Công cụ cơ bản nhất để Nhà nước thực hiện chức năng BVMT là hệ thống các
chính sách và pháp luật. Đó là cơ sở để xây dựng bộ máy Nhà nước về BVMT, xây
dựng các văn bản dưới luật để chỉ đạo, kiểm soát việc BVMT, ngoài ra nó còn có
tác dụng to lớn đối với việc ngăn chặn các hành vi làm tổn hại đến môi trường. Việc
BVMT của các quốc gia chỉ có thể thực hiện tốt khi có bộ luật chính xác, rõ ràng,
thống nhất, có tính khả thi cao. Tuy vậy, thực trạng hệ thống pháp luật BVMT và
thực trạng ô nhiễm môi trường vẫn diễn ra ở nước ta trong những năm qua cho thấy,
bên cạnh những thành công không thể phủ nhận, công tác BVMT của Việt Nam vẫn
còn nhiều bất cập khó khăn
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 172 trang
172 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 viện trợ sang chủ động hội nhập, sẵn sàng cùng tham gia, chia sẻ trách 
nhiệm và quyền lợi. Tăng cường đầu tư tài lực và nhân lực cho hợp tác quốc tế về 
môi trường, bố trí kinh phí để thực hiện các sáng kiến, các sự kiện do Việt Nam chủ 
trì, tiến tới cử đại diện Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế về môi trường. Xây 
140 
dựng chiến lược hợp tác quốc tế của ngành; xác định các định hướng hợp tác chiến 
lược, tập trung vào những vấn đề vừa giải quyết nhu cầu trong nước vừa đóng góp 
giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu và khu vực, nhất là chú trọng những vấn 
đề mới mà Việt Nam có lợi thế hiện nay. 
4.3. Nhóm giải pháp tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo ra sự 
đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường ở Việt 
Nam hiện nay 
4.3.1. Tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, tăng cường nhận thức và 
trách nhiệm bảo vệ môi trường 
Giải pháp đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, tăng cường nhận thức và trách 
nhiệm BVMT nhằm cung cấp kiến thức về BVMT, hiểu biết về môi trường, tình 
trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở các tỉnh, huyện, phường, xã khác nhau, tác 
động của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe con người, từ đó thức tỉnh ý thức trách 
nhiệm giữ gìn và BVMT từ trong mỗi người đến toàn xã hội. 
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, trong thời gian tới, trách nhiệm Nhà nước cần 
triển khai tốt các giải pháp sau: 
Một là, tăng cường nâng cao ý thức trách nhiệm BVMT trong các cấp lãnh 
đạo. BVMT là trách nhiệm của toàn xã hội, nhưng trách nhiệm trước hết thuộc về 
Nhà nước. Vì vậy, trước hết cần tăng cường giáo dục để nâng cao nhận thức và 
hành động về BVMT trong các cấp ủy Đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc, đoàn 
thể, các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, cần tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo 
từ Trung ương đến các cấp lãnh đạo ở tỉnh, huyện, thị trấn, xã để họ có kiến thức về 
môi trường. Để làm được điều này cần phải tổ chức các lớp tập huấn về phát triển 
bền vững, về mối quan hệ giữa con người và môi trường, mối quan hệ giữa môi 
trường với xã hội cho các cấp lãnh đạo. Cùng với việc phải làm thay đổi tư duy của 
các cấp lãnh đạo về BVMT, cần phải có những điều khoản quy định rõ trách nhiệm 
BVMT của các cấp lãnh đạo. Phải đưa vấn đề chỉ đạo, điều hành thực thi pháp luật 
BVMT là một trong những chỉ tiêu công tác thi đua, khen thưởng, đề bạt cán bộ 
lãnh đạo thuộc các bộ, ngành, địa phương. 
141 
Hai là, Nhà nước cần có nhận thức mới về môi trường cho phù hợp với giai 
đoạn hiện nay đó là, TNMT phải được đặt ngang hàng như một trụ cột trong phát 
triển quốc gia. Các vấn đề TNMT tích lũy trong thời gian dài không được giải quyết 
tốt sẽ tạo nên nguy cơ, thách thức cho quá trình phát triển tiếp tục. TNMT thậm chí 
còn phải được đặt ở vị trí trung tâm, có vai trò điều chỉnh trở lại đối với các trụ cột 
phát triển KT-XH. Thủ tướng chính phủ khẳng định: Việt Nam “không vì kinh tế 
mà hy sinh môi trường” thể hiện định hướng hành động quản lý quá trình phát triển 
bền vững đất nước theo tư duy mới về quản lý TNMT. 
Ba là, nâng cao ý thức trách nhiệm BVMT cho các doanh nghiệp, thời gian 
qua cho thấy, hầu hết các vụ vi phạm luật BVMT là do các doanh nghiệp. Một mặt, 
các doanh nghiệp đã lợi dụng kẽ hở của luật để xả thải vào môi trường chưa qua xử 
lý. Mặt khác, do họ chưa nhận thức được trách nhiệm của mình đối với việc BVMT, 
nên họ chính là lực lượng góp phần làm cho môi trường nước ta ô nhiễm, suy thoái 
nhanh. Để thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của nhiều doanh nghiệp trong 
BVMT, cần thực hiện một số biện pháp sau: 
Tổ chức các lớp đào tạo, nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp đối với môi trường theo từng nhóm đối tượng cho phù hợp. Đối với lãnh đạo 
doanh nghiệp như hội đồng quản trị, giám đốc cần tập trung nâng cao nhận thức về 
tăng trưởng xanh, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, về lợi ích kinh tế tổng thể 
từ việc đầu tư cho BVMT. Đối với nhóm đối tượng là cán bộ chuyên trách về 
BVMT thì nội dung các lớp bồi dưỡng nên tập trung vào những vấn đề xây dựng hệ 
thống QLMT nội bộ, những dự án sản xuất sạch, chi phí lợi ích của việc sản xuất. 
Phát triển mạnh mạng lưới tổ chức, trung tâm bồi dưỡng, về công nghệ sạch 
và sản xuất sạch, để hỗ trợ các doanh nghiệp. Đặc biệt, cần tăng cường tổ chức hoạt 
động nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về lợi ích kinh tế từ các dự án đầu tư 
công nghệ sạch hay sản xuất sạch so với các dự án đầu tư kiểm soát ô nhiễm tại các 
doanh nghiệp. 
Tổ chức tuyên truyền, tuyên dương và khen thưởng những doanh nghiệp thực 
hiện tốt các quy định về BVMT. Thực hiện dán nhãn sản phẩm thân thiện với môi 
trường, cho các sản phẩm sử dụng tiết kiệm nguồn năng lượng, tiết kiệm TNTN. Tổ 
142 
chức công khai thông tin về ô nhiễm và tình hình tuân thủ pháp luật về BVMT của 
doanh nghiệp với các đối tượng có liên quan như người dân, các tổ chức xã hội, 
người tiêu dùng, người đầu tư để gây sức ép với doanh nghiệp, buộc các doanh 
nghiệp phải thực hiện các biện pháp BVMT. 
