Luận chứng vai trò của tri thức khoa học - Công nghệ với phát triển kinh tế

MỤC LỤC I. Lời mở đầu 01 II. Nội dung 04 1. Khái niệm tri thức khoa học – công nghệ và mối quan hệ của chúng .04 a. Khái niệm tri thức khoa học 04 b. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ . 04 2. Vai trò của tri thức khoa học – công nghệ với hoạt động kinh tế 05 a. Tri thức khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho sự phát triển kinh tế 05 b. Tiềm lực khoa học – công nghệ của Việt Nam hiện nay . 07 c. Những yếu kém và hạn chế của khoa học – công nghệ của Việt Nam hiện nay 08 3. Vai trò của tri thức khoa học - công nghệ cao với phát triển kinh tế tri thức a. Kinh tế tri thức là gì 09 b. Điều kiện hình thành kinh tế tri thức 13 c. Các cách tiếp cận khoa học – công nghệ tri thức 15 d. Hướng tới một nền kinh tế tri thức 20 III. Kết luận . 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mac – Lê nin ( Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ) 2. Văn kiện đai hội VIII 3. Nghị quyết TƯ II khóa VIII 4. Trang web chungta.com

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4240 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận chứng vai trò của tri thức khoa học - Công nghệ với phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. LỜI MỞ ĐẦU Từ vài thập niên gần đây, với những tác động mạnh mẽ của các tiến bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt của công nghệ thông tin và truyền thông, thế giới đang biến chuyển tới một nền kinh tế và xã hội mới mà thông tin và tri thức được xem là nguồn lực chủ yếu. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, điều đó cũng tác động mạnh mẽ đến các nước đang phát triển, như ta thường nói, nó mang đến cho ta cả những cơ hội, cả những thách thức. Cơ hội thì thường dễ tuột qua nếu không đủ bản lĩnh và hiểu biết để tận dụng, còn thách thức thì đầy nghiêm khắc và nghiệt ngã... Nền kinh tế tri thức, xã hội tri thức...nó là của ai, cho ai? Nó có là của ta, cho ta hay không? Điều đó phụ thuộc vào bản lĩnh và ý chí phát huy mọi tiềm năng tri thức trong đất nước ta, phụ thuộc vào khả năng mở rộng một môi trường tự do và lành mạnh cho các hoạt động giao lưu thông tin và tri thức trong xã hội ta. Trong một báo cáo gần đây của Uỷ ban Liên hiệp quốc về Khoa học và Công nghệ với chủ đề “Các xã hội tri thức: Công nghệ thông tin vì sự phát triển bền vững”, các tác giả đã đi đến kết luận: Các nước đang phát triển từ những điểm xuất phát khác nhau đều cần xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia để phục vụ các mục tiêu phát triển, hướng tới một “xã hội tri thức” đổi mới; và dù cái giá phải trả cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin đó là khá cao, nhưng cái giá phải trả cho việc không làm điều đó chắc sẽ còn cao hơn rất nhiều! Chúng ta đều biêt rằng tri thức có vai trò hết sức quan trọng góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Mặc dù những câu hỏi có tính triết học về bản chất của tri thức, về quá trình hình thành tri thức, về quan hệ giữa vật chất và trí tuệ...Vẫn không ngừng được tranh luận và chưa có được câu trả lời thoả đáng, nhưng trong mọi lĩnh vực hoạt động khoa học, kinh tế, văn hoá, tri thức vẫn luôn được tìm kiếm, phát hiện, và tác động ngày càng lớn đến sự phát triển xã hội loài người. Máy tính điện tử, công cụ chủ yếu của Công nghệ thông tin hiện đại, là loại máy móc thay thế con người trong các hoạt động lao động trí óc. Chất lượng và khối lượng của các hoạt động trí óc này không ngừng tăng lên theo sự tiến triển nhanh chóng về khả năng lưu trữ và xử lý thông tin của máy. Từ hàng chục năm nay, cùng với khả năng tính toán khoa học kỹ thuật không ngừng được nâng cao, các hệ thống máy tính đã được ứng dụng để tổ chức nhiều cơ sở dữ liệu thuộc mọi qui mô trong các ngành kinh tế, xã hội, hình thành dần kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, nền móng của sự phát triển kinh tế thông tin ở nhiều nước. Sự phong phú về thông tin, dữ liệu cùng với khả năng kịp thời khai thác chúng đã mang đến những năng suất và chất lượng mới cho công tác quản lý, hoạt động kinh doanh, phát triển sản xuất và dịch vụ... Nhưng rồi các yêu cầu về thông tin trong các loại hoạt động đó, đặc biệt là trong việc làm quyết định, ngày càng đòi hỏi chất lượng cao hơn, người làm quyết định không những cần dữ liệu mà còn cần có thêm nhiều hiểu biết, nhiều tri thức để hỗ trợ cho việc ra quyết định của mình. John Naisbett đã cảnh báo “Chúng ta đang chìm ngập trong dữ liệu mà vẫn đói tri thức”, điều đó cũng báo trước rằng việc ứng dụng Công nghệ thông tin đã chuyển sang một bước mới mà nội dung là trợ giúp con người nhiều hơn trong việc tìm kiếm tri thức và trong các hoạt động trí tuệ, tức là chuyển đổi từ sự giàu có thông tin thành sự giàu có tri thức, nguồn lực chủ yếu cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Hòa nhập vào dòng thác phát triển chung của nhân loại, Việt Nam đang bước vào một thời kì phát triển mới – thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.Bên cạnh thành tựu đã đạt được, chúng ta còn nhiều khó khăn, hạn chế cần khắc phục. Cụ thể là trình độ công nghệ lạc hậu, tiềm lực khoa học công nghệ yếu cả về nguồn nhân lực khoa học công nghệ lẫn nguồn vốn cho hoạt động khoa học công nghệ, cơ chế quản lý khoa học công nghệ còn yếu kém, ít gắn bó với sản xuất kinh doanh.Chính vì vậy việc áp ding khoa học công nghệ vào công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta là tất yếu.Chỉ có như vậy mới đưa nước ta thoát khổi nghèo nàn, lạc hậu, trở thành một nước có nền kinh tế phát triển “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “ Khoa học công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII). Chính vì nắm bắt được tư tưởng của Đảng, em chọn đề tài “ Luận chứng vai trò của tri thức khoa học – công nghệ với phát triển kinh tế ”. Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài tiểu luận này chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, rất mong sự đóng góp chỉ dạy của các thầy cô. Bài viết thể hiện một phần nào đó quan điểm, cách nhìn của giới trẻ Việt Nam về cuộc sống và những biến đổi lớn trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước minh, đặc biệt là vấn đề tri thức khoa học – công nghệ. Em xin chân thành cảm ơn! II. NỘI DUNG 1. Khái niệm tri thức khoa học – công nghệ và mối quan hệ của chúng a. Khái niệm tri thức khoa học – công nghệ Ý thức là một hiện tượng tâm lý, xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Trong đó tri thức là một yếu tố cơ bản, cốt lõi câu thành nên ý thức. Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thông ký hiệu khác nhau. Tri tức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức thông thường được hình thành qua mỗi hoạt động thường ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính, trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực. Hầu hết các nhà khoa học đều thừa nhận tri thức khoa học bao gồm tri thức: kinh nghiệm và tri thức lý luận. Trong đó tri thức kinh nghiệm là trình độ thấp, còn tri thức lý luận là trình độ cao của tri thức khoa học. Giữa hai trình độ này các tri thức khoa học có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề, cơ sở cho nhau cùng phát triển, phản ánh ngày càng gần đúng hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thế giới vật chất đang vận động không ngừng. b. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệ được xác định là nền tảng và động lực cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Về thực chất công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao. Do đó nói đến công nghiệp hóa hiện đại hóa là nói đến việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội. Trong thời đại ngày nay khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và là động lực của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Phát triển khoa học công nghệ, gắn khoa học công nghệ với đời sống chính là mấu chốt đảm bảo sự thành công của cong nghiệp hóa hiện đại hóa. Nhận thức được vấn đề đó, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học và công nghệ như : Tại hội nghị lần thứ VII, ban chấp hành TƯ VII đã khẳng định “ Khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa hiện đại hóa”, hội nghị lần thứ II ban chấp hành TƯ khóa VIII cũng nhấn mạnh “ Cùng với giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH. Công nghiệp hóa hiện đại hóa phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ ” Muốn vậy chúng ta phải gắn hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ với thực tiễn,với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, phải tăng cường vốn đầu tư và tìm ra động lực cho phát triển bản thân nó. Động lực đó chính lầ lợi ích của những nhà nghiên cứu, phát minh, ứng dụng có hiệ quả của khoa học công nghệ. 2. Vai trò của tri thức khoa học – công nghệ với phát triển kinh tế a. Tri thức khoa học –công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển kinh tế Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của khoa học – công nghệ đối với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nói riêng, đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam nói chung được biểu hiện trên các mặt cụ thể sau: Khoa học – công nghệ có vai trò quyết định trong việc trang bị và trang bị lại các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc dân nói chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới với mục tiêu không ngừng cải thiện và nâng cao mức sống của người dân, sự phồn vinh và sức mạnh của Việt Nam. Đói là nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng nhất cảu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Khoa học – công nghệ còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ - một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Có nhiều cách thức để chung tat rang bị và trang bị lại công nghệ hiệ đại, tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên dù bằng hình thức nào đi chăng nữa điều quan trọng và có tính chất quyết định nhất ở đây là cần phải có những con người có đủ trí tuệ và năng lực để có thể khai thác và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại. Văn kiện đại hội Đảng IX đã chỉ rõ “ Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo khoa học – công nghệ là nền tảng và động lực của suwjnghieepj công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học – công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi trường thông tin và thị trường thông tin – huyết mạch của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và của cả nền kinh tế. So với giai đoạn phát triển trước đây thì ngày nay thông tin có một vị trí cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cả những hoạt động tinh thần. Thông tin trong lĩnh vực khoa học – công nghệ có liên quan rất chặt chẽ đến việc nắm bắt các bí mật, bí quyết công nghệ nằm trong các phương pháp, các thiết bị, các dữ liệu khoa học – công nghệ mới nhất. Trong xã hội hiện đại,trình độ phát triển của công nghệ thông tin có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của hàng loạt công nghệ hiện đại. Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học – công nghệ là cung cấp các trang thiết bị hiện đại thông qua các công nghệ cao, công nghệ sạch để con người khắc phục được những hậu quả tiêu cực do chính các phương tiện kỹ thuật chưa hoàn thiện trước gây ra. b. Tiềm lực khoa học – công nghệ của Việt Nam hiện nay Nhờ có đường lối đúng đắn và sự quan tâm đầu tư của Đảng và nhà nước ta đối với khoa học công nghệ trong suốt các thời kỳ vừa qua, cho đến nay Việt Nam đã có những tiềm lực khoa học – công nghệ đáng kể, có khả năng cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách phát triển đất nước, tiếp thu nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ được chuyển giao từ bên ngoài, từng bước vươn lên giải quyết nhiều vấn đề khoa học – công nghệ do nhu cầu thực tiễn đất nước đặt ra. Về nông nghiệp Cây lương thực : Chọn tạo được hai giống lai có năng suất cao 30 – 35 tạ/ha, chất lượng tốt, kháng sâu bệnh, một giống đậu tương có thời gian sinh trưởng 85 – 90 ngày, năng suất 20 – 25 tạ/ha. Cây công nghiệp : Đã chọn tạo ra 29 dòng cao su vô tính xuất sắc, trong đó có 12 dòng vô tính đa tính trạng, 5 dòng cao su có triển vọng về năng suất mủ, đưa vào sản xuất 4 dòng vô tính và khuyến cáo 2 giống nhập nội PB280, PB281. Đưa vào sản xuất 4 tinh dòng cà phê với 3 giống cà phê chè, 2 dòng chè 215 và 276 và dòng chè 5.0 năng suất cao, chất lượng tốt. Giống vật nuôi : đưa vào sản xuất 18 dòng và các tổ hợp lợn lai và gia cầm như lợn lai nuôi thịt 87,51 máu ngoại lai và 12,51 máu nội, lợn lai 3 máu ngoại và 4 máu nội, dòng gà 882 và Jangam, dòng vịt V5, V6, hai dòng chim bồ câu nhập từ Pháp… Về lâm nghiệp Công nhân đã đưa vào sản xuất các giống tiến bộ kỹ thuật cho các biến chủng Honduensis của cây thông gồm 5 xuất xứ Cardwell, Byfield, Poptun 2, Poptun 3, Alamicamba. Về ngư nghiệp Các công nghệ chế biến thức ăn tôm, thiết bị ép viên, thiết bị sấy và công nghệ sản xuất giống tôm sú chất lượng cao đã được chuyển giao ứng dụng ở một số địa phương đạt kết quả tốt. Công nghệ sản xuất giống nhân tạo cua biển Saflla senata cũng đang được chuyển giao cho Hải phòng và Thanh Hóa. Về công nghệp Hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp định hướng vào mục tiêu phục vụ thiết thực cho các ngành sản xuất công nghiệp, phục vụ phát triển công nghiệp địa phương, phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, phục vụ phát triển kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần cho khai thác sử dụng tài nguyên, năng lượng, cải thiện và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu các dây chuyền công nghệ sản xuât bột giấy, dây chuyền đồng bộ 1 vạn tấn/năm, thiết bị lõi giấy điều khiển CNC năng suất 3000 tấn/năm, hệ thống nấu bột giấy năng suất 15000 – 20000 tấn/ngày. c. Những yếu kém và hạn chế của khoa học – công nghệ Việt Nam hiện nay Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, khoa học công nghệ nước ta vẫn còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và chưa thực sự đóng vai trò động lực, nền tảng cho phát triển. Sau đây là một số biểu hiện : Tiềm lực khoa học – công nghệ vãn còn ở mức thấp so với khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhu cầu phát triển. Tỷ lệ cán bộ khoa học – công nghệ trên tổng số dân chưa cao so với các nước khác. Đặc biệt còn thiếu nhiều chuyên gia đầu ngành, việc đào tạo và đào tạo lại tiến hành chậm, nguy cơ hụt hẫng trong đội ngũ rất lớn, nhất là trong ngành mũi nhọn như công nghệ thông tin, sinh học, cơ khí chế tạo máy. Việc xếp loại các cơ quan hoa học – công nghệ còn lúc túng, việc sử dụng đội ngũ tri thức còn lãng phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị nghiên cứu khoa học còn thấp xa so với nhu cầu thực tiễn. Cơ chế quản lý kinh tế chưa thực sự gắn kết các hoạt động khoa học – công nghệ với kinh tế xã hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho hoạt động khoa học – công nghệ phát triển. Mức đầu tư bình quân của các doanh nghiệp Việt Nam cho khoa học còn thấp, chưa vượt quá 0.25 % trong khi thỉ lệ này ở các nước công nghiệp hóa là 5 – 6 %, các nước phát triển là 10 %. Cơ chế quản lý khoa học – công nghệ chậm và vẫn chưa được đổi mới một cách căn bản, mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lý khoa học - công nghệ đã xuất hiện từ rất sớm. Chưa có sự liên thong giữa cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế quản lý khoa học – công nghệ. 3. Vai trò của tri thức khoa học - công nghệ cao với phát triển kinh tế tri thức a. Kinh tế tri thức là gì Có người dẫn lời Các Mác nói rằng, khi hàm lượng cơ bắp trong sản phẩm do con người làm ra giảm đến mức cực nhỏ thì lúc đó sẽ xuất hiện giai cấp công nhân khoa học. Và cho rằng điều đó đang được chứng minh trong nền Kinh tế Tri thức (KTTT). Thực ra, không cần phải đến KTTT mới xuất hiện giai cấp công nhân khoa học của Mác. Trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại được tự động hóa hoàn toàn như sản xuất xe ô