Đổi mới cấu trúc nền kinh tế đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, xử lý các vấn đề lạm phát, thâm hụt thương mại, củng cố khả năng quản lý, sự năng động của hệ thống tài chính - tìền tệ. Đầu tư, đổi mới công nghệ và năng lực quản trị kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam.
15 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3372 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận môn kinh tế vĩ mô cán cân thương mại Việt Nam từ khi gia nhập WTO đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TỪ KHI GIA NHẬP WTO ĐẾN NAY
Mục lục:
1.Lời mở đầu:
Là thành viên mới gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam phải đối mặt với những thách thức đặt ra của kinh tế toàn cầu, cùng với đó là nguy cơ khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới .Trong bối cảnh này, các vấn đề đáng quan tâm hiện nay của kinh tế vĩ mô Việt Nam đó là :Sản xuất công nghiệp vẫn tăng ở mức khá thấp, tổng FDI đăng ký giảm nhưng FDI đối với bất động sản vẫn tăng mạnh, thâm hụt ngân sách 10 tháng 2012 đã vượt dự toán năm, CPI giảm tốc nhưng vẫn cao. Trong những vấn đề trên thì thâm hụt ngân sách là vấn đề cần được chú trọng bởi những tác động không nhỏ tới phát triển kinh tế vĩ mô.
Đây là lí do tôi nghiên cứu và chọn đề tài cán cân thương mại Việt Nam sau khi gia nhập WTO để viết tiểu luận kinh tế vĩ mô. Mục đích đặt ra là nêu lên một cách khái quát về thực trạng, nguyên nhân, các biện pháp đã, đang và cần làm tác động đến cán cân thương mại để giúp ổn định kinh tế vĩ mô.
Tổng quan về thương mại:
2.1: khái niệm:
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng
2.2:bản chất của cán cân thương mại:
Cán cân thương mại của một quốc gia phản ánh khối lượng xuất nhập khẩu về hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các nước khác. Về mặt kinh tế, cán cânthương mại thể hiện mối quan hệ tương quan giữa việc tăng hay giảm lượng giá trị của một nền kinh tế nghĩa là nó phản ánh lượng tiền tăng lên hoặc giảm đi của một quốcgia trong một thời gian nhất định.Trạng thái của cán cân thương mại thường rơi vào 3 trạng thái. Trạng thái của cán cân thương mại được dựa vào sự chênh lệch của giá trị giao dịch xuất khẩu và nhậpkhẩu.
2.3:Những nhân tố ảnh hưởng tới cán cân thương mại:
Cán cân thương mại chịu tác động của nhiều yếu tố như: xuất khẩu,nhập khẩu,tỷ giá, lạm phát, giá cả hàng hóa, thu nhập, chính sách thương mại quốc tế,....
2.3.1:Xuất, nhập khẩu:
Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu.. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại.
Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
2.3.2:Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên.
2.3.3:Ảnh hưởng của dòng vốn:
Cán cân thương mại là một trong những yêu tố của tài sản quốc gia.Cán cân thương mại phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư công và tiết kiệm trong nền kinh tế.mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như FDI, ODA, FPI, kiều hối và các dòng vốn vay thương mại khác.
2.3.4:Ảnh hưởng của thu nhập:
Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu nhập khẩu hang hóa cũng đồng thời tăng theo. Trong khi đó khi kinh tế nước ngoài tăng trưởng họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ nước khác và làm cho xuất khẩu của đối tác thương mại tăng lên. Do vậy cán cân thương mại phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế
2.3.4:các chính sách thương mại và phát triển kinh tế:
Các chính sách thuế,bảo hộ hàng hóa cũng ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng nhằm cải thiện cán cân thương mại.
2.3.5: Tỷ lệ trao đổi:
Tỷ lệ trao đổi biểu hiện giá của một nước co thể chấp nhận trả cho hàng hóa nhập khẩu với giá xuất khẩu của nước đó. Nói cách khác là tỷ số giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu của nước đó.Do đó tỷ lệ trao đổi có ảnh hưởng đến cán cân thương mại.
