Nhằm bảo đảm cho những giải pháp đã được luận án đề xuất phát huy được
hiệu quả trong thực tiễn thì cần phải tiếp tục nghiến cứu và làm rõ cơ sở lý luận
cũng như thực tiễn của những vấn đề khoa học sau:
- Tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phạm vi, nội dung và kết
cấu của đạo luật bảo đảm độc lập xét xử của Tòa án;
- Tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phạm vi, nội dung và kết
cấu của chế định tố tụng Hiến pháp;
- Tiếp tục nghiên cứu pháp luật có liên quan để sửa đổi và bô sung nhằm tạo ra
cơ sở pháp lý thống nhất, phụ hợp phục vụ việc thay đổi quy trình tuyển chọn và bổ
nhiệm Thẩm phán;
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn để xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề Thẩm phán.
166 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 4196 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho phép người bào chữa
tham gia từ khi khởi tố bị can đối với những tội xâm phạm an ninh quốc gia; bổ
sung nghĩa vụ phải thông báo cho người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung bị
can; không giới hạn số lần tiếp xúc giữa bị can với người bào chữa. Ngoài ra cần bỏ
quy định về cấp giấy chứng nhận người bào chữa tại khoản 4 Điều 56. Vì những
quy định của pháp luật này đều dẫn đến hạn chế quyền được có người bào chữa của
bị can, bị cáo.
Thứ ba, song song với việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự thì cần phải
nâng cao năng lực và trách nhiệm thi hành luật trong quá trình xét xử. Trước hết cần
xây dựng các giải pháp bảo đảm năng lực xét xử của Tòa án, như: Xây dựng pháp
luật bảo đảm cho hoạt động xét xử độc lập, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán
và hoàn thiện các cơ chế giám sát để kịp thời phát hiện hành vi trái pháp luật và xử
lý nghiêm minh. Ngoài ra, xây dựng đội ngũ luật sư đảm bảo yêu cầu tranh tụng và
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố cũng là những giải pháp
cần phải được tiến hành đồng bộ.
b) Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự
136
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 đã chỉ rõ cần phải “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo
hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo
đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất
lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ
quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng
hoạt động tư pháp”. Tiếp theo đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Xây dựng cơ
chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất
định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự”.
Như vậy, hai yêu cầu căn bản đặt ra cần phải được giải quyết một cách hài
hoà là đơn giản hoá các thủ tục nhằm đáp ứng đòi hỏi về tính mềm dẻo, linh hoạt
của thủ tục tố tụng dân sự trong bối cảnh nền kinh tế thị thường và đẩy mạnh hội
nhập quốc đặc biệt là nhu cầu bảo vệ quyền công dân, quyền con người bằng hoạt
động xét xử ngày càng gia tăng. Theo tinh thần này, chúng tôi cho rằng cần phải
giải quyết những vấn đề mang tính cốt lõi trong việc hoàn thiện pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả bảo vệ quyền công dân,
quyền con người bằng hoạt động xét xử, bao gồm: Xác định hợp lý vai trò và trách
nhiệm chứng minh của các chủ thể; đảm bảo tính linh hoạt và hiệu quả của các quy
định về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; thiết lập thủ tục tố tụng dân sự
rút gọn nhằm loại bỏ sự rườm rà, đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục tố
tụng dân sự.
Thứ nhất, về các quy định liên quan tới nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân
sự.
BLTTDS Việt Nam năm 2004 (BLTTDS) về cơ bản cũng được xây dựng trên
cơ sở thủ tục tố tụng xét hỏi của các nước theo hệ thống luật châu Âu lục địa có kết
hợp các yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng của các nước theo hệ thống pháp luật
án lệ. Cụ thể là BLTTDS Việt Nam hiện nay vẫn coi hồ sơ vụ án là tài liệu quan
137
trọng làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án nhưng đề cao hơn nghĩa vụ tự chứng minh
của đương sự so với các quy định trước kia, trong trường hợp xét thấy chứng cứ
trong hồ sơ chưa đủ cơ sở để giải quyết thì thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp
bổ sung chứng cứ. Toà án chỉ tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ khi đương
sự không thể tự mình thu thập được và có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ [65].
Theo BLTTDS hiện nay, mặc dù Hội đồng xét xử giữ vai trò điều khiển phiên
tòa nhưng các yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng được coi trọng như trong phần
xét hỏi luật sư có quyền chất vấn bên đối thủ, các đương sự có thể đặt câu hỏi đối
với nhau. Ngoài ra, đương sự được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do
các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập; tất cả các tình tiết, chứng cứ,
tài liệu dùng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án đều được các bên tranh tụng công
khai, trực tiếp và bằng lời nói tại phiên tòa, luật sư giữ vai trò chủ động trong quá
trình tranh tụng, Toà án không được hạn chế thời gian tranh luận mà phải tạo điều
kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến của họ [65].
Việc tiếp nhận các yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng trong BLTTDS Việt
Nam cũng đặt ra những vấn đề mà chúng ta cần giải quyết. Trong thực tiễn, sau khi
BLTTDS có hiệu lực pháp luật, các toà án dường như trút được một gánh nặng
trong việc chứng minh làm rõ sự thật của vụ án với quan niệm các đương sự phải tự
chứng minh cho quyền lợi của mình, nếu không tự chứng minh được sẽ bị toà án xử
bác yêu cầu. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng Việt Nam là một đất nước mà đa
phần dân số đều làm nông nghiệp, do vậy, các quy định này của BLTTDS mặc dù
không gây xáo trộn đối với các doanh nghiệp, các thị dân thành phố nhưng đối với
khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì đó lại quả là một vấn đề không nhỏ.
Người nông dân Việt Nam vốn xa lạ với pháp đình và càng xa lạ hơn với việc tự
chứng minh, do vậy, sau khi nộp đơn kiện rồi thì thường phó mặc cho toà án giải
quyết mà không biết rằng mình phải tự đi thu thập các tài liệu cần thiết để chứng
minh. Trong khi đó, theo quy định của BLTTDS hiện nay thì toà án không còn được
tự mình tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ để hoàn thiện hồ sơ vụ án như
trước đây nữa. Như vậy, hậu quả tất yếu là thời gian giải quyết vụ án sẽ bị kéo dài
138
hơn so với các quy định trước kia. Để khắc phục tình trạng này, thiết nghĩ cơ quan
có thẩm quyền nên có những quy định mang tính chuyển tiếp cho việc thực hiện. Cụ
thể là cần quy định rõ khi nhận đơn khởi kiện của đương sự, toà án phải giải thích
rõ cho đương sự về nghĩa vụ chứng minh của họ cũng như các chứng cứ, tài liệu cụ
thể cho mỗi vụ án mà đương sự phải xuất trình và quyền yêu cầu toà án thu thập
chứng cứ nếu không tự mình thu thập được.
