Luận án Trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và khảo sát, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về bảo vệ NTD cho thấy các quy định pháp luật hiện hành vẫn còn những vướng mắc. Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu về thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD, NTD Việt Nam chưa chủ động thực hiện quyền năng pháp lý này là do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng “xây dựng luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhưng các nhà lập pháp chỉ quan tâm đến việc lấy ý kiến của các cấp lãnh đạo, các hội địa phương, mà không lấy ý kiến của người tiêu dùng” [52]

pdf188 trang | Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 763 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay: - Thứ nhất, tiến hành rà soát các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, loại bỏ những quy định trùng lặp và bổ sung những quy định còn thiếu, hoàn thiện khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các Hội bảo vệ NTD theo hướng hình thành một hệ thống xuyên suốt từ trung ương đến địa phương: Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi NTD cho thấy, trong pháp luật còn có nhiều quy định trùng lặp cần được loại bỏ. Chẳng hạn, các quyền của NTD được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như: Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa 2007, luật du lịch 2005, Tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với việc quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Trách nhiệm cung cấp thông tin trung thực về sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và cả trong Luật Quảng cáo năm 2012 Giao dịch giữa NTD và cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là giao dịch “hợp đồng” mang tính chất tự do, thỏa thuận. Nhưng trên thực tế tồn tại nhiều hợp đồng mà NTD buộc phải ký hợp đồng mặc dù có hợp đồng gây bất lợi cho NTD. Chẳng hạn những hợp đồng trong các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ “độc quyền” như điện, nước, Để bảo vệ quyền lợi của NTD, cần phải bổ sung các quy định cụ thể bảo vệ quyền của NTD trong các lĩnh vực này. Trong pháp luật hình sự đã có các quy định một số tội danh vi phạm quyền lợi NTD nhưng mới chỉ dừng lại ở các nhóm hành vi hàng giả, lừa dối khách hàng, quảng cáo gian dối. Trong khi đó, hành vi sản xuất, kinh doanh 154 sản phẩm kém chất lượng, độc hại gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và tính mạng của NTD lại chưa được tội phạm hóa. Để khắc phục tình trạng này cần bổ sung một số tội danh về sản xuất, kinh doanh hàng hóa kém chất lượng, độc hại gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến NTD trong pháp luật hình sự. Khác với các lĩnh vực hoạt động khác, hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng diễn ra trên tất cả các địa bàn, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo,vì vậy, muốn triển khai các hoạt động bảo vệ người tiêu dùng một cách rộng khắp và đồng bộ việc xây dựng một hệ thống Hội Bảo vệ người tiêu dùng xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương là hết sức cần thiết. Hiện nay, nước ta có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có 61 tỉnh, thành phố đã có Hội Bảo vệ người tiêu dùng địa phương. Các tỉnh, thành phố có Hội Bảo vệ người tiêu dùng địa phương lại chủ yếu là ở những khu vực có đô thị phát triển, nhận thức cũng như ý thức bảo vệ và tự bảo vệ của người tiêu dùng tại đây cao hơn các địa bàn khác. Việc chỉ tập trung bảo vê người tiêu dùng tại các đô thị làm cho hoạt động bảo vệ người tiêu dùng của các Hội chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cũng như sự kỳ vọng của xã hội. Do đó, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội cần vận động, hỗ trợ về nguồn nhân lực, kinh phí để tiến tới mỗi địa phương sẽ có một Hội Bảo vệ NTD, bảo đảm việc bảo vệ NTD sẽ được thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Trong hệ thống tổ chức bảo vệ NTD, Vinastas với cương vị là Hội Trung ương cần đưa ra những định hướng, chương trình hoạt động thống nhất để Hội thành viên có phương hướng hoạt động, thực hiện vai trò của mình trong các công tác phản biện xã hội, giáo dục, giải quyết khiếu nại bảo vệ quyền lợi NTD. Qua đó, sẽ khắc phục được tình trạng lúng túng trong hoạt động bảo vệ NTD ở các Hội địa phương, khắc phục tình trạng hoạt động mang tính tự phát mà không có hiệu quả. 155 Các Hội địa phương trong phạm vi cả nước cần phối hợp, tích cực trao đổi thông tin, trao đổi kinh nghiệm , hỗ trợ nhau về chuyên môn, nghiệp vụ để công tác bảo vệ NTD có thể diễn ra thuận lợi. Đặc biệt các Hội cần phối hợp chặt chẽ để tiến hành các nhiệm vụ đại diện cho NTD khởi kiện các vụ án vì lợi ích công cộng, lợi ích của nhiều NTD. - Thứ hai, khắc phục tình trạng các quy định pháp luật còn chung chung, thiếu tính cụ thể: + Quy định rõ những vấn đề liên quan đến quyền khởi kiện vì mục đích công cộng của tổ chức xã hội: Một điểm tiến bộ trong Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 là các tổ chức xã hội có quyền tự đứng ra khởi kiện tại tòa án hoặc trọng tài khi phát hiện tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi vi phạm gây ảnh hưởng đến lợi ích công cộng mà không cần phải có yêu cầu hoặc ủy quyền của NTD. Với quy định này tổ chức xã hội sẽ chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của NTD. Bởi, trên thực tế, có nhiều trường hợp, giá trị các tranh chấp của NTD thường không lớn nên NTD thường có tâm lý ngại khởi kiện (chẳng hạn, các vụ việc vi phạm như xăng pha axêtôn, nước tương nhiễm chất ung thư 3-MCPD, gian lận đo lường trong kinh doanh xăng dầu,không có bất kỳ NTD nào khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình), nhưng thiệt hại cho xã hội trong các vụ vi phạm quyền lợi NTD này rất lớn.Tuy nhiên, các quy định hướng dẫn thi hành điều luật này lại chưa rõ ràng, nên các tổ chức xã hội vẫn còn lúng túng trong việc tự mình khởi kiện. Trong thời gian tới các nghị định hướng dẫn thi hành luật cần quy định rõ như thế nào thì được coi là “lợi ích công cộng” bị vi phạm và trong trường hợp nào tổ chức xã hội có quyền đại diện cho NTD hoặc tự mình khởi kiện để làm cơ sở cho các tổ chức xã hội căn cứ vào đó mà khởi kiện. Đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao cũng cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn 156 trình tự, thủ tục khởi kiện vì lợi ích công cộng để các tổ chức xã hội có thể triển khai hoạt động này trên thực tế. + Quy định rõ cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ NTD ở địa phương: Tranh chấp giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh có thể được giải quyết bằng các phương thức khác nhau như: thông qua thương lượng, hòa giải, tòa án hoặc trọng tài. Ngoài ra, Điều 25 Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 quy định: Trường hợp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ NTD của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của nhiều NTD, lợi ích công cộng thì NTD, tổ chức xã hội có quyền yêu cầu trực tiếp hoặc bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD cấp huyện nơi thực hiện giao dịch giải quyết. Hiện nay, chưa có hướng dẫn cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD cấp huyện là cơ quan nào trong Ủy ban nhân huyện có trách nhiệm tiếp nhận yêu cầu của NTD, của tổ chức xã hội trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của nhiều NTD, lợi ích công cộng. Đây là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng cần thành lập một cơ quan chuyên trách về bảo vệ NTD từ cấp tỉnh đến cấp huyện vì vấn đề bảo vệ NTD liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội do đó các cơ quan hiện tại trong bộ máy của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện đang phải thực hiện nhiều nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý của mình nên gánh thêm nhiệm vụ bảo vệ NTD thì quá sức và khó có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ thuộc chức năng của mình. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng không nên thành lập cơ quan bảo vệ NTD ở địa phương để bộ máy hành chính đỡ cồng kềnh không cần thiết mà nên giao cho cơ quan quản lý thị trường (ở cấp tỉnh là chi cục 157 quản lý thị trường, ở cấp huyện là đội quản lý thị trường) để có thể bảo vệ quyền lợi NTD một cách hữu hiệu nhất [38]. Vì vậy, trong thời gian tới Bộ Công thương (cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ NTD) và Bộ Nội vụ cần khẩn trương ban hành thông tư liên tịch, hướng dẫn hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD tại địa phương, trong đó quy định thành lập các bộ phận chuyên môn về bảo vệ NTD tại các Sở Công thương cũng như tại Ủy ban nhân dân huyện và biên chế để các bộ phận này hoạt động. Liên quan đến trách nhiệm tiếp nhận yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ NTD cấp huyện đối với những vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh, cũng cần phải xác định rõ trong trường hợp nào được coi đó là vi phạm gây thiệt hại đến nhiều NTD, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước. Bởi, nếu không làm rõ yếu tố định lượng này, thì không xác định được trách nhiệm của cơ quan bảo vệ NTD cấp huyện trong việc tiếp nhận yêu cầu của NTD hoặc của tổ chức xã hội, nhằm bảo vệ lợi ích của NTD. - Thứ ba, khắc phục tình trạng mâu thuẫn, không thống nhất giữa các quy định trong văn bản pháp luật: Hai nghị định quy định mức phạt khác nhau đối với một hành vi vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa. Theo đó, Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 6-5-2005 về “xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế” quy định những hành vi vi phạm các quy định về ghi nhãn thực phẩm tại Điều 15 sẽ bị xử phạt từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ. Trong khi đó, tại Điều 23 Nghị định số 06/2008/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại lại quy định các hành vi vi phạm ghi nhãn hàng hóa theo quy định sẽ bị xử phạt từ 200.000đ đến 30.000.000đ tùy theo giá trị của hàng hóa bị vi phạm. Đặc biệt, đối với hàng hóa là thực phẩm thì mức phạt sẽ tăng gấp đoi là 400.000đ đến 60.000.000đ. 158 Cũng như vậy, theo Điều 26 Nghị định số 06/2008/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, các hành vi kinh doanh hàng hóa hết hạn sử dụng sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000đ đến 30.000.000đ (đối với hàng hóa là thực phẩm mức phạt tăng gấp đôi là 400.000đ đến 60.000.000đ). Trong khi đó, tại Điều 15 Nghị định 45/2005/NĐ-CP về “xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế” lại quy định hành vi sản xuất, kinh doanh thực phẩm hết hạn sử dụng sẽ bị xử phạt từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ bất kể giá trị của hàng hóa. Hành vi không công bố chất lượng sản phẩm hoặc không đảm bảo đúng chất lượng sản phẩm như đã công bố sẽ bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000đ đến 20.000.000đ(tùy theo giá trị lô hàng) theo quy định của Nghị định số 95/2007/NĐ-CP ngày 4-6-2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Cũng đối với hành vi như vậy với sản phẩm là thực phẩm thì lại bị xử phạt từ 2.000.000đ đến 6.000.000đ theo quy định tại khoản 4 Điều 15 Nghị định 45/2005/NĐ-CP về “xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế”. Hành vi liên kết lũng đoạn giá trị trường được coi là đối tượng điều cỉnh của hai văn bản pháp luật là Luật Cạnh tranh năm 2018 và Pháp lệnh giá năm 2002. Theo đó, các quy định xử lý đối với hành vi này ở hai văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh và Pháp lệnh giá lại khác nhau. Tại Điều 15 Nghị định 169/2004/NĐ-CP ngày 22-9-2004 “quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá” quy định về xử phạt đối với hành vi liên kết độc quyền về giá trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ; trong phạm vi rộng hơn một tỉnh, thành phố Trung ương là từ 15.000.000đ đến 20.000.000đ. Trong khi đó, theo Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30-9-2005 “quy định xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh” hành vi liên kết độc quyền về giá có thể bị xử phạt tới 10% doanh thu. Không những thế Bộ Tài chính và Cục quản lý cạnh tranh và 159 bảo vệ người tiêu dùng đều có thẩm quyền xử lý vi phạm đối với hành vi liên kết lũng đoạn giá thị trường. Quy định về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước cũng còn nhiều điểm mâu thuẫn, bất hợp lý dẫn đến tình trạng quản lý kém hiệu quả. Theo Nghị định số 89/2006/NĐ-CP về ghi nhãn hàng hóa thì cơ quan quản lý nhà nước về hàng hóa là Tổng cục Đo lường chất lượng – Bộ Khoa học và Công nghệ, nhưng cơ quan xử lý các hành vi vi