2.3.6:Phá giá tiền tệ:
Phá giá (hay nâng giá) là giảm bớt (hay tăng) tỷ giá hối đoái mà được chính phủ ủng hộ. Phá giá đưa đến tăng giá hàng nhập khẩu và giảm giá hàng xuất khẩu.Do đó tạo ra một khoản thặng dư trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán.
2.4 :Vai trò của cán cân thương mại đối với nền kinh tế:
-Thứ nhất,cán cân thương mại cung cấp những thông tin cần thiết liên quan đến cung cầu tiền tệ của một quốc gia, cụ thể là sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ.
-Thứ hai,cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế của một quốc gia.
-Thứ ba, tình trạng của cán cân thương mại phản ánh tinh trạng của can cân vãng lai, do đó ảnh hương đến ổn định nền kinh tế vĩ mô. Dây là ảnh hưởng quan trọng nhất của cán cân thương mại tới nền kinh tế và dựa vào đó nhà nước có thể đưa ra những chính sách để có thể điều chỉnh cán cân thương mại và đảm bảo ổn định nền kinh tế vĩ mô.
-Thứ tư, cán cân thương mại thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thưc tế: X-M= (S-I)+(T-G). Nếu cán cân thương mại bị thâm hụt thì điều đó thể hiện quốc gia chi nhiều hơn thu nhập của mình cũng như tiết kiệm sẽ ít hơn đầu tư và ngược lại.
Vì những tác động to lớn của cán cân thương mại tới nền kinh tế nên các nhà kinh tế và quản lý luôn tìm cách dự báo những cơ hội cũng như các thách thức để đề ra những giải pháp thiết thực cho hoạt động xuất-nhập khẩu trong thời gian sắp tới nhằm diều chỉnh kinh tế vĩ mô một cách hiệu quả nhất (tailieu.vn).
Thực trạng Việt Nam sau khi gia nhập WTO:
Gia nhập WTO là một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp phát triển của đất nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Việc gia nhập này mang đến rất nhiều thuận lợi trong trao đổi, giao lưu thương mại quốc tế. Bên cạnh đó là không ít khó khăn cho Chính phủ trong việc điều hành chính sách vĩ mô cũng như cho các doanh nghiệp trong nước trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Một trong những khó khăn đó là giảm thâm hụt thương mại của Việt Nam đối với các thị trường chính. Việc quan sát, nghiên cứu, phân tích diễn biến của cán cân thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn vì cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai, phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai.Cụ thể là: 4 năm sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thì 3 năm chịu tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu (từ năm 2008 đến nay), chỉ có duy nhất một năm (2007) là thuận lợi, tuy nhiên, những mặt "được" và "chưa được" từ WTO cũng đã bắt đầu bộc lộ:
3.1 Thành tựu và thuận lợi:
- Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, đầu tư tăng cao cùng các điều kiện thuận lợi của môi trường kinh doanh quốc tế, nhất là khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các FTA, hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng Việt Nam giảm mạnh đã có tác động tích cực đến mở rộng xuất khẩu.
-Trong 5 năm qua, dù tình hình biến động phức tạp khó lường, đặc biệt là hứng chịu cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế vĩ mô Việt Nam cơ bản ổn định, duy trì tốc độ tăng trưởng, tiềm lực và quy mô kinh tế tăng lên. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%/năm. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Quy mô GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000. GDP bình quân theo đầu người 1.168USD.Trong 5 năm 2006-2010, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện 45 tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch. Tổng số vốn FDI đăng ký mới và bổ sung đạt 146 tỉ USD, gấp 7 lần so với giai đoạn 2001-2005.