Thể chế hóa các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với 
BVMT. Theo đó, cần ban hành nghị định của chính phủ về trách nhiệm của Nhà 
nước trong việc BVMT. Đồng thời, chính phủ sớm ban hành các chính sách khuyến 
khích các doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch, đặc biệt là khuyến khích các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ như các doanh nghiệp ở các làng nghề cùng góp vốn đầu tư hệ 
thống xử lý ô nhiễm theo phương thức Nhà nước và doanh nghiệp cùng làm. 
Bốn là, phát huy tinh thần của nông dân và toàn xã hội trong việc BVMT. Sự 
nghiệp BVMT trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn cần có sự đóng 
góp của nhiều người ở nhiều cấp, nhiều ngành, trực tiếp thực hiện các quyết định 
thành công chính là nông dân. Họ là người tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, trực 
tiếp lựa chọn công nghệ, áp dụng cho sản xuất. Nhưng thực tế nông thôn nước ta 
hiện nay cho thấy hầu hết nông dân chưa có ý thức đúng về vấn đề BVMT. Để nâng 
cao trách nhiệm của mình trong việc BVMT, Nhà nước phải tăng cường giáo dục, 
chủ trương, đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật BVMT tới từng người dân, 
nâng cao trình độ và năng lực làm chủ của nông dân trong việc BVMT. 
Muốn vậy, Nhà nước cần có kế hoạch đa dạng hóa các hình thức giáo dục, 
tuyên truyền về BVMT trong sản xuất nông nghiệp cho nông dân. Tổ chức nhiều 
lớp tập huấn về BVMT trong sản xuất nông nghiệp cũng như trong chăn nuôi. 
Tuyên truyền luật BVMT đến từng hộ gia đình ở nông thôn. Với những hộ gia đình 
sản xuất và nuôi trồng lớn cần hướng dẫn thực hiện cam kết BVMT. Hướng dẫn 
người dân cách sản xuất sạch trên các cơ sở đổi mới cách canh tác cũng như phục 
hồi những vùng đất đã bị ô nhiễm. Về lâu dài, cần chú trọng tới tầng lớp thanh, 
thiếu niên, đây là chủ nhân tương lai của nông thôn nói riêng và của đất nước nói 
chung. Cần đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục ở tất cả các 
cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân, đảm bảo duy trì sự thường xuyên, liên 
tục để hình thành ý thức BVMT cho mỗi học sinh, trên cơ sở đó sẽ hình thành ý 
143 
thức tự giác trong việc BVMT. Cần xây dựng, đầu tư cho các chương trình, chuyên 
mục về môi trường trên các phương tiện thông tin như đài phát thanh truyền hình 
các cấp, báo chí các loại phương tiện thông tin đại chúng khác. 
Trường học và gia đình là nơi thuận lợi nhất để có thể tiến hành công tác giáo 
dục môi trường. Đặc biệt là ở nông thôn, giáo dục môi trường cần phải bắt đầu ngay 
từ trong gia đình. Vai trò của người mẹ là vô cùng quan trọng vì ở nông thôn Việt 
Nam, phụ nữ đang là lao động chính trên cơ sở của TNTN như làm ruộng, khai thác 
rừng, chăn nuôi... Để đưa kiến thức về môi trường thấm dần, thấm sâu vào trong 
nhân dân một cách tự giác, cần mở rộng thêm và đẩy mạnh các hoạt động tuyên 
truyền, cổ động về môi trường. Chẳng hạn như tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi 
trường, tổ chức các phong trào văn hóa, văn nghệ mà nội dung gắn với việc BVMT, 
nhân dịp kỷ niệm ngày môi trường thế giới, ngày nước sạch vệ sinh môi trường, 
ngày làm cho thế giới sạch hơn, ngày đa dạng sinh học... Tạo cơ hội, điều kiện để 
người dân tiếp cận thường xuyên với những thông tin về môi trường, giúp cho việc 
BVMT được chủ động, hiệu quả. Trách nhiệm Nhà nước cũng cần động viên, 
hướng dẫn nhân dân hình thành lối sống thân thiện với môi trường: Sống sạch, đảm 
bảo vệ sinh, có ý thức giữ gìn vệ sinh công cộng và biết cách sản xuất, tiêu dùng 
hợp lý, không gây ô nhiễm môi trường, xây dựng văn hóa tiêu dùng văn minh, tiết 
kiệm, chống lãng phí, sống hài hòa, hòa quyện với thiên nhiên. Thường xuyên đẩy 
mạnh các phong trào, hoạt động, đoàn thể, quần chúng trong BVMT như phong trào 
xanh - sạch - đẹp, hay tuần lễ nước sạch và vệ sinh môi trường... Phát động cần có 
tổng kết, đánh giá, khen thưởng, nhằm cổ vũ, động viên những đơn vị, cá nhân có 
thành tích xuất sắc trong phong trào, đồng thời nhắc nhở những đơn vị, cá nhân yếu 
kém thực hiện xây dựng và áp dụng tiêu chí môi trường. 
4.3.2. Nhà nước phát huy trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội trong 
việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam 
BVMT là nhiệm vụ rất phức tạp, có tính đa ngành và liên quan giữa các khu 
vực trong nước và thế giới. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp 
ủy Đảng, sự thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị 
- xã hội như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữTuy 
144 
nhiên, sau nhiều năm việc BVMT ở nước ta gặp nhiều khó khăn và bất cập, Nhà 
nước chưa xây dựng được các quy định pháp lý khuyến khích các tổ chức chính trị - 
xã hội, tham gia vào công tác BVMT. Trong lĩnh vực xử lý, phục hồi các điểm ô 
nhiễm môi trường, các tổ chức chính trị - xã hội, chưa thấy rõ vai trò, trách nhiệm 
về BVMT. Để phát huy được trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội trong 
giai đoạn tới. Theo chúng tôi Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau: 
Một là, Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư nhiều hơn trong 
công tác BVMT. Đẩy mạnh việc xã hội hóa công tác BVMT, huy động sự tham gia 
của toàn xã hội vào sự nghiệp BVMT của đất nước. Nói cách khác, xã hội hóa công 
tác BVMT là biến các chủ trương, chính sách, các luật BVMT thành nghĩa vụ, trách 
nhiệm và quyền lợi của mọi tầng lớp trong xâ hội, từ những nhà hoạch định chính 
sách, những nhà quản lý cho tới mọi người dân ở mọi lứa tuổi trong xã hội, thu hút 
sự tham gia rộng rãi hơn của các tổ chức chính trị - xã hội và các hiệp hội BVMT. 