phạm lại là công an, quản lý thị trường, hải quan, thanh tra chuyên ngành,.., - Thứ tư, cần quy định tổ chức bảo vệ người tiêu dùng là tổ chức xã hội đặc thù và mở rộng phạm vi những hoạt động gắn với nhiệm vụ Nhà nước giao cho tổ chức xã hội thực hiện. Đồng thời quy định rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Điều 35 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động và quản lý hội có quy định: “Các hội có tính chất đặc thù được cấp kinh phí hoạt động theo số biên chế được giao, bảo đảm kinh phí để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao và hỗ trợ cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động; được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước, các dịch vụ công; thực hiện các chương trình, đề tài, dự án”. Cùng với Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 1-11-2011 về việc quy định Hội có tính chất đặc thù là danh sách những hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước. Theo đó có 28 hội được công nhận là hội có tính chất đặc thù hoạt động trong cả nước như: Hội Sân khấu Việt Nam; Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam; Hội người cao tuổi Việt Nam; Hội người mù Việt Nam; Hội Đông y Việt Nam; Hội Khuyến học Việt NamHội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam chưa được công nhận là hội đặc thù. Điều này đã làm hạn chế sự hỗ trợ về các nguồn lực của Nhà nước cho hoạt động của Hội. Trong khi đó, khó khăn lớn nhất cản trở hoạt động của Hội chính là vấn 160 đề tài chính. Hiện nay, hầu hết các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có bất kỳ nguồn thu ổn định nào cũng như không có nguồn đóng góp từ các hội viên. Do đó, cần xem xét công nhận Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam là một tổ chức xã hội đặc thù để được Nhà nước cấp kinh phí và điều động cán bộ được đào tạo đến làm việc ở cơ quan Hội, tạo điều kiện cho Hội hoạt động có hiệu quả. Theo khoản 1, Điều 29 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khi thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao, tổ thức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Nhà nước hỗ trợ kinh phí và các điều kiện khác theo quy định của pháp luật. Điều 28 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP đã quy định 4 nhóm công việc gắn với nhiệm vụ của Nhà nước có thể giao cho tổ chức xã hội, bao gồm: (1) Tuyên truyền, phổ biến giáo dục về quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng (2) Hướng dẫn, đào tạo nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng; (3) Tư vấn, hỗ trợ cho người tiêu dùng; (4) Thực hiện các nghiên cứu, khảo sát thực tế, tập hợp ý kiến, phản ánh nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thực tế, một số hoạt động mà các tổ chức xã hội đã thực hiện rất có hiệu quả trong thời gian qua như hoạt động hòa giải lại không được quy định là một nhiệm vụ giao cho tổ chức xã hội thực hiện. Trong thực tế, các tranh chấp của người tiêu dùng thường là các tranh chấp có giá trị nhỏ, tình tiết rõ ràng và xảy ra với số lượng lớn. Do đó, nếu các tổ chức xã hội thực hiện việc hòa giải các tranh chấp thành công thì không những bảo đảm được trật tự xã hội mà còn giúp cơ quan quản lý nhà nước giảm thiểu một khối lượng đáng kể công việc phải thực hiện. 161 Bên cạnh đó, hoạt động bảo vệ quyền lợi của NTD liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Trong các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi của NTD cũng đã quy định trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức đối với việc bảo vệ quyền lợi của NTD. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quyền lợi của NTD chưa được bảo vệ hữu hiệu. Bởi lẽ, trách nhiệm bảo vệ bảo vệ quyền lợi của NTD thuộc về nhiều ngành, nhiều cơ quan nhưng trong pháp luật chưa quy định rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này. Hậu quả là khí có hành vi vi phạm quyền lợi của NTD, các cơ quan có trách nhiệm hoặc là hoạt động “lấn sân” sang phạm vi thẩm quyền của cơ quan khác hoặc không có hoạt động gì vì cho rằng không phải trách nhiệm của cơ quan mình. Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể trách nhiệm của ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo vệ quyền lợi NTD. Phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền bảo vệ quyền lợi NTD cho ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã để bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của NTD, nhất là NTD ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. 4.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng 4.2.2.1. Nâng cao nhận thức của xã hội đối với vị trí, vai trò của tổ chức xã hội trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng Thực tế hiện nay ở nước ta, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức và người dân về vai trò của các tổ chức xã hội đối với hoạt động phát triển xẫ hội và quản lý xã hội nói chung cũng như về vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở nước ra nói riêng đã có những bước tiễn rõ rệt tuy nhiên cũng không tránh được những nghi ngờ hoặc thiếu tin tưởng vào vai trò của các tổ chức này ở một số ít người. Việc cộng đồng doanh nghiệp, người tiêu dùng không “mặn mà” với các tổ chức xã hội, không coi đây là địa chỉ đáng tin cậy để bảo vệ quyền lợi tiêu dùng của mình một phần xuất phát từ tư tưởng của người tiêu dùng, doanh nghiệp chỉ coi các cơ quan nhà nước, tòa án là thiết chế chính, còn các tổ chức xã hội không thể 162 đứng ra bảo vệ quyền lợi. Sự tham gia của các tổ chức này chỉ mang tính khuyến khích trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng. Chính nhận thức này là cho các tổ chức xã hội không phát huy được hết vai trò, vị trí của mình. Để nâng cao nhận thức của xã hội đối với vai trò, vị trí của tổ chức xã hội trong việc bảo vệ người tiêu dùng cần: - Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí và internet; trả lời phỏng vấn, đối thoại trực tiếp tuyên truyền đến người tiêu dùng, cộng đồng các doanh nghiệp những quy định của pháp luật về quyền hạn cũng như trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc bảo vệ người tiêu dùng. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải được diễn ra thường xuyên, với nhiều cấp độ, nhiều hình thức phong phú, ví dụ: tổ chức các hội thảo, mở các lớp đào tạo về bảo vệ người tiêu dùng cho đại diện người tiêu dùng và cộng đồng doanh nghiệp. Công tác tuyên truyền cũng phải tiến hành trên phạm vi cả nước đặc biệt đối với các vùng nông thôn, miền núi – nơi người tiêu dùng thường xuyên bị vi phạm quyền lợi. Để tuyên truyền thực sự đạt hiệu quả, cần có sự phối hợp giữa tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng với thiết chế khác. Các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền địa phương trong phạm vi chức trách của mình cần tạo điều kiện, hỗ trợ, hướng dẫn việc tuyên truyền, giáo dục để nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng được nâng cao. - Tích cực thực hiện các hoạt động gây dựng hình ảnh, niềm tin về tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong con mắt người tiêu dùng, để quảng bá cho quần chúng biết về sự tồn tại và năng lực bảo vệ người tiêu dùng như: Tổ chức các sự kiện về quyền của người tiêu dùng, tiến tới xây dựng “Tuần lễ quốc gia về người tiêu dùng” như một số nước (Hàn Quốc, Mỹ, Niu Dilân), tổ chức cuộc hội thảo, tọa đàm, các cuộc gặp mặt đối thoại với 163 người tiêu dùng, doanh nghiệp để trao đổi ý kiến về vấn đề cần quan tâm xung quanh công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sử dụng hệ thống website của Hội để đưa các thông tin, cảnh báo cho người tiêu dùng về những vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân ảnh hưởng đển quyền lợi tiêu dùng, đồng thời tuyên dương thương nhân, doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, bảo đảm chất lượng hành hóa, dịch vụ. Việc làm này vừa giúp người tiêu dùng có thể tự bảo vệ mình, vừa mang lại niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp với các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Lên tiếng bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt thông qua những vụ việc giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng trên thực tế. Các Hội Bảo vệ người tiêu dùng cần hướng dẫn cụ thể cho người dân biết làm thế nào để bảo về quyền lợi của mình, làm sao để người tiêu dùng không cảm thấy vất vả và khó khăn nếu giải quyết tranh chấp của mình với thương nhân bằng các biện pháp thương lượng, hòa giải, khởi kiện tại tòa án hoặc trọng tài. Thực tế đã cho thấy, nhiều Hội Bảo vệ người tiêu dùng địa phương sau khi có những hoạt động tích cực về giải quyết khiếu nại cho người tiêu dùng đã gây dựng được hình ảnh, trở thành địa chỉ đáng tin cậy của người tiêu dùng. 4.2.2.2. Đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hội bảo vệ người tiêu dùng Thực tiễn công tác bảo vệ quyền lợi NTD tại Việt Nam cho thấy, hoạt động của các tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD hiện nay rất nghèo nàn về phương thức cũng như nội dung. Điều này dẫn đến các hoạt động diễn ra một cách nhàm chán, đơn lẻ và thiếu hiệu quả. Theo kinh nghiệm ở các nước trên trên thế giới, các tổ chức bảo vệ NTD thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động. Thậm chí, từng đối tượng NTD khác nhau sẽ có các phương thức hoạt động rất khác nhau. Vì vậy ở nhiều nước, các tổ chức bảo vệ NTD thực sự chiếm được lòng tin của NTD. 164 - Để hoạt động tư vấn giải quyết khiếu nại của NTD có hiệu quả hơn, Hội cần ban hành quy chế hòa giải chính thức để các Văn phòng Tư vấn khiếu nại có cơ sở chắc chắn để tiến hành tư vấn, hòa giải tranh chấp của NTD. - Các Hội Bảo vệ quyền lợi NTD cần tìm nguồn tài trợ để bồi dưỡng kiến thức nghề nghiệp thường xuyên cho cán bộ chuyên trách của Văn phòng Tư vấn khiếu nại. - Vinastas và các Hội địa phương cần vận dụng nhiều phương thức hoạt động phong phú và phù hợp hơn như: vận dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức tiêu dùng. Sử dụng đài phát thanh, truyền hình, báo chí, hệ thống loa phát thanh công cộng, tổ chức các hoạt động nói chuyện, phân phát tờ rơi, tài liệu, tổ chức các phong trào bảo vệ quyền lợi NTD nhằm thu hút sự tham gia của nhiều đối tượng trong xã hội - Cần phải sử dụng trang Website của Hội để tuyên dương thương nhân thực hiện tốt pháp luậ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và cảnh báo đối với những thương nhân có những sản phẩm, dịch vụ có hại cho người tiêu dùng hoặc có những hành vi khác làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. - Vinastas và các Hội địa phương cần chủ động trong việc bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là chủ động tham gia khởi kiện. Theo quy định của pháp luật, Vinastas hoàn toàn có quyền kiện doanh nghiệp ra tòa hoặc dùng quyền lực của người tiêu dùng để tẩy chay, không sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp vi phạm. Nhưng từ khi thành lập, Vinastas chủ yếu thực hiện hoạt động hòa giải là chính mà chưa khởi kiện một vụ vi phạm nào ra tòa. Trong thời gian tới, với khung pháp lý đầy đủ và hoàn thiện hơn, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng có thể tự đứng ra khởi kiện khi phát hiện có hành vi gây thiệt hại đến lợi ích công cộng. Vì vậy, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng thay vì thụ động chờ đợi người tiêu dùng đến khiếu nại mới tham gia vào bảo vệ, Hội cần chủ động giải quyết vấn đề từ cơ sở. 165 - Để mở rộng hoạt động và phạm vi ảnh hưởng của mình tới đông đảo tầng lớp nhân dân trong xã hội, bao gồm tổ chức và cá nhân nước ngoài sinh sống, hoạt động tại Việt Nam, Vinastas và một số Hội Bảo vệ người tiêu dùng ở các địa phương cấn sửa đổi điều lệ hiện có theo hướng khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tự nguyện gia nhập Hội đều có thể trở thành hội viên. Không nên quy định như hiện nay là chỉ có công dân Việt Nam và các tổ chức của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, chất lượng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mới có thể trở thành hội viên của Hội. - Các Hội địa phương nên học tập kinh nghiệm của Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tỉnh Kiên Giang đặt các cân đối chứng và thành lập các Văn phòng Tư vấn và Giải quyết khiếu nại tại các chợ, trung tâm thương mại, sự dụng hệ thống loa truyền thanh, để công khai phê bình nhưng thương nhân thường xuyên có hành vi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng như cân sai, bán hàng không đảm bảo chất lượng, có thái độ không lịch sự với người tiêu dùng. - Các Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng cần phải quảng cáo cho tổ chức của mình một cách