-Hội nhập, đã phá được thế bao vây cấm vận, tạo được sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó nòng cốt là ngoại thương tiến bộ rõ rệt. Thị trường được rộng mở tới 149 nền kinh tế thành viên. Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân theo đầu người năm 2010 đạt 914,4 USD/người trong khi năm 2006 là 559,2 USD/người. Đến năm 2010 đã có 19 thị trường Việt Nam xuất khẩu đạt từ 1 tỉ USD trở lên, trong đó đầu bảng là Hoa Kỳ, đạt 14,2 tỉ USD, tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc.... Cũng trong số 19 thị trường nói trên có 6 tên tuổi thuộc khu vực ASEAN, lần lượt theo trị số kim ngạch từ lớn đến nhỏ là Singapore, Malaysia, Philippines, Campuchia, Indonesia, Thái Lan. Trên tổng thể cán cân thương mại của Việt Nam là nhập siêu, nhưng có 6 thị trường ta xuất siêu là Hoa Kỳ, Thuỵ Sỹ, Campuchia, Anh, Hà Lan, Philippines, như một tin báo tiệp rằng sẽ cân bằng xuất - nhập.
-Là lĩnh vực nhạy cảm, khu vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ đối ngoại phát triển cả về chiều rộng và bề sâu. Nhiều loại hình dịch vụ mới được mở mang.
Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghệ mới, công nghệ cao. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng chuyển biến tích cực, giảm dần lao động trong khu vực nông nghiệp, tăng dần khu vực công nghiệp và dịch vụ.Qua hội nhập đã tiếp thu khoa học kỹ thuật công nghệ mới, kỹ năng quản lý tiên tiến, đào tạo được đội ngũ cán bộ và quản lý kinh doanh năng động hơn. Nhiều doanh nghiệp đã chú trọng đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm cạnh tranh.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập, ngày càng được xây dựng hoàn chỉnh. Các yếu tố thị trường và các loại hình thị trường tiếp tục hình thành và phát triển. Cơ chế chính sách thông thoáng, đầy đủ, đồng bộ, môi trường kinh doanh được cải thiện. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng 2,3 lần về số lượng và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm trước.
Thực hiện nghĩa vụ thành viên theo đúng các cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành mạnh mẽ cải cách chính sách kinh tế - thương mại theo hướng minh bạch và tự do hoá. Việc cải cách thể hiện ở các cam kết về pháp luật và thể chế hành chính, mở cửa thị trường nội địa. Cộng đồng quốc tế thừa nhận Việt Nam là thành viên mới năng động, đầy triển vọng.
- Sau 5 năm gia nhập WTO, góp phần thay đổi diện mạo của ngành dịch vụ bán lẻ Việt Nam, đem lại nhiều lựa chọn cho người tiêu dùng và còn là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vươn lên, chấp nhận và sẵn sàng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập. Mặc dù, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành bán buôn bán lẻ Việt Nam chiếm tỷ lệ khá lớn, riêng năm 2010 có 177 dự án FDI đầu tư vào Việt Nam trong toàn bộ 1.237 dự án hiện có với tổng vốn đăng ký là 462 triệu USD, nhưng các doanh nghiệp trong nước vẫn cạnh tranh và lớn mạnh
- Thời kỳ chiến lược 2001 – 2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 17,3% /năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP trên 2,4 lần (GDP tăng bình quân 7,21 % / năm) vượt mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 (tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp 2 lần nhịp độ tăng trưởng GDP) và vượt chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá đã đề ra trong chiến lược phát triển XNK thời kỳ 2001 – 2010 (tăng trưởng bình quân 15% / năm).
- Việt Nam có vị thế ngày càng lớn trong xuất khẩu hàng hoá toàn cầu. Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá thế giới đã tăng từ 0,24% trong năm 2001 lên 0,46% trong năm 2010. Đến nay, nhóm hàng chế biến xuất khẩu của Việt Nam đã chiếm trên 0,28 % thị phần toàn cầu, nhóm hàng thô và sơ chế chiếm trên 0,72 % (riêng điều nhân chiếm khoảng 50 %, hồ tiêu chiếm khoảng 45 %, cà phê chiếm 16 -18 %, cao su thiên nhiên 8 – 10 %, chè uống chiếm 5 – 6 %, thuỷ sản chiếm 5 – 6 %, đồ gỗ chiếm 2 – 3 %, gạo chiếm 12 – 18 %).
