Theo J.S.Mill, giáo dục không chỉ là điều kiện để con người thực hiện các
quyền tự do dân sự mà còn là điều kiện quan trọng để bảo đảm thực hiện các
quyền chính trị của mỗi công dân. Trong thời kỳ này, số cử tri tại nước Anh đã
tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, người dân không hiểu biết thì họ rất khó để có được
lựa chọn tốt. Mà điều kiện để hình thành chính thể lý tưởng lại là dân chúng ở xã
hội ấy phải tự nguyện chấp nhận và có khả năng làm những việc cần thiết để giữ
cho chính thể đó vận hành tốt. Thêm nữa, họ phải có đủ tri thức để biết cách đòi
hỏi những điều tốt cho mình từ những người đại diện của mình. Nếu không có
giáo dục, không có kiến thức, dân chúng không thể có được điều kiện cần và đủ
để làm “chủ” một chính thể đại diện được. Cùng với hạn chế này, họ cũng dễ bị
các chính trị gia thực hiện chính sách “mị dân” để họ có thể thỏa sức “chuyên
quyền”. Như vậy, người dân không những không được hưởng chút lợi lộc gì từ
chính quyền mang tên “đại diện” ấy mà còn trở thành nô lệ dưới một hình thức
tinh vi, trá hình so với thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ. Quan niệm trên là một
đóng góp lớn của J.S.Mill trong lịch sử tư tưởng
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 205 trang
205 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quan điểm john stuart mill về tự do và ý nghĩa của nó đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiến 
ban đầu, đến việc tiến hành triển khai xây dựng, quyết định và thi hành chính sách. 
Tuy nhiên, tùy vào tính chất của những chính sách cụ thể mà người dân có thể 
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp, ở mức độ khác nhau. 
3.3.3. Bài học về việc bảo đảm quyền bình đẳng giới 
Bằng những hoạt động lý luận và thực tiễn, J.S.Mill đã đấu tranh cho quyền 
bình đẳng giới. Ông coi đây nhu cầu bức thiết của nhân loại tiến bộ nói chung và 
phụ nữ nói riêng trong cuộc đấu tranh vì quyền tự do, bình đẳng của con người. 
Điều đáng lưu ý là trong khi hầu như các học giả nổi tiếng cùng thời, đều ngăn 
cản bình đẳng giới thì J.S.Mill lại dành cho vấn đề này một sự ủng hộ nhiệt thành 
nhất. Điều này khiến cho tư tưởng ủng hộ bình đẳng giới của ông đã phải chịu sự 
chỉ trích và lên án nặng nề từ dư luận xã hội, từ những tác giả cùng thế hệ. Cụ thể, 
năm 1868, John Proctor đã vẽ một bức tranh với tựa đề “Quý bà Mill tham gia 
nhóm quý bà” (Miss Mill joins the Ladies) để chế nhạo thậm tệ vì nỗ lực của ông 
bảo vệ cho những quyền của nữ giới52 [165]. Năm 1869, cùng với việc xuất bản 
“Sự áp bức phụ nữ”, cuốn sách được coi “kinh thánh của phong trào nữ giới”53 
[114; tr.170]; J.S.Mill đã cùng với những người bạn đồng chí hướng tổ chức 
buổi hội nghị đầu tiên của Hội quốc gia vì quyền bầu cử của phụ nữ. Trong bài 
phát biểu khai mạc hội nghị, chủ tịch hội là bà Clementia Taylor đã cho rằng, 
thành công của Hội phần nhiều đều do sự ủng hộ dũng cảm và nhiệt huyết của 
J.S.Mill. Đại diện cho những người phụ nữ, C.Taylor bày tỏ: “Mỗi người phụ nữ 
 172 
Anh đều nợ J.S.Mill một lòng biết ơn sâu sắc”54 [114; tr.174]. Điều này cho thấy 
tư tưởng quyền bình đẳng giới không chỉ có giá trị trong thời đại Victoria mà 
trong phong trào đấu tranh đòi bình quyền của phụ nữ ở thế kỷ XX, và ngay cả 
thế kỷ XXI. Phân tích lịch sử của phong trào phụ nữ, các nhà nghiên cứu đưa ra 
lý thuyết ba giai đoạn phát triển, được gọi là các Làn sóng nữ quyền: Làn sóng 
thứ nhất (The First Wave of Feminism) từ khoảng năm 1848 đến 1918, Làn sóng 
thứ hai (The Second Wave of Feminism) từ 1918 đến 1968 và Làn sóng thứ ba 
(The Third Wave of Feminism) từ 1968 đến nay. Trong đó, giai đoạn đầu - làn 
sóng nữ quyền thứ nhất chính là cơ sở nền tảng quan trọng, khơi nguồn cho sự 
phát triển bùng nổ của các giai đoạn tiếp theo. Đối với giai đoạn đầu, linh hồn và 
“người cha” tư tưởng của phong trào đòi quyền bình đẳng cho nữ giới chính là 
J.S.Mill [114; tr.176-177]. Ngày nay, đặt bên cạnh phần mộ của J.S.Mill ở 
Avignon là một tấm bảng khắc dòng chữ “En hommage de J.S.Mill. Defenseur 
des Femmes” (Bằng tất cả sự kính trọng J.S.Mill, người bảo vệ phụ nữ) [114; 
tr.174]. Vấn đề bình đẳng giới đã được pháp điển hóa trong UDHR tại Điều 2, 
Điều 16, Điều 25 [124]. Trong luật pháp của mỗi quốc gia, vấn đề bình đẳng giới 
được coi như một tiêu chí của dân chủ, công bằng, văn minh. 
Xuất hiện trước cả những tuyên bố quốc tế của Liên hiệp quốc về vấn đề bình 
đẳng giới, năm 1930, trong Bản Luận cương năm - Cương lĩnh chính trị đầu tiên 
của Đảng Cộng sản Việt Nam - đã khẳng định mục tiêu đấu tranh cho nam nữ bình 
quyền. Cùng năm đó, Hội Phụ nữ cứu quốc (tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ 
Việt Nam) đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập, trở thành một trong những 
tổ chức xã hội của phụ nữ lâu đời nhất trên thế giới. Từ khi giành được độc lập 
(năm 1945), việc bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ luôn là 
chính sách nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thể chế hóa trong hệ 
thống pháp luật của Nhà nước ta. Ngay trong Sắc lệnh số 14, ngày 18 - 9 - 1945, 
một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam mới đã quy 
 173 
định quyền bình đẳng của phụ nữ trong vấn đề bầu cử. Trong lời nói đầu của Hiến 
pháp năm 1946, Nhà nước ta đã xác định một trong ba nguyên tắc cơ bản của Hiến 
pháp là “đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo”. 