Hiện nay, Điều 7 BLTTDS và Nghị quyết số 04 của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân Tối cao ngày 17/9/2005 quy định khi có yêu cầu của đương sự thì cơ
quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ (thường là các giấy tờ về hộ tịch, nhà
đất) có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các chứng cứ này cho đương sự, trong
trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự
biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ. Trong thực tiễn tố
tụng tại Toà án thì văn bản này được coi là điều kiện tiên quyết để đương sự có thể
yêu cầu Toà án tiến hành các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ. Nhưng xem
ra quy định này khó có thể được thực hiện trên thực tế khi mà nền hành chính quốc
gia chưa thực sự được cải tổ và cơ quan công quyền chưa thực sự “gần dân”. Khi
người có trách nhiệm quản lý hồ sơ, tài liệu trong các cơ quan công quyền đã không
có thiện chí trong việc cấp cho người dân các giấy tờ, tài liệu có liên quan tới vụ
kiện thì có lẽ người dân sẽ không thật dễ dàng để có trong tay bản thông báo nói
trên. Do vậy, để đơn giản hoá các thủ tục tố tụng, tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân trong việc bảo vệ quyền lợi của mình thì cần hoàn thiện các quy định trên theo
hướng nếu cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ của vụ án không cung
cấp các tài liệu cần thiết và cũng không thông báo bằng văn bản cho đương sự về lý
do của việc không cung cấp thì đương sự có thể ngay lập tức yêu cầu sự can thiệp
của Toà án trong việc thu thập chứng cứ.
Thứ hai, về các quy định liên quan đến thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong tố tụng dân sự
Theo quy định của BLTTDS hiện hành các quy định về thời điểm áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong BLTTDS hiện nay chủ yếu được xây dựng trên
139
cơ sở kế thừa ba pháp lệnh về thủ tục tố tụng trước đó và được bổ sung, hoàn thiện
hơn trên cơ sở tham khảo các quy định tương ứng trong pháp luật tố tụng dân sự của
một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, sự tiếp thu quy định của các nước về thời
điểm áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong BLTTDS Việt Nam cũng còn
nhiều hạn chế. Theo pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước trên thế giới mà điển
hình là pháp luật tố tụng dân sự của Mỹ, Pháp và Trung Quốc thì thủ tục áp dụng
các biện pháp khẩn cấp có thể được áp dụng trước khi khởi kiện hoặc trong quá
trình Toà án giải quyết một vụ kiện chính hoặc có thể được áp dụng một cách hoàn
toàn độc lập. Mặc dù, BLTTDS Việt Nam đã mở rộng hơn phạm vi áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời so với các quy định trước kia, cho phép đương sự có
thể yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng với việc nộp đơn
khởi kiện vụ án hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (Điều 99 BLTTDS) nhưng
không cho phép yêu cầu áp dụng biện pháp này trước khi khởi kiện vụ án. Chính vì
vậy, nhằm bảo đảm cho khả năng khôi phục quyền và lợi ích bị vi phạm thì pháp
luật tố tụng dân sự cần mở rộng quyền được yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời ngay khi phát hiện được hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến quyền
và lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, về việc xây dựng các quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn.
Một trong những yêu cầu của hoạt động xét xử dân sự trong việc bảo vệ quyền
công dân là bảo đảm tính kịp thời cho nên việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút
ngọn là cần thiết trong trường hợp những vụ án dân sự đã có đầy đủ tình tiết, chứng
cứ thể hiện rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp. Nghị quyết số 49 –
NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã củng cố cho nhận định này và chỉ rõ cần phải tiếp tục: “Xây dựng cơ chế
xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.
Qua tham khảo pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài có thể thấy rằng pháp luật tố
tụng dân sự của các nước trên thế giới có quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
thì việc xét xử đều giao cho một Thẩm phán đảm nhiệm. Ở Việt Nam, mặc dù tại
các Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002 đều quy định rằng
140
Toà án xét xử và quyết định theo đa số nhưng không phải là không có ngoại lệ.
Chẳng hạn điều 12 Luật Tổ chức Toà án năm 1960 quy định “Toà án nhân dân thực
hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, Toà án nhân dân
gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ,
giản đơn và không quan trọng thì Toà án nhân dân có thể xử không có Hội thẩm
nhân dân”.
Đối với loại vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa
vụ thì xét về bản chất đây là loại việc không có tranh tụng cả về chứng cứ và về
quyền, nghĩa vụ giữa các bên đương sự. Nếu quy định bị đơn có quyền kháng cáo
đối với bản án của Toà án trong trường hợp này thì bị đơn sẽ có thể lợi dụng pháp
luật kháng cáo nhằm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình. Vô
hình chung pháp luật đã tạo điều kiện cho người không có thiện chí trong việc thực
hiện nghĩa vụ có thể trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ gây thiệt hại cho quyền lợi hợp
pháp của nguyên đơn. Thiết nghĩ, để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của nguyên
đơn vẫn cần thiết phải quy định phán quyết của thẩm phán đối với những loại vụ
kiện có những chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa vụ, sẽ có hiệu
lực pháp luật ngay. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thiết lập một cơ chế chuyển hoá
giữa thủ tục xét xử rút gọn và thủ tục thông thường cũng là một giải pháp nhằm bảo
vệ quyền lợi của các bị đơn “ngay tình” và “trung thực” chống lại sự lạm quyền của
bên đi kiện. Cụ thể là cần quy định quyết định của Toà án buộc thanh toán nợ không
bị phản kháng trong một thời hạn nhất định sẽ có hiệu lực thi hành. Ngược lại, trong
trường hợp người bị kiện phản đối quyết định của Toà án buộc thanh toán nợ
(kháng án) thì vụ kiện sẽ lập tức được đưa ra xét xử tại phiên toà sơ thẩm.
c) Hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính
Luật Tố tụng hành chính (TTHC) được QH XII thông qua tại kỳ họp thứ 8, có
hiệu lực từ ngày 1.7.2011 được đánh giá là một bước tiến lớn trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền, tăng cường quyền dân chủ của công dân và trách nhiệm của Nhà
nước. Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính, một số quy định
của Luật Tố tụng hành chính khó được thực thi trong thực tiễn vì nội dung quy định
141
có tính khái quát cao và thiếu cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm của người có
nghĩa vụ đặc biệt là bên bị khởi kiện. Trong tố tụng hành chính, bên bị khởi kiện là
cơ quan công quyền vì thế vấn đề quy định nghĩa vụ pháp lý phải rõ ràng và cần có
cơ chế xử lý nghiêm minh trong trường hợp thoái thác nghĩa vụ tố tụng hành chính
trong khi đó Luật Tố tụng hành chính hiện hành chỉ quy định nghĩa vụ mà chưa hề
đề cập đến những trách nhiệm của bên bị kiện trong trường hợp không thực hiện
nghĩa vụ vì thế trong thực tiễn đã xảy ra những tình huống người bị khởi kiện không
thực hiện nghĩa vụ tố tụng khiến việc giải quyết vụ án hành chính kéo dài, phức tạp
gây thiệt hại quyền lợi của công dân, cá nhân. Chính vì thế, cần bổ sung các nghĩa
vụ sau đối với bên bị khởi kiện:
- Thứ nhất, pháp luật cần quy định: Bên bị kiện có nghĩa vụ chứng minh tính
hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện. Nếu pháp
luật tố tụng hành chính không bổ sung quy định này thì khó bảo đảm sự bình đẳng
giữa các bên trong tố tụng hành chính vì người bị khởi kiện là bên chủ động, có
quyền đơn phương ra các quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính trên
cơ sở các quy định của pháp luật nên họ có ưu thế hơn đối với bên khởi kiện trong
việc xác định tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu
kiện. Nhằm bảo đảm bên bị kiện thực hiện nghĩa vụ này, pháp luật tố tụng hành
chính cần giới hạn thời gian “trong một thời hạn nhất định kể từ khi nhận được
thông báo về việc bị khởi kiện, nếu bên bị kiện không cung cấp tài liệu, chứng cứ để
chứng minh tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện
thì tòa án có quyền coi những điều trình bày của người khởi kiện là đúng sự thật”.
- Thứ hai, cần bổ sung quy định giới hạn thời gian, nội dung của quyền “sửa
đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị
khởi kiện” (Khoản 3 Điều 51) vì thực tiễn đã xảy ra trường hợp người bị kiện lợi
dụng quyền này để kéo dài thời hạn giải quyết vụ án hành chính khiến cho quyền lợi
của người khởi kiện bị thiệt hại nghiêm trọng. Nhằm tăng cường việc bảo vệ quyền
lợi cho công dân, Luật Tố tụng hành chính nên bổ sung giới hạn về thời điểm thực
142
hiện quyền này và nội dung sửa đổi quyết định hành chính bị khởi kiện theo hướng:
Người bị kiện chỉ có quyền sửa đổi quyết định hành chính bị khiếu kiện trước khi
mở phiên tòa; người bị kiện không được sửa đổi quyết định hành chính bị khiếu
kiện theo hướng bất lợi cho người khởi kiện.
4.3.5. Cải cách mô hình tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử và không
phụ thuộc vào cấp hành chính của bộ máy nhà nước
Tổ chức hệ thống Tòa án hiện nay được kết hợp giữa nguyên tắc cấp xét xử
với cấp hành chính lãnh thổ, gồm: Tòa án tối cao tương ứng với cấp hành chính
trung ương; TAND cấp tỉnh tương ứng với cấp hành chính tỉnh và TAND cấp huyện
tương ứng với cấp hành chính huyện. Cơ cấu tổ chức gắn liền với cấp hành chính
tạo thuận lợi cho sự phối hợp giữa hoạt động xét xử với các hoạt động điều tra, truy
tố trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương đặc biệt là nhiệm vụ đấu
tranh, phòng chống tội phạm trên địa bàn địa phương. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức hệ
thống Tòa án gắn liền với cấp hành chính địa phương đã tạo ra nhiều nguy cơ hạn
chế sự độc lập của Tòa án trong quá trình xét xử cũng như năng lực xét xử của các
Tòa án các cấp đặc biệt là TAND cấp huyện.
Những nguy cơ đe dọa đến khả năng độc lập của Tòa án, độc lập của hoạt
động xét xử đã được phân tích ở mục 3.3. đã bộc lộ trong thực tiễn hoạt động xét xử
và đã được chính Tòa án cũng như lãnh đạo Đảng và Nhà nước thừa nhận. Vì thế,
nhằm hạn chế tối đa nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án thì cần phải
thay đổi hệ thống tổ chức Tòa án hiện hành. Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW, hệ
thống Tòa án sẽ được tổ chức trên cơ sở nguyên tắc cấp xét xử theo mô hình: Tòa
án khu vực hay là Tòa án sơ cấp (cấp xét xử sơ thẩm); Tòa án phúc thẩm hay là Tòa
án trung cấp (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm); Tòa thượng thẩm hay là Tòa án cao cấp
(xét xử phúc thẩm bản án do Tòa phúc thẩm xét xử sơ thẩm) và TAND tối cao. Chủ
trương cải cách trên là giải pháp hữu hiệu hạn chế sự tác động của bộ máy hành
chính địa phương vào hoạt động xét xử của Tòa án đồng thời sẽ hạn chế được xu
hướng địa phương hóa hoạt động xét xử của Tòa án đang có chiều hướng gia tăng.
Tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử có tác dụng mạnh mẽ trong việc
nâng cao năng lực, chất lượng xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Tổ
143
chức hệ thống theo cấp xét xử tạo điều kiện cho Tòa án linh hoạt trong việc thành
lập các Tòa án cấp sơ thẩm. Việc từ bỏ sự ràng buộc bởi không gian của đơn vi
hành chính địa phương tạo điều kiện quy định thẩm quyền theo không gian trên cơ
sở ước lượng nhu câu xét xử của vùng miền. Điều này góp phần hạn chế tình trạng
phân tán nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất và con người cho những Tòa án cấp huyện
có số lượng án xét xử ít, nhu cầu xét xử thấp đồng thời tăng cường việc đầu tư cơ sở
vật chất, nguồn lực con người cho những vùng miền có nhu cầu xét xử cao, số
lượng án phải thụ lý và giải quyết lớn bằng việc lập nhiều Tòa án cấp sơ thẩm ở
những vùng miền này.
4.3.6. Cải cách cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm Thẩm phán
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng và hiệu quả xét xử
của Tòa án hiện nay còn nhiều hạn chế là do đội ngũ Thẩm phán chưa đủ về số
lượng và hạn chế về trình độ khoa học pháp lý, kỹ năng nghề nghiệp[95]. Chính vì
thế một trong những nhiệm vụ cần được thực hiện nhằm bảo đảm chất lượng và
hiệu quả xét xử của Tòa án là xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm phán đủ về số
lượng và đảm bảo trình độ pháp lý, kỹ năng nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức.