- Trong điều kiện mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu tư, xuất khẩu hàng hoá trở thành kênh dẫn quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Khoảng 55% tổng số dự án và trên 50 % tổng số vốn FDI đã được thu hút vào các ngành công nghiệp chế biến chế tạo xuất khẩu. Số doanh nghiệp FDI trực tiếp tham gia xuất khẩu tăng nhanh tới 1.854 doanh nghiệp trong năm 2010, chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp cả nước. Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 45,2% trong năm 2001 lên 57,5% trong năm 2007 và khoảng 45,2% trong năm 2010.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân đầu người đã tăng từ mức 175 USD trong năm 2000 lên 750USD trong năm 2010, rút ngắn dần khoảng cách chênh lệch so với một số nước trong khu vực. Tăng trưởng xuất khẩu đã góp phần tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong điều kiện xuất khẩu dịch vụ chưa phát triển nhiều, xuất khẩu hàng hoá là thành phần đóng góp chính tạo lập và hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của nền kinh tế.
-Cơ cấu xuất khẩu đã có xu hướng chuyển dịch tích cực, gắn chuyển dịch cơ cấu mặt hàng với cơ cấu thị trường xuất khẩu, xây dựng được nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và gặt hái được thành công ở một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu.
- Xuất khẩu hàng hoá đã từng bước gắn kết với xuất khẩu dịch vụ. Xuất khẩu tại chỗ bước đầu đã thu được ngoại tệ đáng kể, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
-. Nhập khẩu hàng hoá đã coi trọng nhiều đến nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
- Hội nhập quốc tế đã tác động tích cực, nhiều mặt đến XNK.
3.2:Những hạn chế, yếu kém:
-Nếu trong năm 2003 thâm hụt thương mại vào khoảng 2,581 tỷ USD thì đến năm 2008 mức thâm hụt lên đến 12,782 tỷ USD, gấp 5 lần so với năm 2003. Năm 2009 mức thâm hụt là 15,412 tỷ USD, gấp 5,9 lần so với năm 2003.
-Trong năm 2010, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức thâm hụt vào khoảng trên 12 tỷ USD.
-Nếu so sánh giá trị thâm hụt thương mại với giá trị GDP qua các năm thì từ năm 2002 (năm bắt đầu có thâm hụt thương mại) tỷ lệ thâm hụt thương mại so với GDP ngày càng gia tăng và trở nên đáng báo động trong những năm (2007-2010), khi tỷ lệ này vượt trên 10%GDP. Lâu nay, Việt Nam luôn đặt mục tiêu cân bằng cán cân thương mại và tiến tới xuất siêu. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nhập siêu lại là điều cần thiết.
-Khi ngoại cầu của thị trường thế giới và các nền kinh tế chủ chốt, đặc biệt là của khu vực EU đối với hàng xuất khẩu của VN đang có xu hướng thu hẹp đáng kể thì nhu cầu nhập khẩu các yếu tố đầu vào sản xuất của các DN trong nước tham gia xuất khẩu sẽ bị giảm.
- Quy mô xuất khẩu còn nhỏ, phát triển xuất khẩu vẫn chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng thấp, chi phí xuất khẩu cao, hoạt động xuất khẩu phản ứng chậm so với các biến động của thị trường thế giới, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiệu quả, hiện đại.
- Sự phát triển thị trường ngoài nước chủ yếu theo chiều rộng, chưa hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu, chất lượng thông tin dự báo chiến lược thị trường quốc tế còn yếu kém, chưa thực hiện thành công một số bước điều chỉnh chiến lược thị trường XNK.- Hội nhập các FTA chưa có một chiến lược tổng thể và lộ trình thống nhất, đồng bộ với chiến lược phát triển XNK, chưa tận dụng hiệu quả cơ hội và điều kiện thuận lợi của hội nhập quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu.
