Luận án Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng (qua trường hợp làng Quan họ Viêm Xá)

Bài vè cổ truyền về 36 giọng ca Quan họ này có tên: Bài vè 36 giọng cổ được Ty Văn hóa Bắc Ninh sưu tầm và đã được in trong cuốn sách Dân ca Quan họ Bắc Ninh (Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc; NXB Văn hóa, Hà Nội 1962) và cuốn Nghệ nhân Quan họ làng Viêm Xá (Trần Chính; NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2000). Ở Viêm Xá hiện nay đang lưu truyền một bài tương tự như bài vè nói trên, có khác về tên bài và một vài chỗ nhưng đều giống ở số lượng 36 giọng ca. Bài này thường được ngâm trước khi vào một canh hát trong đền Vua Bà. Hiện nay trong vùng Quan họ chỉ còn hát mươi, mười lăm giọng trong tổng số 36 giọng. Dưới đây chúng tôi giới thiệu toàn văn bài vè này. Những chữ in đậm trong bài vè là tên các giọng ca cổ.

pdf176 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng (qua trường hợp làng Quan họ Viêm Xá), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
họ như Lê Hồng Dương, Hồng Thao, Trần Linh Quý, Lê Danh Khiêm là những minh họa xác đáng cho suy nghĩ này. 4.4.5. Về không gian văn hóa Quan họ Suy nghĩ về không gian văn hóa Quan họ chúng ta có thể mở rộng ra hai loại là: không gian văn hóa Quan họ của bản thân vùng Quan họ và không gian rộng lớn hơn là toàn quốc (và cả thế giới khi Quan họ đã được UNESCO công nhận). Nhưng các không gian này có "chức năng, nhiệm vụ" khác nhau đối với việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Quan họ: - Không gian vùng Quan họ là không gian chính yếu vận hành việc bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa Quan họ. - Không gian còn lại là không gian hưởng thụ và góp phần quan trọng vào tôn vinh, quảng bá Quan họ. Suy nghĩ này có ý nghĩa ở chỗ, nó giúp chúng ta định hướng được tư duy của chúng ta trong việc hoạch định chiến lược, phương hướng bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Quan họ trong bối cảnh khi mà Quan họ đã trở thành Di sản văn hóa thế giới. 137 4.4.6. Về Nhà hát Quan họ Tỉnh Bắc Ninh đã có một Nhà hát Quan họ dành cho hoạt động nghệ thuật Quan họ chuyên nghiệp. Nhà hát này cần phải đầu tư cả vật chất và trí tuệ để làm tốt hai chức năng, nhiệm vụ cơ bản của một Nhà hát: chức năng biểu diễn nghệ thuật Quan họ và chức năng nghiên cứu về Quan họ (cả Quan họ dân gian truyền thống và Quan họ chuyên nghiệp). 4.4.7. Về làng Quan họ Viêm Xá Chính quyền và các cơ quan chức năng của tỉnh Bắc Ninh nên chọn làng cổ Viêm Xá, với tư cách là một làng Quan họ tiêu biểu để lập dự án bảo tồn, phát huy di sản VHQH với phương châm bảo tồn, phát huy tối đa di sản VHQH cổ truyền và di sản văn hóa làng nói chung liên quan đến Quan họ. 4.4.8. Về mối quan hệ với UNESCO Trong bối cảnh Quan họ đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, cần có kế hoạch cả trước mắt và lâu dài bảo tồn, phát huy DSVHPVT Quan họ, đồng thời kết nối sự quan tâm và trách nhiệm của Ủy ban UNESCO thuộc Liên hợp quốc trong việc đầu tư cả về mặt khoa học và tài chính cho việc bảo tồn, phát huy Quan họ. Thông qua UNESCO để kết nối giao lưu và quảng bá hình ảnh, vai trò của Quan họ trong đời sống văn hóa quốc tế và khu vực. Tiểu kết chương 4 Ở chương này - chương cuối cùng của Luận án, chúng tôi đặt ra vấn đề bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng. Trước hết, chúng tôi xác định và phân tích những nhân tố cơ bản tác động đến SHVHQHL hiện nay đã dẫn đến những đổi thay đáng kể của Quan họ trong mấy chục năm thời kỳ đổi mới, mở cửa bao gồm tác động của nền KTTT, khoa học công nghệ và các hoạt động nghệ thuật giải trí. Trên cơ sở đó, cùng với kết quả nghiên cứu của luận án, đặc biệt là nội dung Chương 3 - Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng hiện nay, chúng tôi đưa ra các đánh giá về tình hình SHVHQHL. Trên cơ sở của sự đánh giá đó, chúng tôi đề cập những vấn đề đặt ra cho sự nghiệp bảo tồn, phát huy SHVHQHL. Những vấn đề đặt ra trong bảo tồn, phát huy SHVHQHL bao gồm các nội dung: làm thế nào để có thể cách tân, phát triển SHVHQHL đáp ứng con người 138 đương đại mà vẫn có thể bảo tồn được những giá trị căn cốt của truyền thống, để không mất đi những gì mà cha ông đã để lại qua nhiều thế hệ. Người ta yêu quí Quan họ nhưng Quan họ không thể nằm im trong những giá trị cổ truyền, nó cần phải được cách tân, phát triển để phù hợp với cuộc sống vì đó là đòi hỏi có tính qui luật. Vậy là bảo tồn và cách tân là hai nhiệm vụ phải được giải quyết đồng thời. Sự thay đổi của nếp sống, lối sống, sự tăng trưởng về kinh tế, những vấn đề liên quan đến xu thế thương mại hóa văn hóa v.v...đã đặt Quan họ trước những thách thức, nguy cơ không nhỏ về sự mai một và phai nhạt truyền thống... và ngay cả các nghiên cứu cũng sẽ phải góp gì cho việc trả lời câu hỏi lớn là làm thế nào để bảo tồn, phát huy, phát triển Quan họ một cách khả thi và phù hợp nhất. Trên cơ sở của những vấn đề đặt ra chúng tôi đề xuất phương hướng bảo tồn, phát huy sinh hoạt văn hóa Quan họ làng theo hướng cần đáp ứng được các yêu cầu là: phải góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa và con người theo định hướng của Đảng; phải tôn trọng tối đa sự đa dạng văn hóa của môi trường mà Quan họ đang cùng tồn tại và ngay trong bản thân các sinh hoạt văn hóa Quan họ làng; phải và cần gắn với không gian truyền thống của Quan họ - không gian mà ở đó Quan họ đã hình thành và phát triển rực rỡ; phải gắn kết và góp phần xứng đáng vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương sở tại; phải đề cao vai trò chủ thể của nhân dân và đáp ứng nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Với phương hướng được đề xuất, chúng tôi đưa ra các khuyến nghị cụ thể về một số giải pháp để bảo tồn, phát huy các SHVHQHL. Như vậy, vấn đề cốt lõi cần nhận thức đầy đủ hiện nay là: xu hướng biến đổi của văn hóa nói chung, trong đó có biến đổi VHQH là một quy luật không thể khác. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát huy di sản VHQH thì phải quán triệt phương châm "gạn đục khơi trong" cả trong việc giữ gìn truyền thống và giao lưu tiếp biến văn hóa, để sao cho Quan họ phát huy, phát triển tương ứng với nhu cầu của thời đại dựa trên chính nền tảng vững chắc từ trong truyền thống, từ trong cái lõi cổ truyền của nó và trong sự tin yêu, bao bọc của nhân dân, trước hết là người dân sở tại. 139 KẾT LUẬN 1. Trong 49 làng Quan họ vùng Kinh Bắc dọc theo hai bên bờ con sông Cầu nổi tiếng trong lịch sử đất nước, làng cổ Viêm Xá là một làng quê điển hình, cả trên phương diện làng xã và thực hành dân ca Quan họ. Với khoảng 27 làng trên tổng số 49 làng Quan họ được xếp vào hàng "làng Quan họ cổ" thì Viêm Xá được dân gian trong vùng suy tôn một cách tự nhiên là "làng cổ của các làng cổ Quan họ" bởi nơi đây có đền thờ Vua Bà - người được coi là thủy tổ của dân ca Quan họ thông qua một hệ thống truyền thuyết dày đặc và một sự ngưỡng mộ tâm linh dân gian bền chặt. Vua Bà là Thánh mẫu của một loại hình dân ca độc đáo có một không hai trên một quê hương mà ở đó tín ngưỡng "Đạo Mẫu", về mặt tâm linh đang song hành cùng các tôn giáo lớn như đạo Phật, đạo Thiên Chúa giáo.... Như vậy, lựa chọn làng Viêm Xá và mối quan hệ liên làng của Viêm Xá với vùng Quan họ để phân tích, nghiên cứu về sự biến đổi của SHVHQHL đã cho thấy vai trò đại diện của Viêm Xá trong quá trình bảo tồn, phát huy các sinh hoạt văn hóa Quan họ làng trong bối cảnh mà cả Viêm Xá và các làng Quan họ trong vùng đều chịu tác động của những biến đổi kinh tế - văn hóa - xã hội thời kỳ mở cửa, hội nhập. 2. Ở các làng Quan họ mà điển hình là Viêm Xá và các làng kết nghĩa với Viêm Xá từ bao đời đã hình thành nên một "xã hội Quan họ làng" với ba thành phần gồm các nghệ nhân, thành phần hậu thuẫn trực tiếp và đa số các cư dân trong làng. Trong đó các nghệ nhân là thành phần cốt lõi, chính yếu duy trì các sinh hoạt văn hóa Quan họ để làm nên cả một bản sắc riêng - văn hóa Quan họ làng. Lịch sử hình thành và phát triển của Quan họ đã chứng minh sức mạnh của xã hội đặc biệt đó ở các làng Quan họ. Nó là một kết cấu xã hội văn hóa có vai trò rất lớn đã đem lại sự bền vững của dân ca Quan họ trải qua bao thăng trầm của thời gian và những biến cố xã hội. 3. Dân ca Quan họ vùng Kinh Bắc là một loại hình nghệ thuật đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể lớn, đặc sắc không chỉ trên quê hương đồng bằng Bắc Bộ - Việt Nam của nó mà còn đã trở thành di sản văn hóa "đại diện của nhân loại" được UNESCO công nhận và vinh danh. Có được điều đó là bởi vì Quan họ, ngoài sự ca 140 hát (diễn xướng) như các loại hình dân ca khác, với thời gian, nó đã tạo dựng nên cả một văn hóa riêng có với những thành tố (mặt) sinh hoạt văn hóa như Luận án đã tập trung nghiên cứu, làm rõ bao gồm: không gian SHVHQHL; xã hội Quan họ làng, kết bạn Quan họ; diễn xướng Quan họ; văn hóa giao tiếp, ứng xử; tạo nguồn nghệ nhân. Quan họ đã trở thành một hiện tượng văn hóa tổng thể, một hình thái văn hóa nghệ thuật với đầy đủ những tiêu chí cần thiết của nó mà trong đó sinh hoạt ca hát chỉ là một thành tố, dù thành tố đó là trung tâm cốt lõi. Những sinh hoạt văn hóa Quan họ làng với những biểu hiện phong phú và đặc sắc của nó được duy trì bởi một xã hội Quan họ làng trên quê hương của vùng đất văn hiến Kinh Bắc - cái nôi của văn hóa Việt, văn hóa làng xã là một đảm bảo bền vững cho sự tồn tại, phát huy, phát triển loại hình dân ca này. 4. Thời kỳ đất nước thực hiện công cuộc đổi mới cùng với xu hướng TCH, HĐH, ĐTH và sự chuyển đổi xã hội ngày một mạnh mẽ làm cho tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội biến động không ngừng và có bước phát triển nhanh đã ảnh hưởng to lớn đến đời sống văn hóa, nghệ thuật. Quan họ không đứng ngoài sự ảnh hưởng đó và cũng đang có nhiều biến đổi. Tuy nhiên phát triển như thế nào để vừa kế thừa được những truyền thống căn cốt của Quan họ cổ truyền, vừa cách tân, làm giàu được Quan họ để đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người đương đại là một sự nghiệp không đơn giản. Thực tiễn bảo tồn, phát huy Quan họ đã cho thấy ngoài sự tự thân vận động của Quan họ đang rất cần sự định hướng đúng đắn của Nhà nước, sự vận dụng khả thi những kết quả nghiên cứu, những giá trị văn hóa nghệ thuật phổ biến theo hướng chân - thiện - mỹ để Quan họ đứng vững trên nền tảng văn hóa truyền thống của nó và tiếp tục phát huy, phát triển. Quan họ cần phải giữ gìn được bản sắc vốn có của nó vì đấy là lý do cốt lõi để nó có thể tồn tại và phát triển mà không bị trộn lẫn. Có thể thấy, trong nền KTTT, Quan họ và các sinh hoạt của nó đã và đang trở thành một loại hàng hóa. Tuy nhiên Quan họ phải là một loại hàng hóa chứa đựng trong nó hàm lượng văn hóa cao và độc đáo để làm sao vừa mang lại những giá trị tinh thần đậm đà bản sắc vốn có, vừa mang lại những giá trị giao lưu và kinh tế to lớn để góp phần phát triển đất nước, hội nhập sâu vào thế giới đa sắc màu của nhân loại. 141 5. Sự thay đổi về mô hình, phương thức sinh hoạt Quan họ làng bởi tác động của sự biến đổi về không gian, xã hội, cơ chế chính sách, thể chế quản lý mà điển hình là việc thay thế sinh hoạt bọn Quan họ bằng sinh hoạt Đội (câu lạc bộ) Quan họ có sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền các cấp với qui mô nhiều khi vượt ra khỏi tính chất làng xã và xu hướng hoạt động tổng hợp cùng thời điểm với các loại hình nghệ thuật khác...cũng làm cho Quan họ biến đổi không ngừng. Tuy nhien, những kết cấu SHQH như bọn Quan họ, nhà chứa Quan họ, v.v... với vai trò to lớn của nó trong quá khứ có cần phải được khôi phục hay không là một vấn đề cần quan tâm giải quyết. Trong lịch sử phát triển văn hóa nghệ thuật của nhân loại đã có nhiều hiện tượng, hình thái văn hóa bị mất đi do những biến cố xã hội nào đó nhưng khi được khôi phục, lại phát triển rất mạnh mẽ và góp phần quan trọng vào đời sống tinh thần của nhân dân. Quan phương hóa, chính quyền hóa hay hành chính hóa Quan họ (vai trò quản lý nhà nước thay phần lớn vai trò tự quản dân gian) làm cho tính "sân khấu hóa" của Quan họ tăng lên so với tính "sinh hoạt văn hóa đa dạng" vốn có của nó từ trong dân gian truyền thống. Sự can thiệp dường như không thể khác của những thể chế, thiết chế xã hội đương đại rất có thể làm cho Quan họ gặp "nguy hiểm" trên con đường cố gắng duy trì một đời sống tự nhiên - hồn nhiên" đầy bản sắc của nó. 6. Thực tiễn của đời sống văn hóa nghệ thuật Quan họ như Luận án phân tích, lý giải đã chỉ ra rằng, muốn bảo tồn, phát huy loại hình dân ca này một cách liên tục và bền vững thì nhà nước, cụ thể là chính quyền sở tại phải cùng với người dân Quan họ luôn quan tâm, chăm sóc, gây dựng, nuôi dưỡng và tôn vinh đội ngũ các nghệ nhân Quan họ - những hạt nhân, nòng cốt của các SHVHQHL. Thực tiễn đã và đang tiếp tục cho thấy sự mai một cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ nghệ nhân Quan họ như trình bày trong Luận án đã và luôn là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến nguy cơ mai một, biến dạng của loại hình dân ca độc đáo này. 7. Nhìn từ góc độ văn hóa học, Quan họ phải được bảo tồn, phát huy, phát triển trước hết và trên hết là ngay trong môi trường truyền thống đã sinh ra và nuôi dưỡng nó trưởng thành. Môi trường đó chính là cảnh quan thiên nhiên của làng xã vùng Kinh Bắc, là xã hội Quan họ làng và các sinh hoạt văn hóa với phong tục tập quán, tôn giáo, 142 tín ngưỡng đã tồn tại tự ngàn đời... Như ở phần "Phương hướng..." đã đề cập. Có lý luận cho rằng trong xu thế ĐTH như hiện nay thì liệu đến một lúc nào đó có còn các SHVHQHL nữa không? Từ thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, ở Việt Nam làng là một thiết chế xã hội bền vững, không thể mất ngay cả trong một số làng ĐTH cao độ thì cộng đồng dân cư ở đấy với truyền thống văn hóa làng từ ngàn đời sẽ không thể mất đi hoàn toàn. Do vậy VHQHL chỉ có thể có những biến đổi trong xu hướng kế thừa, tiếp nối truyền thống để phát triển và đáp ứng con người ở các thời đại khác nhau trong lịch sử. Đó đã và đang là một hiện thực sống động được người dân quê hương Kinh Bắc khẳng định, gìn giữ và nuôi dưỡng. Mặt khác, quan họ phải được sống và vận hành trước hết bởi những chủ nhân thật sự của nó là cộng đồng dân cư vùng Kinh Bắc bởi Quan họ chính là kết quả sáng tạo của chính họ, là đứa con tinh thần của chính họ cả trong quá khứ và hiện tại. Những phân tích, đánh giá khoa học và cả bằng cảm nhận nữa trong Luận án này đã cho chúng tôi niềm tin về một sự trường tồn của Quan họ, cho dù phía trước sẽ còn nhiều biến đổi và gian khó./. 143 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Trần Chính (2000), Nghệ nhân Quan họ làng Viêm Xá, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Trần Chính (2005), Văn hóa nghệ thuật từ một góc nhìn báo chí, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 3. Trần Minh Chính (2006), "Suy nghĩ về thực trạng và một số kiến nghị về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Quan họ", trong sách: Quan họ Bắc Ninh, thực trạng và giải pháp bảo tồn, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh xuất bản, Bắc Ninh. 4. Trần Minh Chính (2015), "Về quan niệm sinh hoạt văn hóa Quan họ", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (9), tr 74 -77. 5. Trần Minh Chính (2015), "Xã hội và nghệ nhân làng thủy tổ Quan họ ", Tạp chí Làng Việt, (11), tr. 16 -20. 6. Trần Minh Chính (2015), "Xã hội Quan họ làng và người nghệ nhân làng thủy tổ Quan họ Viêm Xá - Bắc Ninh", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (9), tr.56-60. 7. Trần Minh Chính (2015), "Tìm hiểu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và di sản văn hóa", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (9), tr.6-10. 8. Trần Minh Chính (2015), "Văn hóa giao tiếp, ứng xử của xã hội Quan họ làng Viêm Xá - Bắc Ninh", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (3+4), tr.9 -13. 144 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thị An (2006), "Không gian diễn xướng Quan họ - Sự đa dạng và sự biến đổi", Trong sách: Không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh - bảo tồn và phát huy, Viện Văn hóa thông tin - Sở Văn hóa thông tin, Bắc Ninh. 2. Đào Duy Anh (1996), Đất nước Việt Nam qua các thời kỳ, NXB Thuận Hóa. 3. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 4. Phương Anh, Thanh Hương (1973), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Tập 1, Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản. 5. Phương Anh, Thanh Hương (1976), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Tập 2, Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản. 6. Toan Ánh (1996), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua tết lễ hội hè, NXB Tổng hợp, Đồng Tháp. 7. Nguyễn Trọng Ánh (2007), Những giá trị âm nhạc trong hát Quan họ, Luận án Tiến sĩ Nghệ thuật, Nhạc viện Hà Nội, Hà Nội. 8. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000), Một số Văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng - văn hóa, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000), Một số Văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng - văn hóa, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa, Hà Nội. 11. Hoàng Chí Bảo (2010), Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Nguyễn Trần Bạt (2005), Cải cách và sự phát triển, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 13. Vũ Bằng (1931), "Hội Lim", An Nam tạp chí, (9). 14. Nguyễn Chí Bền (2011), Dân ca Quan họ Bắc Ninh, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 15. Nguyễn Chí Bền (2013), Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành tố, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 145 16. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, NXB Tổng hợp, Đồng Tháp. 17. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Văn bản chỉ đạo và quản lý của Đảng, Nhà nước về lễ hội, Hà Nội. 18. Bộ Văn hóa thông tin (1998), Một số giá trị văn hóa truyền thống và đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn hiện nay, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 19. Bộ Văn hóa thông tin (2003), Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 những giá trị tư tưởng văn hóa, Viện Văn hóa thông tin và Văn phòng Bộ, Hà Nội. 20. Bộ Văn hóa Thông tin phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội đương đại (qua trường hợp Quan họ Bắc Ninh ở Việt Nam), Hội thảo khoa học quốc tế, Hà Nội. 21. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay, NXB Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội. 22. Lê Ngọc Chân (2002), Hát Quan họ ở miền Bắc Việt Nam: Khao khát khám phá nghệ thuật quan họ, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học California, Ber Kley, Hoa Kỳ (Tài liệu dịch của Viện nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam). 23. Chu Ngọc Chi (1928), Hát Quan họ, Nhà in Thụy Ký, Hà Nội. 24. Chi bộ thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, Thành phố Bắc Ninh (2012), Báo cáo kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của chi bộ thôn Viêm Xá nhiệm kỳ 2010-2012, phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2012-2015, Bắc Ninh. 25. Nguyễn Tiến Chiêu (1959), "Tìm hiểu nguồn gốc quan họ Bắc Ninh", Tạp chí Bách khoa, (64 + 65). 