Trên cơ sở vận dụng các quan điểm của phép duy vật biện chứng, sử
dụng các phương pháp so sánh luật học, nghiên cứu tổng hợp, phân tích luận án
đã cơ bản giải quyết được các vấn đề lý luận về bản chất pháp lý của những quy
định pháp luật TTHS quy định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN, xác định
giới hạn và cách thức điều chỉnh của pháp luật TTHS đối với những chủ thể đặc biệt
này. Trên cơ sở đó, tác giả mạnh dạn đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật
TTHS quy định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN như việc quy định cụ thể
những người THTT cũng như xác định rõ trách nhiệm cũng như những biện pháp
chế tài của những người tham gia tố tụng trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người
CTN, xác định sự cần thiết phải thành lập Tòa chuyên trách cho người CTN
193 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 3034 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếp
xúc với những người THTT như điều tra viên, kiểm sát viên hay các thành viên
HĐXX. Không những thế, trong con mắt của bị can, bị cáo là người CTN, những
người THTT là những người đại diện cho quyền lực nhà nước. Vì thế, thái độ đúng
mực, tâm lý cảm thông của các cán bộ này đối với người CTN có thể khiến cho
người CTN có suy nghĩ tích cực về Nhà nước nói chung và hệ thống tư pháp hình
sự nói riêng và ngược lại. Và cũng chính ý nghĩ tích cực hay tiêu cực này của người
CTN về hành vi và cách xử sự của những người THTT sẽ có ảnh hưởng không nhỏ
đến thái độ và mong muốn cải tạo, phục hồi của người CTN trong tương lai cũng
như ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của các em về bộ máy nhà nước.
Vì lý do đó, không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều quốc gia trên thế giới, bên
cạnh việc xây dựng hệ thống Tòa án gia đình hoặc Tòa án người CTN với các thủ
tục tố tụng đặc thù, khác biệt với thủ tục TTHS chung, đã xây dựng một đội ngũ
điều tra viên, công tố viên, thẩm phán chuyên trách để xử lý các vụ án người CTN.
Ở nước ta, mặc dù chưa có đội ngũ chuyên trách này, pháp luật TTHS có quy định
những yêu cầu đặc biệt đối với điều tra viên, kiểm sát viên và thành phần HĐXX
trong vụ án người CTN xuất phát từ nhu cầu bảo vệ đặc biệt các đối tượng này.
Khoản 1 Điều 302 Bộ luật TTHS quy định điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán
THTT đối với người CTN phạm tội phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa
156
học giáo dục, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm là người CTN. Theo khảo
sát bằng phiếu thăm dò ý kiến dành cho điều tra viên, có 90% điều tra viên cho rằng
không được đào tạo chuyên sâu về điều tra những VAHS có người CTN tham gia
(phụ lục 7). Khi được hỏi về việc có được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ xét xử
những vụ án do người CTN thực hiện hay không, có 88% thẩm phán trả lời không
được đào tạo chuyên sâu. Có 72% thẩm phán góp ý kiến về việc đưa ra giải pháp
đào tạo đội ngũ những người THTT chuyên về công tác điều tra, truy tố, xét xử
người CTN phạm tội; xây dựng đội ngũ luật sư có kiến thức chuyên sâu về người
CTN (phụ lục 2). Cần lưu ý rằng, để có thể hiểu biết thấu đáo về hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm người chưa thành niên, người THTT nói chung và điều
tra viên trong các vụ án người CTN nói riêng, cần không những hiểu biết về thực
tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của người CTN mà còn cần có đủ kiến thức
về các chuẩn mực quốc tế về tư pháp người CTN, theo nội dung chương trình đào
tạo hoặc bồi dưỡng chuẩn về tâm lý, khoa học giáo dục người CTN, về kỹ năng
thực hành trong công tác điều tra, truy tố và xét xử thân thiện đối với người CTN vi
phạm pháp luật, nạn nhân và nhân chứng trẻ em.
Tất cả những yêu cầu này đều nhằm đảm bảo rằng những người THTT khi
tiếp xúc với bị can, bị cáo là người CTN sẽ có cách thức xử sự đúng mực, tâm lý,
cảm thông với các em, tìm được phương thức hợp lý để khêu gợi, thúc đẩy sự hợp
tác của họ trong quá trình làm sáng tỏ vụ án, thấu hiểu những diễn biến tâm sinh lý
của các em trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như trong quá trình
tham gia tố tụng, tìm ra được giải pháp thích hợp nhất để giúp các em nhận thức lỗi
lầm, cải tạo và phục hồi. Do đó, cần tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, bồi
dưỡng nâng cao trình độ của những người làm công tác THTT.
3.2.2.3. Tăng cường đội ngũ luật sư, người bào chữa
Luật sư, NBC là người cùng với các cơ quan THTT góp phần vào quá trình
xây dựng và phát triển xã hội, bảo vệ dân chủ và công bằng. Với tư cách là một
157
chức danh tư pháp tham gia độc lập vào đời sống xã hội và tố tụng tư pháp, luật sư
đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các thiết chế dân chủ ở nước ta. Bảo đảm
QBC của bị can, bị cáo được Bộ luật TTHS 1988 ghi nhận và Bộ luật TTHS 2003
kế thừa. Vấn đề này được quy định thành một trong những nguyên tắc quan trọng,
thể hiện thái độ và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ta đối với nhân dân nói
chung và bị can, bị cáo nói riêng. Bảo đảm được quyền tự bào chữa và quyền nhờ
người khác bào chữa cho mình khi tham gia TTHS là thể hiện được sự văn minh,
dân chủ trong quá trình tố tụng. Trong điều kiện đất nước bước vào thời kỳ đổi mới
toàn diện, theo định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vai trò của
NBC nói chung và luật sư nói riêng trong hệ thống các cơ quan tư pháp, đề ra nhiều
biện pháp quan trọng nhằm phát huy vai trò của luật sư. Hoạt động bào chữa trong
TTHS chỉ đạt được hiệu quả khi và chỉ khi hội đủ ba điều kiện cần thiết, đó là điều
kiện về pháp lý, điều kiện về tổ chức và điều kiện về con người. Trong đó, vấn đề
có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động bào chữa phải là việc nâng cao năng
lực trách nhiệm của những người làm công tác bào chữa. Để đạt được mục tiêu nói
trên, theo chúng tôi, cần phải quán triệt các yêu cầu sau:
Một là, xây dựng đội ngũ những người làm công tác bào chữa thực sự có
năng lực, không chỉ thỏa mãn các điều kiện về tiêu chuẩn pháp luật mà cái chính ở
đây là phải đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn tố tụng. Năng lực cá nhân, uy
tín, kinh nghiệm của NBC có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả bào chữa. Bởi lẽ đó,
đội ngũ những người làm công tác bào chữa phải được đào tạo chuyên sâu về người
CTN (giống như xây dựng đội ngũ những người THTT chuyên trách), bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề.