- Công tác quản lý Nhà nước đối với XNK hàng hoá tuy đã có nhiều cải tiến nhưng còn một số hạn chế, thụ động, tính đồng bộ chưa cao.
Trong 10 tháng năm 2012, đã có 22 mặt hàng đạt kim ngạch XK từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó có 6 mặt hàng đạt từ 5 tỷ USD trở lên (tăng 1 mặt hàng so với 9 tháng), cao nhất là dệt may 12,54 tỷ USD, tiếp đến là điện thoại các loại và linh kiện 9,93 tỷ USD, dầu thô trên 7 tỷ USD, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện gần 6,1 tỷ USD, giày dép gần 5,7 tỷ USD, thuỷ sản trên 5 tỷ USD
Sau 4 tháng liên tiếp xuất siêu, tháng 10/2012, Việt Nam quay trở lại tình trạng nhập siêu. Theo số liệu của Bộ Công Thương, trong tháng 10, kim ngạch XK của Việt Nam ước đạt 9,9 tỷ USD, tăng 4,4% so với tháng 9 và tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2011. Trong số này, XK của các DN FDI (không kể dầu thô) ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 5,7% so với tháng 9 và tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước.
.Nguyên nhân gây thâm hụt cán cân thương mại:
- Nguyên nhân sâu xa, theo VASS, là do mô hình tăng trưởng kinh tế nước ta chủ yếu dựa trên việc thâm dụng các yếu tố đầu vào nhưng ngành công nghiệp phụ trợ lại yếu kém, do vậy nền sản xuất trong nước chủ yếu chỉ tham gia vào khâu gia công và lắp ráp hoặc xuất khẩu thô với giá trị gia tăng thấp. Đây được xem là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới nền sản xuất trong nước nói chung và ngành xuất khẩu nói riêng phụ thuộc đáng kể vào việc nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu đầu vào chiến lược cùng với các máy móc và linh phụ kiện điện tử trung gian để lắp ráp và sản xuất ra hàng xuất khẩu. (Theo NDHMoney) (theo dailodoanhnhan.com.vn)
-Do năng lực cạnh tranh của các thành phần kinh tế trong nước còn yếu; sản xuất còn mang tính gia công; không tận dụng được các sản phẩm đầu vào trong nước, phải nhập khẩu; ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển; hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh thấp và chậm được cải thiện.
- Cơ thể kinh tế nước ta vẫn còn yếu kém, chưa thể hấp thụ, chuyển hoá những cơ may thành hiện thực, trong khi đó chưa đào thải hết khó khăn do hội nhập mang vào,vì:
+ Năng lực cạnh tranh của hàng hoá nước ta ở cả 3 cấp quốc gia, ngành hàng, doanh nghiệp còn kém, thể hiện là giá thành còn cao, phẩm cấp thấp so với chuẩn quốc tế, chất lượng phục vụ thiếu chuyên nghiệp.
+ Chưa chủ động phát huy mọi nguồn lực trong nước bằng chính sách ổn định lâu dài, hệ thống pháp lý đồng bộ. Chưa chủ động phát huy mọi nguồn lực trong nước, khuyến khích các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Trước tình huống phải thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong nước, việc thua trên sân nhà là khó tránh.
+ Đội ngũ cán bộ quản lý vĩ mô, quản trị sản xuất kinh doanh và thực hành trong nhiệu lĩnh vực, nhiều địa phương còn bất cập so với yêu cầu trình độ khu vực và quốc tế.
+ Chưa nhận thức thật đầy đủ và thống nhất về hội nhập, chưa coi đây là yêu cầu tất yếu trong xu thế toàn cầu hoá, nước ta không thể đứng ngoài. Cũng có biểu hiện nóng vội có ngay sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế về vốn, kỹ thuật, công nghệ, quản lý tiên tiến, để phát triển. Nhưng cũng có thiên hướng chỉ lo lắng về thách thức, hoang mang khi thị trường quốc tế rúng động, lập tức Việt Nam lãnh đủ, khác xa với thời nằm im trong vỏ bọc bao cấp quốc tế.
