tiếng của tổ 
chức xếp hạng tín nhiệm và 
dự định sử dụng dịch vụ xếp 
hạng tín nhiệm của doanh 
nghiệp tại Việt Nam 
1 
Tạp chí Công 
thương 
ISSN: 
0866-
7756 
Số 27 
09/ 
2020