Hai là, phải đề cao đạo đức nghề nghiệp đối với những người làm công tác
bào chữa. NBC phải luôn là những người tôn trọng pháp luật và sự thật, trung thực
trong hoạt động của mình, có nhiệt huyết và lương tâm nghề nghiệp.
158
Ba là, bổ sung và hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm tăng cường số
lượng cũng như diện NBC tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
CTN phạm tội. Tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật TTHS 2003 quy định có ba loại NBC,
đó là luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo và BCVND, nhưng trong
thực tiễn THTT chỉ có luật sư tham gia bào chữa vào giai đoạn xét xử là chủ yếu.
Trong khi đó, Luật TGPL được Quốc hội thông qua ngày 29-6-2006 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01-01-2007 có quy định về chức danh “trợ giúp viên pháp lý” là
những công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn: có bằng
cử nhân luật, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có
chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL và tham gia tố tụng với tư cách người đại
diện hợp pháp của đương sự trong các VAHS (Điều 21 Luật TGPL). Như đã phân
tích tại Chương một của luận án, hiện nay có 9.190 cộng tác viên TGPL (145 cộng
tác viên/ trung tâm), trong đó có hơn 1.000 luật sư tham gia với vai trò là cộng tác
viên TGPL. Sau hơn 6 năm triển khai thực hiện Luật TGPL (2006 – 2013) có
609.599 vụ việc được TGPL (101.600 vụ/năm). Tham gia TTHS 37.510 vụ việc,
trong đó có 50.161 vụ việc [120]. Kết quả đạt được trong công tác bào chữa rất khả
quan như làm thay đổi tội danh có khung hình phạt nhẹ hơn hoặc hình phạt nhẹ hơn
so với cáo trạng và chuyển hướng xử lý người CTN phạm tội Vì vậy, cần bổ sung
thêm Trợ giúp viên pháp lý vào khoản 1 Điều 56 Bộ luật TTHS nhằm thu hút những
người có trình độ pháp lý nhất định được tham gia làm NBC để đáp ứng nhu cầu
hiện nay.
3.2.3. Các giải pháp khác
Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng của ngành tư pháp, các đài
phát thanh, truyền hình của tỉnh, thành phố nên xây dựng, phát triển và tuyên truyền
các tình huống pháp luật cụ thể về người CTN để phát huy tối ưu công tác tuyên
truyền pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân, giúp cho nhân dân hiểu và tuân theo
pháp luật;
159
Phải xây dựng mục tiêu xây dựng một thế giới phù hợp với trẻ em – một thế
giới mà trong đó, tất cả trẻ em đều được yêu thương, tôn trọng, được học tập, vui
chơi, giải trí, được bảo vệ trước các nguy cơ xâm hại và được bảo đảm một cách
bình đẳng; Việc giáo dục, tuyên truyền về quyền trẻ em, nhận thức về vị thế của trẻ
em trong xã hội phải được đưa vào chương trình giảng dạy của hệ thống giáo dục để
từ việc coi trẻ em là đối tượng phụ thuộc, phải chịu sự chi phối của người lớn đến
chỗ trẻ em đã được thừa nhận và được đối xử với tư cách là những chủ thể của
quyền chứ không đơn thuần chỉ là đối tượng của tình thương hay lòng nhân đạo;
Cần phải có những hoạt động hệ thống, củng cố lại các quy phạm pháp luật và cơ
chế thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN đang tồn tại để phát hiện những
cản trở, thiếu sót đang tồn tại mà tìm ra giải pháp khắc phục kịp thời, như xác định
những văn bản pháp luật hiện hành trong đó có quy định những thủ tục, quy trình tố
tụng, yêu cầu về chứng cứ, hoặc trách nhiệm báo cáo có thể gây khó khăn hoặc cản
trở thái quá cho những trẻ em là người CTN vi phạm pháp luật; rà soát lại công tác
điều tra hiện tại, các chính sách quản lý trường hợp và báo cáo trường hợp để đảm
bảo rằng các hoạt động và chính sách này có tính nhạy cảm với các chủ thể này, và
sửa đổi những chính sách đó nếu cần thiết; xây dựng một chính sách riêng về điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người CTN và đảm bảo rằng chính sách
đó phù hợp với luật pháp quốc tế và được thực hiện có hiệu quả có thể được đưa
vào chương trình tập huấn thích hợp; xây dựng một số hướng dẫn rõ ràng và thiết
thực về phương pháp tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo hướng
nhạy cảm đối với người CTN; Cần bổ sung và hoàn thiện các quy phạm pháp luật
một cách cụ thể về sự có mặt bắt buộc của NBC tại các buổi lấy lời khai và một số
hoạt động tố tụng khác áp dụng đối với người CTN phạm tội, coi đây là điều kiện
đảm bảo giá trị pháp lý của chứng cứ. Đối với các trường hợp các cơ quan THTT
không yêu cầu NBC tham gia bào chữa cho người CTN ngay từ giai đoạn điều tra,
thì phải coi là một trong những căn cứ xác định việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng và là căn cứ để hủy án sơ thẩm;
160
Cần xây dựng được hệ thống tư pháp thân thiện với người CTN. Hệ thống tư
pháp thân thiện với người CTN là một hệ thống được xây dựng phù hợp với những
đặc điểm tâm sinh lý của người CTN, chú trọng và đáp ứng được những nhu cầu
đặc thù của lứa tuổi. Xây dựng một hệ thống tư pháp thân thiện với người CTN
không phải là chúng ta phủ định hệ thống hiện có của chúng ta, mà là kế thừa chủ
trương bảo vệ, chăm sóc đặc biệt đối với người CTN phạm tội và trẻ em là nạn nhân
của tội phạm trong hệ thống pháp luật hiện hành và tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp
những quy định này sao cho bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền trẻ em, đáp ứng chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Cụ thể là: cách sắp
xếp, trang trí phòng xử án đảm bảo tính thân thiện để tránh cho người CTN bị ám
ảnh quá nhiều bởi hành vi trái pháp luật của mình, bố trí các đồ đạc để các bên ngồi
ngang bằng nhau xung quanh một cái bàn, bỏ “vành móng ngựa”; tất cả các bên đều
mặc quần áo bình thường; cấm sử dụng còng tay hoặc phương tiện hạn chế khác ở
phòng xử án; cho phép người CTN ngồi cạnh cha mẹ hoặc luật sư của mình; yêu
cầu các bên ngồi chứ không đứng khi tiến hành thẩm vấn; yêu cầu thẩm phán giải
thích quy trình tố tụng cho người CTN ngay khi bắt đầu xét xử và giải thích đầy đủ
hành vi phạm tội của bị cáo bằng ngôn ngữ đơn giản; bảo đảm rằng, tại mọi thời
điểm, người CTN được hỏi, giải thích, đối đáp bằng ngôn ngữ mà người đó hiểu;
bảo đảm việc giải thích thường xuyên cho người CTN trong suốt quá trình xét xử;
không cho phép công chúng tham dự khi xét xử, không xử lưu động các vụ án có
liên quan đến người CTN phạm tội, hoặc là người bị hại. v.v.. Những quy định này
sẽ phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về thủ tục đối với người CTN được thể hiện
trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn bản có liên quan mà
Việt Nam đã tham gia và cam kết thực hiện.