tô, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất hóa chất... hàm lượng cơ bắp đã được giảm đến mức thấp nhất ngay từ khi chưa xuất hiện khái niệm KTTT. Cũng có những ý kiến đánh đồng KTTT với một số ngành kinh tế thường được gọi là ngành kinh tế mới như Kinh tế Internet, hay Công nghệ tin học và truyền thông, để từ đó cho rằng KTTT là nền kinh tế dựa vào tri thức, trong đó kinh tế Internet trở thành nội dung chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng rõ ràng là, bất kỳ ngành sản xuất kinh doanh nào cũng phải dựa vào tri thức và nền kinh tế Internet cũng chỉ là một trong những ngành kinh doanh, tuy đóng một vai trò ngày càng quan trọng, nhưng không thể trở thành một ngành kinh doanh độc lập mang tính quyết định cho một nền kinh tế được. Sự sụp đổ của hàng loạt công ty kinh doanh Internet (cả của các công ty kinh doanh Tin học và Truyền thông) hiện nay có thể sẽ giúp chúng ta thận trọng hơn, phân biệt rõ hơn khái niệm và vai trò của các ngành kinh doanh với một nền kinh tế. Mới chỉ trong vài năm gần đây, qua việc theo dõi sáu ngành công nghiệp then chốt của tương lai là: công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ kỹ thuật hàng không-vũ trụ mới, và công nghệ kỹ thuật bảo vệ môi trường, người ta đã ghi nhận sự xuất hiện của một nền kinh tế hoạt động theo một công thức khác hẳn về bản chất so với công thức của nền kinh tế hàng hóa mà loài người từng biết. Hoạt động của nền kinh tế hàng hóa- dù đó là kinh tế thị trường hay kinh tế kế hoạch- đều tuân theo công thức nổi tiếng: Tiền - Hàng - Tiền. Trong khi đó, nền kinh tế mới xuất hiện lại hoạt động theo công thức: Tiền- Tri thức- Tiền. Theo đánh giá chung của những học giả hàng đầu ở phương Tây thì ngày nay KTTT mới chỉ đang định hình ở 03 nước công nghiệp phát triển nhất là Mỹ, Đức và Nhật bản. Vì vậy chưa thể đưa ra được một định nghĩa hay một công thức xác định thế nào là KTTT. Thông qua việc nghiên cứu sáu ngành công nghiệp then chốt đã nói ở trên, người ta chỉ có thể ghi nhận được một số đặc trưng cơ bản nhất- cần chứ chưa phải đã đủ- của nền kinh tế mới này như sau: Sự xuất hiện các xí nghiệp sản xuất được tự động hóa cao độ và rất linh hoạt, do tác động đồng bộ của tiến bộ khoa học trong hàng loạt lĩnh vực, mà đặc biệt là trong Công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông. Sản phẩm của những xí nghiệp này là những sản phẩm "thông minh". Đó là những sản phẩm không chỉ chứa một hàm lượng thông tin cao, mà còn cả một hàm lượng tri thức cao hơn hẳn sản phẩm công nghiệp cổ điển, khiến cho nó có khả năng sử dụng, chế biến thông tin, đáp ứng nhu cầu riêng của khách hàng. Các công nghệ mới đang làm thay đổi triệt để qúa trình sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Chẳng hạn, kỹ thuật Gen bắt đầu thay đổi một cách căn bản qúa trình sản xuất, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm trong công nghiệp dược phẩm, công nghiệp hóa chất. Tương tự như vậy, công nghệ sản xuất vật liệu mới cũng thay đổi một cách sâu sắc sản phẩm của công nghiệp sản xuất vật liệu cổ điển. Ví dụ: Sứ có tính năng đặc biệt đã được dùng trong công nghiệp sản xuất ô tô. Trong tương lai không xa sẽ xuất hiện động cơ bằng sứ chịu được nhiệt độ cao hơn hẳn thế hệ động cơ hiện tại và vì vậy sẽ tiết kiệm nhiều nhiên liệu hơn. Hay những vật liệu siêu tinh khiết mới cho công nghiệp sản xuất vi mạch điện tử, v.v.... Vốn đầu tư cho nghiên cứu, phát triển sản phẩm cũng như xây dựng nhà máy sản xuất trong nền KTTT là hết sức lớn. Để có thể hoàn vốn đầu tư, sản phẩm phải được sản xuất với số lượng lớn tối đa. Không những thế, doanh nghiệp trong KTTT phải bằng mọi cách hoàn vốn trong thời gian ngắn nhất trước khi sản phẩm thế hệ mới của công ty khác được tung ra thị trường, đây là điều xẩy ra rất nhanh trong KTTT. Thị trường của các doanh nghiệp trong nền KTTT vì vậy phải là thị trường toàn cầu. Rõ ràng là chỉ có không nhiều doanh nghiệp đáp ứng được những điều kiện cạnh tranh gay gắt này. Và cũng sẽ chỉ có một vài quốc gia đủ khả năng hỗ trợ tài chính cho các tập đoàn kinh doanh tòan cầu, cũng như giữ ổn định môi trường luật pháp-xã hội-chính trị để các công ty này không chuyển trụ sở sang nước khác. Như vậy, ta có thể đưa ra nhận xét sơ bộ nhất để trả lời câu hỏi "KTTT là gì?" như sau: KTTT là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hóa tư bản, trong đó công thức hoạt động cơ bản Tiền-Hàng-Tiền được thay thế bằng Tiền- Tri Thức- Tiền và vai trò quyết định của Tri thức được thể hiện qua các mặt sau đây: Hàm lượng Tri thức trong qúa trình sản xuất phải chiếm phần quyết định. Theo nhiều học giả thì hàm lượng này phải chiếm ít nhất là từ 60 đến 65% giá thành sản xuất và ít nhất là 35% giá trị sản phẩm. (Các con số này trong một số ngành công nghiệp then chốt ở Đức hiện nay trung bình là 60 và 30%, ở Hoa Kỳ là 62 và 35%). Hàng hóa trong KTTT là Tri thức. Trong KTTT, Tri thức vừa được sử dụng để quản lý, điều khiển, tham gia vào qúa trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản xuất. Vì vậy, ngoài vai trò là hàng hóa trong KTTT, Tri thức- khác với hàng hóa trong kinh tế hàng hóa- cũng là tư liệu sản xuất. Trí thức để xử lý tri thức, để làm ra tri thức, tri thức quản lý điều hành... cũng trở thành hàng hóa và đó là những thứ hàng hóa được sản xuất không theo qúa trình sản xuất quen thuộc trong nền Kinh tế Hàng hóa. Chưa bao giờ Hàng hóa của một nền Kinh tế lại đồng thời giữ nhiều vai trò quyết định khác nhau đến vậy trong cả phương thức sản xuất lẫn quan hệ sản xuất như Hàng hóa Tri thức trong nền Kinh tế Tri thức. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ tin học và truyền thông rút ngắn càng ngày càng nhanh thời gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng và sáng tạo thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri thức cũng bị rút ngắn lại nhanh chóng. Một tri thức hôm nay có giá trị hàng tỷ Dollars, ngày mai đã có thể vô giá trị. Vì vậy, việc tiếp cận và trao đổi Tri thức ở phạm vi toàn cầu trong KTTT có ý nghĩa sống còn. Cạnh tranh trong KTTT trước hết là cạnh tranh với thời gian. Để bảo đảm sự phát triển bình thường của mình, KTTT sẽ dẫn đến việc xóa bỏ biên giới quốc gia, ít nhất và trước mắt là trong lĩnh vực thông tin. b. Điều kiên hình thành kinh tế tri thức Trước hết, cần khẳng định rằng, KTTT không phải là một bước nhảy đột biến, hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là hình thái phát triển cao hơn nữa- có tính tiến hóa- của nền kinh tế hàng hóa tư bản với sự kế thừa các qui luật của nền kinh tế thị trường. Chính sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị đến mức cao độ ở các nước công nghiệp phát triển nhất đã tạo tiền đề cho sự ra đời KTTT. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên vào cuối thế kỷ 18 tại Anh quốc đã đưa nước này lên vị trí lãnh đạo thế giới. Đồng thời nhận chìm Trung Quốc và Ấn Độ- là hai nước vào thế kỷ 17 còn giàu hơn cả Châu Âu- xuống hàng các nước thuộc địa và ngày nay vẫn còn là những nước đang phát triển. 100 năm sau, với ba ngành công nghiệp mới là Điện, Hóa chất và Chế tạo động cơ đốt trong, Đức và Mỹ đã trở thành hai cường quốc hàng đầu của thế giới trong giai đoạn hai của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Cũng đúng 100 năm sau vào cuối thế kỷ 20, chúng ta đang đứng ở trung tâm cuộc cách mạng thứ hai: cuộc cách mạng kinh tế-xã hội-công nghệ, nẩy sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Chính cuộc cách mạng công nghệ đã đưa các quốc gia công nghiệp phát triển đến xã hội tin học bằng cuộc cách mạng công nghệ tin học. Qúa trình phát triển kinh tế- xã hội này tại Mỹ, Đức và Nhật bản đã tạo được những tiền đề sau đây cho sự hình thành KTTT: Tự động hóa cao độ: Tự động hóa cao độ quá trình sản xuất không những giảm đến mức thấp nhất chi phí cho những yếu tố phi tri thức, mà còn rút ngắn một cách căn bản thời gian từ khi nghiên cứu phát triển đến sản xuất hàng loạt. Và như vậy mới gia tăng một cách đáng kể hàm lượng tri thức trong sản phẩm. Ngoài ra, chỉ có sự tự động hóa cao độ mới đáp ứng được nhu cầu sản xuất sản phẩm vừa với số lượng lớn, vừa rất linh hoạt đáp ứng nhu cầu chuyên biệt của khách hàng ở những thị trường khác nhau trên thế giới. Công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ. Đây là một trong những điều kiện căn bản nhất bảo đảm sự phát triển của KTTT. Nó không những là một ngành kinh tế then chốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tri thức, mà còn là điều kiện bảo đảm hiệu qủa việc tiếp cận, trao đổi, xử lý thông tin, sáng tạo tri thức của các ngành kinh tế-xã hội khác. Trong sản xuất-kinh doanh, sự phát triển công nghệ này đã dẫn đến cái mà chúng ta thường nghe nói: cuộc cách mạng giảm chi phí quản lý-điều hành. Chi phí liên lạc rất thấp cũng góp phần không nhỏ giúp doanh nghiệp có những phản ứng kịp thời cho mọi biến động trên phạm vi tòan cầu, thúc đẩy toàn cầu hóa doanh nghiệp. Ngoài ra, công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ có những đóng góp tích cực vào việc nâng cao tri thức cho người tiêu thụ bình thường, giúp họ nâng cao khả năng sử dụng sản phẩm tri thức. Bảo vệ có hiệu qủa một môi trường an toàn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và tiêu thụ Tri thức. Đó là một môi trường pháp lý bảo đảm tự do hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó gía trị Tri thức được bảo vệ bằng luật sở hữu Trí tuệ; sở hữu tư nhân phải được tôn trọng và bảo vệ. Một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường tài chính quốc tế hoạt động hữu hiệu. Như đã nói ở trên, doanh nghiệp trong KTTT vừa cần vốn đầu tư khổng lồ, vừa phải chạy đua với thời gian và đương đầu với những rủi ro lớn, nên hơn bao giờ hết, hoạt động của họ trong KTTT phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp vốn từ các thị trường tài chính. Ngược lại, sự ổn định của thị trường tài chính cũng gắn bó mật thiết với công cuộc kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo đảm sự hoạt động của một nền kinh tế với những quan hệ đan quyện phức tạp và nhậy cảm như vậy chỉ có thể thành công tại những quốc gia đã có nền kinh tế thị trường vững mạnh. Sau cùng, nhưng quan trọng hơn cả, đó là KTTT chỉ có thể hình thành ở những nhà nước pháp quyền dân chủ, nơi mà doanh nghiệp có thể lường trước được mọi rủi ro trong kinh doanh trên cơ sở những qui luật thị trường trong một khung pháp lý rõ ràng, ổn định không bị thay đổi một cách tùy tiện. c. Các cách tiếp cận khoa học – công nghệ tri thức Cho đến gần đây, mọi hoạt động liên quan đến việc hình thành tri thức và các quá trình suy luận trên tri thức đều thuộc chức năng đặc biệt của bộ não con người. Sự ra đời của máy tính điện tử đã mở ra triển vọng một số chức năng trí óc đó có thể dần dần được thực hiện (và thực hiện với năng suất cao hơn!) bởi máy tính. Ngay từ buổi đầu, các nhà khoa học được coi là cha đẻ của máy tính điện tử như A.Turing, J.von Neumann đã phân tích, so sánh các năng lực hoạt động của bộ óc và của máy tính, và đưa ra nhiều nhận xét lạc quan về khả năng tư duy của máy tính trong tương lai. Những thành tựu bước đầu của việc dùng máy tính để tự động hoá chứng minh các định lý của Lôgíc toán, để chơi cờ, để phiên dịch,...ngay từ thập niên 50, tuy còn khá thô sơ nhưng cũng đủ để kích thích sự phát triển khi bùng nổ khi âm thầm của nhiều ngành khoa học và công nghệ tri thức trong những thập niên tiếp theo. Và trong quá trình phát triển đó, một mặt con người có dịp tìm hiểu sâu hơn bản thân hoạt động nhận thức của mình, hệ thống tri thức mà mình đã tích luỹ được, những thuộc tính của tri thức và những đòi hỏi đối với tri thức trong hoạt động thực tiễn của con người trong một môi trường ngày càng nhiều biến động; mặt khác thúc đẩy việc nghiên cứu đề xuất nhiều phương pháp khoa học và giải pháp công nghệ để biểu diễn tri thức, thu thập và tìm kiếm tri thức, xử lý tri thức, quản trị tri thức nhằm ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong mọi hoạt động của con người. Dưới đây em sẽ trình bày vắn tắt quá trình phát triển đó, tạm chia theo ba bước chính sau đây: - Tri thức chắc chắn và các phương pháp suy luận lôgích tất định. - Tri thức không chắc chắn và việc tìm “qui luật” cho cái không chắc chắn. - Tri thức không chắc chắn trong môi trường biến động. 1. Sự phát triển khoa học trong nhiều thế kỷ qua gắn liền với sự thống trị của tất định luận trong nhận thức. Một tri thức khoa học phải là một chân lý mà tính đúng đắn của nó được thừa nhận là hoàn toàn chắc chắn. Trong các lý thuyết khoa học, một phán đoán luôn có một giá trị chân lý: hoặc đúng, hoặc sai. Các phương pháp suy luận trên các phán đoán đó là các cách dẫn xuất từ những phán đoán đúng đã có tìm ra một phán đoán đúng mới. Một hiện tượng bao giờ cũng là hệ quả của những hiện tượng có trước và đến lượt mình lại là nguyên nhân của một hiện tượng khác. Ngôn ngữ thông dụng để biểu diễn tri thức có thể qui về dạng ngôn ngữ lôgíc mệnh đề và logic tân từ, được làm giàu thêm bởi ngôn ngữ toán học của các biểu thức, phương trình....Các phương pháp suy luận tuân theo các qui luật của lôgic hình thức cổ điển, về cơ bản đã được hình thành từ Aristotle, với các qui luật đồng nhất, bài trung, phủ định, phủ định kép, các qui luật qui đinh mối quan hệ giữa các loại phán đoán phổ biến, đặc thù và đơn nhất, và với phép suy luận diễn dịch kiểu tam đoạn luận hay Modus Ponens. Các lý thuyết toán học, và một số lý thuyết khoa học khác chịu ảnh hưởng xu thế “toán học hoá”, đã được phát triển trong khuôn khổ của những quan điểm và phương pháp đó, xuất phát từ một số ít chân lý ban đầu được công nhận như những tiêu đề. Các tri thức luôn được xem là có giá trị chân lý chắc chắn, và các phương pháp suy luận tuân theo các qui tắc đó là đặc trưng cho phép suy luận tất định. Các hướng nghiên cứu nói trên đã phát triển mạnh vào những thập niên 60,70 và vẫn tiếp tục phát triển, tuy nhiên khi mở rộng địa hạt ứng dụng sang những lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội thì gặp nhiều vấn đề mới, đòi hỏi phải có những cách tiếp cận mới đối với quan niệm tri thức và quá trình lập luận trên tri thức. Yêu cầu mọi tri thức phải có tính chân lý chăc chắn (hay nói cách khác mọi phán đoán phải hoặc đúng hoặc sai một cách rõ ràng) được xem là hiển nhiên trong một số lý thuyết khoa học, và có thể được thoả mãn trong những ước lệ của tư duy trừu tượng, thì nói chung lại khó được thoả mãn trong nhiều lĩnh vực khác của thực tiễn đời sống con người. Mặt khác, việc dùng các thuật toán chung giải các bài toán nhằm đạt tới một tri thức mong muốn như mô tả ở trên (cũng như việc dùng các thuật toán chung giải bài toán tối ưu trong nhiều vấn đề khác) thường có độ phức tạp tính toán rất lớn, như về sau này được chứng tỏ là vượt quá xa năng lực của mọi hệ tính toán mà con người có thể tạo ra được. Như vậy, qui các quá trình suy luận về một số thuật toán học hẳn là không phản ánh được nhiều khía cạnh bản chất của hoạt động nhận thức của con người. 2. Có lẽ ngoài các tri thức đã được lọc qua những ước lệ của trừu tượng hoá như các tri thức toán học ra, thì phần lớn mọi tri thức mà con người có được trong đời sống hàng ngày đều hoặc không đầy đủ, hoặc không chắc chắn, tức khó mà xác định được rõ ràng giá trị chân lý của nó là đúng hay sai. Thí dụ nói mọi con chim đều biết bay, mọi trẻ em đều thích hát là tri thức không đầy đủ, nói viêm họng uống Ampicilin thì khỏi, thanh niên cao thì đẹp, hàng nhiều thì rẻ,....là tri thức không chắc chắn,.... Tri thức không đầy đủ liên quan đến việc xử lý tri thức các cơ sở dữ liệu. Thí dụ ta có một cơ sở dữ liệu DB về trẻ em, trong đó có 1000 em đều thích hát. Với cái “thế giới” của cơ sở dữ liệu đó, thì tự nhiên bộ óc của máy tính sẽ rút ra tri thức “mọi trẻ em đều thích hát” bằng một suy luận qui nạp. Nhưng chỉ cần đưa thêm vào DB một em X không thích hát, thì tri thức phổ biến nói trên không còn đúng. Tuy nhiên, chấp nhận các tri thức không đầy đủ thu được bằng suy luận qui nạp như trên vẫn rất cần thiết để tiến hành việc dùng máy tính tự động xử lý