26. Trường Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt, NXB Sự thật, Hà Nội. 27. Trần Chính (2000), Nghệ nhân quan họ làng Viêm Xá, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Trần Chính (2002), Văn hóa nghệ thuật từ một góc nhìn báo chí, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 29. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 30. Cục Văn hóa - Thông tin cơ sở (1999), Tín ngưỡng mê tín, NXB Thanh niên, Hà Nội. 146 31. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian - Mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 32. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam, một số vấn đề kinh tế xã hội, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 33. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (Chủ biên) (2001), Xã hội học, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 34. Phạm Duy (1972), Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam hiện đại, Sài Gòn. 35. Lê Hồng Dương (1980), Những vấn đề văn hóa văn nghệ Hà Bắc, Hội Văn nghệ Hà Bắc xuất bản, Hà Bắc. 36. Vũ Cao Đàm (2008), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Thế giới, Hà Nội. 37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), Văn hóa đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 40. Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 41. Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Nghiêm Vạn (1969), Phương pháp sưu tầm văn học dân gian ở nông thôn, Vụ Văn hóa quần chúng xuất bản, Hà Nội. 42. Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2010), Phát triển Văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 - Những vấn đề phương pháp luận, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 43. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Hà Nội. 44. Dương Phú Hiệp (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu Văn hóa và con người Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 45. Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc (1986), Lịch sử Hà Bắc, Tập 1, Hà Bắc. 46. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (1997), 50 năm sưu tầm nghiên cứu phổ biến văn hóa - văn nghệ dân gian, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 147 47. Nguyễn Văn Huyên (1996), Bức tranh địa lý hành chính của một tỉnh Việt Nam xưa: tỉnh Bắc Ninh (hay Kinh Bắc)/ Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 48. Nguyễn Văn Huyên (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 49. Đinh Thị Thanh Huyền (2015), "Tục chơi Quan họ (xứ Kinh Bắc) xưa và nay", Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, (11), tr.30-39. 50. Thanh Hương, Phương Anh (1973), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Tập 1, Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản, Hà Bắc. 51. Nguyễn Hải Kế (1996), Một làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 52. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (Đồng chủ biên) (1993), Lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 53. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội. 54. Lưu Khâm, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Viêm (1956), Tìm hiểu quan họ Bắc Ninh, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. 55. Trần Văn Khê (1976), "Sau khi thăm quê hương Quan họ", Tạp chí Khoa học xã hội, (9). 56. Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh (2001), Dân ca Quan họ, lời ca và bình giải, Trung tâm văn hóa Quan họ Bắc Ninh, Bắc Ninh. 57. Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh, Lê Thị Chung (2006), Không gian Văn hóa Quan họ, Trung tâm Văn hóa Quan họ Bắc Ninh, Bắc Ninh. 58. Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam và Hoàng Trinh (1993), Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 59. Vũ Khiêu (2002), Bàn về văn hiến Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 60. Nguyễn Hùng Khu (2012), Đời sống văn hóa cộng đồng trong thời kỳ hội nhập phát triển, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 61. Nguyễn Duy Kiện (1947), "Hội Lim", Việt báo, (1059). 148 62. Nguyễn Xuân Kính (2013), Con người, môi trường và Văn hóa, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 63. Đỗ Long, Trần Hiệp (1993), Tâm lý cộng đồng làng và di sản, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 64. Đỗ Long (2000), Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 65. Đặng Văn Lung, Hồng Thao và Trần Linh Quý (1978), Quan họ - nguồn gốc và quá trình phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 66. Đặng Văn Lung (1980), Quan họ: Nguồn gốc và quá trình phát triển, Luận án Phó Tiến sĩ Văn học, Viện Văn học, Hà Nội. 67. Trần Đình Luyện (Chủ biên) (2003), Lễ hội Bắc Ninh, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh, Bắc Ninh. 68. Trần Đình Luyện (Chủ biên) (2006), Văn hiến Kinh Bắc, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh, Bắc Ninh. 69. L.Meeker (2007), Sự chuyển tải âm nhạc: Âm nhạc dân gian, sự điều chỉnh và quá trình hiện đại hóa ở miền Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Columbia, Hoa Kỳ (Tài liệu dịch của Viện nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam). 70. Đức Miêng (2002), Yêu một Bắc Ninh, NXB Âm nhạc, Hà Nội. 71. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 72. Lê Viết Nga (Chủ biên) (2004), Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh, Bảo tàng Bắc Ninh, Bắc Ninh. 73. Lê Hữu Nghĩa, Trần khắc Việt và Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) (2007), Xu thể toàn cầu hóa trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74. Hữu Ngọc, Lê Hữu Tầng, Dương Phú Hiệp (1987), Từ điển triết học giản yếu, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 75. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 76. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 149 77. Hữu Ngọc (Chủ biên) (2002), Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội. 78. Nhiều tác giả (1966), Những ý kiến về văn học dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 79. Nhiều tác giả (2004), Đề cương về Văn hóa Việt Nam, chặng đường 60 năm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 80. Nhiều tác giả (2006), Lối chơi Quan họ, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 81. Nhiều tác giả (2012), Bảo tồn và phát huy Di Sản văn hóa Quan họ Bắc Giang, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 82. Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc (1962), Dân ca Quan họ Bắc Ninh, NXB Văn hóa, Hà Nội. 83. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Di sản Văn hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 84. Trần Linh Quý, Hồng Thao (1997), Tìm hiểu dân ca Quan họ, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 85. Trần Linh Quý (2012), Trên đường tìm về Quan họ, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 86. Mạnh Quỳnh (1940), "Lim", Trung Bắc tân văn chủ nhật. 87. Việt Sinh (1933), Nghe hát Quan họ một đêm ở Lũng Giang, Phong Hóa. 88. Sở Văn hóa thông tin Bắc Ninh (1997), Văn hiến Kinh Bắc, Tập 1, Hà Bắc. 89. Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2004), 35 năm Đoàn dân ca Quan họ Bắc Ninh (1969-2004), Bắc Ninh. 90. Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2004), Hội Lim truyền thống và hiện đại, Bắc Ninh. 91. Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2006), Quan họ Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp bảo tồn, Bắc Ninh. 92. Sở Văn hóa thông tin Hà Bắc (1995), Trung tâm văn hóa Quan họ Bắc Ninh, Hà Bắc. 93. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh - Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam (2008), Làng và nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh, Hà Nội. 94. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh (2012), Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Bắc Ninh. 150 95. Tô Ngọc Thanh, Hồng Thao (1986), Tìm hiểu âm nhạc cổ truyền, Tập 1, NXB Văn hóa, Hà Nội. 96. Tô Ngọc Thanh (2007), Ghi chép về văn hóa và âm nhạc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 97. Bùi Quang Thanh, Phạm Nam Thanh (2008), Nhận diện không gian văn hóa Quan họ vùng Bắc sông Cầu, (in trong sách Văn hóa dân gian Việt Nam, một cách tiếp cận, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 98. Hồng Thao (1997), Dân ca Quan họ, NXB Âm nhạc, Hà Nội. 99. Hồng Thao (2005), 300 bài Quan họ, Viện Âm nhạc, Hà Nội. 100. Nguyễn Toàn Thắng (Chủ biên) (2014), Những vấn đề lý luận về phát triển văn hóa trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 101. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 102. Bùi Thiết (1993), Từ điển Hội lễ Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội. 103. Trương Thìn (2007), 101điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam, NXB Hà Nội, Hà Nội. 104. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 105. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng Văn hóa ở Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội. 106. Đinh Khắc Thuân (Chủ biên) (2009), Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán - Nôm, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 107. Vương Xuân Tình (2004), Tập quán ăn uống của người Việt vùng Kinh Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 108. Phạm Trọng Toàn (2007), Tương đồng và khác biệt giữa hát Xoan, hát Ghẹo Phú Thọ và Quan họ Bắc Ninh, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa thông tin, Hà Nội. 109. Minh Trúc (1937), “Hát quan họ”, Báo Trung Bắc tân văn, (5962 + 5963 + 5967 + 5969 + 5971 + 5974 + 5976). 151 110. Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển Văn hóa dân tộc (2009), Tìm về cội nguồn Quan họ, NXB Sân khấu, Hà Nội. 111. Trung tâm từ điển học (2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 112. Trung tâm Văn hóa Quan họ Bắc Ninh (2002), Một số vấn đề về Văn hóa Quan họ, Bắc Ninh. 113. Chu Quang Trứ (1997), "Bắc Ninh có 49 làng Quan họ", Tạp chí Văn nghệ Dân tộc và miền núi, (340. 114. Lê Thị Nhâm Tuyết (1974), "Kết nghĩa làng chạ trong sinh hoạt văn hóa cổ truyền", Tạp chí Dân tộc học, (36). 115. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 116. Ty Văn hóa Hà Bắc (1972), Một số vấn đề về dân ca Quan họ, Nxb Hà Bắc. 117. Ty Văn hóa Hà Bắc (1974), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Tập 3, Nxb Hà Bắc. 118. Ty Văn hóa thông tin Hà Bắc (1986), Địa chí Hà Bắc, Nxb Hà Bắc. 119. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 120. Nguyễn Viêm (1959), Quan họ Bắc Ninh, NXB Âm nhạc, Hà Nội. 121. Viện Văn hóa dân gian (1982), Lễ hội cổ truyền, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 122. Viện Văn hóa dân gian (1990), Quan niệm về Folklore, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 123. Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 124. Viện Văn hóa Thông tin (2007), Văn hóa học - Những phương pháp nghiên cứu, Hà Nội. 125. Viện Văn hóa Thông tin và Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2006), Không gian Văn hóa quan họ Bắc Ninh, bảo tồn và phát huy, Bắc Ninh. 126. Viện Văn hóa Thông tin và Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2006), Quan họ Bắc Ninh, thực trạng và giải pháp bảo tồn, Bắc Ninh. 152 127. Viện Văn hóa Thông tin và Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh (2006), Vùng Văn hóa Quan họ Bắc Ninh, Bắc Ninh. 128. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng Văn hóa ở Nước ta, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 129. Hồ Sỹ Vịnh (1999), Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 130. Đinh Xuân Vịnh (1996), Sổ tay địa danh Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội. 131. Lê Trung Vũ (Chủ biên) (1992), Lễ hội cổ truyền, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 132. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, NXB Văn hóa, Hà Nội. 133. Trần Quốc Vượng (1998), Việt nam cái nhìn địa văn hóa, NXB Văn hóa Dân tộc & Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. 134. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 135. Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo và Dương Tất Từ (2006), Mùa xuân và phong tục Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 153 PHỤ LỤC Phụ lục 1 DANH SÁCH CÁC NGHỆ NHÂN QUAN HỌ LÀNG VIÊM XÁ (Được phong tặng danh hiệu " Nghệ nhân ưu tú" "đợt 1) STT HỌ VÀ TÊN NĂM SINH GHI CHÚ 1. Nguyễn Thị Bàn 1932 2. Ngô Thị Lịch 1927 3. Ngô Thị Nhi 1923 4. Trần Thị Phụng 1923 DANH SÁCH CÁC NGHỆ NHÂN QUAN HỌ LÀNG VIÊM XÁ (Được phong tặng danh hiệu "Nghệ nhân cấp tỉnh" đợt 1) STT HỌ VÀ TÊN NĂM SINH GHI CHÚ 1. Cụ Nguyễn Thị Bàn 1932 2. Cụ Ngô Văn Bật 1935 Đã mất 3. Cụ Nguyễn Thị Khu 1920 4. Cụ Ngô Thị Lịch 1927 5. Cụ Ngô Thị Nhi 1923 6. Cụ Trần Thị Phụng 1923 7. Cụ Ngô Văn Sự 1924 Đã mất 154 Phụ lục 2 DANH SÁCH NGHỆ NHÂN ĐỘI QUAN HỌ LÀNG VIÊM XÁ TT Họ và tên Năm sinh Chi chú 1. Nguyễn Thị Bàn 1932 Nghệ nhân ưu tú 2. Ngô Thị Bằng 1939 3. Ngô Thị Bạo 1935 4. Nguyễn Thị Chạch 1929 5. Nguyễn Thị Chanh 1947 6. Lê Thị Đăng 1932 7. Nguyễn Thị Hài 1956 Đội phó đội Quan họ 8. Nguyễn Thị Hải 1980 9. Ngô Văn Hiếm 1968 10. Nguyễn Văn Hưng 1964 11. Nguyễn Thị Hương 1963 12. Nguyễn Thị Khu 1920 Nghệ nhân cấp Tỉnh 13. Nguyễn Thị Khương 1959 14. Nguyễn Văn Ký 1948 15. Nguyễn Thị Liên 1961 16. Ngô Thị Lịch 1923 Nghệ nhân ưu tú 17. Nguyễn Thị Lộ 1954 Đội phó đội Quan họ 18. Nguyễn Văn Lý 1955 19. Ngô Thị Mận 1948 155 20. Ngô Thị Mừng 1963 21. Nguyễn Đức Nhận 1958 22. Ngô Thị Nhi 1923 Nghệ nhân ưu tú 23. Trần Thị Phụng 1923 Nghệ nhân ưu tú 24. Nguyễn Văn Phương 1955 25. Trần Minh Quyết 1975 26. Nguyễn Thị Sang 1954 Đội trưởng đội Quan họ 27. Nguyễn Văn Sáng 1943 28. Nguyễn Thị Sứ 1964 29. Đặng Thị Thái 1938 30. Lê Thị Thái 1954 31. Nguyễn Thị Thảo 1942 32. Nguyễn Thị Thềm 1959 33. Trần Thị Thu 1986 34. Nguyễn Văn Thưởng 1976 35. Ngô Thị Tiên 1975 36. Nguyễn Văn Toàn 1972 37. Ngô Thị Tuyết 1965 38. Nguyễn Thị Vinh 1931 39. Trần Thị Yến 1981 Nguồn: Đội trưởng, nghệ nhân Nguyễn Thị Sang cung cấp, năm 2015. 156 Phụ lục 3 DANH SÁCH CÁC CÁ NHÂN LÀNG VIÊM XÁ THAM GIA PHỎNG VẤN TT Họ và tên Năm sinh Chi chú 1. Nguyễn Thị Bàn 1932 Nghệ nhân ưu tú 2. Ngô Thị Bằng 1939 3. Ngô Thị Bạo 1935 4. Nguyễn Thị Chạch 1929 5. Nguyễn Thị Chanh 1947 6. Ngô Thị Chanh 7. Ngô Văn Chinh 1951 8. Nguyễn Thị Dan 1957 9. Lê Thị Đăng 1932 10. Trần Minh Đoàn 1950 Nguyên Phó chủ nhiệm kiêm phụ trách văn hóa thôn 11. Nguyễn Thị Hài 1956 12. Nguyễn Thị Hải 1980 13. Ngô Văn Hiếm 1968 14. Nguyễn Văn Hợi 1950 15. Nguyễn Văn Hưng 1964 16. Nguyễn Thị Hương 1963 17. Ngô Thị Khu 1920 Nghệ nhân cấp Tỉnh 18. Nguyễn Thị Khương 1959 19. Nguyễn Văn Ký 1948 157 20. Nguyễn Thị Lênh 1951 21. Ngô Thị Lịch 1923 22. Nguyễn Thị Liên 1961 23. Ngô Thị Linh 1923 24. Nguyễn Thị Lộ 1954 Đội phó đội Quan họ 25. Nguyễn Thị Lợi 1948 26. Nguyễn Văn Lý 1955 27. Ngô Thị Mận 1948 28. Nguyễn Thị Mị 1941 đã mất 2013 29. Ngô Thị Mừng 1963 30. Nguyễn Đức Nhận 1958 31. Ngô Thị Nhi 1923 32. Trần Thị Phụng 1923 33. Trần Thị Phụng 34. Nguyễn Văn Phương 1955 35. Trần Minh Quyết 1975 36. Nguyễn Thị Sang 1954 Đội trưởng đội Quan họ 37. Nguyễn Văn Sáng 1943 38. Nguyễn Thị Sứ 1964 39. Đặng Thị Thái 1938 40. Lê Thị Thái 1954 41. Nguyễn Thị Thanh 1975 42. Nguyễn Thị Thảo 1942 158 43. Ngô Văn Thảo 1985 44. Nguyễn Thị Thềm 1959 45. Nguyễn Thị Thềm 1959 46. Trần Thị Thu 1986 47. Nguyễn Đức Thúc 1952 Nguyên Trưởng thôn 48. Nguyễn Đức Thục 1945 49. Nguyễn Thị Thước 1963 50. Nguyễn Đức Thược 1957 51. Nguyễn Văn Thưởng 1976 52. Ngô Văn Thưởng 1983 53. Ngô Thị Tiên 1975 54. Nguyễn Văn Tin 1952 Nguyên Chủ nhiệm hợp tác xã 55. Nguyễn Văn Toàn 1972 56. Nguyễn Đức Tư 1965 Nguyên Trưởng thôn 57. Ngô Thị Tuyết 1965 58. Nguyễn Văn Tý 1980 Trưởng thôn 59. Nguyễn Thị Vinh 1931 60. Trần Thị Yến 1981 (Nguồn: NCS chọn để phỏng vấn sâu. Đối với từng cá nhân, có thể phỏng vấn 01 lần, có thể nhiều lần với các câu hỏi khác nhau được ghi âm hoặc ghi chép lại.) 159 Phụ lục 4 CÂU HỎI VÀ NỘI DUNG TRẢ LỜI PHỎNG VẤN SÂU 1. Một số chú ý - Nội dung cuộc phỏng vấn đã được tinh lược và biên tập cho phù hợp với đề tài nghiên cứu và thể loại văn phong khoa học. Việc này được thực hiện trên cơ sở sự đồng thuận và giám sát của các cá nhân tham gia phỏng vấn. - Những nội dung được trích dẫn đảm bảo tính chân thực của thông tin mà phỏng vấn viên thu thập được. - Thứ tự các câu hỏi trong bảng này không trùng khớp với số thứ tự câu hỏi trên phỏng vấn thực địa. - Một câu hỏi có thể được hỏi với nhiều người, vì vậy chúng tôi tổng hợp tóm lược phần trả lời dưới dạng thông tin cơ bản. 2. Thông tin chung về các cuộc phỏng vấn - Thời gian phỏng vấn: Từ 2012-2015 - Đối tượng phỏng vấn: Người dân sở tại, các nghệ nhân, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu - Phỏng vấn viên: Trần Minh Chính và các cộng sự - Địa điểm phỏng vấn: Tại làng Quan họ Viêm Xá, làng Quan họ Bịu kết nghĩa (khi các nghệ nhân giao lưu Quan họ) và một số địa điểm liên quan 3. Câu hỏi và nội dung phỏng vấn - Phỏng vấn số 01: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, ngoài học hát Quan họ, người học còn được học gì nữa không? Trả lời: Ở làng chúng tôi từ lâu lắm rồi, các Em bé (người học hát Quan họ nhỏ tuổi - TG) cùng với việc học hát là học ăn, học nói, học gói, học mở; tức là học 160 giao tiếp, ứng xử nữa. Giỏi hát rồi, phải giỏi giao tiếp, ứng xử nữa. Nhưng bọn trẻ bây giờ thường chỉ quan tâm học hát thôi. - Phỏng vấn số 02: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, lễ hội làng ta hiện nay có gì khác xưa không? Trả lời: Bây giờ chính quyền thôn họ tổ chức lễ hội thế nào chúng tôi chỉ thấy loa đài, cờ quạt ầm ĩ, người thập phương nhiều lên nhưng toàn tập trung ở trước làng (ý chỉ khu vực trung tâm làng) còn ở các xóm, trong nhà chả thấy làm gì, cứ vắng lặng. Ngày xưa chúng tôi làm hội đâu cũng thấy vui, người trẻ đã đành, đi đu đi chơi nhưng người già chủng tôi cũng khối việc để làm. Nhất là hát canh, xóm nào cũng có, ít ồn ào nhưng say lắm, vui nữa! Bây giờ ở trước làng mà ỉu trò thì trong làng cũng coi là hết hội. Cánh trẻ bây giờ người ta chỉ thích mặt tiền thôi. - Phỏng vấn số 03: Câu hỏi: Theo Ông/Bà có phải ở làng ta bây giờ Hội to hơn và đông người dự hơn không? Trả lời: Vai trò của Quan họ Viêm Xá với toàn vùng là rất to lớn, nhưng vào dịp hội, lệ xưa thì người đến dự chủ yếu vẫn là dân làng sở tại, dân các làng kết nghĩa và các làng lân cận “đếm giỏi cũng được đôi trăm người”. Nhưng ngày nay, nhất là kể từ khi Quan họ được vinh danh là di sản thế giới thì số lượng người đến lễ hội với chúng tôi mỗi năm có đến hàng vạn người, thậm chí trong đó có người đến dự cho đến hết thời gian lễ hội (thường là 2-3 ngày). Đông người nhất vẫn là lễ hội đền Vua Bà. Số lượng người đến dự rất đông, người thì đến đơn giản là chơi hội, người thì đi lễ cầu tài cầu lộc, người đi vãn cảnhcũng có người đến tìm hiểu như các anh. 161 - Phỏng vấn số 04: Câu hỏi: Theo Ông/Bà mối quan hệ giữa chính quyền và dân làng trong tổ chức và hoạt động lễ hội hiện nay như thế nào? Trả lời: Cũng khác nhiều. Bây giờ chính quyền thôn (làng - TG) họ đứng ra chỉ huy hết. Họ mời khách, tiếp khách, phân công, cầm trịch mọi việc... Dân chúng tôi làm theo là chính. Đôi lúc cấp trên cũng xuống chỉ đạo nữa. - Phỏng vấn số 05: Câu hỏi: Là lãnh đạo địa phương, theo