Ý nghĩa to lớn của công tác xã hội hóa công tác BVMT là ở chỗ, mọi đối tượng 
trong xã hội từ trẻ em cho tới người già, từ người sản xuất đến người tiêu dùng đều 
ý thức được trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc giữ gìn và 
BVMT. Từ nhận thức đi đến hành động. Mọi người sẽ chuyển từ lối sống, nếp nghĩ, 
thói quen của người sản xuất tiểu nông, tự do tùy tiện, sang lối sống, nếp nghĩ theo 
hướng văn minh, tôn trọng môi trường. Để BVMT cần phải có đầu tư nguồn vốn đủ 
mạnh, do đó tăng cường đầu tư vốn cho các tổ chức chính trị - xã hội và cả hiệp hội 
để cho các tổ chức này làm tốt trách nhiệm trong BVMT là việc làm cần thiết. Tuy 
nhiên, các chính sách về vốn mà Nhà nước đưa ra cần công khai, rõ ràng, đặc biệt 
Nhà nước cần có các cơ chế kiểm tra, giám sát nguồn vốn để được sử dụng đúng 
mục đích, có hiệu quả. 
Hai là, trong điều kiện vốn cấp cho công tác BVMT còn hạn chế, Nhà nước 
cần phải tổ chức các buổi truyền thông, các hội nghị, hội thảo, các diễn đàn để kêu 
gọi các tổ chức, các hiệp hội đầu tư vào các dự án, các chương trình, các hoạt động 
BVMT, tạo điều kiện thuận lợi về các chính sách, các tổ chức đóng góp tích cực 
vào công tác BVMT. 
145 
Ba là, Nhà nước cần tăng cường tiếp cận thông tin, đối thoại với các tổ chức, 
hiệp hội để họ nhận biết sâu sắc vai trò, vị trí, quyền lợi, trách nhiệm của mình 
trong việc BVMT. Nhà nước cần ở rộng, tăng cường các hình thức tuyên truyền, 
cung cấp các thông tin về chất lượng môi trường cho cộng đồng, công khai thông 
tin, số liệu liên quan đến tình hình ô nhiễm môi trường trên các phương tiện thông 
tin đại chúng để cộng đồng nhận thức đúng về vai trò và trách nhiệm của mình 
trong hoạt động BVMT. Xây dựng chính sách huy động cộng đồng tham gia công 
tác BVMT, giám sát thực thi pháp luật BVMT. Xây dựng các quy định cụ thể về 
quyền lợi và nghĩa vụ của cộng đồng. Xác lập cơ chế khuyến khích, các chế tài hành 
chính sự nghiệp và thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với tất cả các cơ sở 
nhà nước và tư nhân khi tham gia BVMT. Tăng cường vai trò của cộng đồng trong 
việc giám sát thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật về BVMT ở địa 
phương. Khuyến khích ở rộng các phong trào tình nguyện tham gia trong công tác 
BVMT. 
Bốn là, tăng cường thể chế, cơ chế chính sách cho các tổ chức chính trị và các 
hiệp hội trong lĩnh vực BVMT. Để thực hiện được nhiệm vụ BVMT, trong cộng 
đồng đã lập ra các tổ chức khác nhau với vai trò là “hạt nhân” và mang tính tự 
quản” dưới hình thức như câu lạc bộ, ban điều hành, tổ, nhóm, hội phụ nữ, hội cựu 
chiến binh theo sự hướng dẫn và chỉ đạo từ các tổ chức đoàn thể của mình. Nhà 
nước cần có những văn bản pháp lý công nhận quyền của cộng đồng tham gia vào 
các công việc chung của xã hội. Xây dựng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, 
chi tiết hơn về các chính sách ưu đãi về đất đai, về vốn, về thuế, về tín dụng cho các 
hoạt động BVMT cụ thể. Mức độ hưởng lợi của cộng đồng từ các chính sách môi 
trường cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự tham gia của cộng đồng. Vì vậy, để đảm 
bảo cho các quy định về BVMT được thực thi thì các quy định đó phải cụ thể, gắn 
bó, sát với thực tế cuộc sống của cộng đồng. Cộng đồng dân cư phải biết rõ trách 
nhiệm và quyền lợi của mình khi tham gia hoạt động BVMT. Xuất phát trừ nét đặc 
thù của tính cộng đồng, cần chú trọng phát huy vai trò chủ động và tích cực của các 
đoàn thể xã hội như Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Hội cự chiến binh, Hội nông 
146 
dân.. trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các quy định của địa phương, cũng 
như các quy định về BVMT của Nhà nước. 
Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách để xây dựng mối quan hệ phối hợp 
giữa các tổ chức chính trị - xã hội với nhau để thiết lập sự đồng thuận và cùng 
chung mục đích BVMT. Đây là yêu cầu cần thiết đảm bảo tạo ra nguồn lực đủ lớn 
để giải quyết các vấn đề môi trường trong điều kiện kinh phí đầu tư cho BVMT còn 
hạn hẹp. Nhà nước xây dựng được mạng lưới rộng rãi các tổ chức, hiệp hội tham 
gia BVMT, trên cơ sở đó, kết nối các cơ quan, đơn vị, cá nhân, cộng đồng trong và 
ngoài nước nhằm góp phần phát huy hiệu quả tổng hợp nguồn lực phục vụ cho việc 
duy trì bền vững mô hình cộng đồng tham gia BVMT. 
Năm là, để phòng, chống lợi ích nhóm tiêu cực, tại cơ sở đạt được hiệu quả 
cao, theo chúng tôi, ngoài các giải pháp vĩ mô từ Trung ương, mỗi địa phương cần 
có cách làm phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, trong đó có tính đến 
phong tục, tập quán, tâm lý người dân, nhất là tại những nơi có nhiều cộng đồng 
dân tộc sinh sống. 
Thứ nhất, thực hiện tốt hơn nữa chính sách cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, 
công chức không chỉ có năng lực chuyên môn, mà còn có nhân cách và bản lĩnh 
chính trị, biết chia sẻ lợi ích với đại bộ phận nhân dân tại cơ sở, cùng nhân dân phát 
hiện những biểu hiện lợi ích nhóm ngay trong điểm xuất phát của nó. Thứ hai, công 
khai hóa và minh bạch hóa các quyết sách liên quan thiết thực đến đời sống nhân 
dân theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, khắc phục tính hình 
thức và tính nước đôi trong việc triển khai nguyên tắc này. Thứ ba, vận dụng chính 
sách dân tộc, tôn giáo một cách tinh tế, uyển chuyển, tạo nên sự đồng thuận xã hội 
sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân và các cộng đồng dân cư để BVMT, từ đó 
thúc đẩy và nhân rộng tính tích cực chính trị của người dân. Khi nhân dân tại cơ sở 
ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình, thì chính họ sẽ hăng hái tham gia phát 
hiện những tiêu cực và lổ hổng trong công tác quản lý, ngăn chặn sự thao túng của 
các nhóm lợi ích, góp phần làm lành mạnh hóa và ổn định môi trường xã hội. Thứ 
tư, tăng cường hệ thống phản biện xã hội, bảo vệ người dân trong cuộc đấu tranh 
chống tiêu cực, đồng thời xử lý nghiêm những phần tử trục lợi trên mồ hôi nước 
147 
mắt của người dân, tạo nên “thế trận lòng dân” một cách thường xuyên, để vô hiệu 
hóa tình trạng, cấu kết, móc ngoặc giữa các nhóm lợi ích tại địa phương tàn phá môi 
trường. 