161
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Từ những nghiên cứu, trình bày và đề xuất của chương 3, chúng tôi có một
số kết luận sau:
1. Trong chương 3, tác giả đưa ra những kiến nghị của mình nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác liên quan tới
thủ tục tố tụng đối với người CTN, đặc biệt là những thủ tục liên quan đến QBC của
bị can, bị cáo là người CTN. Thực tiễn giải quyết những vụ án mà bị can, bị cáo là
người CTN cho thấy phải có những giải pháp giải quyết những bất cập, hạn chế,
vướng mắc nhằm nâng cao chất lượng các vụ án này.
2. Song song với việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật là kiến
nghị thành lập Tòa án người CTN ở Việt Nam. Tác giả cũng đưa ra những ý kiến
đóng góp cho việc xây dựng cơ cấu tổ chức, đội ngũ chuyên trách của Tòa án người
CTN. Bên cạnh việc xây dựng Tòa án người CTN, cần thành lập các cơ quan
chuyên trách ở CQĐT và Viện kiểm sát để giải quyết các loại án về người CTN. Có
như vậy, mới đảm bảo các hoạt động tố tụng đối với người CTN được đạt hiệu quả
cao.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN cần phải có
một cơ chế tư pháp toàn diện để đảm bảo thực hiện các thiết chế tư pháp người
CTN. “Một cơ chế tư pháp người chưa thành niên toàn diện đòi hỏi việc thiết lập
các phòng đặc biệt trong cơ quan cảnh sát, tư pháp, hệ thống Tòa án, văn phòng
công tố viên, cũng như những người bào chữa chuyên trách hay những người đại
diện khác để cung cấp sự trợ giúp về mặt pháp lý hay những hỗ trợ cần thiết khác
cho trẻ em” [44, tr. 807]. Để đáp ứng được mục đích trên, cần có những giải pháp
như xây dựng phòng điều tra thân thiện trong CQĐT, trang trí phòng xử án đảm bảo
tính thân thiệnđể phù hợp với tâm lý của trẻ và phù hợp với các chuẩn mực quốc
tế về thủ tục đối với người CTN được thể hiện trong Công ước của Liên hợp quốc
về quyền trẻ em và các văn bản có liên quan mà Việt Nam đã tham gia và cam kết
thực hiện.
162
3. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết vụ án về người
CTN phải đáp ứng được các yêu cầu về CCTP và xây dựng Nhà nước pháp quyền;
góp phần đảm bảo thực hiện mục đích của TTHS; đảm bảo tính khả thi của các giải
pháp; đảm bảo kế thừa pháp luật truyền thống của TTHS Việt Nam; có tiếp thu
chọn lọc những quy định của pháp luật các nước, đáp ứng được yêu cầu hội nhập
quốc tế.
4. Việc hoàn thiện pháp luật cần được thực hiện một cách toàn diện và triệt
để. Ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Chương XXXII Bộ luật TTHS năm
2003, các cơ quan có thẩm quyền cần xây dựng quy trình chi tiết cho hoạt động điều
tra và xử lý không những cho bị can, bị cáo là người CTN mà còn cho cả người bị
hại và nhân chứng là người CTN. Quy trình này cần được công khai để vừa đảm
bảo nguyên tắc minh bạch pháp luật, vừa có tác dụng hướng dẫn các cơ quan
THTT, người THTT và các chủ thể có liên quan trong việc tham gia giải quyết
những vụ án hình sự có người CTN.
5. Luận án bước đầu đưa ra các đề xuất về việc đảm bảo khả năng thực thi
pháp luật thông qua các chương trình, hoạt động nâng cao nhận thức của các cơ
quan THTT, người THTT, các cơ quan bổ trợ tư pháp và của xã hội về QBC của
người CTN phạm tội trong TTHS Việt Nam.
163
KẾT LUẬN
Hiện nay, QCN luôn được cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia coi trọng và
xem đó như một thành tựu của nền văn minh và là thước đo của sự tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nghiên cứu về QCN trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xây dựng các
cơ chế đảm bảo QCN là đòi hỏi thiết yếu của các ngành khoa học, trong đó có khoa
học TTHS. Trong bất kỳ mô hình tố tụng và ở bất kỳ quốc gia nào, việc giải quyết
hài hòa nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm đồng thời phải tôn trọng và bảo
vệ QCN, trong đó có quyền của những người bị buộc tội, bảo đảm không làm oan
người vô tội luôn được xác định là nhiệm vụ của TTHS. Đặc biệt, khi người bị buộc
tội lại là người CTN, chưa phát triển đầy đủ thể chất, tinh thần để có thể, cần được
TGPL thì việc quy định và bảo đảm thực hiện QBC cho họ càng cần được quan tâm
nghiên cứu.
Pháp luật TTHS Việt Nam đã có những quy định về QBC của bị can, bị cáo
là người CTN. Những quy định đó là tương đối đầy đủ và hợp lý, tuy nhiên vẫn còn
có những bất cập nhất định, không thực sự đáp ứng được yêu cầu của CCTP theo
hướng tăng cường tranh tụng, tăng cường việc bảo đảm QCN trong TTHS.
Thực tiễn TTHS cho thấy, việc quy định và bảo đảm QBC ở Việt Nam còn
nhiều hạn chế, vướng mắc. Việc xác định rõ những hạn chế, vướng mắc nêu trên và
làm rõ nguyên nhân của những hạn chế vướng mắc đó, trên cơ sở đó đề xuất được
những giải pháp khắc phục dù đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở
phạm vi và mức độ khác nhau nhưng vẫn rất cần được tiếp tục nghiên cứu, đặc biệt
là trong giai đoạn hiện nay, khi Hiến pháp năm 2013 đã xác định nguyên tắc tranh
tụng là nguyên tắc trong hoạt động xét xử của tòa án và xác định QBC là một trong
các QCN, quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, trong khuôn khổ luận án Tiến sĩ tác
giả không thể giải quyết một cách toàn diện tất cả những vấn đề liên quan đến QBC
nói chung. Dưới góc độ Luật TTHS và xuất phát từ phạm vi, mục tiêu nghiên cứu,
luận án đã giải quyết được những vấn đề cụ thể như sau:
164
1. Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về QBC của bị can,
bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; đánh giá được vai trò của QBC và xác
định rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo
là người CTN trong TTHS Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn
đề lý luận và thực tiễn cũng như nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải tôn trọng
và bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong quá trình giải quyết VAHS
đòi hỏi phải có sự thay đổi một cách toàn diện cả về mặt lập pháp lẫn mặt nhận
thức.