Dưới đây là một số giải pháp cần được thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu trên:
- Thứ nhất, cải cách phương thức tuyển dụng và đạo tạo cử nhân luật. Cử nhân
luật là nguồn nhân lực để tuyển dụng và phát triển Thẩm phán. Chất lượng cử nhân
luật như thế nào sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến năng lực và phẩm chất đạo đức của
Thẩm phán trong tương lai. Hiện nay, chương trình đạo tạo và điều kiện tuyển sinh
sinh viên luật còn nhiều hạn chế khiến cho chất lượng cử nhân luật chưa đảm bảo
yêu cầu hành nghề luật nói chung, nghề Thẩm phán nói riêng. Kinh nghiệm đào tạo
luật ở một số nước phát triển cho thấy cần đề cao việc rèn luyện các kỹ năng thực
hành nghề luật trong chương trình đào tạo cử nhân trong khi đó chương trình đạo
tạo luật của Việt Nam hiện nay chưa chú trọng vấn đề này. Chình vì thế, cần phải
cải cách chương trình đạo tạo luật theo hướng bổ sung các kiến thức gắn liền với
hoạt động thực hành nghề luật tại các cơ sở có luật gia, luật sư và các chức danh tư
pháp làm việc (bổ sung các kỳ thực tập của sinh viên tại các công ty luật, văn phòng
luật sư, các cơ quan tư pháp trước khi sinh viên viết khóa luận tốt nghiệp cử nhân).
Bên cạnh đó, theo chúng tôi, các cơ sở đào tạo cử nhân luật nên thay đổi môn thi
144
tuyển sinh đầu vào, theo đó, chỉ nên thi ba môn là toán, văn và ngoại ngữ. Vì kiến
thức của những môn này là nên tảng quan trọng để phát triển các kỹ năng cơ bản
của người thực hành nghề luật còn những môn như: Địa lý, vật lý, hóa học hầu như
không cần thiết đối với sinh viên theo học chương trình cử nhân luật.
- Thứ hai, cải cách phương thức tuyển dụng và quy trình bổ nhiệm Thẩm
phán. Hiện nay quy trình bổ nhiệm Thẩm phán[99],[100] chưa hợp lý đặc biệt là
Thẩm phán cấp huyện và Thẩm phán cấp tỉnh. Pháp luật vẫn còn đặt nặng vai trò
của cấp ủy địa phương, Hội đồng nhân dân địa phương trong việc quy hoạch và
tuyển chọn Thẩm phán dẫn đến khó đảm bảo được việc đánh giá chính xác năng lực
của người được tuyển chọn vì những người tham gia hội đồng tuyển chọn đa số
không hành nghề luật mà chủ yếu là cán bộ, công chức hành pháp. Việc cho phép
đại diện của nhiều cơ quan địa phương vào Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán khiến
cho nguy cơ Thẩm phán bị áp lực bởi các chủ thể này trong quá trình công tác.
Ngoài ra, cơ chế tuyển chọn Thẩm phán hiện hành còn bất cập ở tâm lý kép kín
nguồn nhân lực tuyển chọn. Đa số các Hội đồng tuyển chọn đều chủ yếu tuyển chọn
những người đã công tác trong Tòa án đã được đào tạo nghề Thẩm phán trong khi
theo thông lệ hiện hành thì chỉ có những cán bộ, công chức ngành Tòa án mới được
tham gia các khóa đào tạo nghề Thẩm phán cho nên nguồn nhân lực được tuyển
chọn và bổ nhiệm Thẩm phán bị hạn chế và khép kín trong nội bộ ngành Tòa án.
Chính điều này dẫn đến không tuyển chọn được những người có trình độ khoa học
pháp lý cao, có kinh nghiệm thực hành pháp luật đang công tác ở các lĩnh vực khác
đặt biệt là đội ngũ luật sư, luật gia và những người giảng dạy pháp luật. Như vậy,
một trong những giải pháp có thể khắc phục được tình trạng thiếu và yếu của đội
ngũ Thẩm phán là cải cách cơ chế tuyển chọn nguồn nhân lực để bổ nhiệm Thẩm
phán. Xây dựng Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia và thay đổi trình tự đào
tạo và bổ nhiệm Thẩm phán theo quy trình:
TUYỂN
CHỌN
ỨNG VIÊN
THẨM
PHÁN
ĐÀO TẠO
NGHỀ
THẨM
PHÁN
BỔ NHIỆM
THẨM
PHÁN TẬP
SỰ
BỔ NHIỆM
THẨM
PHÁN
145
Việc xây dựng quy trình bổ nhiệm Thẩm phán như trên sẽ tạo điều kiện thuận
lợi để thu hút được những người có trình độ khoa học pháp lý, có kinh nghiệm thực
hành nghề luật và có nguyện vọng được hành nghề Thẩm phán tham gia dự tuyển
đồng thời bảo đảm được những kỹ năng hành nghề Thẩm phán cho những người
được bổ nhiệm Thẩm phán chính thức[18].
Cùng với việc thay đổi quy trình tuyển chọn Thẩm phán thì việc cải cách
chính sách tiền lương, phụ cấp và nguồn thu nhập cho Thẩm phán nhằm thu hút
được những người có trình độ khoa học pháp lý cao, kỹ năng thực hành nghề
nghiệp tốt vào công hiến cho hoạt động xét xử.