Sáu là, Quyền và trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong BVMT phải được 
thể hiện rõ ràng hơn hiện hành. Theo đó, Nhân dân và cộng đồng dân cư có quyền 
được cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác thông tin môi trường, chính sách, pháp 
luật về BVMT; bảo đảm các điều kiện để tham gia và giám sát các hoạt động 
BVMT theo quy định về pháp luật; tham vấn, tư vấn, đối thoại đối với chính sách, 
luật pháp, chương trình, dự án, đề án có liên quan đến BVMT theo quy định của 
pháp luật. Đại diện cộng đồng dân cư trên địa bàn chịu tác động môi trường của dự 
án, cơ sở có quyền yêu cầu chủ dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đối thoại 
trực tiếp hoặc gián tiếp về trách nhiệm BVMT; đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền tiến hành kiểm tra, thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu hành vi vi phạm pháp 
luật về BVMT, cung cấp thông tin môi trường theo quy định của pháp luật; được 
làm chứng trong tố tụng trọng tài, toà án giải quyết tranh chấp về môi trường theo 
quy định của pháp luật. Đại diện cho cộng đồng dân cư là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc 
cấp xã hoặc Ban công tác Mặt trận thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã 
148 
Tiểu kết chương 4 
Để góp phần nâng cao hiệu quả trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT, 
trong chương 4 luận án đã phân tích một số nhóm giải pháp nhằm khắc phục những 
hạn chế trong việc thực hiện trách nhiệm Nhà nước trong BVMT ở nước ta hiện 
nay. Các nhóm giải pháp mà luận án nêu ra, bao gồm: 
Nhóm giải pháp nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong xây dựng hệ thống 
pháp luật và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cho việc BVMT ở việt nam hiện nay. 
Nhóm giải pháp tăng cường trách nhiệm, hiệu lực quản lý, điều hành của bộ 
máy Nhà nước trong BVMT ở việt nam hiện nay. 
Nhóm giải pháp tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo ra sự 
đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc BVMT ở việt nam hiện nay. 
Trong các giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao trách nhiệm của Nhà nước 
Việt Nam trong việc BVMT. Tác giả luận án cho rằng, giải pháp quan trọng hơn cả 
là hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ QLNN về BVMT 
ở các cấp làm công tác BVMT đáp ứng yêu cầu mới hiện nay. Bởi vì, hiện nay 
Đảng và Nhà nước ta đã có các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng 
đắn và rõ ràng trong việc BVMT, các văn bản pháp luật khá đầy đủ và phủ kín hầu 
hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều hạn chế, còn nhiều khó khăn, thậm 
chí trong một số trường hợp còn kém hiệu quả ở việc thực hiện trách nhiệm của 
Nhà nước trong BVMT. Xét đến cùng việc gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi 
trường, biến đổi khí hậu hiện nay phần lớn chính là con người gây nên. Các chính 
sách, chủ chương đường lối, pháp luật cũng là do con người tạo ra. Vì vậy, hoàn 
thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy QLNN về BVMT và xây dựng đôi ngũ cán bộ có đủ 
trình độ và phẩm chất đạo đức làm công tác BVMT là việc làm cần thiết của Nhà 
nước Việt Nam trong tình hình hiện nay. 
149 
KẾT LUẬN 
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác BVMT, coi đây là một nội dung 
quan trọng không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch của các cấp, 
các ngành. Trước tình trạng môi trường đang bị suy thoái như hiện nay, buộc nhân 
loại chúng ta nói chung và Việt Nam nói riêng phải có nhận thức sâu sắc hơn ở tầm 
triết học, bởi nhận thức trên cơ sở đó sẽ giúp cho hành động chúng ta trong mối 
quan hệ cộng sinh hài hòa lâu bền với tự nhiên. Muốn xác lập được mối quan hệ 
cộng sinh giữa con người và tự nhiên, thì cần giải quyết tốt mối quan hệ con người 
với con người trong xã hội. 
Để được sống trong môi trường trong lành và phát triển bền vững, con người 
phải xác lập được phương thức sống hài hòa và thân thiện với môi trường, thích 
nghi với môi trường tuân theo các quy luật khách quan của giới tự nhiên. Trong quá 
trình đó, con người với tư cách là chủ thể hành động cần phải ý thức được hành 
động của mình và thực thi các hành động một cách có trách nhiệm. Với một tinh 
thần như vãy luận án đi sâu nghiên cứu về trách nhiệm Nhà nước trong BVMT, cụ 
thể là Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra một số luận điểm cơ bản sau: 
Một là, vấn đề môi trường là đề tài rộng, được tiếp cận dưới các góc độ khác 
nhau và nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Các 
công trình nghiên cứu về môi trường, trách nhiệm Nhà nước trong BVMT đã đạt 
được nhiều kết quả quan trọng. Những kết quả đó đã từng bước góp phần làm sáng 
tỏ nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn về trách nhiệm của Nhà nước trong việc 
BVMT, góp phần làm luận cứ khoa học để hoàn thiện đường lối của Đảng, chính 
sách pháp luật của Nhà nước ta trong việc thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong 
việc BVMT trong thời gian tới. 
Hai là, luận án làm rõ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm, trách nhiệm của 
Nhà nước trong việc BVMT, tính tất yếu của trách nhiệm Nhà nước trong việc 
BVMT và những nội dung của trách nhiệm Nhà nước trong BVMT. Môi trường là 
những vấn đề mang tính khách quan dứt khoát sẽ xẩy ra dù muốn hay không, tuy 
150 
nhiên môi trường diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào chủ thể, các nhân tố tác 
động đến trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT. 
Thứ ba, trong những năm qua Nhà nước Việt Nam luôn thể hiện trách nhiệm 
của mình trong công tác BVMT bằng nhiều cách khác nhau và đạt được một số 
thành tựu như: xây dựng và ban hành nhiều chính sách pháp luật BVMT, nhiều văn 
bản pháp luật từ trung ương tới địa phương ngày càng được hoàn thiện và đi vào 
cuộc sống, Nhà nước tăng cường đầu tư vốn; KH&CN trong công tác BVMT năm 
sau cao hơn năm trước; công tác đào tạo nguồn nhân lực trong công tác BVMT 
ngày càng đông về số lượng và ngày càng hoàn thiện về chất lượng; công tác thanh 
tra, giám sát trong BVMT ngày càng phát huy vai trò và trách nhiệm của mình 
trong hoạt động BVMT, mang lại hiệu quả thiết thực; công tác đối ngoại ngày càng 
được mở rộng và chủ động hơn trong vấn đề BVMT. Bên cạnh đó ý thức trách 
nhiệm về BVMT của cơ quan Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, ngày 
càng được nâng cao, góp phần cải thiện môi trường ngày càng tốt hơn. 