2. Luận án đã khái quát được pháp luật TTHS Việt Nam về QBC nói chung
và của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng và làm rõ được sự hình thành, phát
triển của chế định này trong pháp luật TTHS Việt Nam, rút ra những kế thừa cần
thiết cho việc tiếp tục hoàn thiện chế định này.
3. Luận án đưa ra được những thông tin khoa học về chế định QBC của
người bị buộc tội là người CTN trong pháp luật Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Cộng hòa
Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đó là những quốc gia đại diện
cho các truyền thống pháp luật khác nhau, đồng thời cũng là những nước mà pháp
luật Việt Nam có những ảnh hưởng nhất định. Từ những nghiên cứu đó luận án có
những so sánh và tiếp thu có chọn lọc, từ đó kiến nghị những giải pháp về mặt pháp
luật nhằm hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong
TTHS Việt Nam.
4. Luận án đã phân tích được thực trạng pháp luật Việt Nam về QBC của bị
can, bị cáo là người CTN và làm rõ những bất cập trong quy định của pháp luật về
vấn đề này. Với những số liệu thống kê cụ thể, kết quả khảo sát và kết quả điều tra
xã hội học, về QBC của bị can, bị cáo là người CTN, luận án đã làm rõ thực trạng
thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN ở Việt Nam trong những năm gần
đây, từ đó đánh giá những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và xác định
được nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó.
165
5. Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc
đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.
Một phần quan trọng trong sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý đó là những quy định
trong trường hợp trẻ em làm trái pháp luật hoặc có liên quan đến hoạt động của các
cơ quan pháp luật. Nội dung chủ đạo của tư duy lập pháp này có thể tóm tắt ở yêu
cầu phải mở rộng QCN của bị can, bị cáo là người CTN như là những bổ sung cần
thiết so với người đã thành niên. Từ đó xuất hiện sự cần thiết phải thay đổi bản thân
tiến trình TTHS và những thủ tục tố tụng của nó theo hướng là những thủ tục tố
tụng chuyên biệt hóa để phù hợp với yêu cầu bảo đảm cao hơn QCN của đối tượng
này.
6. Với quyết tâm xây dựng một môi trường an toàn, mang tính bảo vệ cho
trẻ em, phù hợp với các chuẩn mực và hướng dẫn của quốc tế cũng như hệ thống
pháp luật và truyền thống văn hóa của Việt Nam. Từ năm 1985, Liên hợp quốc đã
thông qua nhiều văn kiện cần được tham khảo khi cân nhắc vấn đề thành lập Tòa
chuyên trách đối với người CTN ở Việt Nam. Giá trị của những văn bản kiện này
là ở chỗ nó không chỉ bó hẹp ở những khía cạnh đặc thù trong hệ thống pháp luật
của mỗi quốc gia mà còn tạo nên một tập hợp những quy phạm mang tính chuẩn
mực tối thiểu mà mỗi quốc gia đều có thể vận dụng vào hoàn cảnh riêng của mình.
Trước tình hình tội phạm do người CTN thực hiện diễn biến rất phức tạp và gia tăng
năm sau cao hơn năm trước. Tình hình nêu trên đòi hỏi một mặt phải giải quyết
nhanh các vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN phạm pháp lẫn
người CTN là người bị hại, nhân chứngNgoài ra, hàng năm có tới 12 – 16 ngàn
người CTN phạm tội, trong đó có 4.000 – 5.000 vụ phải đưa ra xét xử tại tòa án,
mặt khác cũng có hàng ngàn vụ xâm hại trẻ em, nhất là xâm hại tình dục, bạo lực
đối với trẻ em cũng phải đưa ra xét xử tại tòa án.
Từ thực tế nêu trên chúng tôi đề xuất việc thành lập Tòa chuyên trách cho
người CTN là một giải pháp có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Việc thành lập Tòa án
chuyên trách đối với người CTN ở Việt Nam là cụ thể hóa đường lối Đảng và Nhà
nước về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người CTN vi
166
phạm pháp luật nói riêng. Việc thành lập Tòa chuyên trách đối với người CTN là
phù hợp với Chiến lược CCTP đến năm 2020, trong đó có việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án, xây dựng thêm các tòa chuyên trách, xây dựng một đội ngũ
thẩm phán chuyên trách trong lĩnh vực xét xử.
7. Luận án đã nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp luật TTHS
đối với việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN và những yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng thực thi pháp luật TTHS. Những yếu tố này cũng là nguyên
nhân cơ bản làm cho pháp luật chưa được thực thi trên thực tế sau hơn 10 năm có
hiệu lực. Đó là những hạn chế, vướng mắc của những quy định pháp luật, một số
quy định về trình tự TTHS chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống
nhất, những hạn chế về trách nhiệm giữa các cơ quan và người THTT, quan hệ phối
hợp giữa các cơ quan, người THTT, là năng lực thực thi và sự hạn chế về mặt nhận
thức của một bộ phận những người THTTNhững bất cập, hạn chế, vướng mắc
vừa nêu trên đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan THTT trong
việc giải quyết các VAHS, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật do người CTN gây ra nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN phạm tội trong tình hình mới.
8. Trên cơ sở vận dụng các quan điểm của phép duy vật biện chứng, sử
dụng các phương pháp so sánh luật học, nghiên cứu tổng hợp, phân tíchluận án
đã cơ bản giải quyết được các vấn đề lý luận về bản chất pháp lý của những quy
định pháp luật TTHS quy định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN, xác định
giới hạn và cách thức điều chỉnh của pháp luật TTHS đối với những chủ thể đặc biệt
này. Trên cơ sở đó, tác giả mạnh dạn đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật
TTHS quy định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN như việc quy định cụ thể
những người THTT cũng như xác định rõ trách nhiệm cũng như những biện pháp
chế tài của những người tham gia tố tụng trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người
CTN, xác định sự cần thiết phải thành lập Tòa chuyên trách cho người CTN
167
9. Luận án cũng nêu lên những đề xuất bước đầu về các biện pháp nâng cao
năng lực nhận thức cũng như nâng cao năng lực áp dụng pháp luật như xây dựng
chiến lược đào tạo cán bộ chuyên trách cho CQĐT, Viện kiểm sát, TAND và thậm
chí cả đội ngũ bổ trợ tư pháp như luật sư, trợ giúp viên pháp lý xây dựng các chi
tiết về việc tham gia của đại diện hợp pháp của người CTN trong quá trình tham gia
vào quá trình điều tra cũng như khi xét xử người CTN phạm tội.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng các kết quả nghiên cứu của luận án vẫn có
giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Giá trị thực tiễn của luận án được khẳng
định qua những kết quả nghiên cứu về thực trạng pháp luật và khả năng thực thi của
nó. Những nội dung chưa được nghiên cứu được coi là định hướng nghiên cứu tiếp
theo cho tác giả. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đã nêu ở
trên, tác giả đã đề xuất được hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc
thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN, đồng thời bảo đảm xác định sự thật
của vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn VAHS.
Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu khoa học luật TTHS,
giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo luật cũng như trong công tác lập pháp và
công tác điều tra, truy tố, xét xử.
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Một số ý kiến về việc thành lập Tòa án cho người chưa thành niên tại
Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3 (52)/2009.tr. 27-33.
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thành lập Tòa án Vị thành niên, Tạp
chí Khoa học pháp lý số 3 (64)/2011.tr.20 – 26.
3. Đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Sách chuyên khảo Bảo đảm
quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam. Xb.Trường Đại học
Luật TP. Hồ Chí Minh, chủ biên Ts. Võ Thị Kim Oanh, năm 2010.tr.130
-146.
4. Thủ tục thân thiện đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Tạp
chí Khoa học pháp lý số 3 (76)/2013.tr.27 – 36.
5. Human rights Vietnam and the role of Lawyers in ensuring human
rights, đồng tác giả với GS. TS. Mai Hồng Quỳ, bài viết tham dự Hội
thảo Hội Luật gia Dân chủ Thế giới từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 4 năm
2014, tổ chức tại Bỉ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Danh mục văn bản pháp luật
Tài liệu tiếng Việt
1. Hiến pháp năm 1946
2. Hiến pháp năm 1959
3. Hiến pháp năm 1980
4. Hiến pháp năm 1992
5. Hiến pháp năm 2013
6. Bộ luật tố tụng hình sự 1988
7. Bộ luật tố tụng hình sự 2003
8. Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga
9. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp
10. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa
11. Luật Luật sư 2006
12. Luật số 94-101 ngày 05/02/1994 của Cộng Hòa Pháp
13. Chỉ thị số 197 CT/TW, ngày 19/3/1960 của Ban Bí thư khóa II về công tác
thiếu niên, nhi đồng
14. Công văn số 52/1999/KHXX ngày 15/06/1999 của Tòa án nhân dân tối cao về
thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với bị cáo là người
chưa thành niên
15. Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 của Tòa án nhân dân tối cao
về việc giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ
16. Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/06/1951 quy định chi tiết thi hành Sắc lệnh số
150-SL ngày 07/11/1950 về tổ chức trại giam
17. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”
18. Nghị quyết 48 ngày 24/05/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
19. Quy tắc tối thiểu phổ biến về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành
niên (quy tắc Bắc Kinh - United Nations Standard Minimum Rules for the
Administration of Juvenile Justice/Beijing Rules) được Đại Hội Đồng Liên
Hiệp Quốc thông qua ngày 29/11/1985
20. Sắc lệnh số 33/B của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh định thể lệ cho ty liêm phóng
và sở cảnh sát theo mỗi khi bắt người nào ngày 13/9/1945
21. Sắc lệnh số 46 của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh quy định tổ chức các đoàn thể
luật sư ngày 10/10/1945
22. Sắc lệnh số 47 của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh giữ tạm thời các luật lệ hiện hành
ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho
toàn quốc ngày 10/10/1945
23. Sắc lệnh số 21 của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh tổ chức các Toà án quân sự ngày
14/2/1946
24. Sắc lệnh số 69/SL của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh về việc những bị can có thể
nhờ một công dân không phải là luật sư bào chữa cho, trước các toà án thường
và toà án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình ngày 18/6/1949
25. Sắc lệnh số 58-1270 ngày 22/12/1958 của Cộng Hòa Pháp
26. Thông tư 2225-HCTP năm 1956 về chấn chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa
của bị can do Bộ Tài chính ban hành
27. Thông tư số 06-TC ngày 9-9-1967 của Tòa án nhân dân tối cao tối cao
28. Thông tư số 16 ngày 27-9-1974 của Tòa án nhân dân tối cao
Tài liệu tiếng nước ngoài
29. Magistrate Court Act 1932
30. Police and Criminal Evidence Act 1984
31. The Act for the Establishment of and Procedure for juvenile and Family Court
B.E 2534
B. Danh mục sách tham khảo
Tài liệu tiếng Việt
32. Báo cáo khảo sát nhu cầu của Tòa án nhân dân cấp huyện trên toàn quốc
(2007), NXB Tư Pháp, Hà Nội.
33. Bộ luật tố tụng hình sự của Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc(2012), bản dịch
tiếng Việt của Viện khoa học Kiểm sát, VKSND tối cao.
34. Bộ Tư Pháp (2001), Số chuyên đề về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Hà Nội.
35. Bộ Tư Pháp (2012), Tờ trình số 06/TTr-BTP trình Chính phủ về dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư ngày 06/03/2012.
36. Phạm Xuân Chiến, Vũ Đức Khiển, Họ vẫn chưa bị coi là có tội – Quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo, NXB Pháp Lý, Hà Nội.
37. Cauffman, Steinberg (2008), Sự phát triển của thanh niên và xét xử người vị
thành niên.
38. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao, Lê
Khánh Tùng (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Trần Văn Dũng, Hoàng Ngọc Thành, Về một số chế định pháp lý liên quan
đến người chưa thành niên phạm tội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
41. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Hình Sự Việt Nam, NXB Công
An Nhân Dân, Hà Nội.
42. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Đại học New York Khoa Luật (2007), Những vấn đề cơ bản của luật pháp Mỹ
(Fundamentals of American law), NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
44. Đại Học Quốc Gia Hà Nội Khoa Luật (2007), Quyền con người – Tập hợp
những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên Hiệp Quốc,
NXB Công An Nhân Dân, Hà Nội.
45. Hệ thống tư pháp hình sự của một số nước châu Á, bản dịch tiếng Việt của
Viện khoa học Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
46. Vũ Đình Hòe (2001), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, NXB Văn Hóa
Thông Tin và Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
47. Trương Phú Lâm (2003), Bảo đảm công lý và quyền con người trong hoạt
động tố tụng, tư pháp ở Trung Quốc, Quyền con người ở Trung Quốc và Việt
Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
48. Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới (2001), NXB Văn Hóa Thông
Tin.
49. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (1996), Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt
Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
50. Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2010), Bảo đảm quyền con người trong tư pháp
hình sự, NXB Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh.
51. Đinh Văn Quế (2007), Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự 2003, NXB Tổng
Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
52. Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (1999), Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố
tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân, Hà Nội.