Trên cơ sở đó, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Nước Việt Nam là một 
nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân 
Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Quy 
định này đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ, 
rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử giữa nam và nữ trên thực tế. Bên cạnh đó, 
quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được Hiến pháp năm 1946 cụ 
thể hoá tại Điều 6 như sau: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi 
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá”, đồng thời, Điều 9 Hiến pháp năm 1946 
khẳng định: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” [163]. Những 
quy định kể trên đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại về địa vị pháp lý của phụ nữ 
Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam được pháp luật thừa nhận 
và bảo đảm có những quyền bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực. Nếu so 
sánh với pháp luật quốc tế, thì thấy bình đẳng giới trong Hiến pháp 1946 của Việt 
Nam có tiến bộ vượt bậc. Bình đẳng nam nữ (trên tất cả các phương diện) được 
khẳng định ngay từ Hiến pháp năm 1946, khi nước Việt Nam mới được thành lập. 
Trong khi đó, tính từ thời điểm Hiến pháp Mỹ được ban hành (1789), phải 133 năm 
sau (1920), ở Mỹ, phụ nữ mới được ghi nhận có quyền bình đẳng với nam giới về 
bầu cử và ứng cử. Năm 1971, phụ nữ ở Thụy Sĩ mới được ghi nhận những quyền 
này còn phụ nữ ở Kuwait54 mãi đến năm 1991 mới được quyền bầu cử. Đó là chưa 
kể một số quốc gia, cho đến thời điểm hiện nay, pháp luật vẫn chưa ghi nhận phụ 
nữ có các quyền bình đẳng quan trọng này. 
Kế thừa những nội dung tiến bộ của Hiến pháp năm 1946, các bản Hiến 
pháp sau đã có những điều luật quy định trực tiếp và cụ thể hơn về quyền bình 
đẳng nam, nữ. Đến Hiến pháp năm 2013 có nhiều điều quy định sự bình đẳng 
 174 
nam - nữ một cách toàn diện hơn, tổng quát hơn và tiến bộ hơn. Quy định nam - 
nữ bình đẳng về mọi mặt trong tất cả các lĩnh vực. Đây không chỉ là bình đẳng về 
quyền lợi mà còn là bình đẳng về trách nhiệm, nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực. Cụ 
thể, tại Điều 16 (mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt 
đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội). Điều 26 (công 
dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ 
hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát 
triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội). Đó là những quy định 
các vấn đề chung, có tính nguyên tắc liên quan đến gia đình. Các quy định trực 
tiếp về hôn nhân, gia đình được Hiến định tại Điều 36: nam nữ có quyền kết hôn, 
ly hôn; hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ 
chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo 
hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Điều 60 quy định: Nhà nước, xã hội tạo 
môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc... Bên cạnh 
đó, một số nội dung liên quan đến gia đình, bình đẳng giới cũng đã được Hiến 
định trong một số điều, khoản của các Chương II Quyền con người, quyền và 
nghĩa vụ cơ bản của công dân và Chương III Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, 
khoa học, công nghệ và môi trường [163]. Có thể nói, trong những năm qua, 
Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ 
khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan 
trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia 
xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất thế giới trong thời gian qua. Điểm nổi bật 
trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật 
pháp, chính sách về bình đẳng giới. 
 175 
Tiểu kết chƣơng 3 
Mặc dù những tác phẩm của J.S.Mill viết hơn một thế kỷ rưỡi nhưng có 
những điều ông nói vẫn còn có những ý nghĩa hiện thời. Lý tưởng của J.S.Mill là 
đem lại sự tự do cho từng người để có được sự phồn vinh cho tất cả mọi người và 
cuối cùng nhằm có được sự tiến bộ xã hội. Ông còn cảnh báo chống lại sự độc tài 
của đa số và khẳng định rằng có những giới hạn trong việc thực hiện những quyền 
lực công cộng đối với cá nhân. Thông qua bảo vệ tự do, J.S.Mill đưa ra mô hình xã 
hội mà quyền tự do của con người không những được đảm bảo mà không ngừng 
được củng cố và phát huy, đó là nhà nước dân chủ. Trong nhà nước đó, người cầm 
quyền phải đồng thuận với nhân dân; quyền lợi và ý chí của họ phải là quyền lợi và 
ý chí của quốc gia, của nhân dân. Đó phải là một mô hình nhà nước mà quyền tự do 
của con người được thực hiện nhiều nhất. Điều đặc biệt, J.S.Mill tiếp cận tự do 
không chỉ với tư cách là một phạm trù chính trị mà còn là một phạm trù văn hóa, 
gắn liền với đạo đức. Với tất cả những tư tưởng tiến bộ đó của J.S.Mill có ý nghĩa 
rất thiết thực trên phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn trong giai đoạn hiện 
nay. Tuy nhiên, là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, mỗi học thuyết 
đều phản ánh ít nhiều những điều kiện hiện thực của thời đại đó. Vậy nên, triết học 
của J.S.Mill không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Mặc dù khẳng định cơ sở 
cho việc hạn chế quyền lực tác động của xã hội đến các hành vi của cá nhân là tự vệ 
nhằm đảm bảo tính hài hòa, tối đa hóa lợi ích của xã hội và cá nhân, tuy nhiên ông 
chưa chỉ ra được phương thức hạn chế quyền lực của nhà nước một cách khoa học 
và có hệ thống. J.S.Mill xây dựng tự do và luận chứng tự do trên các nguyên tắc: 
nguyên tắc tự do, nguyên tắc duy lợi và nguyên tắc tổn hại có nhiều điểm chưa hợp 
lý. Đặc biệt, khi bàn về nguyên tắc tổn hại, J.S.Mill cho rằng một hành vi gây hại 
chỉ khi nó ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Đây là một lập luận thiếu tính 
thuyết phục của J.S.Mill. Nếu một hành động ảnh hưởng đến lợi ích của người 
khác bị coi là gây hại thì sẽ vô cùng khó khăn để xác định ranh giới giữa sự tổn hại 
 176 
và không tổn hại mà cá nhân có thể gây ra cho xã hội. Do đó cần phải có một sự 
đảm bảo rõ ràng hơn nữa trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, nếu không sẽ là 
kẽ hở cho những hành vi tự do quá trớn. Những nguyên tắc mà J.S.Mill đề ra mới 
chỉ là những điều kiện cần chứ chưa phải là tất cả những điều kiện đủ cho một xã 
hội phát triển với những con người cá nhân tự do. Bên cạnh đó, J.S.Mill đưa ra tiêu 
chuẩn giới hạn hành vi của cá nhân là lợi ích nhưng ông chưa xác định rõ được đó 
là lợi ích nào và những giải pháp mà ông đề ra để xây dựng một tương lai tốt đẹp 
của nhân loại chỉ đơn thuần thông qua tự do ngôn luận, thông qua phẩm chất biết 
sửa sai của con người. Mặc dù còn tồn tại một số vấn đề nêu trên nhưng điều đó 
không làm giảm những giá trị trong triết học của J.S.Mill. Quan điểm về tự do của 
ông chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ, tác động lớn đến tình hình chính trị - xã hội của 
nước Anh đương thời và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử tư tưởng nói chung. Từ 
những lập luận thuyết phục, triết học của J.S.Mill toát lên màu sắc của chủ nghĩa 
lạc quan. Ông tin tưởng vào tự do cá nhân sẽ là tiền đề cho sự tiến bộ của xã hội. 