Thứ tư, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện trách nhiệm BVMT 
của Nhà nước trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, điều này thể hiện ở chỗ: 
hệ thống pháp luật còn nhiều sự chồng chéo, chưa chặt chẽ và thiếu tính khả thi, 
thiếu các biện pháp chế tài xử lý vi phạm về môi trường; đội ngũ cán bộ QLMT còn 
mỏng và yếu, năng lực cán bộ chủ chốt trong xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế 
hoạch về BVMT nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, một số 
đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra môi trường chưa thể hiện hết trách 
nhiệm của mình, đầu tư KH&CN cho BVMT vừa thiếu vừa lạc hậu chưa đáp ứng 
kịp cho công tác BVMT trong tình hình mới; Công tác giáo dục tuyên truyền mang 
tính thời vụ, chưa được thường xuyên, chưa đi sâu vào quần chúng, chưa tạo ra sự 
chuyển biến đột phá trong nhận thức của nhân dân về việc BVMT; Nhà nước chưa 
thúc đẩy, phát huy được hết vai trò, trách nhiệm của các tổ chức - chính trị, xã hội 
trong việc BVMT, dẫn đến nhiều tổ chức, cá nhân thờ ơ, thiếu trách nhiệm, tìm 
cách thoái thác trách nhiệm với môi trường; Trong hợp tác quốc tế về BVMT một 
số các cấp, các ngành nhận thức có lúc chưa đầy đủ, chưa xây dựng được chiến lược 
hợp tác quốc tế về BVMT cho từng ngành. 
151 
Thứ năm, để nâng cao trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam trong việc BVMT 
trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp khác 
nhau với sự tham gia của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân. Trong phạm vi của 
luận án, chúng tôi mạnh dạn đưa ra ba nhóm giải pháp chính, một là: Nhóm giải 
pháp nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong xây dựng hệ thống pháp luật và 
hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cho BVMT ở việt nam hiện nay; hai là: Nhóm 
giải pháp tăng cường trách nhiệm, hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy Nhà 
nước trong BVMT ở việt nam hiện nay; ba là: Nhóm giải pháp tăng cường trách 
nhiệm của Nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện 
tốt việc BVMT ở việt nam hiện nay. Các nhóm giải pháp này tập trung vào những 
vấn đề cơ bản nhằm nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT ở Việt 
Nam hiện nay. Đây cũng chính là mục đích và nhiệm vụ luận án đã đặt ra và tìm 
hướng giải quyết. 
Vấn đề trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT ở Việt Nam là một nội 
dung phong phú, đa dạng và phức tạp. Những vấn đề mà luận án nghiên cứu mới 
chỉ là tiếp cận bước đầu, trên thực tế còn nhiều nội dung mà tác giả còn phải tiếp tục 
nghiên cứu, luận giải và làm rõ hơn trong thời gian tới. 
152 
DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH 
KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 
NCS: VŨ KIM ĐIỀM 
Khóa: 2017 - 2020 
1.Vũ Kim Điềm (2019), “Trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ môi trường – 
nhìn từ phương diện lý luận”, Tạp chí Triết học, số 3. 
2.Vũ Kim Điềm (2020), “Trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ môi trường ở 
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 1. 
3.Vũ Kim Điềm (2019), “Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ 
môi trường”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 25. 
153 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Quý An (1992), “Những quan điểm chủ yếu về môi trường và phát triển tại Hội 
nghị Rio 1992”, Tạp chí Thông tin Môi trường, (3), tr 19-25. 
2. Trần Lê Bảo (chủ biên) (2001), Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Văn hóa – Thông 
tin, Hà Nội. 
3. Lê Huy Bá (2004), Môi trường, Nxb Đại học quốc gia, Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
4. Báo cáo (1992), của CNXH Việt Nam tại hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và 
phát triển, Brazin 1992, Hà Nội. 
5. Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại hội nghị nhóm tư vấn nhà tài trợ Việt Nam 
(2006), Việt Nam: hướng đến tầm cao mới, Hà Nội 
6. Báo cáo phát triển Việt Nam (2010), Quản lý tài nguyên thiên nhiên, Hà nội 
7. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Báo cáo công tác bảo vệ môi trường giai 
đoạn 2011 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2016 – 2020, Nxb Tài 
nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam. 
8. Hoàng Hữu Bình (chủ biên) (2006), Những tác động của yếu tố văn hóa- xã hội 
trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên - môi trường trong quá trình công nghiệp 
hóa- hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
9. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 36/CT –CW ngày 25/6/1998 về tăng cương công tác 
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, 
www.cpv.org.vn. 
10. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết 41/NQ-TW bảo vệ môi trường trong thời kỳ công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, www.cpv.org.vn 
11. Bộ Chính trị (2013), Nghị quyết số 24-NQ/TW khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi 
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT. 
12. Bộ Chính trị (2013), Nghị quyết số 35/NQ-CP về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh 
vực BVMT. 
154 
13. Bộ Chính trị (2009), Chỉ thị số 29/CT –CW về tiếp tục đẩy fmạnh thực hiện nghị 
quyết 41/NQ-TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước, www.tuyengiao.vn. 
14. Bộ Chính trị (2016), Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2016 về một số 
nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường. 
15. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển nhân lực 
Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, Hà Nội. 
16. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Tổng hợp các số liệu phát triển kinh tế- xã hội các 
năm, Hà Nội, tại website www.mpi.gov.vn. 
17. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Tổng hợp các số liệu phát triển kinh tế- xã hội các 
năm, Hà Nội, www.mpi.gov.vn. 
18. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, 
công bằng và dân chủ, Nxb Ngân hàng thế giới. 
19. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Nghiên cứu các quy định pháp luật về môi 
trường trong tiến trình hội nhập với các tổ chức quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội. 
20. Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2010), Báo cáo môi trường quốc gia Website: 
htt://vea.gov.vn Bộ Tài nguyên và Môi trường. 
21. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1995), Viện dự báo chiến lược khoa học 
và công nghệ Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
22. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1995), Báo cáo hiện trạng môi trường 
Việt Nam năm 1995, Hà Nội. 
23. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1996), Hiện trạng môi trường Việt Nam 
năm 1996, Hà Nội. 
24. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1998), Hiện trạng môi trường Việt Nam 
năm 1998 đến nay, Hà Nội. 
25. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1993), Trung tâm Thông tin tư liệu Khoa 
học và Công nghệ Quốc gia, Hà Nội, tr.8. 
26. Các công ước quốc tế và bảo vệ môi trường (1995) (Việt – Anh), Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
155 
27. Nguyễn Huy Cẩn (2006), Thực trạng môi trường: vài số liệu đáng quan tâm về môi 
sinh toàn cầu và môi sinh ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
28. Chính phủ Việt Nam (2017), Báo cáo của Chính phủ về công tác BVMT. 
29. Chính phủ Việt Nam (2003), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 
và định hướng đấn năm 2020, www.chinhphu.vn 
30. Chính phủ Việt Nam (2011), Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030, 
www.chinhphu.vn 
31. Chính phủ Việt Nam (2011), Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu, www.c 
hinhphu.vn 
32. Chính phủ Việt Nam (2012), Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến năm 
2020, tầm nhìn đến năm 2030, www.chinhphu.vn 
33. Chính phủ Việt Nam (2012), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, 
ww.chinhphu.vn 
34. Chính phủ Cộng hòa Nam Phi (2011), Hội nghị quốc tế Động thái dân số, biến đổi 
khí hậu và phát triển bền vững, tổ chức tại Pretoria, Cộng hòa Nam Phi. 