-Dưới góc độ xuất nhập khẩu hàng hóa cho thấy có rất nhiều yếu tố tác động đến cán cân thương mại của Việt Nam, từ các yếu tố nội tại như mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu đến tác động của các yếu tố vĩ mô như tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế, lạm phát,…
+Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu:
Hơn một thập niên qua, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng nông lâm sản, công nghiệp nặng và khoáng sản, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (TTCN).(hình1):
Hình 1: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo nhóm (trung bình) giai đoạn 1999 - 2010F. Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu GSO
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cho thấy hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không có gì nổi trội so với các quốc gia trong khu vực, cơ cấu mặt hàng của Việt Nam giống với các nước khác trong ASEAN. Có rất nhiều mặt hàng trong nhóm hàng công nghiêp nhẹ tiểu thủ công nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu, nhập khẩu dây chuyền sản xuất. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngành nghề sản xuất trong nước.Không chỉ vậy, nhiều mặt hàng xuất khẩu khả năng gia tăng sản lượng khi giá cả có lợi, chẳng hạn như tỷ giá hối đoái tăng thì nhiều mặt hàng xuất khẩu không thể tăng sản lượng vì hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đã phát huy hết công suất sản xuất và không thể khai thác tiếp nhằm đảm bảo tính bền vững dài hạn (như dầu thô, than đá,...) hay một số nhóm hàng phụ bị tác động quá nhiều của thời tiết (như nông sản, thủy sản,...).
+ Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu:Từ số liệu thống kê của GSO, dễ dàng nhận thấy suốt giai đoạn 1999 - 2010, tổng giá trị nhập khẩu ngày càng gia tăng và nhập khẩu thuộc nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng rất lớn, trung bình khoảng 92% tổng giá trị nhập khẩu, 8% còn lại chủ yếu là hàng tiêu dùng.
Hình 3: Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu khẩu theo nhóm (trung bình) giai đoạn 1999 - 2010F. Nguồn: Số liệu GSOTrong nhóm hàng tư liệu sản xuất thì nhóm hàng máy móc thiết bị chiếm khoảng 29% tổng giá trị nhập khẩu; nhóm hàng nguyên nhiên, vật liệu chiếm khoảng 63,5% tổng giá trị nhập khẩu .
-Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất cao. Như đã đề cập trong phần trên, nhiều mặt hàng sản xuất trong nước phải nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, cùng với đó là quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra mạnh mẽ nên nhu cầu thay thế thiết bị lạc hậu bằng cách nhập khẩu công nghệ từ các nước phát triển góp phần làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu chung.-Ngoài ra, lộ trình tự do hoá thương mại của Việt Nam nhất là kể từ năm 2007 - năm Việt Nam trở thành thành viên WTO đã thu hút một nguồn vốn FDI khá lớn hàng năm và kèm theo đó là nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị, dây chuyền sản xuất phục vụ đầu tư. Ngoài những nguyên nhân làm gia tăng việc nhập khẩu như đã nêu trên, nguyên nhân nhập khẩu tăng cao còn phải kể đến:- Tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu ở mức khá cao dẫn tới thực tế là nếu xuất khẩu muốn tăng lên thì nhất thiết nhập khẩu sẽ tăng;- Thu nhập ở Việt Nam tăng lên sẽ tạo thêm nhu cầu đối với hàng tiêu dùng và xa xỉ phẩm.- Đầu cơ bất động sản và các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn cũng là lý do dẫn tới
nhập khẩu gia tăng trong những năm gần đây.- Sự biến động trong giá hàng hoá thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên nhiều hàng hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng
Giải pháp quan trọng nhằm hạn chế xuất khẩu và hạn chế nhập siêu giai đoạn 2011-2020:
5.1:Xây dựng, củng cố các yếu tố nền tảng cho phát triển XNK nhanh và bền vững.