Niềm tin và lý tưởng của ông không phải là không có lý bởi lẽ ở thời đại nào, con 
người cũng luôn khát khao hướng đến một cuộc sống tự do mà phẩm giá và quyền 
lợi của con người được tôn trọng. 
 177 
KẾT LUẬN 
1. J.S.Mill là một nhà triết học, một nhà đạo đức học học, nhà kinh tế học và 
là nhà hoạt động chính trị nổi tiếng ở nước Anh. Ông là một triết gia có đường 
lối tự do ảnh hưởng lớn ở phương Tây thế kỷ XIX. Sự nghiệp mà J.S.Mill theo 
đuổi chính là tự do và quyền con người. Sự nghiệp đó là khối thống nhất giữa 
các tác phẩm trong các lĩnh vực triết học, logic học, đạo đức học và chính trị học; 
trong đó tiêu biểu có bộ ba tác phẩm “Bàn về tự do”, “Chính thể đại diện” và 
“Thuyết vị lợi”. J.S.Mill tiếp cận tự do với tự cách là những quyền cơ bản của 
con người; đó là những quyền tự do dân sự và những quyền tự do dân chủ về 
chính trị. Những tư tưởng đó được ông nêu lên trong bối cảnh nước Anh thế kỷ 
XIX với những biến chuyển rõ rệt của nền kinh tế thời kỳ công nghiệp hóa đã 
kéo theo những thay đổi của điều kiện xã hội - chính trị. Đó là thời kỳ mà kinh tế 
rất phát triển song cũng bao chứa trong nó những mâu thuẫn xã hội rất gay gắt. 
Về chính trị, chính phủ Anh rơi vào tình trạng khủng hoảng về cách thức vận 
hành chính thể trước những cuộc biểu tình, phẫn nộ của dân chúng. Đối với dân 
chúng, về cơ bản, họ bị mất đi quyền tự do chính trị của mình. Tầng lớp tinh hoa 
trong xã hội Anh không có quyền tham chính bởi sự lấn át của số đông. Thực 
chất, số đông được nhắc đến ở đây là số đông đã bị các nhà cầm quyền thao túng. 
Trên đây là những điều kiện lịch sử hình thành quan điểm tự do trong triết học 
của J.S.Mill. Thêm vào đó, triết học thực chứng của A.Comte, triết học tự do của 
J.Locke, quan điểm về sự phát triển cao nhất, hài hòa nhất mọi năng lực của con 
người với tư cách mục tiêu của nhân loại của W.Humboldt và tư tưởng chính trị 
của A.Tocqueville là những tiền đề lý luận, là phông nền tư tưởng cho sự hình 
thành triết học tự do của J.S.Mill. Từ điều kiện lịch sử và những tiền đề lý luận 
trên, triết học chính trị J.S.Mill hình thành và góp phần không nhỏ làm phong 
phú thêm bức tranh triết học phương Tây. 
 178 
2. Quá trình hình thành quan điểm tự do trong triết học của J.S.Mill đã cho 
thấy các bước chuyển tư tưởng của ông: từ khi là một thần đồng thuở thơ ấu đến 
khi trở thành triết gia lỗi lạc, từ những quan điểm nền tảng ban đầu đến những 
luận thuyết sâu sắc sau này. Đồng thời, các giai đoạn đó vận động cùng những 
bước chuyển còn phác họa nên một hành trình tư tưởng mà J.S.Mill đã trải qua; 
để thấy được sự nỗ lực, khổ luyện của ông, để thấy được nhiệt huyết lớn lao mà 
ông dành cho sự nghiệp tranh đấu vì tự do mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Sau 
cùng, quá trình hình thành và phát triển triết học tự do, J.S.Mill còn bộc lộ được 
rằng, tư tưởng tự do trong triết học của ông được dựa trên triết học lý thuyết của 
ông: thế giới quan duy nghiệm duy cảm nằm trong trào lưu triết học duy nghiệm 
duy cảm Anh và thuyết đạo đức học vị lợi. 
3. Lý tưởng của J.S.Mill là đem lại sự tự do cho từng người để có được sự 
phồn vinh cho tất cả mọi người và cuối cùng nhằm có được sự tiến bộ xã hội. 
Ông còn cảnh báo chống lại sự độc tài của đa số và khẳng định rằng có những 
giới hạn trong việc thực hiện những quyền lực công cộng đối với cá nhân. Thông 
qua bảo vệ tự do, J.S.Mill đưa ra mô hình xã hội mà quyền tự do của con người 
không những được đảm bảo mà không ngừng được củng cố và phát huy, đó là 
nhà nước dân chủ. Trong nhà nước đó, người cầm quyền phải đồng thuận với 
nhân dân; quyền lợi và ý chí của họ phải là quyền lợi và ý chí của quốc gia, của 
nhân dân. Đó phải là một mô hình nhà nước mà quyền tự do của con người được 
thực hiện nhiều nhất. Điều đặc biệt, J.S.Mill tiếp cận tự do không chỉ với tư cách 
là một phạm trù chính trị mà còn là một phạm trù văn hóa, gắn liền với đạo đức. 
Với tất cả những tư tưởng tiến bộ đó của J.S.Mill có ý nghĩa rất thiết thực trên 
phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. 
4. Tuy nhiên, là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, mỗi học thuyết 
đều phản ánh ít nhiều những điều kiện hiện thực của thời đại đó. Vậy nên, triết 
học của J.S.Mill không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Mặc dù khẳng định 
 179 
cơ sở cho việc hạn chế quyền lực tác động của xã hội đến các hành vi của cá 
nhân là tự vệ nhằm đảm bảo tính hài hòa, tối đa hóa lợi ích của xã hội và cá nhân, 
tuy nhiên ông chưa chỉ ra được phương thức hạn chế quyền lực của nhà nước 
một cách khoa học và có hệ thống. J.S.Mill xây dựng tự do và luận chứng tự do 
trên các nguyên tắc: nguyên tắc tự do, nguyên tắc duy lợi và nguyên tắc tổn hại 
có nhiều điểm chưa hợp lý. Đặc biệt, khi bàn về nguyên tắc tổn hại, J.S.Mill cho 
rằng một hành vi gây hại chỉ khi nó ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Đây 
là một lập luận thiếu tính thuyết phục của Mill. Nếu một hành động ảnh hưởng 
đến lợi ích của người khác bị coi là gây hại thì sẽ vô cùng khó khăn để xác định 
ranh giới giữa sự tổn hại và không tổn hại mà cá nhân có thể gây ra cho xã hội. 