35. Nguyễn Thế Chinh, Lại Văn Mạnh (2017), “Chính sách Tài nguyên và Môi trường” 
Tạp chí Môi trường, (4) 
36. Nguyễn Trọng Chuẩn (1977), “Chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong 
quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí triết học, (2). 
37. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của 
thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
38. Trần Văn Chứ (2019), “Còn nhiều hạn chế trong quản lý nhà nước về môi trường”, 
Báo Kiểm toán (35). 
39. Nguyễn Viết Chức (chủ biên) (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi 
trường thiên nhiên, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 
40. Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (2004), Định hướng chiến lược phát triển 
bền vững ở Việt Nam, Hà Nội. 
41. Chương trình hợp tác quốc tế (tháng 3 năm 2008), bảo vệ môi trường đến 2010 và 
định hướng đến 2020, Hà Nội. 
156 
42. Cục Cảnh sát môi trường (2010 - 2015), Báo cáo tổng kết tình hình và công tác 
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường. 
43. Cục cảnh sát môi trường, website:www.canhsatmoitruong.gov.vn 
44. Lê Trọng Cúc, A. Terry Ramloo (chủ biên) (1995), Một số vấn đề sinh thái nhân 
văn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 
45. Nguyễn Văn Dân (chủ biên) (2006), Niên giám thông tin khoa học xã hội, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
46. Nguyễn Đăng Dung (2007), Ý tưởng về một nhà nước chịu trách nhiệm, Nxb Đà 
Nẵng. 
47. Vũ Dũng (2011), Đạo đức môi trường ở nước ta – lý luận và thực tiễn, Nxb Từ điển 
Bách khoa. 
48. Vũ Trọng Dung (2009), Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh thái, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, 
Nxb Sự thật, Hà Nội. 
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước, Nxb Sự thật, Hà 
Nội. 
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, 
Nxb Sự thật, Hà Nội. 
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, 
Nxb Sự thật, Hà Nội. 
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
Nxb Sự thật, Hà Nội. 
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 
Nxb Sự thật, Hà Nội. 
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 
Nxb Sự thật, Hà Nội. 
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) Đến đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
157 
57. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich Dornberg (Đồng chủ 
biên) (2008), Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội, Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
58. Nguyễn Duy Hà (2008), Quản lý Nhà nước bằng pháp luật về môi trường ở tỉnh Bình 
Thuận, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
59. Lê Thị Thanh Hà (2011), “Vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ môi 
trường” Tạp chí Triết học, (8). 
60. Lê Thị Thanh Hà (2013), Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề bảo vệ môi trường 
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị - Hành chính. 
61. Lê Thị Thanh Hà (2018), “Vấn đề an ninh môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp 
chí Lý luân chính trị, (7). 
62. Phạm Minh Hạc và Nguyễn Hữu Tăng (2001), Tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan 
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
63. Lưu Đức Hải (2007), Cơ sở khoa học môi trường, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 
64. Lưu Đức Hải, Phạm Thị Việt Anh, Nguyễn Thị Hoàng Liên, Vũ Quyết Thắng (chủ 
biên) (2009), Cẩm nang quản lý môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
65. Lưu Đức Hải và Nguyễn Ngọc Sinh (2005), Quản lý môi trường cho sự phát triển 
bền vững, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
66. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2000), Quản lý môi trường cho sự phát triển bền 
vững, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
67. Lưu Đức Hải (chủ biên) (2006), Cẩm nang quản lý môi trường, Nxb Giáo dục, Hà 
Nội. 
68. Nguyễn Ngọc Hải (1988), “Một số thành tựu về công nghệ sinh học thế giới” Tạp 
chí hoạt động khoa học, (10). 
69. Nguyễn Minh Hằng, “Môi trường sinnh thái – vấn đề của mọi người”, 
http//www.hcmush.edu.vn 
70. Trần Đắc Hiến (2009), “Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay – Thực trạng và 
một số giải pháp khắc phục”, Tạp chí Triết học, (11). 
71. Hiến pháp (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. 
158 
72. Hiến Pháp (2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. 
73. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (2013), Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23, tổ 
chức tại Brunei. 
74. Nguyễn Đình Hòa (2005), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở 
nước ta hiện nay - khía cạnh môi trường sống”, Tạp Chí Triết học, (4). 
75. Nguyễn Đình Hòe và Nguyễn Ngọc Sinh (2012), An ninh môi trường, Nxb khoa 
học và kỹ thuật, Hà Nội. 
76. Hội đồng khoa học và cơ quan Đảng Trung ương (2013), Chủ động ứng phó với 
biến đổi khí hậu, đảy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường – Một số vấn đề 
lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
77. Hội đồng biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ điển Bách khoa, tập 4, 
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
78. Hội đồng biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển Bách khoa, Tập 2 
(E -M), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
79. Hội đồng biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1999), Từ điển bách khoa Việt 
Nam, tập 1, Nxb Văn hóa - Thông tin Hà Nội. 
80. http;//bachinhphu.vn/Tin-nganh/C49-va-cuoc-chien-bao-ve-moi-truong-
xanh/49428.vgp. Nngày 18/11/2010 
81.  10/9/ 2018 
82. Đỗ Huy (2007) “Giáo dục đạo đức sinh thái và xây dựng môi trường văn hóa trong 
lịch trình thế kỷ XXI”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2). 
83. Trần trọng Hựu (1988), “Chính sách sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi 
trường của Nhà nước ta”, Tạp chí hoạt động khoa học, (2). 
84. Nguyễn Thị Lan Hương (2009), “Trách nhiệm môi trường – một phương diện của 
trách nhiệm xã hội”, Tạp chí Triết học, (8). 
85. Nguyễn Thị Lan Hương (2010), “Đạo đức học môi trường và truyền thống mục 
đích luận”, Tạp chí Triết học, (12), tr23-30. 
86. Nguyễn Thị Lan Hương (2012) “Trách nhiệm môi trường của doanh nghiệp – nhìn 
từ góc độ lý luận”, Tạp chí Triết học, (12). 
159 
87. Lê Thị Thanh Hương (chủ biên) (2006), Nhân tố con người trong quản lý nhà nước 
đối với tài nguyên, môi trường, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
88. Kết luận số 02-KL/TW ngày 26/4/2016 của Ban Bí thư về tổng kết 10 năm thực 
hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về bảo vệ môi trường trong 
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
89. Nguyễn Đức Khiển (2002), Quản lý môi trường, Nxb lao động – Xã hội, Hà Nội. 
90. Nguyễn Đức Khiển (2011) (chủ biên), Đạo đức môi trường, Nxb thông tin và 
Truyền thông, Hà Nội. 