Ông/Bà mục đích của lễ hội bây giờ có khác xưa không? Trả lời: Lễ hội cổ truyền trước đây được dân làng mở ra chỉ để tôn vinh văn hóa, thỏa mãn đời sống tâm linh, vui chơi giải trí chủ yếu là để cho mình, để tự thỏa mãn mình “tự sản tự tiêu”. Còn đối với lễ hội ngày nay, ngoài mục đích truyền thống thì còn có những mục đích khác như mục đích về kinh tế, làm du lịch, mục đích quảng bá văn hóa, thậm chí cả mục đích chính trị liên quan đến vấn đề tuyên truyền, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, dân chủ, v.v - Phỏng vấn số 06: Câu hỏi: Theo Ông/Bà lễ hội Quan họ hiện nay có làm kinh tế không? Trả lời: Lễ hội của người Quan họ hôm nay không chỉ để thực hành các sinh hoạt văn hóa thuần túy như trước đây nữa mà còn phải gánh vác cả nhiệm vụ của người làm kinh tế và nhiều thứ khác nữa. Việc hát Quan họ nhận tiền trong ngày hội ở các làng Quan họ, trong đó có Viêm Xá, là có thật. Thành phần, mục đích của lễ hội thay đổi dẫn tới cách thức tổ chức, các sinh hoạt lễ hội và đặc biệt là cái tâm thế (tinh thần) của người tham dự lễ hội thay đổi là điều không thể tránh khỏi. 162 - Phỏng vấn số 07: Câu hỏi: Vai trò của người nghệ nhân xuất sắc đối với Quan họ trước đây và ngày nay có gì khác nhau? Trả lời: Ngày nay, những liền anh, liền chị xuất sắc thường được gọi là anh Hai - chị Hai, anh Ba - chị Ba theo những tiêu chí xưa đã “vắng” đi rất nhiều so với trước đây, nghĩ là trình độ kém đi. Vì thế sự "sùng kính" của người dân Viêm Xá cũng như toàn vùng Quan họ đối với họ như xưa có lẽ không còn nữa. Người nghệ nhân hôm nay coi như người diễn viên nghiệp dư chỉ xuất hiện trong hoạt động ca hát không chuyên theo quan niệm của đời sống văn hóa cơ sở dưới chế độ mới. - Phỏng vấn số 08: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, Quan họ nên làm kinh tế như thế nào? Trả lời: Phi thương thì bất phú. Bây giờ Quan họ phải vừa làm văn hóa vừa làm kinh tế nữa. Ở Hội An, họ hát Bài Chòi thu rất nhiều tiền mà lại vui. Mình ở đây, giao thông thuận tiện, đất lề quê thói, lại sát nách thủ đô Hà Nội, sao mình không làm được như họ. - Phỏng vấn số 09: Câu hỏi: Mô hình tổ chức Đội Quan họ có gì khác với Bọn Quan họ? Trả lời: Bây giờ mô hình sinh hoạt "Bọn Quan họ" không còn nữa, mà chuyển sang mô hình tổ chức "Đội Quan họ” ,và gần đây là "Câu lạc bộ Quan họ", đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền cơ sở. Các liền anh liền chị đều là thành viên của ĐQH hoặc CLBQH hoạt động theo kế hoạch và phân công nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu về chính trị và văn hóa của địa phương, cả đối nội và đối ngoại. CLBQH không sinh hoạt trong nhà chứa như bọn Quan 163 họ mà chỉ ở đình, chùa, đền, nhà văn hóa...Còn bọn Quan họ tự nhóm lại với nhau, có điểm khác bọn khác và sinh hoạt theo truyền thống với các bọn Quan họ làng kết nghĩa. - Phỏng vấn số 10: Câu hỏi: “Trình độ” nghệ nhân phải được rèn luyện như thế nào? Trả lời: Người nghệ nhân Viêm Xá thường rèn luyện ít nhất khoảng 10 năm (từ 13- 14 tuổi đến 23-24 tuổi). cụ Thị - một cụ Thượng của làng kể rằng cụ học hát từ năm 14-15 tuổi đến ngoài 30 tuổi vẫn không thuộc được trên 100 bài. Cụ nói: “Thuộc là một chuyện nhưng lúc hát còn ngân nga, nhấn nhá nữa chứ, phải thuộc lắm mới thế được”. Với trình độ “đặt câu bẻ giọng” và có giọng hát “vang, rền, nền, nảy” thì nghĩa là vừa phải có trình độ sáng tác các bài ca mới, (kể cả bài “độc”) vừa phải có trình độ ca hát đạt tiêu chuẩn theo những yêu cầu của âm nhạc dù là âm nhạc dân gian. Đạt đến trình độ này vào những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI ở Viêm Xá có các nghệ nhân Nguyễn Thị Các, Ngô Thị Lịch, Nguyễn Thị Nhi, Ngô Thị Trạch. - Phỏng vấn số 11: Câu hỏi: Thưa Ông/Bà, các nghệ nhân bây giờ họ hát như thế nào? Trả lời: Các nghệ nhân trong khoảng 10 năm trở lại đây đang bộc lộ xu hướng ngại học các bài Quan họ quá cổ vốn có tiết tấu, giai điệu chậm, dài dòng lại khó thuộc (các bài Quan họ cổ rất nhiều hư từ, luyến láy). Các nghệ nhân ở tuổi đang sung sức, hát nhiều như Nguyễn Thị Sang, Nguyễn Thị Thềm, Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Đức Nhận vv đã ở trình độ ngấp nghé “đặt câu, bẻ giọng” thì thường có tâm lý là vừa muốn giữ gìn học hỏi vốn cổ vừa muốn cách tân thật nhiều để có thể phù hợp với các đối tượng thưởng thức trẻ và thỏa mãn ngay chính sở thích của mình. 164 - Phỏng vấn số 12: Câu hỏi: Thưa Ông/Bà? Ở Viêm Xá, việc hát mừng trong các sự kiện vui gia đình, dòng họ có nhiều không? Trả lời: Từ bé chúng tôi đã thấy ở làng Viêm Xá khi các nhà có việc vui ít thấy mời người đến hát Quan họ. Lúc đó chúng tôi cũng không biết vì sao. Khi lớn lên mới biết rằng, có lẽ do cả làng là Quan họ rồi nên rất ít nhà mời Quan họ đến hát mà thường được các làng khác mời đi hát thì nhiều. - Phỏng vấn số 13: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, văn hóa giao tiếp, ứng xử của người Quan họ xưa thế nào? Trả lời: Ngày xưa đường ăn, ý ở của các anh Hai, chị Hai với bạn hát chẳng qua cũng vẫn là đường ăn, ý ở của cả làng. Có chăng là khi hát, khi đón bạn người ta nắn nót hơn mà thôi. Người Quan họ chúng tôi thì ở làng nào cũng thế. Đã không nói thì thôi, nói là phải đắn đo, nhu mì, không bỗ bã được. Bỗ bã, xuồng xã Quan họ bạn chê cười, dấu mặt vào đâu. - Phỏng vấn số 14: Câu hỏi: Tục kiêng hèm của Quan họ hiện nay còn được duy trì như thế nào? Trả lời: Làng Viêm Xá:"Chúng tôi cũng không rõ lắm, chỉ nói theo truyền thống ở làng thôi. Dân làng nói thế nào chúng tôi nói thế". Làng Đống Cao: Khi chúng tôi hỏi một số người dân đi “xem” hát Quan họ ở đình là tại sao anh lại nói “anh Đôi, chị Đôi” mà không nói “anh Hai, chị Hai” thì anh trả lời: “không biết, chỉ là nói theo làng vẫn nói thôi”. - Phỏng vấn số 15: Câu hỏi: Ông/Bà cho biết giao tiếp, ứng xử Quan họ bây giờ có khác xưa không? 