tri thức từ các cơ sở dữ liệu. Các hệ suy luận lôgích trong trường hợp đó là không đơn điệu. Và để việc ứng dụng không dẫn đến mâu thuẫn, người ta đã tìm cách xây dựng các hệ lôgíc không đơn điệu bằng cách thêm vào hệ lôgíc thông thường các giả thiết như: giả thiết miền đóng (domain closure), giả thiết thế giới đóng (werld-closed), luật hạn chế (circumscription), luật suy luận mặc nhiên (default inference)… Tri thức không chắc chắn có thể do không biết thật chính xác cái gì đã xẩy ra, và cũng có thể cái xẩy ra chỉ có thể hiểu một cách mơ hồ. Ngôn ngữ toán học được dùng để mô tả trong trường hợp thứ nhất là của lý thuyết xác suất hoặc lý thuyết niềm tin (Belief trong theory of evidence của Dempster-Shafer, và trong trường hợp thứ hai là lý thuyết tập mờ (fuzzy set). “Viêm họng uống ampicilin thì khỏi” đúng với một xác suất P nào đó, xác xuất này có thể thu được chẳng hạn bằng số liệu thống kê ở bệnh viện, tức tri thức đó có thể đúng, có thể không đúng, và xác suất đúng là P. Còn “thanh niên cao thì đẹp” là mơ hồ, không thể nói đúng sai về cái cao cái đẹp, và về “nếu cao thì đẹp”. Một trong những kết quả nổi bật của cách tiếp cận nói trên đối với tri thức là việc xây dựng các hệ chuyên gia (expert sytems), phát triển mạnh trong các thập niên 70,80. Nói chung, một hệ chuyên gia gồm có một cơ sở tri thức (không chắc chắn, nhưng mỗi tri thức được cho với một xác suất đúng hoặc một giá trị biểu thị độ tin tưởng nhất định), và một cơ chế lập luận ,chẳng hạn dựa vào một trong các phương pháp lôgích nói trên. Với mỗi bộ giá trị của các tri thức ban đầu, hệ chuyên gia sẽ có khả năng định giá trị (là xác suất đúng chẳng hạn) cho các đáp án dự kiến, và do đó trợ giúp con người làm quyết định. Hàng trăm hệ chuyên gia đã được phát triển và ứng dụng trong các lĩnh vực y tế, khoa học, quản lý kinh tế, tài chính... 3. Ta nhớ rằng tri thức không chắc chắn nẩy sinh và gắn liền với hoạt động hàng ngày của chúng ta, thường rút ra được từ việc phân tích, khai phá những dữ liện và thông tin mà ta thu thập được trong cuộc sống. Chúng có thể không đủ tính khái quát và mặt trừu tượng để biến thành các qui luật khoa học phổ biến, nhưng lại rất phong phú, có mặt khắp mọi lĩnh vực, và trợ giúp đắc lực cho con người trong việc làm quyết định hàng ngày. Bản thân những tri thức này thường có tính thời gian và có giá trị trong những hoàn cảnh nhất định. Những lập luận trên những tri thức loại này để rút ra các tri thức dẫn xuất thường không nhất thiết là những lập luận “chắc chắn” có tính chất suy diễn (deductive), mà còn có thể là các lập luận “có vẻ hợp lý” (plausible), tự nghiệm (autoepistemic)... Những lập luận như vậy nói chung không bảo đảm tính phi mâu thuẫn, nhưng thường lại có thể dẫn đến những tri thức hỗ trợ cho các quyết định hoặc phản ứng nhanh chóng kịp thời. Vì là những lập luận không hoàn toàn chặt chẽ lôgích thực hiện trên các tri thức không chắc chắn, nên kết quả thu được có thể là những tri thưc không chăc chắn, mà cũng có thể là những tri thức mới, có giá trị một cách bất ngờ. Máy tính không đánh giá được chất lượng và tính hữu ích của những tri thức như vậy, để đánh giá chúng không có cách nào khác là phải dựa vào sự từng trải kinh nghiệm và nhậy bén trực giác của chính con người. Do vậy, trong thế giới mới của kinh doanh, “việc quản trị tri thức về thực chất là thúc đẩy quá trình kết hợp cộng năng giữa các năng lực xử lý thông tin và dữ liệu của công nghệ thông tin với năng lực sáng tạo và đổi mới của con người”. d. Hướng tới một nền kinh tế tri thức Những tiến độ nhanh chóng dồn dập của công nghệ thông tin và truyền thông đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đưa hoạt động tri thức về gần với cuộc sống hàng ngày. Nều trước đây, việc tìm kiếm tri thức là đặc quyền của các nhà khoa học, và tri thức phải là những điều cao xa hướng tới các qui luật tất định và phổ biến, thì bây giờ đây, càng ngày ta càng thấy rõ rằng, trong sinh hoạt và công việc hàng ngày, từ việc làm ăn, kinh doanh cho đến việc quản lý đất nước, đâu đâu cũng cần có thêm nhiều tri thức, nhất là khi sống trong một môi trường kinh tế xã hội thường xuyên biến động, liên tục thay đổi. Tri thức không nhất thiết phải chính xác, phải chắc chắn, quyết định không nhất thiết phải tối ưu, có sai rồi có sửa, có mất rồi có được, nhưng hy vọng rằng càng có nhiều tri thức thì sẽ ít sai hơn, được sẽ nhiều hơn mất. Tri thức từ các qui luật phổ biến có thể cho ta các định hướng vĩ mô, nhưng không phải lúc nào cũng có thể giúp ta lấy những quyết định cụ thể hàng ngày. Mà cuộc sống “vi mô” cụ thể không còn là thuận lợi cho cơ quan, doanh nghiệp phải có khả năng thường xuyên tự tổ chức và tổ chức lại. Và cơ sở quan trọng cho những khả năng đó là một tiềm lực tri thức phong phú, và một năng lực xử lý tri thức nhạy bén, linh hoạt. Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiều quả những thành tựu to lớn của công nghệ thông tin hiện đại, và phát huy mọi năng lực trí tuệ hướng tới sáng tạo và đổi mới của con người là hai nhân tố chủ chốt tạo nên năng lực cần thiết cho đất nước đi tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương lai. Tuy là một nước nghèo, chậm phát triển, trước mắt còn vô vàn những vấn đề cấp bách phải giải quyết, những nhận thức được xu thế phát triển chung, nên, từ đầu thập niên 90, ta đã vạch ra được một chính sách tương đối toàn diện và nhất quán phát triển công nghệ thông tin ở nước ta, mà trong đó một nhiệm vụ trung tâm là xây dựng những nền móng bước đầu vững chắc cho một kết cầu hạ tầng thông tin của đất nước, có khả năng cung cấp các thông tin cần thiết cho quản lý nhà nước và cho các hoạt động kinh tế xã hội. Đẩy mạnh phát triển nhân lực và xây dựng dần một kết cấu hạ tầng thông tin là hoàn toàn phù hợp với khuyến cáo của nhóm tư vấn về xã hội thông tin của Liên Hiệp quốc đưa ra gần đây. Như đã trình bày ở trên, đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin mới là một vế trong việc chuẩn bị cho nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Về thứ hai, có ý nghĩa quyết định, là năng lực trí tuệ, khả năng sáng tạo, đổi mới của con người. Khả năng này phải được bồi dưỡng và phát huy trong mọi lĩnh vực, từ người lãnh đạo, nhà kinh doanh cho đến mọi công dân trong xã hội. Công nghệ thông tin là quan trọng, máy tính là quan trọng, nhưng công nghệ thông tin dù hùng mạnh đến mấy cũng chỉ có thể trợ giúp con người trong một số hoạt động tri thức, máy tính dù có tính hàng tỷ phép tính một giây, về bản chất cũng mới chỉ có thể thực hiện các qui trình tất định trên những tri thức chắc chắn, cho dù với năng lực lưu trữ và tốc độ tính toán khổng lồ, ta cũng có thể dùng nó để mô phỏng và bắt chước thực hiện (xấp xỉ một cách tất định và chắc chắn!) một số lập luận không tất định trên các tri thức không chắc chắn. Cái phần không chắc chắn, không tất định, không nhất quán ấy rất là đời thường, và xét đến tận cùng, chỉ có thể được xử lý bởi những năng lực trí tuệ hết sức linh hoạt và nhậy bén, cho đến nay vẫn là đặc hữu của con người. Công nghệ thông tin có góp phần thúc đẩy con người trở về nghiên cứu bản chất hoạt động trí tuệ của chính mình, nhưng cái bản chất ấy ta vẫn chưa hiểu thấu đáo được bao nhiêu, cho nên nhiều khả năng kỳ diệu trong hoạt động trí tuệ vẫn được xem là riêng của con người, và vì vậy con người, với năng lực sáng tạo và đổi mới của mình, vẫn là nhân tố chủ đạo trên con đường đi tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. III. KẾT LUẬN Việt Nam đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong suốt thời kỳ đó chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về mọi mặt của đời sống xã hội. Cuộc sống của người dân được cải thiện rõ rệt, có nhiều chuyển biến sâu sắc. Có được thành công đó không thể không kể đến vai trò của tri thức khoa học – công nghệ. Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ có nhiều biến đổi sâu sắc của đời sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách cũng là thời cơ cho các quốc gia, các dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam. Trong xu thế đó bất cứ một quốc gia nào, dân tộc nào nếu không xây dựng cho mình một thực lực khoa học – công nghệ mạnh mẽ sẽ có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ”. Tư tưởng của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục tỏa sáng. Yêu cầu khách quan đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là phải tập trung đổi mới để nâng cao tiềm lực, trình độ kỹ thuật khoa học – công nghệ, nhanh chóng nắm bắt lấy và làm chủ các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến trên thế giới. Năng lực sáng tạo làm chủ khoa học – công nghệ là yếu tố đảm bảo cho con người làm chủ bản thân, làm chủ tương lai. Mặc dù trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa việc áp dụng khoa học – công nghệ còn nhiều bất cập, tuy nhiên, nhất định chúng ta sẽ làm được và sẽ làm tốt bởi mang trong mình sức mạnh đoàn kết dân tộc và trí thông minh, sáng tạo của người Việt Nam. Với phạm vi một bài tiểu luận em xin kết thúc bài viết của mình. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn của thầy để bài tiểu luận của em đạt kết quả cao. Hy vọng bài tiểu luận này sẽ giúp em củng cố tư duy về triết học và nhận thức đối với các quy luật xã hội. MỤC LỤC I. Lời mở đầu …………………………………………………………… 01 II. Nội dung …………………………………………………………….... 04 1. Khái niệm tri thức khoa học – công nghệ và mối quan hệ của chúng….04 a. Khái niệm tri thức khoa học ……………………………………….. 04 b. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ …………………………. 04 2. Vai trò của tri thức khoa học – công nghệ với hoạt động kinh tế …… 05 a. Tri thức khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho sự phát triển kinh tế ………………………………………………………………… 05 b. Tiềm lực khoa học – công nghệ của Việt Nam hiện nay …………. 07 c. Những yếu kém và hạn chế của khoa học – công nghệ của Việt Nam hiện nay …………………………………………………………………… 08 3. Vai trò của tri thức khoa học - công nghệ cao với phát triển kinh tế tri thức a. Kinh tế tri thức là gì ……………………………………………….. 09 b. Điều kiện hình thành kinh tế tri thức ……………………………… 13 c. Các cách tiếp cận khoa học – công nghệ tri thức ………………….. 15 d. Hướng tới một nền kinh tế tri thức ………………………………… 20 III. Kết luận ............................................................................................... 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình triết học Mac – Lê nin ( Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ) Văn kiện đai hội VIII Nghị quyết TƯ II khóa VIII Trang web chungta.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận chứng vai trò của tri thức khoa học - công nghệ với phát triển kinh tế.DOC
Luận văn liên quan