tích cực hơn để quảng bá cho quần chúng biết về sự tồn tại và năng lực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, lấy những vụ việc đã giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng làm chứng cứ chứng minh. Các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần hướng dẫn cụ thể cho người dân biết làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình, làm sao để người tiêu dùng không cảm thấy vất vả, khó khăn nếu giải quyết các tranh chấp của mình với thương nhân bằng các biện pháp thương lượng, hòa giải, khởi kiện tại tòa án hoặc trọng tài. - Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam và các Hội Bảo về quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương cần tăng cường tham gia vào các tổ chức quốc tế bảo vệ người tiêu dùng như CI (Tổ chức Người tiêu dùng quốc tế), CUTS (Tổ chức tín thác và Đoàn kết vì người tiêu dùng của Ấn Độ) 166 để tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và học hỏi kinh nghiệm về phương thức hoạt động của họ. Bảo vệ người tiêu dùng là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó có trách nhiệm rất lớn của các doanh nghiệp. Sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng góp phần rất lớn cho thành công của hoạt động bảo vệ người tiêu dùng. Do đó, các Hội bảo vệ người tiêu dùng cần có sự phối hợp hoạt động với các hiệp hội ngành nghề như: Hiệp hội Ngân hàng, Hiệp hội Thủy sản, Hiệp hội Da giày, để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như uy tín của các doanh nghiệp. Mặt khác, Hội Bảo vệ người tiêu dùng cần vận động doanh nghiệp tham gia và hỗ trợ tài chính cho hoạt động của Hội. 4.2.2.3. Nhà nước tạo cơ chế hỗ trợ và phối hợp với các tổ chức xã hội, cụ thể là Hội bảo vệ người tiêu dùng trong việc thực hiện công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đồng thời đẩy mạnh sự phối hợp có hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức trong nước và quốc tế với các Hội bảo vệ người tiêu dùng. - Nhà nước tạo cơ chế hỗ trợ và phối hợp với các tổ chức xã hội, cụ thể là Hội bảo vệ NTD trong việc thực hiện công tác bảo vệ quyền lợi NTD Hoạt động tư vấn giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng của các Văn phòng Tư vấn khiếu nại, cũng như hoạt động của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, của các Hội thành viên của Vinastas nói chung là hoạt động của một tổ chức xã hội, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Hoạt động của hội là hoạt động có tính chất đặc thù. Hoạt động của Văn phòng Tư vấn khiếu nại có tác động rất sâu rộng không chỉ liên quan đến người tiêu dùng, mà còn đến tất cả các doanh nghiệp, tổ chức cung cấp hàng hóa và dịch vu, đến các chính sách khác nhau của Nhà nước: chính sách bảo về quyền lợi người tiêu dùng, chính sách vì người nghèo, chính sách Người Việt Nam ưu tiên dùng hành Việt, chính sách về nông nghiệp, nông thôn và nông dân,các cơ chế và hoạt động quản lý của 167 các bộ, các nghành trong các lĩnh vực khác nhau như: sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm Thực tế kết quả hoạt động của các Văn phòng tư vấn khiếu nại đã đóng góp tích cực vào thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là chính sách an sinh xã hội, bảo đảm nhân quyền của chế độ xã hội chủ nghĩa thông qua việc tư vấn hàng ngày, giải quyết các khiếu nại của người tiêu dùng. Một thực tế cũng cần phải thấy rõ là hoạt động tư vấn giải quyết khiếu nại cho người tiêu dùng của các Văn phòng Tư vấn khiếu nại của các Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang gặp rất nhiều khó khăn như: - Mặt bằng làm văn phòng cho việc tiếp nhận, tư vấn và giải quyết khiếu nại không có - Phương tiện làm việc gần như không có, phải dựa vào các phương tiện ít ỏi của Hội, hoặc các phương tiện cá nhân. - Cán bộ phụ trách công tác tư vấn giải quyết khiếu nại đều làm việc theo cơ chế tự nguyện: không tiền lương, không phụ cấp. - Cán bộ phụ trách công tác tư vấn giải quyết khiếu nại hầu hết là cán bộ đã về hưu không được đào tạo chuyên môn về luật pháp cũng như kỹ năng hòa giải nên cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động hỗ trợ người tiêu dùng giải quyết tranh chấp của mình với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Hội Bảo vệ người tiêu dùng là tổ chức xã hội, hoạt động vì lợi ích của người tiêu dùng, nhưng không có nguồn thu nào từ hội phí của hội viên cũng như không có nguồn thu nào ổn định. Vì vậy, họ gặp nhiều khó khăn về kinh phí trong việc triển khai các hoạt động của Hội. Do đó, để Hội có thể nâng cao hơn nữa năng lực hoạt động của mình, Nhà nước cần có những hỗ trợ sau cho hoạt động của Hội: (1)Trước mắt, Nhà nước cần hỗ trợ ban đầu về địa điểm, cơ sở vật chất cho các Hội Bảo vệ người tiêu dùng khi mới thành lập đặc biệt là các khu vực 168 mà điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Đây là sự hỗ trợ rất cần thiết cho hoạt động của Hội. Bởi, hiện nay các thành viên của Hội chủ yếu là những người về hưu, thu nhập thấp, khó có thể đầu tư trụ sở và các trang thiết bị khác phục vụ cho các hoạt động giải quyết khiếu nại, tuyên truyền, giáo dục người tiêu dùng. Theo Điều 30 Nghị định 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều lệ của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì: khi thực hiện hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được ngân sách hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ kinh phí thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhưng đến nay, các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hầu như không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía Nhà nước để thực hiện các hoạt động của Hội. (2)Nhà nước cần trợ cấp hoặc trả phụ cấp xứng đáng cho các cán bộ chuyên môn làm việc theo giờ hành chính ở các văn phòng của Hội. (3)Cần đưa các cán bộ chuyên trách về Văn phòng Tư vấn khiếu nại vào diện hưởng biên chế và quỹ lương từ ngân sách nhà nước để họ yên tâm làm việc, thường trực hàng ngày tại Văn phòng Tư vấn khiếu nại. (4)Thành lập Quỹ Bảo vệ người tiêu dùng để chị cho các công tác bảo vệ người tiêu dùng. (5)Các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Bojo Công Thương và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố cần có sự phối hợp chặt chẽ với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hỗ trợ về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như nguồn lực cho các Hội. - Cục Quản lý cạnh tranh cần có những hướng dẫn cụ thể về chuyên môn, nghiệp vụ cho Sở Công Thương các tỉnh, để tư vấn cho Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành cùng Hội Bảo vệ người tiêu dùng phối hợp thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng. 169 - Ủy ban nhân dân các tỉnh cần thực hiện một số cách có hiệu quả những quy định của pháp luật về việc hỗ trợ kinh phí cho các Hội Bảo vệ người tiêu dùng, qua đó giảm áp lực về tài chính, tạo điều kiện thuận lợi để các Hội hoạt động có hiệu quả. (6)Nhà nước cần có chủ trương cụ thể về việc phát huy vai trò của các thiết chế trong hệ thống chính trị đối với công tác bảo vệ người tiêu dùng. Bộ Công Thương, Bộ y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ,nên có các nghị quyết hoạc chương trình hành động liên tịch, ký với Mặt trận Tổ quốc cũng như các thành viên trong Mặt trận Tổ quốc, để các tổ chức này có cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc tham gia công tác bảo vệ người tiêu dùng. Các nghị quyết liên tịch ấy sẽ góp phần đưa vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thành một trong những ưu tiên trong các chương trình nghị sự của các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc các cấp. - Đẩy mạnh sự phối hợp có hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức trong nước và quốc tế với các Hội bảo vệ người tiêu dùng. Với cơ quan quản lý nhà nước + Quy định rõ hơn trách nhiệm của chính quyền cấp cơ sở trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và trong công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng. Quy định rõ lực lượng cán bộ chuyên trách làm công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các cấp chính quyền ở địa phương (nằm trong ngành công thương, y tế và các ngành có liên quan). + Củng cố hệ thống mạng lưới bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt, cần lập các đường dây nóng phản ánh vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, tăng cường sự gắn kết trong hoạt động giữa các cơ quan nhà nước bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng với các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở cả trung ương và địa phương. + Cục Quản lý cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) cần có những hướng dẫn cụ thể hơn về chuyên môn, nghiệp vụ cho 170 Sở Công Thương các tỉnh để tư vấn cho Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. + Sở Công Thương các tỉnh cần chủ động trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chủ động đề xuất, kiến nghị với Ủy ban nhân dân tỉnh sáng kiến để thực hiện công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên phạm vi tỉnh trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các tỉnh làm tốt công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và hướng dẫn của Cục quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) Với Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas), các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng các địa phương + Cần năng động hơn, tích cực hơn trong việc thực hiện các nhiệm vụ được quy định trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như: tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; nâng cao hiệu quả tư vấn giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng; thực hiện tốt chức năng tư vấn, phả biện cho các chinh sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực mình hoạt động. + Tranh thủ sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần của các bộ, sở, ban, ngành để thực hiện nhiệm vụ được giao. + Theo quy định tại Điều 28 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Trung ương và các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng địa phương cần chuẩn bị điều kiện cần thiết về nhân lực và cơ sở vật chất để thực hiện một số nhiệm vụ mà cơ quan nhà nước giao. + Tích cực trao đổi thông tin, trao đổi kinh nghiệm và nâng cao hiệu quả hợp tác giữa các Hội để thực hiện công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giữa các Hội trong phạm vi cả nước, đặc biệt là phối hợp chặt chẽ để tiến hành các nhiệm vụ nhân danh quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại Điều 44 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. 171 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có hiệu lực từ ngày 01-07- 2011, theo đó là các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết thực hiện, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan quản lý nhà nước và các Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. 172 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 Trên cơ sở nghiên cứu các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay, tác giả rút ra một số kết luận sau: 1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay cần tập trung vào các nội dung sau: Thứ nhất, phải xác định đúng và chính xác định năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ NTD; Thứ hai, việc tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ NTD phải có lộ trình và chiến lược toàn diện của nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD; Thứ ba, việc tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD phải đảm bảo sự đồng bộ, phối hợp có hiệu quả giữa các thiết chế để các quyền của NTD được bảo đảm thực hiện trên thực tế;Thứ tư, việc tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ NTD phải xuất phát từ sự quyết tâm thực thi pháp luật để bảo vệ NTD của các thiết chế trong việc bảo vệ NTD. 2. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phải chú trọng đến các giải pháp về pháp luật để bảo đảm cho các quy định của pháp luật không bị mâu thuẫn, chồng chéo, có tính ổn định lâu dài, chi tiết các quy định chứ không chung chung khó xác định và đặc biệt cần quy định tổ chức bảo vệ người tiêu dùng là tổ chức xã hội đặc thù và mở rộng phạm vi những hoạt động gắn với nhiệm vụ Nhà nước giao cho tổ chức xã hội thực hiện. Đồng thời quy định rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để việc áp dụng vào thực tiễn đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cần phải chú trọng đến các 173 giải pháp về chính sách và các giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật như: Nâng cao nhận thức của xã hội đối với vị trí, vai trò của tổ chức xã hội trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng; Đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hội bảo vệ người tiêu dùng; Nhà nước tạo cơ chế hỗ trợ và phối hợp với các tổ chức xã hội, cụ thể là Hội bảo vệ người tiêu dùng trong việc thực hiện công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đồng thời đẩy mạnh sự phối hợp có hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức trong nước và quốc tế với các Hội bảo vệ người tiêu dùngđể tạo ra sự đồng bộ và hỗ trợ giữa các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về quyền đối với bất động sản liền kề ở nước ta hiện nay. 174 KẾT LUẬN Bảo vệ quyền lợi NTD là vấn đề vô cùng quan trọng góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Bởi vậy, bảo vệ quyền lợi NTD luôn được các quốc gia, các tổ chức quốc tế quan tâm. Ở Việt Nam, bảo vệ quyền lợi NTD được xác định là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Mặc dù, các tổ chức bảo vệ NTD đã có những hoạt động rất tích cực nhưng vẫn cần khắc phục những khó khăn, bất cập về quy định pháp luật, về thực hiện bảo vệ NTD của các tổ chức xã hội mà đặc thù là Hội Bảo vệ NTD. Để Hội bảo vệ NTD thực sự trở thành một thiết chế quan trọng, có hiệu quả trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD như một số nước trến thế giới và trong khu vực Đông Nam Á, theo tôi Chính Phủ, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và bản thân NTD phải thực sự quan tâm, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Các Hội bảo vệ NTD phải đổi mới phương thức hoạt động, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện tốt vai trò là tổ chức đại diện cho quyền lợi của NTD trong phạm vi cả nước và ở từng địa phương. 175 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Lã Trường Anh (2018), “Một số vấn đề về tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam”. Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Số 10/2018. 2. Lã Trường Anh (2018), “Vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 11/2018. 176 TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TÀI LIỆU TIẾNG ANH 1. A. Brooke Overby, An Institutional Analysis of consumer Law. 2. Bryan A.Garner, Editor in chief, Black’s Law Dictionary, Deluxe Seventh edition, 1999 by West group, p.312. 3. Bryan A.Garner, Editor in chief, Black’s Law Dictionary, Deluxe Seventh edition, 1999 by West group, p.311. 4. Commission of the European Communities, Green Paper on Consumer collective redress, Brussels, 27/11/2008. 5. Committee on Consumer Policy - Directorate for Science, Technology and Industry-OECD, Best Practices for Consumer Policy: Report on the Effectiveness of Enforcement Regimes. 6. Directive 98/27/EC of the European Parliament and of the Council of 19 May 1998 on injunctions for the protection of consumers' interests. 7. E.Thomas Garman Economic Issues in America, Fifth Edition, Dame Publications, Inc, Houston, TX, 1997, p.3 8. "Public Papers of the Presidents of the United States" Office of the Federal Register, National Archives and Records Administration, USA 2005, trang 235. 9. The United Nations Guidelines on Consumer Protection (as expanded in 1999). 10. United Nations (2003), United Nations guidelines for consumer protection. B. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 11. Nguyễn Thị Vân Anh (2012), Bàn về một số quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD, Tạp chí Luật học số 12/2012, tr. 3-7. 12. Nguyễn Thị Vân Anh (2011), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: "Nghiên cứu vai trò của Hội Bảo vệ người tiêu dùng trong việc bảo 177 vệ người tiêu dùng ở Việt Nam", Trường Đại học Luật Hà Nội. 13. Nguyễn Thị Vân Anh (2014), Đề tài NCKH cấp Bộ: "Tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam", Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp, Hà Nội. 14. Nguyễn Thị Vân Anh (2012) , Vai trò của Hội bảo vệ người tiêu dùng trong bảo vệ người tiêu dùng, Nxb Chính trị quốc gia, 263tr. 15. Vũ Thị Lan Anh (2014), Chuyên đề Đề tài cấp Bộ: "Thực trạng năng lực và giải pháp tăng cường năng lực của hệ thống Tòa án trong công tác thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng", Viện Khoa học Pháp lý. 16. Lê Thanh Bình (2015), Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam, Chính trị quốc gia. 17. Chính phủ (2008), Nghị định 55/2008/NĐ- CP ngày 24 tháng 4 năm 2008 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 18. Chính phủ (2011), Nghị định 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ người tiêu dùng. 19. Chính phủ (2011), Nghị định 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 20. Cục quản lý cạnh tranh – Bộ Thương mại (2006): Sổ tay công tác bảo vệ người tiêu dùng, Nxb. Chính trị quốc gia. 21. Nguyễn Trọng Điệp (2015), Tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 31, số 2, tr.41. 22. Thảo luận của ThS. Viên Thế Giang tại Hội Thảo về Các tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, cộng đồng và quyền con người. 178 23.Giáo trình “Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”(2012), ĐH.Luật Hà Nội , Tr.7. 24. Lê Hồng Hạnh (2010), Luật bảo vệ người tiêu dùng có nên quy định tổ chức là người tiêu dùng?, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 20, tr. 24 – 28. 25. Phạm Văn Hảo (2017), Chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, Tạp chí Luật học, Số 5-2017 (204), tr. 21-33. 26. Trần Trí Hoằng (1999), “Bàn về tiêu dùng của chủ nghĩa xã hội”, Nxb.Chính trị quốc gia, Tr.7 27. Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (2009), Báo công tác tư vấn giải quyết khiếu nại của văn phòng Chính phủ khiếu nại của người tiêu dùng ở phía Nam, Tp. Hồ Chí Minh. 28. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), “ Thực tiễn hoạt động của tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sau một năm Luật có hiệu lực - Một số vấn đề đặt ra”, Tham luận tại hội thảo Nhìn lại một năm triển khai thực hiện Luật BVQLNTD do Bộ Công Thương và VCCI tổ chức ngày 18/7/2012 tại Hà Nội. 29. Đặng Vũ Huân (2005), Pháp luật và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng tháng 1/ 2005, Hà Nội. 30. Nguyễn Việt Hùng, Delia Grace, Trần Thị Tuyết Hạnh, Phạm Đức Phúc, Marcel Tanner (2013), Đánh giá nguy cơ trong quản lý an toàn thực phẩm tại Việt Nam. Nghiên cứu bằng chứng cho chính sách, Ấn bản khu vực Đông Nam Á, Số 5, Thái Lan. 31. Nguyễn Hữu Huyên (2017), Kinh nghiệm pháp luật của Pháp và EU về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ( ngày 06/07/2017) 179 32. Đinh Thế Hưng (2010), Bảo vệ người tiêu dùng bằng pháp luật hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng Quốc hội, Số 10/2010, tr. 38 - 42. 