Do đó cần phải có một sự đảm bảo rõ ràng hơn nữa trong mối quan hệ giữa cá 
nhân và xã hội, nếu không sẽ là kẽ hở cho những hành vi tự do quá trớn. Những 
nguyên tắc mà J.S.Mill đề ra mới chỉ là những điều kiện cần chứ chưa phải là tất 
cả những điều kiện đủ cho một xã hội phát triển với những con người cá nhân tự 
do. Bên cạnh đó, J.S.Mill đưa ra tiêu chuẩn giới hạn hành vi của cá nhân là lợi 
ích nhưng ông chưa xác định rõ được đó là lợi ích nào và những giải pháp mà 
ông đề ra để xây dựng một tương lai tốt đẹp của nhân loại chỉ đơn thuần thông 
qua tự do ngôn luận, thông qua phẩm chất biết sửa sai của con người. Mặc dù 
còn tồn tại một số vấn đề nêu trên nhưng điều đó không làm giảm những giá trị 
trong triết học của J.S.Mill. Quan điểm về tự do của ông chứa đựng nhiều yếu tố 
tiến bộ, tác động lớn đến tình hình chính trị - xã hội của nước Anh đương thời và 
ghi đậm dấu ấn trong lịch sử tư tưởng nói chung. Từ những lập luận thuyết phục, 
triết học của J.S.Mill toát lên màu sắc của chủ nghĩa lạc quan. Ông tin tưởng vào 
tự do cá nhân sẽ là tiền đề cho sự tiến bộ của xã hội. Niềm tin và lý tưởng của 
ông không phải là không có lý bởi lẽ ở thời đại nào, con người cũng luôn khát 
khao hướng đến một cuộc sống tự do mà phẩm giá và quyền lợi của con người 
được tôn trọng. 
 180 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
1, John Stuart Mill với “Bàn về tự do”, 2015, Tạp chí Triết học số 5 (288), 
tr.74-79, ISSN: 0866-7632. 
2, John Stuart Mill’s philosophy of liberty as a basic of human rights, 2017, 
Cбopниk Нayчныx Cтaтeй “Coвpeмeнныe Пpoблeмы нeykи и oбpaзoвaния: 
Tpaдuциии и Нoвaции”, Kaзaxckий Нaциoнaлый Пeдaгoгичeckий 
Yнивepcитeт Имeни Aбaя, Kazakhstan, 3/2017, ISBN 978-601-298-581-8, 
3, Một số vấn đề về giáo dục quyền con người cho học sinh ở Việt Nam hiện 
nay, 2018, Tạp chí Khoa học – khoa học xã hội trường Đại học Thủ đô Hà Nội, 
số 21, tr172-180, ISSN 2354-1512. 
4, Tư tưởng về quyền con người trong xã hội truyền thống Việt Nam, 2018, 
Tạp chí Khoa học – khoa học xã hội trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 22, 
tr172-180, ISSN 2354-1512. 
5, John Stuart Mill’s Liberal thought on Education and the Dissemination 
of Education in Enforcing the Right of Liberty, American Journal of Educational 
Research Volume 6, May 2018, ISSN (Print): 2327-6126. 
6, Special Features in Ho Chi Minh's Thought about Human Rights, 
American Journal of Educational Research Volume 6, Issue 7, 2018, ISSN 
(Print): 2327-6126 . 
 181 
CHÚ THÍCH 
(1) Victoria (1819 - 1901) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh 
và Ireland từ 20 tháng 6 năm 1837 đến khi bà qua đời. Từ ngày 1 tháng 5 năm 
1876, bà mang thêm danh hiệu Nữ hoàng Ấn Độ (Empress of India). 
(2) John Kay, (1704 - 1780) là kỹ sư người Anh, nhà phát minh ra tàu con 
thoi bay. Phát minh của ông có ý nghĩa quan trọng đối với việc dệt tự động. 
(3) James Hargreaves (1720 - 1778) là là một trong những tên tuổi nổi 
tiếng nhất trong Cách mạng công nghiệp ở Anh. Ông nổi tiếng với phát minh ra 
máy kéo sợi Jenny. Máy xe sợi Jenny đã giải quyết được mâu thuẫn giữa khâu xe 
sợi và khâu dệt vải, góp phần đưa ngành dệt nước Anh và thế giới tiến vọt. 
(4) Edmund Cartwright (1743 - 1823) là một nhà phát minh người Anh. 
Ông tốt nghiệp Đại học Oxford rất sớm và tiếp tục phát minh ra máy dệt điện. 
(5) Thomas Newcomen (1663 - 1729) đã hoàn thiện máy hơi nước sử 
dụng làm bơm nước, gọi là máy hơi nước Newcomen. Do đó, ông thường được 
xem là một người cha đẻ của cuộc Cách mạng công nghiệp. Thành tựu lớn nhất 
của Newcomen là máy hơi nước, có lẽ được phát triển năm 1710, kết hợp ý 
tưởng của Thomas Savery và Denis Papin. 
(6) James Watt (1736-1819) là một kỹ sư làm việc ở văn phòng thí 
nghiệm thuộc trường đại học Glasgow (Scotland) đã chế tạo ra máy hơi nước. 
(7) Cách mạng tư sản Anh thành công chủ yếu là nhờ được quần chúng 
ủng hộ và tham gia đấu tranh. Cách mạng dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát 
triển mạnh mẽ hơn, thể hiện sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp 
phong kiến, báo hiệu sự suy vong của giai cấp phong kiến. Thế nhưng quyền lợi 
của nhân dân lao động lại không được đáp ứng và cách mạng tư sản là cách 
mạng không triệt để. 
 182 
(8) Oliver Cromwell (1599 - 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân 
sự người Anh, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa 
ở Anh và sau đó là Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland. Ông là một 
trong những chỉ huy của lực lượng quân đội mới đánh bại những người bảo 
hoàng trong cuộc nội chiến Anh. 
(9) Charles II (1630 - 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là 
vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và là vua Anh, Scotland, 
Ireland từ khi trung hưng chế độ quân chủ năm 1660 đến khi mất. 
(10) Sự xuất hiện của đảng chính trị đầu tiên trên thế giới có lẽ bắt đầu từ 
nước Anh, trong thời kỳ được gọi là Popish Plot năm 1678, với hai đảng đầu tiên 
được biết đến với cái tên là đảng Whig và đảng Tory. 
(11) Robert Owen (1771 - 1858) nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng vĩ đại 
người Anh. 
(12) The six points of the People‟s Charter: A vote for every man over the 
age of 21; secret ballots; no property qualification; payment of MPs; 
constituencies of equal size and annual Parliaments. 
(13) “He may learn in a morning‟s walk through London more of the 
history of England during the nineteenth century, than all the professed English 
histories in existence will tell him concerning the other eighteen”. 
(14) Henry Temple Palmerston (1784 - 1865) là một chính khách thuộc 
đảng Whig. Ông là hăng hái thực hiện chính sách xâm lược ở Anh. 