165 Trả lời: Khác nhiều rồi. Ngày xưa lịch sự, ý nhị lắm, nhất là trong đón tiếp Quan họ bạn, trong nhà chứa, khi hát canh, hát mừng. Lịch sự, ý nhị từ ăn, nói, đứng ngồi. Các cụ nói, học hát là một chuyện, còn "học ăn, học nói, học gói, học mở" nữa mới thành người Quan họ. Còn bây giờ bỗ bã, thô thiển lắm. - Phỏng vấn số 16: Câu hỏi: Theo Ông/Bà ở làng Quan họ thường hát vào lúc nào? Trả lời: Quan họ từ xưa đến nay hát nhiều nhất vào lúc có sự, lệ như hội đình, đền, chùa, mùa xuân, mùa thu và cả ở các đám khao, cưới, nhà mới, sinh con, bây giờ thêm cả liên hoan, hội diễn, sinh nhật... - Phỏng vấn số 17: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, người hát Quan họ có phân biệt giàu, nghèo không? Trả lời: Không. Ai hát hay thì người ấy được tôn vinh, được nể trọng, rất bình đẳng. Có điều nhà ai nghèo thì đi hát khó hơn, vất vả hơn. Trước đây, nhà giàu nếu không hát thì cũng hay làm nhà chứa cho "vui cửa, vui nhà". - Phỏng vấn số 18: Câu hỏi: Ông /Bà cho biết, tuổi đi hát thường từ bao nhiêu trở đi? Trả lời: Ở Viêm Xá chúng tôi, chỉ từ 10 tuổi là hát rồi. Người ham Quan họ có khi hát tới "chết thì thôi". Nhưng thành anh Hai - chị Hai, anh Ba - chị Ba... thì thường phải 25, 27 tuổi trở lên. Hát mà giỏi, gọi là "Quan họ cựu". 166 - Phỏng vấn số 19: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, một bọn Quan họ ở làng thường có bao nhiêu người? Trả lời: Ở Viêm Xá, một bọn có từ 8 đến 12 người. Bọn nam riêng, bọn nữ riêng. Cả vùng Quan họ đều thế. Họ quí nhau như ruột thịt và rất hợp với nhau khi hát. - Phỏng vấn số 20: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, Quan họ Viêm Xá xưa có thi hát ở hội không? Trả lời: Chúng tôi thây nói không thi, nhưng có sách nghiên cứu lại nói có. Còn bây giờ thì Viêm Xá đi thi nhiều, cả tỉnh cả huyện, và hay giật giải. Nhưng Viêm Xá hát Quan họ đối đáp cổ hay hơn hát Quan họ mới (có nhạc đệm - TG). - Phỏng vấn số 21: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, người dân Viêm Xá thích nghe Quan họ cổ hay Quan họ mới? Trả lời: Chúng tôi thấy người già, người trung tuổi thích nghe Quan họ cổ (tức là lề lối) và cũng thấy nghe Quan họ mới. Còn người trẻ, nhất là học sinh thích nghe Quan họ mới hơn. Hát canh thì bây giờ ít thấy người trẻ xem được lâu. - Phỏng vấn số 22: Câu hỏi: Ông/Bà cho biết có thích cho người nhà tham gia đội Quan họ, câu lạc bộ Quan họ không? Trả lời: Ở làng chúng tôi phần lớn đều thích nhưng bọn trẻ phải đi học, đi làm xa nhiều, giờ giấc chặt chẽ nên cũng khó. Nhưng người nào đã hát hay thì say lắm. 167 - Phỏng vấn số 23: Câu hỏi: Ông/Bà cho biết tại sao ở làng hiện nay người trẻ hát Quan họ lại ít hơn người già? Trả lời: Vì không như ngày xưa, bây giờ trẻ họ "thoát ly" hết, đi làm khu công nghiệp, đi học chuyên nghiệp rồi không về làng ở nữa nên chỉ ai ở làng làm ruộng hoặc cac nghề tại gia mới tham gia đội Quan họ được. - Phỏng vấn số 24: Câu hỏi: Theo Ông/Bà, người chơi Quan họ ở Viêm Xá hiện nay có tăng lên không? Trả lời: Không tăng mà giảm đi. Những năm 1990 số lượng đội viên ĐQH nhiều hơn bây giờ. Nhưng người thích hát kiểu "vài câu cho vui" thì nhiều lắm. Thời thị trường, nhà ai cũng bận rộn. - Phỏng vấn số 25: Câu hỏi: Quan họ bây giờ phải quảng bá, Ông/Bà cho biết vai trò của báo đài như thế nào? Trả lời: Báo đài cũng được việc. Có truyền tin, truyền hình rất nhanh và hiện đại đấy, nhưng cũng có điểm phải tính lại. Vì nhà báo không phải ai cũng hiểu biết Quan họ truyền thống, nên thông tin họ đưa về Quan họ nhiều khi không chính xác do tìm hiểu kiểu "cưỡi ngựa xem hoa". Nhiều khi làm cho người dân các nơi, cả quốc tế hiểu sai về Quan họ. Ví dụ họ nói: "người Quan họ không lấy nhau". Việc ấy có, nhưng chỉ ở một số làng có kết chạ, kết nghĩa thôi và cũng là từ ngày xưa, còn bây giờ không thế nữa. 168 - Phỏng vấn số 26: Câu hỏi: Bây giờ Quan họ được tôn vinh là Di sản văn hóa thế giới, người Viêm Xá có tự hào không? Trả lời: Chúng tôi rất tự hào nhưng cũng lo. Lo vì bây giờ cuộc sống hiện đại: con người thay đổi, môi trường thay đổi, sở thích thay đổi... Sợ không giữ được Quan họ cổ truyền vì lai tạp. - Phỏng vấn số 27: Câu hỏi: Là nhà nghiên cứu, theo Ông/Bà trang phục Quan họ bây giờ có giữ được truyền thống? Trả lời: Riêng trang phục, người hát Quan họ bây giờ rất thích mặc như ngày xưa vì nó đẹp, đĩnh đạc, duyên dáng và uyển chuyển. - Phỏng vấn số 28: Câu hỏi: Là người dân Quan họ, Ông/Bà muốn Quan họ bây giờ phải như thế nào? Trả lời: Muốn Quan họ vừa giữ gìn truyền thống vừa đổi mới tư duy để phù hợp với bây giờ, nhất là những người trẻ tuổi. Nếu chỉ Quan họ cổ truyền như xưa người ta sẽ chán, không hấp dẫn. - Phỏng vấn số 29: Câu hỏi: Là nhà nghiên cứu văn hóa ở địa phương, Ông/Bà cho biết tục kết bạn có phải là cơ sở quan trọng hình thanh nên các sinh hoạt văn hóa Quan họ, trong đó có sinh hoạt ca hát? 169 Trả lời: Đúng là như vậy. Tục kết bạn đem đến cho các làng Quan họ không chỉ là các giao lưu về nghệ thuật Quan họ mà còn đem lại giao lưu về văn hóa Quan họ. Quan họ độc đáo là ở chỗ đó. 170 Phụ lục 5 BÀI VÈ VỀ 36 GIỌNG QUAN HỌ CỔ Bài vè cổ truyền về 36 giọng ca Quan họ này có tên: Bài vè 36 giọng cổ được Ty Văn hóa Bắc Ninh sưu tầm và đã được in trong cuốn sách Dân ca Quan họ Bắc Ninh (Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc; NXB Văn hóa, Hà Nội 1962) và cuốn Nghệ nhân Quan họ làng Viêm Xá (Trần Chính; NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2000). Ở Viêm Xá hiện nay đang lưu truyền một bài tương tự như bài vè nói trên, có khác về tên bài và một vài chỗ nhưng đều giống ở số lượng 36 giọng ca. Bài này thường được ngâm trước khi vào một canh hát trong đền Vua Bà. Hiện nay trong vùng Quan họ chỉ còn hát mươi, mười lăm giọng trong tổng số 36 giọng. Dưới đây chúng tôi giới thiệu toàn văn bài vè này. Những chữ in đậm trong bài vè là tên các giọng ca cổ. Vua bµ th¬ cæ truyÒn Quan hä* Vèn xưa Quan hä B¾c Ninh Muèn t×m tÝch cò ®Õn lµng DiÒm th«n Thñy tæ Quan hä lµng ta Nh÷ng lêi ca xướng Vua Bµ ®Æt ra Xưa nay nam n÷ trÎ giµ Ai mµ ca ®ưîc ¾t lµ hiÓn vinh NgÉm xem c¸c giäng cho tinh Ai mµ ca được hiÓn vinh trªn ®êi Hõ la kÝnh chóc mÊy lêi La r»ng xÕp ®Æt ë n¬i ý m×nh T×nh tang, B¹n lan è t×nh G¹o ngang, G¹o däc thªm xinh C¸i hõng C¬m vµng, chiÒn chiÖn ®· tõng 171 Th¬ ®óm, §µn ®óm tin mõng Phong thư CÇm b»ng, T×nh r»ng thê ¬ Lªn giäng §i cÊy, Ng©m th¬ mét m×nh N¨m canh, Phó ®äc h÷u t×nh §µm ngäc, §µn lÉy, nhí mong H·m Quúnh §µo nư¬ng ý thøc TÝnh t×nh N¨m cung lÈy lãt Mưêi cung d·i lßng. T¶ lý, Giäng HuÕ ®ưêng trong Du giµ giäng HuÕ l¹i thªm Xanh tiÒn Bu«n b«ng, Con M¾m thÒ nguyÒn Dang tay BÎ qu¹t ch¼ng phiÒn ¤ng r¨ng LuyÖn chªnh, LuyÖn m¸n ca r»ng1 Cßn c¸c Giäng L¸2 nãi n¨ng v« vµn. *Ghi theo lêi ®äc cña cô Ng« ThÞ Nhi (tøc cô Ký), sinh n¨m 1923, hiÖn ®ưîc coi lµ nghÖ nh©n nhí nhiÒu bµi Quan hä nhÊt nh× trong lµng 1. Cã ngưêi h¸t lµ: Liªn trang, Mưêng m¸n ca r»ng". 2. Giäng L¸ chÝnh lµ giäng VÆt.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_c_24_7_16_2202.pdf
Luận văn liên quan