91. Lê Văn Khoa (chủ biên), (2011), Giáo trình con người và môi trường, Nxb Giáo 
dục Việt Nam. 
92. Lê Văn Khoa (2009), Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 
tr.8. 
93. Khoa học xã hội (1993), Tài liệu phục vụ nghiên cứu (lưu hành nội bộ), (TN93-
100), Hà Nội. 
94. Nguyễn Văn Kim (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển và bảo vệ môi trường – kinh 
nghiệm của Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (316). 
95. Kỷ yếu hội thảo quốc tế (2004), Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Nông 
nghiệp, Hà Nội. 
96. Đỗ Thị Ngọc Lan (2011), “Từ cảnh báo của Ăngghen về thảm họa thiên nhiên nghĩ 
về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh thái”, Tạp chí Lý luận chính 
trị, (7). 
97. Trần Thanh Lâm (2005), Quản lý môi trường ở địa phương trong thời kỳ công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
98. Trần Thanh Lâm (1998), “Quản lý, bảo vệ môi trường- hiện trạng giải pháp”, tạp 
chí Quản lý nhà nước, (21), tr 20-23. 
99. Đặng Mộng Lân (2007), Các công cụ quản lý môi trường, Nxb Khoa học kỹ thuật, 
Hà Nội. 
100. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 
101. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mácxcơva. 
102. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mácxcơva. 
160 
103. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 32. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
104. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mácxcơva. 
105. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
106. Liên hiệp quốc (2012), Hội nghị liên hiệp quốc về Phát triển bền vững (Rio + 20), 
tổ chức tại Brazil. 
107. Luật bảo vệ và phát triển rừng và nghị định hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, 1994. 
108. Luật tài nguyên nước (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
109. Luật bảo vệ môi trường (1994), Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội. 
110. Luật bảo vệ môi trường (2014), Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội. 
111. Luật bảo vệ môi trường và nghị định hướng dẫn thi hành (2005), Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
112. Đinh Diệu Linh (2012), Quản lý xã hội đối với hoạt động môi trường ở Thành phố 
Hà Nội hiện nay, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
113. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, 
Hà Nội, tr.11. 
114. C. Mác và Ph. Ănggen (1995), Toàn tập, Tập 4. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, 
Hà Nội. 
115. C. Mác và Ph. Ănggen (1995), Toàn tập, Tập 13. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, 
Hà Nội. 
116. C. Mác và Ph. Ănggen (1997), Toàn tập, Tập 20. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, 
Hà Nội. 
117. C. Mác và Ph. Ănggen (1994), Toàn tập, Tập 21. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, 
Hà Nội. 
118. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t 22. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, 
Hà Nội. 
119. C. Mác và Ph. Ănggen (1997), Toàn tập, Tập 32. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, 
Hà Nội. 
120. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t 37. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà 
Nội. 
161 
121. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
122. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
123. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
124. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
125. Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát triển thế giới năm (1992), Phát triển và môi 
trường. 
126. Nguyễn Thị Ngọc (2016), Quản lý môi trường đô thị Nhật Bản và khả năng ứng 
dụng ở Việt Nam, Nxb Chinh trị quốc gia, Hà Nội. 
127. Phạm Hữu Nghị (2005), “Vấn đề quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong dự 
thảo Luật bảo vệ môi trường”, Tạp chí nhà nước pháp luật, (2). 
128. Nghị định 121/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/5/2004 quy đinh về sử phạt 
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 
129. Nghị định 81/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/8/2006 quy đinh về sử phạt hành 
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 
130. Nghị định 81/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/5/2007 quy đinh tổ chức, bộ 
phận chuyên môn về BVMT tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. 
131. Nghị định 25/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/3/2008 quy đinh chức năng, 
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ TN và MT thay thế Nghị định số 
91/2001/NĐ- CP ngày 11/11/2002. 
132. Nghị định 117/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/12/2009 về sử lý vi phạm 
pháp luật trong lĩnh vực BVMT. 
133. Nghị định 18/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/04/2015 về quy hoạch bảo vệ 
môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế 
hoạch bảo vệ môi trường. 
134. Nghị định 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/04/2015 về chi tiết thi hành 
một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. 
135. Nghị định 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/02/2017 về xử phạt vi phạm 
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thay thế Nghị định 179/2013/NĐ-
CP (Phần phụ lục) & 81/2006/NĐ-CP. 
162 
136. Doãn Hồng Nhung (2015), Quyền con người trong lĩnh vực tài nguyên – môi 
trường với vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb tư pháp, Hà nội. 
137. Nghị quyết số 24-NQ/TW của Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến 
đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. 
138. Nghị quyết số 41-NQ/TW của Trung ương về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy 
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Bộ Chính trị ban hành. 
139. Nguyễn Văn Ngừng (2004), Một số vấn đề bảo vệ môi trường với phát triển kinh 
tế ở nước ta hiện nay, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, tr17. 
140. Phạm Thị Oanh (2013), Mối quan hệ con người – tự nhiên và phát triển bền vững 
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
141. Hoàng Phê (2011), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb, Đà Nẵng. 
142. Trần Anh Phương (2009), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận 
dụng ở Việt Nam hiện nay”, tạp chí Triết học (8). 
143. Nguyễn Văn Phước và Nguyễn Thị Vân Hà (2006), Giáo trình quản lý chất lượng 
môi trường, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 
144. Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2000), Mối quan hệ con người và tự nhiên trong sự phát 
triển xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
145. Nguyễn Danh Sơn (2017), “Tư duy mới về quản lý tài nguyên và môi trường ở 
Việt Nam”, tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (2). 
146. Nguyễn Danh Sơn (2018), “Tài nguyên và môi trường trong chính sách phát triển 
theo hướng xanh ở Việt Nam”, tạp chí Môi trường, (chuyên đề Tăng trưởng xanh). 
147. Nguyễn Văn Sơn, (2018) “Môi trường trong chính sách phát triển theo hướng 
xanh ở Việt Nam” tạp chí Môi trường (5). 
148. Nguyễn Ngọc Sinh (1984), Môi trường và tài nguyên Việt Nam, Nxb Khoa học và 
Kỹ thuật, Hà nội. 
149. Lê Bá Thảo (1992), “Giáo dục môi trường cho nhân dân”, Tạp chí hoạt động khoa 
học, (5). 
150. Hà Huy Thành và Lê Cao Đoàn, (đồng chủ biên) (2008), Cơ sở xã hội nhân văn 
trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình CNH, HĐH 
ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
163 
151. Hà Huy Thành và Lê Cao Đoàn, (đồng chủ biên) (2011), Vấn đề môi trường trong 
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội theo hướng bền vững ở Việt Nam, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr21. 
152. Chu Thái Thành (2004), “Mấy vấn đề về phát triển bền vững”, Tạp chí con số và 
sự kiện, (7). 