(15) Hiệp ước Nam Kinh là mốc mở đầu quá trình biến Trung Quốc từ một 
nước phong kiến độc lập trở thành một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Sau 
chiến tranh thuốc phiện, các nước đế quốc từng bước xâu xé trung Quốc. 
(16) “Matter, then, may be defined, a Permanent Possibility of Sensation”. 
(17) “ all we can know of Matter is the sensations which it gives us, and 
the order of occurrence of those sensations”. 
 183 
(18) Hiện tượng học (Phenomenology) là cơ sở nền tảng của Chủ nghĩa 
Hiện Sinh được hình thành trước đó. Chúng ta cũng cần lưu ý phân biệt học 
thuyết này với Hiện tượng luận (Phenomenalism) luận thuyết cho rằng không có 
gì thực hữu ngoại trừ kinh nghiệm giác quan. 
(19) Nature has placed mankind under the governance of two sovereign 
masters, pain and pleasure. 
(20) Panopticon là một kiểu nhà tù bố trí các xà-lim theo hình bán nguyệt. 
Thiết kế này giúp nhà tù có thể bố trí một số lượng nhân viên ít hơn nhưng lại 
giám sát được một số lượng tù nhân nhiều hơn. Thiết kế của Jemery Bentham 
nhằm giảm chi phí mà vẫn đem lại hiệu quả công việc cao. Từ ý tưởng nhà tù 
panopticon của Jemery Bentham đầu thế kỉ 20, Michel Foucault, nhà tư tưởng 
Pháp, đã giới thiệu sơ đồ kiểu nhà tù này như là biểu tượng hệ thống cai trị dân 
chúng của giới cầm quyền trong tác phẩm nổi tiếng “Sự ra đời của nhà tù”. Hiện 
nay, thiết kế panopticon vẫn tiếp tục được sử dụng trong các văn phòng và nhà 
máy trên khắp nước Mỹ để theo dõi năng suất làm việc của nhân viên. 
(21) My previous education had been, in a certain sense, already a course 
of Benthamism. The Benthamic standard of “the greatest happiness” was that 
which I had always been taught to apply. 
(22) The “principle of utility”... gave unity to my conceptions of things. 
I now had opinions; a creed, a doctrine, a philosophy; in one among the best 
senses of the word, a religion; the inculcation and diffusion of which could be 
made the principal outward purpose of a life. And I had a grand conception 
laid before me of changes to be effected in the condition of mankind through 
that doctrine. 
(23) Alexis de Tocqueville (tên đầy đủ Alexis Charles Henri Maurice 
Clérel de Tocqueville) là đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội và Bộ 
trưởng Ngoại giao của Pháp. 
 184 
(24) a party to setting up the Westminster Review. The need of a Radical 
organ to make head against the Edinburgh and Quarterly (then in the period of 
their greatest reputation and influence). 
(25) My father continued to write occasional articles. The Quarterly 
Review received its exposure, as a sequel to that of the Edinburgh. 
(26) A drowsy, stifled, unimpassioned grief 
Which finds no natural outlet or relief 
In word, or sigh, or tear”. 
(27) The only thing besides Greek, that I learnt as a lesson in this part of 
my childhood, A grief without a pang, void, dark and drear 
(28) “Suppose that all your objects in life were realized; that all the 
changes in institutions and opinions which you are looking forward to, could be 
completely effected at this very instant: would this be a great joy and happiness 
to you?”. 
(29) “At this my heart sank within me: the whole foundation on which my 
life was constructed fell down. All my happiness was to have been found in the 
continual pursuit of this end. The end had ceased to charm, and how could there 
ever again be any interest in the means? I seemed to have nothing left to live for”. 
(30) Charles Kingsley (1819 - 1875) là một linh mục, một giáo sư đại học, 
nhà cải cách xã hội, nhà sử học và tiểu thuyết gia người Anh. 
(31) Thomas Hardy (1840 - 1928) là nhà thơ và tiểu thuyết gia người Anh. 
(32) Frederic Harrison (1831 - 1923) là nhà luật học và nhà sử học người 
Anh đã công khai hóa chủ nghĩa tích cực của nhà xã hội học người Pháp Auguste 
Comte ở Anh. 
(33) Luận án sử dụng thuật ngữ “Thuyết vị lợi” để diễn đạt tác phẩm 
“Utilitarianism”. Đây là thuật ngữ được nhiều dịch giả sử dụng. Ngoài ra, học 
 185 
thuyết này còn được diễn đạt bởi nhiều thuật ngữ như thuyết công lợi, thuyết duy 
lợi, thuyết đại lợi 
(34) Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 – 1951), là một nhà triết học 
người Áo, người đã có công đóng góp quan trọng trong logic, triết học về toán, 
triết học tinh thần và triết học ngôn ngữ. Ông được coi là một trong những nhà 
triết học quan trọng nhất của thế kỷ 20. 
(35) Samuel Taylor Coleridge (1772 – 1834) là nhà thơ, nhà phê bình, nhà 
triết học Anh, một đại diện tiêu biểu của các nhà thơ vùng Hồ (Lake Poets) – gồm 
Samuel Taylor Coleridge, Robert Southey và William Wordsworth. Ông cũng là 
cha của nữ nhà thơ Anh Sara Coleridge và nhà thơ, nhà thư mục Hartley Coleridge. 
(36) Michael Sandel (sinh năm 1953) là triết gia chính trị. Tại Mỹ, Michael 
Sandel là thành viên Hội đồng Đạo đức sinh học của Tổng thống George 
W.Bush, Viện Hàn lâm Khoa học và nghệ thuật Hoa kỳ và Hội đồng đối ngoại 
quốc gia. Năm 2010, tờ China Newsweek bình chọn Michael Sandel là “nhân 
vật nước ngoài có ảnh hưởng nhất ở Trung Quốc của năm”. 
(37) Karl Popper (1902 - 1994) là một nhà triết học người Áo, người đề 
xuất các ý tưởng về một xã hội mở, một xã hội mà ở đó sự bất đồng chính kiến 
được chấp nhận và đó được xem như một tiền đề để tiến tới việc xây dựng một 
xã hội hoàn thiện. Ông cũng được xem như là người sáng lập Chủ nghĩa Duy lý 
phê phán (Critical rationalism). 
(38) Thomas Hare (1806 - 1891) là một người đề xuất cải cách bầu cử 
của Anh. 
(39) “that all men are created equal, that they are endowed by their Creator 
with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the 
pursuit of Happiness...” 
(40) “I. Men are born, and always continue, free and equal in respect of 
their rights.s Civil distinctions, therefore, can only be founded on public utility. 
 186 
II. The end of all political associations is the preservation of the natural and 
imprescriptible rights of man; and these rights are Liberty, Property, Security, 
and Resistance of Oppression”. 
(41) “The millions of voters, who, in opposition to nearly every educated 
person in the country, made Louis Napoleon President, were chiefly peasants 
who could neither read nor write”. 