53. Stragovich M.S (1968), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Xô Viết, NXB Khoa
Học, Tập 1.
54. Trần Quang Tiệp, Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam.
55. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố
tụng.
56. Tòa án nhân dân tối cao (1970-1974), Hệ thống hóa luật lệ về Hình sự, Tập 1.
57. Tòa án nhân dân tối cao (1975-1978), Hệ thống hóa luật lệ về Hình sự, Tập 2.
58. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Tờ trình về việc bổ sung biên chế, số lượng
Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương năm 2012-2013 tại phiên họp thứ
sáu của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 23/03/2013.
59. Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển (Raddar Bernen) (2000), Hướng dẫn thực
hành các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tư pháp người chưa thành niên,
NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
60. Vũ Mạnh Thông, Nguyễn Ngọc Điệp (2009), Bình luận Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003, NXB Lao động và Xã hội, Hà Nội.
61. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy
Điển (1999), Giáo án các bài giảng công tác với trẻ em làm trái pháp luật, Hà
Nội.
62. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư Pháp (2005), Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, NXB Bộ Tư Pháp, Hà Nội.
63. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư Pháp (1999), Bảo vệ quyền trẻ em
trong pháp luật Việt Nam.
64. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2000), Tăng cường năng lực
hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại Việt Nam.
65. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (Đào Trí Úc chủ biên) (1995), Tội
phạm học, Luật Hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
66. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ Luật tố tụng hình sự, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
67. Vụ công tác lập pháp, Viện Khoa học Kiềm sát (2003), Những sửa đổi cơ bản
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, NXB Tư Pháp, Hà Nội.
Tài liệu tiếng nước ngoài
68. Athony M. Platt (1969), The Child Saver: The invention of Delinquency, The
University of Chicago Press, USA.
69. David S. Rudstein (2002), Criminal Law cases, materials and problems, West
Group Press, USA.
70. Frank W. Miller, Robert O. Dawson. George E. Dix, Raymon I. Parnas
(1985)., The Juvenile justice process, 3rd Ed, Foundation Press, USA.
71. Frederick B. Sussmann (1968), Law of juvenile delinquency, New York, USA.
72. Gilbert H.F.Mumford, T.J. Selwood (1974), A guide to juvenile court law,
London, UK.
73. J- M Baudoin (1990), Ordonnance n.58- 1270 du 22 décembre 1958 et la loi
organique n.94-101 du 5 février 1994; le juge des enfants, punir ou surveiller,
Paris, France.
74. Jeremy Gans, Terese Henning, Jill Hunter, Kate Wamer (2011), Criminal
process and human rights, New South Wales Press, Melbourne, Australia.
75. K. W. Lidstone (1982), Human rights in the English criminal trial – Human
rights in criminal procedure, Edited by John M. Mathew, United Kingdom
National Committee of Comparative Law, UK.
76. Kathleen Michon, Juvenile Court: An Overview, Nolo Press, California, USA.
77. Kuđriavtxev A.N (1999), Lý luận chung về định tội danh, Maxcơva, Nga
(Tiếng Nga).
78. Neil Andrews (1994), Principle of Criminal procedure, Sweet & Maxwell
Press, UK.
79. Paul Bergman, Sara J.Berman-Barrett (2003), The Criminal Law Handbook,
Nolo Press, California, USA.
80. Philip Alston, Stephen Parker, John A. Seymour (1992), Children, Rights and
the Law, Oxford University Press, UK.
81. Russell L. Weaver, W. Leslie Abramson, John M. Burkoff, Catherine
Hancook (2002), Criminal Law cases, marterials and problems, West Group,
USA.
82. Stephanos Stavros (1993), The guarantees for accused persons under Article 6
of the European Convention on Human Rights, Sweet & Maxwell Press, UK.
83. Trainhin A.N, Lí luận chung về cấu thành tội phạm, NXB. Sách Pháp Lý,
Maxcơva, Nga (tiếng Nga).
C. Các bài báo, tạp chí
84. Mai Bộ (2008), “Nguyên tắc xử lý người thành niên phạm tội”, Tạp chí Nghề
luật, (3), tr. 19.
85. Lê Cảm (2008), “Học thuyết về tội phạm – Những vấn đề cơ bản”, Tạp chí
Kiểm Sát, (11), (13).
86. Công báo Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1956), (34), tr. 328.
87. Lê Đăng Doanh (2009), “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
phạm tội – một số vấn đề cần được nghiên cứu”, Tạp chí Tòa án nhân dân,
(9), tr. 25.
88. Nguyễn Thu Hiền (2005), Tạp chí Tòa án nhân dân, (10).
89. Nguyễn Mạnh Kháng (2007), “Thực hiện dân chủ trong tố tụng hình sự trong
bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, (5).
90. Đặng Thanh Nga (2008),“Một số đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên
phạm tội”, Tạp chí Luật học, (1), tr. 39.
91. Nguyễn Hải Ninh (2009), “Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm đảm bảo
quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên”, Tạp chí Luật học, (11),
tr. 41.
92. Cao Thị Oanh (2007), “Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự
của người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Luật học, (10), tr. 36.
93. Nguyễn Thái Phúc (2007), “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong
tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, (4).
94. Đỗ Thị Phượng (2009), “Sự cần thiết phải thành lập tòa án người chưa thành
niên ở Việt Nam”, Tạp chí Tòa Án Nhân Dân, (21), tr. 1.
95. Định Văn Quế (2011), “Một số vấn đề về người bào chữa không phải là luật
sư”, Tạp chí Tòa Án Nhân Dân, (13).
96. Nguyễn Duy Quý (2005), “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Cộng Sản, (12), tr. 32.
97. Tô Huy Rứa (2005), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, Tạp
chí Cộng Sản, (11), tr. 23.
98. Lê Văn Sua, “Việc áp dụng khoản 2, Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, (11), tr. 26.
99. Nguyễn Văn Tuân (1995), “Bàn về sự tham gia của Luật sư trong các vụ án
mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
(số chuyên đề), tr. 16.
100. Nguyễn Văn Tuân (1995), “Bảo đảm quyền có người bào chữa của bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề)
101. Nguyễn Văn Tuân (1995), “Quyền bào chữa và sự tham gia của bị cáo ở
phiên tòa”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề).
102. Nguyễn Văn Tuân (2000), “Luật sư và vấn đề đạo đức nghề nghiệp”, Tạp chí
Dân Chủ và Pháp Luật, (8).
103. Nguyễn Văn Tuân (2001), “Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Dân Chủ và Pháp
Luật.
104. Trịnh Tiến Việt (2010), “Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí
Tòa án nhân dân, (13), tr. 9.
105. Nguyễn Văn Yểu (2005), “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí
Cộng Sản, (10).
D. Tài liệu tham khảo là các Luận án tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ
106. Trần Hưng Bình (2014), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học,
Viện Khoa Học và Xã Hội.