153. Hà Huy Thành (chủ biên), (2001), Một số vấn đề xã hội, nhân văn trong việc sử 
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
154. Lê Thị (2009), Mối quan hệ biện chứng giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm 
nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường Việt Nam, Tạp chí triết học, (8). 
155. Nguyễn Thi Thơm, An Như Hải (Đồng chủ biên) (2011), Nâng cao hiệu lực quản 
lý nhà nước về môi trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
156. Nguyễn Thị Thơm (2010), Đề tài khoa học cấp bộ, về nâng cao hiệu quả quản lý 
nhà nước về môi trường ở Việt Nam hiện nay, mã số B.10-02. 
157. Bùi Dũng Thế và Herminia Francisco (2014), Kinh tế học về quản lý môi trường ở 
Việt Nam, Nxb kinh tế TPHCM. 
158. Tổng cục thống kê (2014), Niên giám thống kê năm 2014, Hà Nội. 
159. Tổng cục thống kê (2015), Niên giám thống kê năm 2015, Hà Nội. 
160. Tổng cục thống kê (2016), Niên giám thống kê năm 2016, Hà Nội. 
161. Tổng cục thống kê (2017), Niên giám thống kê năm 2017, Hà Nội. 
162. Tổng hợp từ Tổ chức phi chính phủ 501C3 Charity based (VERMONT – USA) 
https://vinacell.com/so-lieu-rung-trai-dat/. 
163. Nguyễn Huyền Trang (2010), “Nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ môi 
trường”, Tạp chí Thông tin tư liệu chuyên đề, (4). 
164. Phạm Thị Ngọc Trầm (1982), “Bảo vệ môi trường sống phải trở thành một nhiệm 
vụ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật ở nước ta”, Tạp chí triết học, số (2), 
tr138- 158. 
165. Phạm Thị Ngọc Trầm (1979), “Vai trò của yếu tố chính trị - xã hội trong việc giải 
quyết vấn đề môi trường sống hiện nay”, Tạp chí triết học, (2). 
164 
166. Phạm Thị Ngọc Trầm (1990), “Những vấn đề sinh thái- xã hội trong lĩnh vực sản 
xuất nông nghiệp”, Tạp chí triết học (2). 
167. Phạm Thị Ngọc Trầm (1996), “Sự kết hợp giữa các mục tiêu kinh tế và sinh thái 
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí triết học, (5). 
168. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái, vấn đề và giải pháp, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
169. Phạm Thị Ngọc Trầm (1998), “Khía cạnh triết học xã hội vấn đề môi trường sinh 
thái ở Việt Nam”, Tạp chí triết học, (6). 
170. Phạm Thị Ngọc Trầm (2004), “Về cách tiếp cận triết học-xã hội đối với hiện trạng 
môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề nguyên nhân và giải pháp”, 
Tạp chí triết học, (6). 
171. Phạm Thị Ngọc Trầm (2005), “Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu 
quả hơn nhân tố xã hội- nhân văn trong quản lý nhà nước về tài nguyên thiên nhiên 
và môi trường”, Tạp chí triết học, (8). 
172. Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên), (2006), Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và 
môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội nhân văn, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
173. Phạm Thị Ngọc Trầm (2009), “Xây dựng đạo đức sinh thái – Một trách nhiệm xã 
hội của con người đối với tự nhiên”, Tạp chí triết học, (6). 
174. Phạm Thị Ngọc Trầm (2016), “Nghiên cứu triết học - xã hội về môi trường sinh 
thái ở Việt Nam” Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (2). 
175. Tuyên bố Hà Nội tại IPU-132, 
392021.vov 
176. Tuyên bố của Hội nghị Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển (họp tại 
Stockholm từ ngày 3; 14- 6- 1992). Các công ước quốc tế về BVMT. 
177. Trần Thị Tuyết (2009), “Trách nhiệm xã hội của cá nhân và yêu cầu nâng cao 
trách nhiệm trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí triết 
học, (4). 
178. Nguyễn Kim Tuyển (2013), “Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực quản lý nhà nước 
ngành môi trường Việt Nam”, www: ngày 18-12-2013. 
165 
179. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ Mátxcơva. 
180. Từ điển Triết học (1989), Nxb Tiến bộ Mátxcơva. 
181. Viện Khoa học năng lượng (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) 
(2013), Hội thảo Phát triển năng lượng bền vững (SED3). 
182. Nguyễn Văn Việt (2010), Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi 
trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO NƯỚC NGOÀI 
183. Rone Duymong (1990), Một thế giới không thể chấp nhận được (chủ nghĩa tự do 
trở thành vấn đề cần cạnh tranh), Hà Nội 
184. Bai Lifan (1994), Phương hướng vận hành của thực tiễn sản xuất và sự hài hòa 
thống nhất giữa con người và tự nhiên, kỹ thuật và phát triển xã hội, Viện thông tin 
185. Daniel. D. Chiras (2014), Natural Resource Conservation: Management for a 
Sustainable Future, Pearson India. 
186. V.I.Samokhvalova (992), “Con người và thế giới, vấn đề con người là trung tâm”. 
Tạp chí triết học, (3). 
187. E.F. Schumacher (1973) "Nhỏ là đẹp” (Small is beautiful) New York. 
188. Jack. Bbrestes (1968), Môi trường của con người (Environment of Man), New 
York. 
189. Robert W. Collin (2005), The Environmental Protection Agency: Cleaning Up 
America's Act (Understanding Our Government), Greenwood. 
190. C. Korten (1996), Bước vào thế kỷ XXI hành động tự nguyện và chương trình nghị 
sự toàn cầu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
191. P. Marsh (1864), Con người và Thiên nhiên (Man and Natura), New York. 
192. Michael Atchia, Shawna Tropp (1995), Environmental Management: Issues and 
Solutions. 
193. Paul R.Portney, Robert N. Stavins (2000), Public Policies for Environmental 
Protection, Resources for the Future Washington, DC. 
166 
194. Alvin Toffler (1991), Thăng trầm quyền lực, (tập 1), Nxb Thông tin lý luận, Ban 
khoa học xã hội Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. 
195. Alvin Toffler (1991), Thăng trầm quyền lực, (tập 2), Nxb Thông tin lý luận, Ban 
khoa học xã hội Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. 
196. Alvin Toffler (1991), Thăng trầm quyền lực, (tập 3), Nxb Thông tin lý luận, Ban 
khoa học xã hội Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. 
197. Alvin và Heidi Toffler (1996), Chiến tranh và chống chiến tranh, sự sống còn của 
loài người ở buổi bình minh của thế kỷ XXI, Nxb Chinh trị quốc gia, Viện thông tin 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
198. R.H.Wagner (1971), Môi trường và con người (Environment anh Man), New 
York. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_an_trach_nhiem_cua_nha_nuoc_trong_viec_bao_ve_moi_truon.pdf luan_an_trach_nhiem_cua_nha_nuoc_trong_viec_bao_ve_moi_truon.pdf
 Trichyeu_VuKimDiem.pdf Trichyeu_VuKimDiem.pdf