(42) “ because so long as education continues to be so wretchedly 
imperfect, we dreaded the ignorance and especially the selfishness and brutality 
of the mass”. 
(43) Mary Wollstonecraft (1759 - 1797) là một nhà văn, nhà triết học và 
nhà bảo vệ quyền phụ nữ người Anh thế kỷ 18. Trong suốt cuộc đời của mình, bà 
sáng tác tiểu thuyết, luận văn, ký sự các chuyến đi, về lịch sử cuộc cách mạng 
Pháp, sách về đạo đức, và một cuốn sách về trẻ em. Wollstonecraft nổi tiếng 
nhất với tác phẩm A Vindication of the Rights of Woman (1792), trong đó bà 
cho rằng phụ nữ không phải tự nhiên thấp kém so với đàn ông, mà chỉ do họ 
thiếu sự giáo dục. Bà nhận đình rằng cả đàn ông và phụ nữ đều phải được đối xử 
bình đằng và mường tượng về một trật tự xã hội dựa trên nguyên lý đó. 
(44) Alexander Bain (1810 - 1877) là nhà phát minh, kỹ sư người Scotland. 
(45) Jeanne d'Arc (1412 - 1431) là một nữ anh hùng người Pháp trong cuộc 
Chiến tranh Trăm Năm giữa Pháp và Anh. Vua Charles VII của Pháp, khi đó còn 
chưa lên ngôi, gửi cô cùng một đoàn quân đến đánh giải vây cho thành Orléans. 
Cô trở nên nổi bật sau khi vượt qua được thái độ coi thường của các chỉ huy dày 
dặn kinh nghiệm, và phá vây chỉ trong vòng chín ngày. Một loạt chiến thắng 
chóng vánh khác mở đường cho việc Charles VII đăng quang tại Reims. Jeanne 
d'Arc trở thành một hình tượng quan trọng trong nền văn minh phương Tây. 
(46) Bát Quốc Liên Quân là liên minh của tám quốc gia đế quốc nhằm 
chống lại sự nổi dậy của phong trào Nghĩa Hòa Đoàn tập kích vào các sứ quán 
 187 
của tám quốc gia này ở Trung Quốc. Tám nước đó gồm: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, 
Ý, Nhật, Nga và Autriche. 
(47) Gertrude Himmelfarb (sinh ngày 8 tháng 8 năm 1922) là một sử gia 
người Mỹ. Cô đã viết rất nhiều về lịch sử trí tuệ, tập trung vào Vương quốc Anh 
và thời đại Victoria, cũng như về xã hội và văn hóa đương đại 
(48) “The nineteenth century might be called the age of Liberalism”. 
(49) Leonard Trelawny Hobhouse (1864 - 1929) là nhà xã hội học và là 
nhà chính trị tự do chủ nghĩa của Anh cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. 
(50) “The teaching of Mill bring us close to the heart of Liberalism. We 
learn from him, in the first place, that liberty is no mere formula of law, or of the 
restriction of law”. 
(51) Robert David Kaplan (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1952) là một tác giả 
người Mỹ. Sách của ông là về chính trị, chủ yếu là đối ngoại, và du lịch. Tác 
phẩm của ông trong ba thập kỷ đã xuất hiện trên Đại Tây Dương , The 
Washington Post , New York Times , New Republic , The National 
Interest , Foreign Foreign và The Wall Street Journal , trong số các tờ báo và ấn 
phẩm khác. 
(52) “Miss Mill joins the Ladies” (Edward John Eyre; Robert Wellesley 
Grosvenor, 2nd Baron Ebury; William Henry Smith; John Stuart Mill) by John 
Proctor wood engraving, published in Judy or The London Serio-Comic Journal 
25 November 1868; (444 mm x 296 mm). 
(53) The Subjection of Women  “burst like a time bomb into the sexual 
arena”  “bible of the women‟s movement”. 
(54) “every woman in Great Britain owed him a deep debt of gratitute”. 
(55) Dawlat al-Kuwait là một quốc gia tại Tây Á. Kuwait nằm tại rìa phía 
bắc của miền đông bán đảo Ả Rập, và tại đầu vịnh Ba Tư, có biên giới với Iraq 
và Ả Rập Xê Út. 
 188 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Phạm Ngọc Anh chủ biên (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con 
người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
2. Gudmundur Alfredsson, Asbjorn Eide (2011), Tuyên ngôn quốc tế nhân 
quyền 1948 mục tiêu chung của nhân loại, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. 
3. Nguyễn Trần Bạt (2005), Suy tưởng, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
4. Isaiah Berlin (2014), Bốn tiểu luận về tự do, NXB Tri Thức, Hà Nội. 
5. Crane Brinton (2007), Con người và tư tưởng Phương Tây, Nxb Từ điển 
Bách khoa, Hà Nội. 
6. Vũ Ngọc Bình (1998), Những quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến 
quyền trẻ em, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Vũ Ngọc Bình (Hà Nội), Sách bỏ túi về quyền con người, NXB Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
8. Vũ Ngọc Bình (2000), Quyền con người trong quản lý tư pháp, NXB 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
9. Vũ Ngọc Bình (2007), Giới thiệu Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền 
trẻ em, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Triết học (3 tập). Dùng cho nghiên cứu 
sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học. Nxb.Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội. 
11. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2005), Thành tựu và phát triển quyền con người 
ở Việt Nam, Hà Nội. 
12. Émile Chartier (2013), Alain nói về hạnh phúc, NXB Trẻ, Hà Nội. Hồ 
Thanh Vân – Cao Việt Dũng và Nguyễn Long dịch. 
 189 
13. Đăng Dũng Chi, Hoàng Văn Nghĩa (2014), Chủ nghĩa xã hội và quyền con 
người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 
14. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về Quyền tự do kinh doanh trong 
pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
15. Edward Craig (2010), Triết học, NXB Tri thức, Hà Nội. Phan Kiều Tùng dịch. 
16. Đại học quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền 
con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
17. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người - Tập tài liệu chuyên đề 
của Liên Hợp Quốc, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 
18. Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người Tập hợp những bình 
luận, khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên Hợp Quốc, NXB Công 
an nhân dân, Hà Nội. 
19. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền 
con người, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. 
20. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Luật nhân quyền quốc tế- những vấn đề 
cơ bản, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. 
21. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp 
luật và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. 
22. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Tư tưởng về quyền con người – Tuyển tập 
tài liệu thế giới và Việt Nam, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. 
23. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người 
trong khu vực ASEAN, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. 
24. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Hỏi đáp về quyền con người, NXB Công 
an Nhân dân, Hà Nội. 
25. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 những 
vấn đề lý luận và thực tiễn tập 1, NXB Hồng Đức, Hà Nội. 
 190 
26. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 những 
vấn đề lý luận và thực tiễn tập 2, NXB Hồng Đức, Hà Nội. 
27. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Tuyển tập Hiến Pháp của một số quốc gia, 
NXB Hồng Đức, Hà Nội. 
28. Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Hội thảo Những khía cạnh triết học trong 
nền tảng kinh tế thị trường tại Việt Nam, Hòa Bình. 
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, NXB 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, nền tảng chính trị pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện 
đất nước trong thời kỳ mới, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội. 
32. Lưu Phóng Đồng (2004), Giáo trình hướng tới thế hỷ XXI – Triết học 
Phương Tây hiện đại, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. 
33. Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền hiến định về xã hội của công dân 
Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội. 
34. Nguyễn Văn Động (2006), Các quyền hiến định về chính trị của công dân 
Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội. 
35. Gilles Dostaler (2008), Chủ nghĩa tự do của Hayek, NXB Tri Thức, Hà Nội, 
Nguyễn Đôn Phước dịch. 
36. Lê Duẩn (1980), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập dân tộc, vì Chủ 
nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, NXB Sự Thật, Hà Nội. 
37. Nguyễn Đăng Dung (2004), Tính nhân bản của Hiến Pháp và bản tính của 
các cơ quan nhà nước, NXB Tư pháp, Hà Nội. 
38. Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (2009), Giáo trình 
Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
 191 
39. Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, NXB Tư pháp, 
Hà Nội. 
40. Ngô Thị Mỹ Dung (2003), Triết học pháp quyền Tây Âu, Trường Đại học 
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 
thành phố Hồ Chí Minh. 
41. Alan Ebenstein (2007), Friedrich Hayek cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Tri 
thức, Hà Nội 
42. Vũ Công Giao (2016), Hỏi đáp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của 
công dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
43. Nguyễn Hoàng Hải (2008), Luận văn Thạc sỹ Quan điểm về tự do trong 
tác phẩm bàn về tự do của J.S.Mill, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
Văn, Hà Nội. 
44. Tiền Thừa Hán, Hứa Khiết Minh (2005), Thông sử nước Anh, NXB Lao 
động – xã hội, Hà Nội, Đặng Thanh Tịch dịch. 
45. Hoàng Văn Hảo (1998), Quan điểm Mác – Lênin về quyền con người, 
quyền công dân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
46. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh chủ biên (1997), Một số vấn đề về quyền 
dân sự và chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh-TTNC Quyền 
con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
47. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh chủ biên (1998), Các văn kiện quốc tế 
về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
48. Nguyễn Vũ Hảo (2006), Giao tiếp liên văn hóa trong bối cảnh toàn cầu 
hóa: Một số vấn đề triết học, Tạp chí Triết học, số 7 (182), tháng 7 – 2006. 
49. Vũ Quang Hiển (2013), Tôn ngôn độc lập những khát vọng về dân tộc và 
quyền con người, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
 192 
50. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (1991), 
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
51. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Những 
quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về quyền con người và ý 
nghĩa của với Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 
52. Hội luật gia Việt Nam (2008), Bảo vệ quyền con người của các nhóm dễ bị 
tổn thương, NXB Hồng Đức, Hà Nội. 
53. Hội luật gia Việt Nam biên soạn (2007), Tập hợp các văn kiện pháp lý quốc 
tế cơ bản về quyền con người, NXB Tư pháp, Hà Nội. 
54. Đỗ Minh Hợp (2005), Khái niệm tự do trong triết học của Gi. Xáctơrơ, Tạp 
chí Triết học Số 11 
55. Đỗ Minh Hợp (2008), Đại cương lịch sử triết học Phương Tây hiện đại, NXB 
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố thành phố Hồ Chí Minh. 
56. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học Phương Tây, Tập 1 Triết học cổ đại, 
triết học trung cổ, triết học Phục hưng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
57. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học Phương Tây, Tập 2 Triết học 
Phương Tây cận hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
58. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học Phương Tây, Tập 3 Triết học 
Phương Tây hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
59. Samuel Hungtington (2005), Sự va chạm của các nền văn minh, NXB Lao 
động, Hà Nội. 
60. Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995), Quyền con người trong 
thế giới hiện đại, Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 
61. Phạm Văn Khánh (2006), Góp phần tìm hiểu quyền con người, NXB Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
 193 
62. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu quyền con 
người (2005), Các văn kiện cơ bản về Luật nhân đạo quốc tế, NXB Lý luận 
chính trị, Hà Nội. 
63. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu quyền con 
người (2005), Luật nhân đạo quốc tế - Những vấn đề cơ bản, NXB Lý luận 
chính trị, Hà Nội. 
64. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu quyền con 
người (2007), Những nội dung cơ bản về quyền con người, NXB Tư pháp, Hà 
Nội. 
65. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con 
người, quyền công dân (2011), Tư tưởng về quyền con người tuyển tập tư 
tưởng thế giới và Việt Nam, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. 
66. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Nghiên cứu quyền con người 
(2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, 
NXB Công An nhân dân, Hà Nội. 
67. Tường Duy Kiên (2006), Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con 
người, NXB Tư pháp, Hà Nội. 
68. John Locke (2007), Khảo luận thứ hai về Chính quyền, NXB Tri Thức, Hà Nội. 
69. John Suart Mill (1859), Bàn về Tự do, NXB Tri thức, Hà Nội, Nguyễn Văn 
Trọng dịch, bản dịch năm 2014. 
70. John Suart Mill (1861), Chính thể đại diện, NXB Tri thức, Hà Nội, Nguyễn 
Văn Trọng dịch, bản dịch năm 2016. 
71. V.I.Lêni, Toàn tập, tập 38 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 
72. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 
73. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 40 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 
74. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 
75. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 47 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 
 194 
76. Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen về con người và sự 
nghiệp giải phóng con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
77. Nguyễn Thị Thùy Linh (2012), Luận văn Thạc sỹ Triết học “Quan điểm của 
J.S.Mill về chính thể trong tác phẩm Chính thể đại diện”, trường Đại học 
Khoa học xã hội và nhân văn. 
78. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập - tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
79. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
80. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập - tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
81. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập - tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
82. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 13, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
83. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập - tập 16, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
84. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
85. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 21, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
86. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 22, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
87. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 23, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
88. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 24, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
89. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 25, phần I , NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
90. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 25, phần II, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
91. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 26, phần I, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
92. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 26, phần II, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
93. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 26, phần III, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
94. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập – tập 40, NXB Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
 195 
95. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập – tập 42, NXB Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
96. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập – tập 43, NXB Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
97. Bùi Đức Mãn (2008), Lược sử nước Anh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 
thành phố Hồ Chí Minh. 
98. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, NXB Tư 
pháp, Hà Nội. 
99. Nguyễn Ánh Hồng Minh (2014), Luận văn Thạc sỹ Triết học: “Tư tưởng 
đạo đức của J.S.Mill trong tác phẩm Thuyết vị lợi”, Đại học Khoa học xã 
hội và nhân văn. 
100. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
101. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
102. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
103. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
104. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
105. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
106. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
107. Nguyễn Thế Nghĩa (chủ biên) (1999), Đại cương các tư tưởng và học 
thuyết chính trị trên thế giới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
108. Montesquieu (1874), Bàn về tinh thần pháp luật, NXB Chính trị - Hành 
chính, Hà Nội, Hoàng Thanh Đạm dịch, bản dịch năm 2013. 
109. Nikolai Alexandrovich Berdyaev (2015), Con người trong thế giới tinh 
thần – trải nghiệm triết học cá biệt luận, NXB Tri thức, Hà Nội (Nguyễn 
Văn Trọng dịch). 
110. Lê Tôn Nghiêm (2001), Lịch sử triết học Tây Phương, NXB thành phố Hồ 
Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 
 196 
111. Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tăng (1987), Từ Ðiển Triết Học 
Giản Yếu, NXB Ðại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội. 
112. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong lí thuyết về công lý của 
nhà triết học Mĩ – John Rawls, NXB Thế giới, Hà Nội. 
113. Ngô Thị Như (2009), Luận văn Thạc sỹ Triết học chính trị của J.S.Mill, 
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố 
Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 
114. Ngô Thị Như (2012), Luận án Tiến sĩ Triết học chính trị của J.S.Mill – Giá 
trị và bài học lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại 
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 
115. Trần Văn Phòng, Dương Minh Đức (2001), Lịch sử triết học Phương Tây 
trước Mác, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 
116. Lê Văn Phú (2004), Công tác xã hội, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
117. Nguyễn Thị Kim Phụng (2007), Giáo trình Luật an sinh xã hội, NXB Tư 
pháp, Hà Nội. 
118. Hồ Sỹ Quý chủ biên (2003), Con người và phát triển con người trong quan 
niệm của của C.Mác và Ph.Ăngghen, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
119. Jean Jacques Rousseau (2014), Khế ước xã hội, bản dịch của GS. Dương 
Văn Hóa, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 
120. Michael Sandel (2015), Phải trái đúng sai, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. 
121. Trần Đăng Sinh chủ biên (2008), Lịch sử triết học, NXB Đại học sư phạm, 
Hà Nội. 
122. Trần Đăng Sinh, Lê Văn Đoán (2009), Chuyên đề triết học, NXB Đại học 
sư phạm, Hà Nội. 
123. Bùi Văn Nam Sơn (2012), Trò chuyện triết học, NXB Tri thức, Hà Nội. 
124. Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và luật quốc tế về quyền con 
người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 197 
125. Trí Thành (2002), Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương, 
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
126. Nguyễn Anh Thái (chủ biên) (2006), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo 
dục, Hà Nội 
127. Trần Dân Tiên (1994), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ 
tịch, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
128. Vũ Hồng Tiến (2006), Những vấn đề cơ bản của lịch sử các học thuyết kinh 
tế, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 
129. Trần Quang Tiệp (2004), Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật 
tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
130. Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1981), 
NXB Pháp Lý, Hà Nội. 
131. Trần Văn Toàn (2008), Hành trình đi vào triết học, NXB Tri thức, Hà Nội. 
132. Tocqueville (2007), Nền dân trị Mỹ tập 1, NXB Tri Thức, Hà Nội, Phạm 
Toàn dịch. 
133. Tocqueville (2007), Nền dân trị Mỹ tập 2, NXB Tri Thức, Hà Nội, Phạm 
Toàn dịch. 
134. Từ điển Nga – Việt (1979), NXB Tiếng Nga. 
135. Từ điển triết học (1986), NXB Tiến bộ (Mátcơva) và NXB Sự thật, Hà Nội. 
136. Nguyễn Văn Trọng (2015), Những ghi chép về quyền tự do lựa chọn, NXB 
Tri thức, Hà Nội. 
137. Nguyễn Ước (2014), Các chủ đề triết học, NXB Tri thức, Hà Nội. 
138. Văn phòng quốc hội (2003), Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản 
pháp lý quốc tế và pháp luật Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
139. Viện Nghiên cứu quyền con người (2014), Quyền con người, lý luận và 
thực tiễn, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. 
 198 
140. Viện nghiên cứu Lập pháp, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (2005),Việt Nam 
với vấn đề quyền con người, Bộ Tư pháp, Hà Nội. 
141. Viện nghiên cứu Lập pháp, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (2014), Hiến 
pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nền tảng chính trị, pháp lý cho công 
cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, NXB Lao động xã hội, 
Hà Nội. 
142. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
143. Will Durant (2014), Câu chuyện triết học, NXB Hồng Đức, Trí Hải – Bửu 
Đích dịch. 
Tiếng Anh 
144. Aristotle (2007), Politics, translated by Benjamin Jowett, by Forgotten Books. 
145. Ben Eggleston và Dale Miller (2014), The Cambridge Companion to 
Utilitarianism, Cambridge University Press. 
146. Jeremy Bentham (1823), Introduction to the Principles of morals and 
legislation, Oxford University Press. 
147. John Mercel Robson (1956), The social and political thought of J.S.Mill, 
University of Toronto Press. 
148. J.S.Mill (1863), Utilitarianism, Batoche Books, Kitchener, 2001. 
149. J.S.Mill (1981), The Collected Works of J.S.Mill – 33 volumes, University of 
Toronto Press (Canada), Routledge & Kegan Paul (London - England), vol 1. 
150. John Skorupski (1998), The Cambridge Companion to Mill, Cambridge 
University Press. 
151. J.S.Mill (1977), Ibid, vol 19, 
152. Leonard Trelawny Hobhouse (2015), Liberalism, Publisher the Perfect Library. 
153. Matthew Spalding, 2009. The Declaration of Independence: The 
Constitution of the United States, publisher by Heritage Foundation, The 
United States of America 
 199 
154. Richard Reeves (2008), J.S.Mill – Victorian Firebrand, Atlantic Books, London. 
155. Vincent Robert Johnson, 1990, The French Declaration of the Rights of Man 
and of Citizens of 1789, the Reign of Terror, and the Revolutionary Tribunal of 
Paris, publisher by Boston College, The United States of America. 
Website 
156. 
&cn_id=33212 
157. Nguyễn Phú Trọng, Tổng kết thực tiễn – một nhiệm vụ trọng yếu của công 
tác lý luận hiện nay,  
158.  
159.  
160. 
_frontmatter.pdf 
161.  
162. 
-difference-between-the-theories-of-mill-andbentham.html 
163. 
emid=536 
164. 
emid=536 
165. https://www.npg.org.uk/collections/search/portrait/mw115688/Miss-Mill-
joins-the-Ladies-Edward-John-Eyre-Robert-Wellesley-Grosvenor-2nd-Ba
ron-Ebury-William-Henry-Smith-John-Stuart-Mill 
166. A. Comte. Course of positive philosophy, Chapter 1. Dẫn từ History Guide 
-  papesz. Net 
167. www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/.../hienphapnam2013