107. Lê Thị Hồng Minh (2003), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thành lập cơ
quan xét xử người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại
học Luật TP.HCM.
108. Đỗ Thị Phượng (2007), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng
đối với người chưa thành niên phạm tội theo Bộ luật tố tụng hình sự, Luận án
tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia- khoa Luật, Hà Nội.
109. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), Bảo đảm quyền có người bào chữa của người
bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ, Luận án
tiến sỹ luật học, Đại học Luật TP.HCM.
110. Nguyễn Thị Thanh (2008), Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong tư
pháp hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học.
111. Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận án tiến sỹ luật học, Đại học Luật
TP.HCM.
E. Các tài liệu khác
112. Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của Tòa án tại kỳ
họp thứ 6 Quốc Hội khóa VIII (bản tóm tắt) ngày 25/10/2013.
113. Báo cáo của Liên Đoàn Luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động của Liên
Đoàn Luật sư Việt Nam ngày 21/11/2013 gửi Bộ tư Pháp.
114. Báo cáo tại Hội thảo về quyền con người trong tố tụng hình sự (do Viện Kiểm
sát Nhân Dân tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức vào tháng 3 –
2010).
115. Báo cáo tại Hội thảo quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam (do Liên
đoàn Luật sư Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc tổ chức tại
Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 12 – 2010).
116. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc, trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009.
117. Đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản trong khoa học xã hội nhân văn cấp
Trường của tập thể tác giả Đại học quốc gia Hà Nội “Nguyên tắc nhân đạo
trong các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự đối với
người chưa thành niên ở Việt Nam”, năm 2005.
118. Phán quyết rất có ảnh hưởng của Tòa án tối cao Hoa Kỳ về các quyền của bị
cáo vị thành niên được đưa ra trong vụ án In Re Gault, 387 U.S.1 (1967) và vụ
án In Re Winship 397 U.S. 358, (1970).
119. Tài liệu hội thảo Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, tháng 6/2006 của Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
120. Tài liệu Hội nghị quốc gia về hỗ trợ pháp lý miễn phí cho xã hội (National
Conference on free lagel assistance to the public) tại Hà Nội từ ngày
31/05/2013 đến 01/06/2013.
F. Tham khảo từ Internet
121.
quyencon-nguoi.html (bài viết của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng -
chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp).
122.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Phiếu thăm dò ý kiến dành cho người đang bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên
Câu hỏi Có Không Không
nhớ rõ
1. Được cán bộ ghi lời khai (Điều tra viên) giải
thích rõ về quyền-nghĩa vụ tố tụng của mình khi
bị tạm giữ
60% 20% 20%
2.Biết mình được quyền bào chữa hay được
người khác bào chữa 15% 80% 5%
3.Cha, mẹ có được cơ quan điều tra thông báo
về việc bị bắt không 65% 27% 8%
4.Khi cán bộ ghi lời khai thì có mặt cha, mẹ hay
Luật sư 15% 55% 30%
5.Khi cán bộ ghi lời khai thì luật sư có tham dự
từ đầu đến khi chấm dứt buổi lấy lời khai 12% 67% 21%
6.Cần Luật sư bào chữa cho mình không? 85% 15% 0%
7.Biết tự bào chữa trước phiên tòa không? 11% 89% 0%
PHỤ LỤC 2
Phiếu thăm dò ý kiến dành cho thẩm phán
Câu hỏi Có Không Ý kiến khác
1.Sự tham gia của Luật sư từ khi có quyết định
khởi tố bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự là cần thiết
76% 14% 10%
2.Sự tranh luận của Luật sư với những người tiến
hành tố tụng sẽ giúp cho việc giải quyết vụ án
hình sự được đảm bào khách quan và công bằng
86% 14%
3.Cách thức xét xử một vụ án hình sự mà bị cáo là
người chưa thành niên và một vụ án hình sự mà bị
cáo là người thành niên là có sự khác biệt
5% 85% 10%
4.Việc thành lập Tòa án Vị thành niên là cần thiết 87% 10%
3%
Chưa cần
thiết
5.Được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ xét xử
những vụ án do ngưởi chưa thành niên thực hiện 12% 88%
6.Ý kiến của Anh (Chị) về những giải pháp sau đây nhằm nâng cao hiệu quả của
việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên:
a. Đào tạo đội ngũ những người tiến hành tố tụng chuyên về công tác điều
tra, truy tố, xét xử người chưa thàn niên phạm tội; Xây dựng đội ngũ
Luật sư có kiến thức chuyên sâu về người chưa thành niên phạm tội
(72/100; 72%)
b. Thành lập phòng điều tra thân thiện, Tòa án Vị thành niên chuyên điều
tra, xét xử những vụ án có người chưa thành niên tham gia (18/100 18%)
c. Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tố tụng hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội (10/100; 10%)
PHỤ LỤC 3
Số liệu thống kê từ Báo cáo hoạt động của các đoàn luật sư từ
năm 2008 đến năm 2012
Năm Án có khung
hình phạt cao
Án có bị cáo là
người CTN Tổng số
2008 389 606 995
2009 327 306 633
2010 295 137 432
2011 432 140 572
2012 516 105 621
PHỤ LỤC 4
Báo cáo hoạt động Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng
Năm Án có khung
hình phạt cao
Án có bị cáo là
người CTN Tổng số
2008 23 35 58
2009 42 59 101
2010 67 71 138
2011 73 84 157
2012 69 90 159
PHỤ LỤC 5
Báo cáo hoạt động Đoàn luật sư tỉnh kiên Giang
Năm Án có khung
hình phạt cao
Án có bị cáo
là người CTN Tổng số
2008 209 191 400
2009 187 321 508
2010 134 388 522
2011 116 182 298
2012 119 254 373
PHỤ LỤC 6
Báo cáo hoạt động Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang
Năm Án có khung
hình phạt cao
Án có bị cáo là
người CTN Tổng số
2008 170 287 457
2009 101 248 349
2010 70 169 239
2011 101 209 310
2012 14 43 57
PHỤ LỤC 7
Phiếu thăm dò ý kiến dành cho Điều tra viên
Câu hỏi Có Không Ý kiến khác
1.Khi tiến hành tạm giữ, bắt tạm
giam người chưa thành niênthực
hiện hành vi phạm tội, anh (chị) có
lập tức thông báo cho gia đình họ
biết không?
35%
65%
Thông báo từ
khi có quyết
định khởi tố
2.Sự tham gia của Luật sư từ khi
khởi tố bị can trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự có cần thiết hay
không?
85%
Giúp quá
trình giải
quyết vụ án
khách quan
15%
Không cần
thiết vì cản trở
hoạt động điều
tra của cơ
quan tố tụng
3.Được đào tạo chuyên sâu về
điều tra những vụ án hình sự có
người chưa thành niên tham gia
không?