33. Bùi Nguyên Khánh (2010), Phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ở Việt Nam hiện nay - Hiện thực và triển vọng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Số 11), tr. 44-52. 34. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948. 35. Indonesia (1999), Luật Bảo vệ người tiêu dùng Inđônesia ban hành ngày 20/4/1999. 36. Đinh Thị Mỹ Loan, Hội Bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta hiện nay – Thực trạng hoạt động và định hướng đổi mới, Hội thảo khoa học “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng – kinh nghiệm quốc tế, thực trạng và triển vọng ở Việt Nam” của Viện Nhà nước và Pháp luật, 2009 37. Đinh Thị Mỹ Loan (2007): Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Báo cáo phúc trình đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 38. Ý kiến ông Phùng Đắc Lộc, Tổng thư ký Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, tại Hội thảo: “Nhìn lại một năm triển khai thực hiện Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cùng Bộ Công thương tổ chức ngày 18-7-2012, tại Hà Nội. 39. Lê Thị Hải Ngọc (2017), Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. 40. Ngô Thị Út Nguyên (2012), Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội. 180 41. Nguyễn Như Phát (2009), Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật bảo vệ người tiêu dùng, TC Nhà nước và Pháp luật, số 2/2010. 42.Nguyễn Như Phát (2010), Luật bảo vệ người tiêu dùng trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Pháp ngữ khu vực: "Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: từ hai góc nhìn Á-Âu", Hà Nội, tr. 10-18. 43. Nguyễn Như Phát chủ nhiệm (2009), Đề tài cấp bộ: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng ờ nước ta”, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. 44. Hoàng Phê chủ biên (1997), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển tiếng Việt/ 1997, tr 985. 45. Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 46. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa Luật, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb.Quốc gia Hà Nội, tr.226 47. Đinh Ngọc Vượng (2008), Bảo vệ quyền của NTD ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9/2008, Hà Nội. 48. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng – kinh nghiệm quốc tế, thực trạng và triển vọng ở Việt Nam”(2009), do ISL và KAS tổ chức tại TP.HCM ngày 16-17/11/2009 49. Phòng Thông tin-Tư liệu- Thư viện, Viện Nhà nước và Pháp luật (1999), Tìm hiểu Luật bảo vệ NTD các nước và vấn đề bảo vệ NTD ở Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội. 50. Nguyễn Văn Thành (2011), Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của một số nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với việc xây dựng Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ. 51. Nguyễn Thị Thư (2014), Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ, 2014. 181 52. Nguyễn Minh Thư (2011), Một số hạn chế trong việc bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 5-2011. 53. Từ điển bách khoa Việt Nam (2005),Tập 4, Nxb Từ điển bách khoa, tr.467. 55. Đinh Thị Hồng Trang (2014), Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Dân chủ - Pháp luật, Số 273. 56. Trần Thị Trang (2014), Chuyên đề Đề tài cấp Bộ: "Thực trạng năng lực và giải pháp tăng cường năng lực của Bộ Y tế trong công tác thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng", Viện Khoa học Pháp lý. 57. Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Nguyễn Như Ý chủ biên (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, tr.1640. 58. Viện Khoa học pháp lý, “Cơ chế pháp lý bảo vệ NTD: Thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế ”(2007), Thông tin khoa học pháp lý số 4+5/2007, tr. 6. 59. Từ khi thành lập đến nay, Điều lệ hoạt động của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, hiện nay, bản Điều lệ mới nhất của Hội được thông qua năm 2006 và được Bộ Nội vụ phê duyệt theo Quyết định số 868/QĐ-BNV ngày 24-5-2006. B. WEBSITE 60. Phạm Phương Đông, Bảo đảm quyền của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp, Tạp chí Cộng Sản online: truy cập ngày 16/12/2018 61. Đinh Thị Mỹ Loan, Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, Tạp chí Cộng sản online: truy cập 20 tháng 8 năm 2018. 182 62. Ths.Nguyễn Ngọc Sơn, Người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử: truy cập 16/12/2018. 63. 166503.html, truy cập 64. The czech social doctrine, id=503&format=raw, truy cập 28 tháng 8 năm2018 65.http:www.consumersinternational.org/campaigns/wcrd/whatiswcrd. html, p.1 (06-Feb-02). Ngày 15/3 sau này được lấy làm ngày quyền của NTD Thế giới (world consumer Rights day). 66. eID=89655 67. tieu-dung-lua-chon-im-lang--11125-502.html 68. 69. nguoi-tieu-dung-o-viet-nam-ts-phan-huy-hong-dh-luat-tp-hcm 70. 71. n=Consumer%20Information&Parent ID=0&Parent=1 &check=0 72.https://www.inc-conso.fr/content/french-national-institute- consumer-affair 73. dung-can-rang-chiu-thiet.html. Truy cập ngày 24/7/2012 74. https://vov.vn/xa-hoi/vi-pham-quyen-loi-nguoi-tieu-dung-dang-o- muc-bao-dong-181759.vov 183 75. nguoi-ngo-doc-thang-kien 20150817204542617.htm 76. https://baotintuc.vn/thi-truong-tai-chinh/hoi-bao-ve-nguoi-tieu- dung-lo-ngai-van-nan-hang-nhai-hang-gia-20180801003051590.htm 77. https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/vu-con-cung-cuc- truong-va-2-pho-cuc-truong-bi-xem-xet-xu-ly-481394.html 78. ban-nguoi-tieu-dung-luon-thua.htm truy cập ngày 19/6/2012 79. 80. truong/De-lam-tot-cong-tac-bao-ve-quyen-loi-nguoi-tieu-dung-thi-can-co-su- no-luc-chung-cua-cac-co-quan-nha-nuoc-cong-dong-DN-cac-to-chuc-xa-hoi- cac-phuong-tien-thong-tin-dai-chung-va-cua-chinh-nguoi-tieu-dung-430/ 81. Internet Law – Consumer Liability for Unauthorized e-Fund Transfers, 82.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_trach_nhiem_cua_cac_to_chuc_xa_hoi_trong_bao_ve_quye.pdf
  • pdfTrichyeu_LaTruongAnh.pdf
Luận văn liên quan