4.3.7. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự
Điều 136 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Các bản án và quyết định của
TAND đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi con người tôn trọng; những người và các
đơn vị vũ trang phải nghiêm chỉnh chấp hành". Nhằm bảo đảm nghĩa vụ hiến định
đó cho những người có nghĩa vụ chấp hành án, hệ thống pháp luật thi hành án đặc
biệt là thi hành án dân sự ngày càng được hoàn thiện. Trong những năm vừa qua, hệ
thống cơ quan Thi hành án dân sự đã được hình thành từ Trung ương đến địa
phương, bao gồm Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự, Chi cục
Thi hành án dân sự; nhiều bản án, quyết định của Toà án đã được thi hành dứt
điểm, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cơ quan, tổ chức và
các cá nhân công dân, một số vụ án phức tạp, kéo dài đã được tập trung giải quyết,
việc thi hành án dân sự tồn đọng giảm đáng kể, góp phần vào việc ổn định tình hình
an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội của đất nước, tạo tiền đề cho phát triển của
kinh tế - xã hội[02]. Mặc dầu vậy, hệ thống pháp luật và hiệu quả hoạt động thi
hành án dân sự trong những năm qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế cần được tiếp
tục khắc phục. Theo báo cáo 6 tháng năm 2011 (từ ngày 01/10/2010 đến ngày
31/3/2011), thì số việc thi hành án dân sự tồn chuyển kỳ sau còn phải thi hành tính
từ khi chuyển giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án sang cho Chính phủ quản
lý (Tháng 7 năm 1993) là 285.482 việc với 24.186.587.393.000 đồng[02]. Tình
146
trạng án dân sự tồn đọng do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân
"Nhiều việc bên phải thi hành án là các cơ quan nhà nước không tự nguyện thi
hành, trong khi chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu buộc các đơn vị này phải thi
hành"; "Khối lượng công việc các cơ quan Thi hành án dân sự phải tổ chức thi hành
nhiều, trong khi lực lượng mỏng, trình độ, năng lực còn nhiều bất cập, cơ sở vật
chất còn thiếu thốn dẫn đến quá tải trong việc thực hiện nhiệm vụ"[02]. Ngoài ra, sự
cứng nhắc của Tòa án trong khi ra phán quyết phải thực hiện nghĩa vụ dân sự chỉ
căn cứ trên cơ sở quy định của pháp luật mà không tính đến khả năng thi hành cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến các bản án đó gần như là không thể thi
hành được. Những hạn chế đó của hoạt động thi hành án đã khiến cho một bộ phận
người dân đặc biệt là những người được thi hành án bất bình và mất niềm tin vào sự
nghiêm minh của pháp luật đặc biệt có những vụ việc thi hành án bị cơ quan thi
hành án, chấp hành viên hoặc cơ quan nhà nước cố tình không chấp hành án hoặc
thi hành không phù hợp với quy định của pháp luật, phán quyết của Tòa án khiến
cho dư luận bất bình, đồng thời đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền của người được
thi hành án. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động thi hành án dân sự là một
trong những vấn đề cấp bách cần được thực hiện nhằm bảo đảm cho các bản án,
quyết định của Tòa án được thể hiện một cách đầy đủ trong thực tiễn xã hội.
147
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng về cải cách hệ thống chính trị nói chung,
cải cách bộ máy nhà nước nói riêng đặc biệt những quan điểm của Đảng về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, luận án đã xây dựng phương hướng cơ bản
nhằm bảo đảm việc đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong việc bảo
vệ quyền con người có tính khoa học và phù hợp với điều kiện kinh tế và chính trị -
xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ việc xác định các
quan điểm cụ thể cần phải được quán triệt trong quá trình xây dựng các giải pháp và
những yêu cầu cấp thiết của nhu cầu nâng cao vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ
quyền con người, các giải pháp khoa học được đề xuất đặc biệt chú trọng đến các
giải pháp hạn chế những nguyên nhân ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả bảo vệ
quyền con người của Tòa án trong đời sống xã hội, như: Nâng cao tính độc lập của
hoạt động xét xử, chất lượng đội ngũ Thẩm phán; hoàn thiện pháp luật tố tụng tư
pháp bảo đảm quyền của bị can, bị cáo và đương sự trong quá trình giải quyết vụ
án; cải cách mô hình tổ chức hệ thống tòa án; mở rộng thẩm quyền bảo vệ quyền
con người của Tòa án đặc biệt quyền xét xử hành vi vi hiến của cơ quan nhà nước
xâm hại đến quyền con người.
148
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Bảo vệ quyền con người là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
nhu cầu thụ hưởng quyền con người của cá nhân. Bảo vệ quyền con người là hoạt
động vừa mang tính phòng ngừa, vừa mang tính tự vệ nhằm chống lại, loại trừ
những hành vi xâm hại quyền con người, đồng thời bảo đảm cho các quyền con
người được tôn trọng và được thực hiện trong đời sống xã hội. Bảo vệ quyền con
người được nhiều chủ thể trong xã hội thực hiện bằng nhiều hoạt động khác nhau.
Trong các cơ chế bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền con người bằng Tòa án là
hoạt động bảo vệ thể hiện được nhiều ưu điểm mà các chủ thể khác khó đạt được.
Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án không chỉ trừng phạt người thực hiện hành vi
xâm hại quyền con người; khôi phục lại những quyền con người bị xâm hại mà còn
hiện thực hóa chức năng bảo vệ quyền con người của pháp luật- một trong những
phương thức bảo vệ quyền con người quan trọng nhất của xã hội pháp quyền vào
đời sống xã hội. Bên cạnh phạm vi bảo vệ rộng, bảo vệ quyền con người bằng Tòa
án thể hiện những đặc điểm ưu việt trong quá trình bảo vệ như: bảo đảm sự công
bằng, công khai trong quá trình bảo vệ và đặc biệt là tính độc lập của chủ thể bảo vệ
đối với các bên tranh chấp về quyền cũng như trong mối quan hệ với các chủ thể
pháp luật khác.
Chính vì bảo vệ quyền con người bằng Tòa án đáp ứng được những kỳ vọng
của chủ thể mang quyền, những yêu cầu và mong muốn của xã hội dân chủ, văn
minh nên chế độ pháp quyền yêu cầu Tòa án phải là chủ thể trung tâm và có vị trí,
vai trò tối cao trong việc bảo vệ quyền con người. Nhà nước pháp quyền yêu cầu
Tòa án có quyền trừng phạt tất cả các chủ thể thực hiện hành vi xâm hại quyền con
người kể cả quyền lập pháp, quyền hành pháp khi thực hiện hành vi vi phạm quyền
con người đặc biệt hành vi vi phạm các quyền cơ bản của cá nhân. Nhằm bảo đảm
hiệu quả và niềm tin của xã hội vào chế độ pháp quyền thì pháp luật tố tụng Tòa án
phải được xây dựng đầy đủ, thống nhất, chặt chẽ và khoa học; tổ chức hệ thống Tòa
đáp ứng yêu cầu xét xử và quyền tiếp cận Tòa án của người dân dễ dàng, đồng thời
bảo đảm hạn chế sự tác động của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính
nhà nước vào hoạt động của Tòa án; đội ngũ Thẩm phán đủ năng lực, trình độ và
149
phẩm chất đạo đức để xét xử vô tư, khách quan và đúng pháp luật. Ngoài ra, Nhà
nước và xã hội cần đầu tư mạnh mẽ các nguồn lực vật chất phục vụ cho hoạt động
xét xử công minh và văn minh.