- Tiếp tục quá trình tự do hoá kinh tế, thương mại theo lộ trình cam kết quốc tế, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng theo quy tắc lợi thế so sánh; huy động và dùng một cách có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc kinh tế thị trường, xây dựng đồng bộ các loại thị trường để nhanh chóng có một nền kinh tế thị trường đầy đủ theo cam kết với Tổ chức thương mại thế giới. Xây dựng thị trường điện, nước có tính cạnh tranh; hình thành thị trường nhân tài và tạo bước đột phá trong phát triển thị trường khoa học và công nghệ.. Mở rộng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác kinh tế toàn diện với các nước, thân thiện với các nhà đầu tư nước ngoài, tạo dựng được vị thế chiến lược của quốc gia trên trường quốc tế. Nâng nhanh tỷ trọng nhóm hàng công nghệ cao trong cấu trúc XNK.
- Chủ động để chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu đang chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, dùng lao động rẻ, các ngành dùng nhiều vốn, giá trị gia tăng thấp, gây ô nhiễm môi trường và tiêu hao nhiều năng lượng ... sang mô hình tăng trưởng mới.
- Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế biến chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Ưu tiên phát triển ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao để tăng nguồn hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao.
5.2: Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, gắn với bảo vệ môi trường.
- Tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, sân bay, bến cảng và quy hoạch đô thị. Đảm bảo độ mở hợp lý của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu; tăng cường đàm phán ký kết các Hiệp định thương mại tự do song phương, các Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hình thành hợp lý tỷ lệ của FDI so với GDP, của kim ngạch XNK so với GDP, tỷ lệ dư nợ nước ngoài so với GDP để đảm bảo độ mở hợp lý cho tăng trưởng nhanh và mức an toàn cần thiết cho nền kinh tế
- Giảm dần tỷ trọng của các thị trường công nghệ thấp và trung bình ở khu vực châu Á, tăng dần tỷ trọng của các thị trường có công nghệ cao như EU, Bắc Mĩ, Nhật Bản, Liên Bang Nga. Hướng mạnh vào các thị trường tiềm năng lớn, các nền kinh tế mới nổi để đón bắt cơ hội thị trường dài hạn cho phát triển xuất khẩu.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia các FTA có chọn lọc, theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ động ứng phó có hiệu quả với những tác động bất lợi của các FTA đã ký kết đến tình hình nhập khẩu và nền kinh tế xã hội để giữ vững an ninh kinh tế, an toàn sức khoẻ cho cộng đồng.
5.3: Cấu trúc lại nền kinh tế để đảm bảo độ an toàn cần thiết trong điều kiện hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng xuất khẩu.
- Chuyển dịch nền kinh tế theo hướng hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết nhưng tham gia ngày càng sâu rộng vào các chuỗi giá trị toàn cầu.Tiếp tục củng cố các ngành chủ chốt để đảm bảo độ an toàn cần thiết cho nền kinh tế, trước hết là đảm bảo an ninh lương thực, an toàn năng lượng và an toàn tài chính quốc gia.
- Cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển những ngành sản phẩm có tiềm năng phát triển quy mô lớn, có hiệu quả kinh tế cao, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao... đủ khả năng thoả mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho đất nước và có dự trữ một phần để dự trữ và xuất khẩu, củng cố các vùng sản xuất lương thực để đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
- Cơ cấu lại ngành công nghiệp, ưu tiên phát triển mạnh các ngành áp dụng công nghệ cao, các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao và có khả năng tham gia mạng lưới sản xuất và các chuỗi giá trị toàn cầu. Thúc đẩy phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ, coi trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn và các ngành sản phẩm từ công nghệ mới, công nghệ cao. Tạo bước đột phá trong nâng cấp trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất công nghiệp để chuyển nhanh động năng chính của tăng trưởng công nghiệp từ lao động và vốn sang tăng năng suất lao động, từ phát triển công nghiệp dựa vào các yếu tố sản xuất là chính sang dựa vào hiệu quả và sáng tạo là chính.
- Cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo hướng phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, tiền tệ, gắn với cấu trúc lại hệ thống NH, hệ thống tài chính - tiền tệ để làm nòng cốt cho xây dựng nền tài chính lành mạnh, an toàn có nguồn dự trữ ngoại hối mạnh, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nước ngoài về tài chính.
- Tập trung sức phát triển một số ngành dịch vụ mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế phát triển định hướng xuất khẩu như: Hàng hải, Hàng không, Viễn thông, Du lịch, Y tế, Xuất khẩu lao động ... để giảm dần thâm hụt và hướng tới có thặng dư cán cân dịch vụ. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu hàng hoá XNK theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của nhóm hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, tăng nhanh tỷ trọng nhóm máy móc thiết bị và công nghệ nhập khẩu trong cơ cấu hàng hoá nhập khẩu. Tăng tỷ trọng công nghệ cao và trung – cao trong cấu trúc XNK hàng hoá. Trên cơ sở đó, giảm nhanh thâm hụt và hướng tới thặng dư cán cân thương mại, làm nòng cốt để xác lập cán cân vãng lai một cách khoa học, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
5.4:Tiếp tục xây dựng, củng cố các trụ cột của năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Tập trung các nỗ lực của cả nước tăng nhanh năng suất lao động để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao mức sống của người dân. Để tăng nhanh năng suất lao động, cần thực hiện các nhiệm vụ chiến lược sau:
+ Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, gắn khoa học công nghệ với đào tạo và với sản xuất kinh doanh, tạo lập tiềm lực khoa học công nghệ đủ mạnh để sáng tạo và làm chủ các công nghệ cần thiết cho phát triển nền kinh tế.
+ Xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ. Củng cố và phát triển các yếu tố nâng cao hiệu quả của nền kinh tế như giáo dục và đào tạo bậc trung học phổ thông, bậc đại học và cao đẳng, đào tạo nghề, nâng cao hiệu quả của thị trường hàng hoá, sức lao động, thị trường tài chính để tăng hiệu suất, vận dụng các yếu tố nguồn lực, tăng cường mức độ sẵn sàng về công nghệ cho nền kinh tế.
+ Khuyến khích xu hướng xã hội và tôn vinh những nỗ lực của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vượt lên trước trong các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào yếu tố sáng tạo và hiện đại.
5.5:Định hướng :
- Đổi mới cấu trúc nền kinh tế đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, xử lý các vấn đề lạm phát, thâm hụt thương mại, củng cố khả năng quản lý, sự năng động của hệ thống tài chính - tìền tệ. Đầu tư, đổi mới công nghệ và năng lực quản trị kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đi đôi với việc cải cách hành chính, nâng cao tính hiệu quả của hệ thống chính sách, bộ máy và cơ chế quản lý. Tiếp tục hoàn thiện các yếu tố kinh tế thị trường, các loại hình thị trường, để được công nhận có nền kinh tế thị trường trước hạn 31.12.2018.
- Đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục đào tạo với chiến lược dài hạn nhằm có đội ngũ công chức, chuyên gia, công nhân lành nghề thực sự có chất lượng.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp cán bộ, cộng đồng doanh nghiệp, toàn dân quán triệt, hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ trong quá trình hội nhập. Từ đó đồng thuận, chủ động thực hiện các chính sách theo lộ trình hội nhập.
- Thực hiện đầy đủ các cam kết, các nghĩa vụ với WTO và với các tổ chức kinh tế quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên.
kết luận:
Để đạt được mục tiêu và định hướng chiến lược thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập siêu thời kỳ tới 2020, lĩnh vực XNK cần phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển xuất khẩu sao cho cân đối giữa chiều rộng và chiều sâu, hài hoà lợi ích giữa các ngành hướng về xuất khẩu và các ngành thay thế nhập khẩu. Xuất nhập khẩu cần thiết phải được cơ cấu lại một cách thật khoa học để nâng cao chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước…
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TỪ KHI GIA NHẬP WTO ĐẾN NAY.docx