10%
Được học
cơ bản
90%
4.Được tập huấn về những kỹ
năng điều tra nhưng vụ án hình sự
mà đối tượng là người chưa thành
niên thực hiện không?
12%
Lãnh đạo
mới được
tham dự
71%
17%
Không biết về
những buổi
tập huấn này
5.Phương pháp điều tra người
chưa thành niên và người thành
niên có khác nhau?
25% 75%
6.Tạo điều kiện cho luật sư tiến
hành các biện pháp thu thập tài
liệu, đồ vật (hoặc gặp mặt người
70%
25%
Có đối với
những hoạt
bị tạm giữ, bị can là người chưa
thành niên) hoặc tham gia các hoạt
động khác trong giai đoạn ?
động không
gây cản trở
điều tra
7.Tạo điều kiện cho luật sư đọc hồ
sơ vụ án khi kết thúc điều tra 81% 19%
8. Cơ quan điều tra đang công tác
hiện nay đã có “phòng điều tra
thân thiện” đối với trẻ em là người
chưa thành niên phạm tội?
0% 100%
9. Bằng hoạt động nào, Cơ quan Điều tra tạo điều kiện cho người bị tạm giữ,bị can
là người chưa thành niên thực hiện quyền bào chữa của mình?
Thường xuyên Thỉnh thoảng
a.Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị
can cho họ biết
76%
b.Thông báo đến gia đình họ biết 14%
c.Gửi thông báo yêu cầu Đoàn luật sư
phân công Luật sư bào chữa cho họ
10%
10.Khi Anh (Chị) ghi lời khai người chưa thành niên phạm tội thường ghi ở đâu?
Thường xuyên Thỉnh thoảng
a.Khu vực hỏi cung nhà tạm giữ 97%
b.Phòng làm việc của cơ quan điều tra
đối với bị can tại ngoại
3%
PHỤ LỤC 8
Phiếu thăm dò ý kiến dành cho luật sư (phát ra 100 phiếu thu về 95 phiếu)
Câu hỏi Có Không Ý kiến khác
1.Giấy chứng nhận bào chữa có giá trị cho suốt
hoạt động bào chữa của luật sư 24.215 75.79%
2.Luật sư có tiền hành các biện pháp thu thập
thêm tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến thân
chủ của mình
20% 80%
3.Cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án có tạo điều
kiện thuận lợi cho Luật sư tranh luận nhằm bảo vệ
thân chủ của mình
85.26
%
14.74%
4.Được cơ quan thông báo trước lịch hỏi cung 3.37% 81.36%
9.47%
không
thường
xuyên
5.Được cơ quan điều tra mời tham dự các hoạt
động điều tra để thu thập thông tin cho vụ án hình
sự mà có người chưa thành niên tham gia
20% 80%
6.Để phục vụ có hiệu quả cho hoạt động bào chữa
của mình, biện pháp nghiên cứu tài liệu hồ sơ vụ
án thật kỹ, thu thập tài liệu, đồ vật, sao chụp hồ sơ
vụ án là quan trọng nhất
100% 0%
7.Ý kiến của luật sư để bào chữa tốt phải làm gì?
8.Trong hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích của thân chủ mình trong giai
đoạn điều tra Luật sư thường gặp những khó khăn nào?
Thưởng xuyên Thỉnh thoảng
a.Thủ tục cấp Giấy chứng nhận bào chữa 84.21%
b.Gặp mặt bị can trong giao đoạn điều tra 15.95%
9.Để được cấp giấy chứng nhận bào chữa, cơ quan điều tra thường yêu cầu Luật sư
cung cấp những loại giấy tờ nào?
Thường xuyên Hiếm khi
a.Thẻ luật sư 78.95%
b.Chứng chỉ hành nghề 6.32%
c.Giấy giới thiệu của Văn phòng luật sư 8.42%
d.Các giấy tờ khác 6.32%
10. Hoạt động hỏi, tranh luận tại phiên tòa có giúp gì cho hoạt động bào chữa của
Luật sư?
a. Giúp tranh luận tốt hơn để từ đó bảo vệ cho thân chủ một cách tốt nhất
(90/95%; 97.74%)
b. Thu thập tài liệu, đồ vật cần thiết phục vụ cho công tác bào chữa (5/95;
5.26%)
PHỤ LỤC 9
Phiếu thăm dó ý kiến dành cho người đại diện hợp pháp của bị can,
bị cáo là người chưa thành niên
Câu hỏi Có Không Ý kiến
khác
1.Được cơ quan điều tra mời tham dự các buổi lấy
lời khai của con 46% 47%
7% không
được mời
2.Khi tham dự các buổi lấy lời khai của con em
mình, Ông (Bà) có được cán bộ lấy lời khai giải
thích về quyền và nghĩa vụ của mình
15% 85%
3.Có điều kiện thuê Luật sư 18% 81%
4.Được luật sư thăm hỏi về tình trạng, nhân thân,
điều kiện sinh hoạt của con mình 16% 64%
20% không
biết luật sư
là ai
5.Hài lòng với cách Luật sư bào chữa miễn phí cho
con mình
27% 11%
62% không
trả lời
6.Ông (Bà) có bị điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, thư ký Tòa án, Luật sư
bào chữa chỉ định vòi vĩnh, đặt điều kiện không?
a. Điều tra viên (25/100; 25%)
b. Kiểm sát viên (6/100; 6%)
c. Thẩm phán (4/100; 4%)
d. Thư ký (11/100; 11%)
đ. Luật sư bào chữa chỉ định (9/100; 9%)
e. Không có ý kiến (45/100; 45%)
PHỤ LỤC 10
Số liệu thống kê công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có bị cáo là người
chưa thành niên từ năm 2007 đến năm 2012 (Nguồn Tòa án nhân dân tối cao).
Năm Số vụ án đã xét xử Tồng số bị cáo đã
bị xét xử
Số bị cáo là người
chưa thành niên
2007 3845 5466 1366
2008 3216 4581 1145
2009 2722 3710 927
2010 2582 3418 854
2011 2355 3243 810
2012 4557 6180 1545
Tổng cộng 19277 26598 6647
PHỤ LỤC 11
Số liệu thống kê công tác xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh số vụ án có bị cáo là người chưa thành niên
Năm Số vụ án
Số bị cáo
là người
chưa
thành
niên
Số vụ án
đã giải
quyết
Số vụ án
còn lại
Số bị cáo
là người
CTN đã
bị xét xử
Số bị cáo
là người
CTN
chưa bị
xét xử
Từ 01/01/2009
– 31/12/2009
657 864 590 67 606 258
Từ 01/01/2010
– 31/12/2010
431 547 384 47 475 72
Từ 01/01/2011
– 31/9/2011
292 409 284 8 397 12
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noi_dung_luan_an_2743.pdf