Ở Việt Nam, những yếu tố hợp lý của lý thuyết nhà nước pháp quyền đã được
vận dụng vào quá trình đổi mới bộ máy nhà nước. Tòa án thiết chế trung tâm của
quyền lực tư pháp ngày càng được bảo đảm độc lập trong quá trình xét xử nhằm bảo
vệ quyền con người tốt hơn. Trong những năm qua, Tòa án Việt Nam bằng các hoạt
động xét xử hình sự, xét xử dân sự và xét xử hành chính đã ngăn chặn có hiệu quả
những hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến quyền con người, đồng thời đã khôi
phục những quyền con người bị xâm hại. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của những
yếu tố mang tính chất lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế,
hệ thống pháp luật còn nhiều mâu thuẫn, thiếu sót, một bộ phận Thẩm phán năng
lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa tương xứng, phẩm chất đạo đức hạn chế
đã khiến cho hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng hoạt động xét xử chưa đáp ứng
được yêu cầu, mong muốn của người dân. Trong các nguyên nhân ảnh hưởng tiêu
cực đến chất lượng và hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng xét xử thì Thẩm phán,
Hội Thẩm và Tòa án chưa thực sự độc lập là một trong những nguyên nhân cơ bản
khiến cho hiệu quả bảo vệ quyền bằng xét xử bị hạn chế. Chính vì Tòa án, Thẩm
phán và Hội Thẩm chưa độc lập trong quá trình xét xử khiến cho một sô bản án,
quyết định của Tòa án chưa khách quan, chưa công bằng. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến niềm tin của người dân vào công lý, công bằng xã hội. Bên cạnh đó,
những mâu thuẫn, chồng chéo của pháp luật tố tụng tư pháp, tổ chức hệ thống Tòa
án và chất lượng đội ngũ Thẩm phán cũng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất
lượng và hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng hoạt động xét xử.
Chính vì vậy, nhằm bảo đảm định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN, nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay là cần phải xây dựng
các giải pháp khoa học và thực tiễn thúc đẩy hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng
Tòa án. Nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng Tòa án đồng thời xây
dựng cơ sở lý luận và pháp luật đảm bảo vị trị, vai trò tối cao của Tòa án trong việc
bảo vệ quyền con người là một trong những yêu cầu tiên quyết quyết định sự thành
công của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Những giải pháp nhằm
150
bảo đảm sự độc lập của Tòa án; bảo đảm hoạt động xét xử công bằng; quyền kiểm
soát quyền lực nhà nước bằng hoạt động xét xử; nâng cao chất lượng hoạt động thi
hành án dân sự đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là nâng cao hiệu quả bảo vệ
quyền con người bằng hoạt động xét xử, đồng thời đó nâng cao vị trí, vai trò của
Tòa án trong tâm lý, nhận thức của xã hội nhằm góp phần vào sự thành công của
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì
dân.
Nhằm bảo đảm cho những giải pháp đã được luận án đề xuất phát huy được
hiệu quả trong thực tiễn thì cần phải tiếp tục nghiến cứu và làm rõ cơ sở lý luận
cũng như thực tiễn của những vấn đề khoa học sau:
- Tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phạm vi, nội dung và kết
cấu của đạo luật bảo đảm độc lập xét xử của Tòa án;
- Tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phạm vi, nội dung và kết
cấu của chế định tố tụng Hiến pháp;
- Tiếp tục nghiên cứu pháp luật có liên quan để sửa đổi và bô sung nhằm tạo ra
cơ sở pháp lý thống nhất, phụ hợp phục vụ việc thay đổi quy trình tuyển chọn và bổ
nhiệm Thẩm phán;
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn để xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức
nghề Thẩm phán.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐÃ
CÔNG BỐ
1. Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 01/2014, trang 6-11;
2. Nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người của Tòa án ở Việt Nam, Tạp chí
Pháp luật và phát triển, số 01/2014, trang 46-53;
3. Bảo đảm sự độc lập của Tòa án bằng Hiến pháp, Tạp chí Pháp luật và Phát
triển, số 5+6/2013, trang 65-72;
4. Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền công dân, Tạp chí TAND, số
22/2013, trang 7-11;
5. Hoàn thiện chế định quyền con người trong tố tụng hình sự thông qua hoạt
động xét xử của Tòa án, Tạp chí Kiểm sát, số 23/2013, trang 46-51.
6. Vị trí, vai trò và chức năng của tòa án ở Thái Lan hiện nay, Thông tin pháp
lý, số 13/2012, trang 2-5;
7. Mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với các đảng phái chính trị trong nhà
nước tư sản, Thông tin pháp lý, số 10/2012, trang 14-20;
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu bằng Tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (2009), Từ điển Hán Việt giản yếu, Nxb. Văn Học;
2. Hoàng Thế Anh, Hiện trạng án dân sự tồn đọng, đăng trên trang web:
, truy cấp lúc 23h, ngày 15/7/2013;
3. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Báo cáo kết quả 4 năm thực hiện Nghị
quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới;
4. Nguyễn Cảnh Bình (dịch) (2013), Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào,
Nxb. Thế Giới;
5. Bộ ngoại giao Việt Nam, Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực
hiện quyền con người ở Việt Nam, đăng trên ,
truy cập ngày 04/11/2013;
6. Bộ Tư pháp – Dự án Star Việt Nam (2011), Kinh nghiệm xây dựng và sửa
đổi Hiến pháp Hoa Kỳ, Tài liệu Hội thảo quốc tế, Hà Nội;
7. Chính phủ (2013), Báo cáo tổng kết tổng kết công tác phòng chống tham
nhũng năm 2012;
8. Nguyễn Ngọc Chí (2012), Tổ chức Tòa án theo cấp xét xử trong hiến pháp
sửa đổi, bổ sung, (Trong sách sửa đổi, bổ sung hiến pháp 1992- những vấn
đề lý luận và thực tiễn, tập 1, Nxb. Hồng Đức);
9. Nguyễn Ngọc Chí (2009), Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
trước yêu cầu của cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,
số 25;
10. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb
Tư pháp, Hà Nội;
11. Nguyễn Đăng Dung (2010), Hạn chế sự tùy tiện của các cơ quan nhà
nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
12. Nguyễn Đăng Dung (2012), Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội;
153
13. Nguyễn Đăng Dung và Vũ Công Giao, Độc lập tư pháp – Lý luận và thực
tiễn, đăng trên truy cập ngày 23/4/2013;
14. Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam, Nxb. Tư pháp. Hà nội;
15. Trịnh Hồng Dương (1996) chủ nhiệm đề tài “Vị trí, vai trò và chức năng
của Toà án nhân dân trong bộ máy nhà nước ta qua các thời kỳ cách mạng
Việt Nam” MS: 95-98-048/ĐT. Quyễn 1, Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội;
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1956), Chỉ thị của Bộ Chính trị số 43/CT-TW,
tháng 7 năm 1956 về việc tích cực phát huy thành tích và kiên quyết sửa
chữa sai lầm của cải cách ruộng đất đợt 5;
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày
02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới;
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày
02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tóm tắt kết quả 04 năm triển
khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới;
20. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, IX, X, XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H;
21. Đảng cộng Sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sửa đổi và phát triển năm 2011, H;
22. Phạm Hoàng Giang (2007), Vai trò của án lệ với sự phát triển của pháp
Luật hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 02;
23. Võ Trí Hảo (2003), Vai trò giải thích pháp luật của Tòa án, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 3;
24. Nguyễn Đức Hiệp (2004), Những yêu cầu của cải cách tư pháp và xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN đối với họat động xét xử của tòa án, Tạp
chí Pháp lý, số 09;
25. Hội luật gia Việt Nam (2013), Chỉ số công lý: Thực trạng công bằng và
bình đẳng dựa trên ý kiến của người dân năm 2012;
154
26. Nguyễn Thị Hồi (2011), Câu hỏi ôn tập môn lý luận nhà nước và pháp
luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
27. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc
tổ chức Bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
28. Tô Văn Hoà (2007), Tính độc lập của toà án- Nghiên cứu pháp lý về khia
cạnh lý luận, thực tiến ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với
Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội;
29. Khoa luật- Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người – Tập hợp
những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên hợp quốc,
Nxb. Công an nhân dân;
30. Vũ Đức Khiển (2006), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN vủa dân, do dân, vì dân,
MS:KX.04.05, Bộ Tư pháp, Hà Nội;
31. Hoàng Thế Liên (2006), Xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật phục vụ
cải cách tư pháp một nhiệm vụ trong tâm của ngành tư pháp, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 07;
32. Trần Huy Liệu (2005), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư
pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ,
Đại học Luật Hà Nội;
33. Trương Đắc Linh (2009), Bàn về tài phán hiến pháp và thẩm quyền của cơ
quan tài phán hiến pháp ở Việt Nam (Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến);
34. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm
1948;
35. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm
1966;
36. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
năm 1966;
37. Lê Vương Long (2006), Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật, Nxb
Tư pháp, Hà Nội;
38. Lê Vương Long (chủ biên) (2008), Trách nhiệm pháp lý, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay, Nxb. CAND, Hà Nội;
155
39. Nguyễn Đình Lộc (2001), Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp ở nước ta, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
40. Uông Chu Lưu (2006) chủ nhiệm đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp,
hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét xử của Tòa
án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” MS:
KX.04.06, Bộ Tư pháp, Hà Nội;
41. Phan Công Luận (2006), Uy tín của người Thẩm phán, Tạp chí Luật học,
số 01;
42. Nguyễn Văn Luyến (2005), Vai trò của Tòa án trong việc phòng ngừa tội
phạm, Tạp chí Luật học, số 06;
43. Đoàn Đức Lương (2007), Nâng cao năng lực xét xử các vụ án dân sự của
Tòa án trong quá trình cải cách tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
02;
44. Mác- Anghen toàn tập, Tập 3, tập 23;
45. Dương Thanh Mai (2011), Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN trong các dự thảo văn kiện trình đại hội XI, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số Chuyên đề;
46. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3;
47. Hồ Chí Minh (2005), Bàn về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội;
48. Mongtesquieu (1996), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội;
49. Đổ Mười (1991), Sửa đổi Hiến pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
50. Nguyễn Năng Nam (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và
quản lý xã hội ở Việt Nam trên cơ sở đạo đức và pháp luật theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Tạp chí Luật học, số 06
51. Khuất Văn Nga (2010), Khẩn trương xây dựng BLTTHS cho những năm
sau 2010, Tạp chí Kiểm sát, số 15
52. Phạm Hữu Nghị, Nguyễn Như Phát (2010), Nâng cao tính pháp quyền của
nhà nước vì mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
156
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
10;
53. Trần Nghị (2009), Nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp
luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12;
54. Phan Đăng Nhật (2007), Tòa án phong tục- Một kiểu vận dụng luật tục có
hiệu quả, Tạp chí Nhà nứơc và pháp luật, số 03;
55. Hoàng Phê (chủ biên) (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng;
56. Philippa Strum, Vai trò của tư pháp độc lập, (Trong sách về pháp quyền và
chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu luận của học giả nước ngoài, Khoa luật –
Đại học quốc gia Hà Nội (2012), Nxb. Lao động – xã hội, Hà nội);
57. Nguyễn Thị Hoài Phương (2009), Mô hình Tòa án hiến pháp Việt Nam
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế về bảo hiến;
58. Quốc hội Nước Việt nam dân chủ cộng hòa (1946), Hiến pháp 1946;
59. Quốc hội Nước Việt nam dân chủ công hòa (1959), Hiến pháp năm 1959;
60. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (1980), Hiến pháp năm 1980;
61. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2001), Hiến pháp năm 1992 sửa đổi,
bổ sung năm 2001;
62. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp năm 2013;
63. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2009), Bộ luật Hình sự năm 1999
(và đã sửa đổi, bổ sung năm 2009);
64. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003;
65. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2011), Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004 đã sửa đổi bổ sung năm 2011;
66. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2005), Bộ luật dân sự năm 2005;
67. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Tòa án năm
2002;
157
68. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2008), Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008;
69. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2008), Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung
năm 2008;
70. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2011), Luật trách nhiệm bồi thường
Nhà nước;
71. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2011), Luật Tố tụng hành chính;
72. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật đất đai năm 2014;
73. Tào Thị Quyên (2005), Cơ sở của chế độ giám sát tư pháp Hiến pháp, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 10;
74. Jean Jacque Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Chính trị pháp
lý, Hà nội;
75. Sandra Day O'Connor, Tầm quan trọng của độc lập tư pháp, (trích dẫn từ
sách Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, Nxb. Lao động - xã hội, năm
2012);
76. Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Một số bình luận từ thực tiễn giải quyết vụ việc
hạn chế cạnh tranh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01;
77. Bùi Ngọc Sơn (2010), Một Hiến pháp hoàn hảo hơn, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 11;
78. Bùi Ngọc Sơn (2004), Tố tụng hiến pháp, Tạp chí nhà nứoc và pháp luật,
số 12;
79. Bùi Ngọc Sơn (2005), Triết lý chính trị Trung Hoa cổ đại và vấn đề nhà
nước pháp quyền- Suy ngẫm, tham chiếu và ngợi mở. Nxb. Tư pháp, Hà
Nội;
80. Bùi Ngọc Sơn (2004), Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn
hoá Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
81. Bùi Ngọc Sơn (2005), Góp phấn nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp
quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
82. Bùi Ngọc Sơn (2007), Cách nhìn truyền thống của người Việt và những hệ
lụy của nó, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 01;
158
83. Bùi Ngọc Sơn (2006), Bảo hiến ở Việt Nam, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội;
84. Thanh tra Chính phủ (2013), Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2012 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2013 của ngành Thanh tra;
85. Lê Minh Tâm (2010) (chủ nhiệm), Văn hóa pháp luật ở Việt Nam: từ lý
luận đến thực tiễn, Đề tài KX.03.03/06-10;
86. Thái Vĩnh Thằng (2008), Từ điển thuật ngữ lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb. CAND, Hà Nội;
87. Thái Vĩnh Thắng (2008), Tổ chức Tòa án hành chính của Cộng hòa Pháp
và một số kinh nghiệm có thể áp dụng cho Tòa hành chính ở Việt Nam, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 03;
88. Đặng Minh Tuấn, Nâng cao độc lập tư pháp; một trọng tâm của việc sửa
đổi Hiến pháp, (Trong sách sửa đổi, bổ sung hiến pháp 1992- những vấn đề
lý luận và thực tiễn, tập 1, Nxb. Hồng Đức, 2012.);
89. Lã Khánh Tùng, Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế,
đăng tại truy cập ngày 07/12/2013;
90. TAND tối cao (2007), Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 phương hướng
và nhiệm vụ công tác năm 2008 của ngành Tòa án;
91. TAND tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm 2008 phương hướng
và nhiệm vụ công tác năm 2009 của ngành Tòa án;
92. TAND tối cao (2009), Báo cáo tổng kết công tác năm 2009 và nhiệm vụ
trọng tâm năm 2010 của ngành Tòa án;
93. TAND tối cao (2010), Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và nhiệm vụ
trọng tâm năm 2011 của ngành Tòa án;
94. TAND tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2011 và nhiệm vụ
trọng tâm năm 2012 của ngành Tòa án;
95. TAND tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và nhiệm vụ
trọng tâm năm 2013 của ngành Tòa án;
96. TAND tối cao (2013), Báo cáo số 11/BC-TA, ngày 20/3/2013 của TAND
tối cao về việc trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội;
97. TAND tối cao (2010), Báo cáo tổng kết 12 năm thực tiễn giải quyết vụ án
hành chính;
159
98. TAND tỉnh Thừa Thiên Huế (2011), Báo cáo tổng kết công tác các năm
2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011;
99. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
Tòa án năm 2002;
100. Ủy ban Thường vụ quốc hội (2011), Quy chế phối hợp giữa TAND tối
cao với Hội đồng nhân dân địa phương trong việc quản lý Tòa án địa
phương về tổ chức ban hành kèm theo Nghị quyết số 132/NQ-UBTVQH11
của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 11;
101. Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2005), Từ điển luật học, Nxb. Từ
điển Bách khoa;
102. Viện Khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (2011), Một số vấn đề về tổ chức và
hoạt động thi hành án hiện nay, Thông tin khoc học pháp lý, số chuyên đề
Thi hành án dân sự;
103. VPCULHQ về quyền công dân và Hội luật sư quốc tế (2009), Quyền
công dân trong quản lý tư pháp, Nxb. Công an nhân dân;
104. Chu Thị Trang Vân (2006), Tiếp cận quyền tư pháp và việc áp dụng
pháp luật hình sự của Tòa án từ góc độ lịch sử, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 06;
105. Nguyễn Quốc Vinh (2010), Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết
đã lỗi thời, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13;
106. Nguyễn Quang Vũ, Hà Hồng Hà (2010), Áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân các cấp – nhìn từ một địa phương, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 16;
107. Phạm Hoàng Yến (2005), Đối tượng xét xủa hành chính của TAND, Tạp
chí Quản lý nhà nước, số 04;
108. Wolfgang Benedek (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb. Tư pháp;
Tài liệu bằng Tiếng Anh
109. David Feldman (2011), Extending the Role of the Courts: The Human
Rights Act 1998, Article first published online: 24 JAN 2011 (© The
Parliamentary History Yearbook Trust 2011);
160
110. Eyal Benveniti (1997), The role of national courts in preventing of
torture suspected terrorists, Tạp chí EJIL, số 8;
111. Harold R. Nsekela (2010), The role of national courts and regional courts
in protecting human rights and developing human rights jurisprudence” A
Paper for Presentation during the EAMJA Annual Conference and General
Meeting, 17th-22nd May 2010, at Ngurdoto Mountain Lodge, Arusha,
Tanzania;
112. Marie Eve Hudon (2011), The role of the courts in the recognition of the
language rights, publication 2001-68-E;
113. Mircea Damaschin (2011), The right to an independent court of law.
Theoretical aspects. The european court of human rights case-law, Tạp chi
Lex et Scientia, số 18;
114. Mr Khanlar Hajiyev(2002), The role of constitutional courts and ordinary
courts in protection for the human rights, Conference on “Human Rights
Protection Systems”(Bishkek, 21-22 November 2002) được tổ chức bởi
CDL-JU, số 43;
115. Nancy Holmes (1991), Human rights and the courts in Canada”, Tạp chí
Law and Government Division, số 11
116. Oxford University (2007), Oxford student’s Dictionary for learners
using English to study other subjects, Oxford University press;
117. John William Stickels (2003), Victim satisfaction: A model of the
Crimminal Justice System, Luận án tiến sĩ luật học;
118. Yaser Dogan (2009), The fundamental rights jurisprudence of the
european court of justice: Protection for human rights within the european
uinon legal order, Tạp chí Ankara law review, số 6;
119. Young KG (Young, Katharine G.) (2010), A typology the economic and
social rights adjudication: Exploring the catalytic function the judicial review”
Tạp chí Icon – International journal of constitutional law, số 8;
Tài liệu trên web site:
120. www.sotaythamphan.gov.vn/view_index.php?hidEvent=selectChapter&
hidChapter=270;
161
121. www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=5454, truy
cập lúc 15h, ngày 05/9/2013, 8 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW trong
ngành Tòa án: Tranh tụng tại phiên tòa tiếp tục là khâu đột phá;
122. www.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%AF_th%E1%BA%A7n_C%C3%
B4ng_l%C3%BD.
123.
ly-hon-724535.htm;
124.
dinh-khang-an-cua-toa-toi-cao-1253313.html;
125.
trai-phap-luat.html;
126.
trai-phap-luat.html;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hoan_chinh_dangcongcuong_9517.pdf