Luận văn Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau

Nghiên cứu sự ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Cà Mau là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trước yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay. Qua thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Cà Mau những năm qua và quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn cho thấy, đội ngũ cán bộ này ngày càng bộc lộ những hạn chế, yếu kém về trình độ tư duy lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chính vì chỉ bằng kinh nghiệm nên trước nhiều vấn đề mới, phức tạp đã và đang đặt ra trong quá trình đổi mới hiện nay họ không có đầy đủ năng lực và trình độ để giải quyết thấu đáo trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở cơ sở.

pdf106 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2954 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp giảng dạy với đổi mới phương pháp học tập, nghiên cứu. Giảng viên cần cung cấp cho người học phương pháp học ở lớp và phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Nói cách khác, giảng viên dạy cách học là chủ yếu. Học viên học cách học là chủ yếu. Cần lưu ý rằng, học lý luận chính trị khác học văn hóa phổ thông. Học lý luận chính trị đòi hỏi người học phải suy nghĩ, nghiên cứu, chứng minh những luận điểm, quan điểm của lý luận, gắn lý luận với thực tiễn cuộc sống, tránh lối rập khuôn, máy móc, học thuộc lòng từng câu, từng chữ, cuối cùng không nắm được thực chất của vấn đề. Học lý luận phải biết vận dụng chứ không phải để nói lý luận suông; học để có được nhận thức đúng đắn vấn đề. Từ lý thuyết đã học phải biến nó thành kỹ năng tư duy và vận dụng kỹ năng ấy để giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn mà cán bộ, đảng viên đảm nhận, tuỳ theo nhiệm vụ của mỗi người. Trên cơ sở được tiếp thu tinh thần của phép biện chứng duy vật ở nhà trường mà biến nó thành công cụ sắc bén để cán bộ xem xét, đánh giá, phân tích, tìm ra mối liên hệ bản chất, quy luật vận động và phát triển của hiện thực để đề ra những biện pháp giải quyết vấn đề một cách tối ưu. Như vậy, sự nỗ lực, phấn đấu rèn luyện trong học tập, được tiếp thu, phương pháp tư duy khoa học đóng vai trò rất lớn trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận và sẽ dần dần khắc phục được tư duy kinh nghiệm, cho nên, để có được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, ngoài các công tác khác, Đảng phải chăm lo công tác đào tạo, huấn luyện. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [33, tr.269]. Vì vậy, trong giảng dạy, phương pháp đóng vai trò rất quan trọng. Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị tức là phải quán triệt đầy đủ phương châm lý luận liên hệ với thực tiễn, đảm bảo tính khoa học, tính chiến đấu trong giảng dạy, phát huy tính độc lập sáng tạo của người học, do đó cần có một sự linh hoạt, sáng tạo trong hình thức, phù hợp với đối tượng nhận thức, với yêu cầu mới của tình hình kinh tế - xã hội, phù hợp với tâm lý của đối tượng và đảm bảo nội dung, đưa yếu tố công nghệ vào công tác giáo dục lý luận, từng bước hiện đại hoá phương pháp dạy. Giảng viên phải tích cực sử dụng phương pháp nêu vấn đề để người học tranh luận, đối thoại giữa người dạy và người học, gợi ý bằng những câu hỏi tình huống, cùng tham gia thảo luận và tìm ra cách giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra, kết luận rõ ràng những vấn đề còn có ý kiến tranh luận khác nhau. Phải rèn luyện cho học viên phương pháp đọc sách, nghiên cứu tài liệu tham khảo, phương pháp tự học. Thời gian dành cho việc nghiên cứu phải thoả đáng trước khi tập trung nghe giảng, thảo luận. Nói như thế không phải kéo dài thời gian đào tạo mà phải sắp xếp thời gian hợp lý trong khuôn khổ quy định của một khoá đào tạo. Đổi mới phương pháp giảng dạy tức là phải tăng cường phương pháp xử lý tình huống, dùng lý luận để phân tích vấn đề thực tiễn nảy sinh, phát huy tính chủ động của người học, coi trọng phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên, phải có những khâu bắt buộc người học liên hệ với thực tiễn, vận dụng lý luận để giải quyết vấn đề thực tiễn một cách khoa học, đồng thời phải dành thời gian và kinh phí thoả đáng cho việc nghiên cứu thực tế của học viên, khắc phục tình trạng đi thực tế kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” gây tốn kém tiền bạc, mất thời gian, không hiệu quả. Qua nghiên cứu thực tế, người học phải thực hiện nghiêm túc các khâu: viết thu hoạch, làm bài tập thực tế, viết khoá luận tốt nghiệp bằng những tình huống xảy ra tại cơ sở và chọn phương án tối ưu. Cần phải thực hiện tốt phương châm “Học đi đôi với hành”, “Lý luận phải liên hệ với thực tiễn”, qua đó, nhà trường huy động mọi nguồn lực những giảng viên có năng lực nghiệp vụ tốt xem xét, đánh giá, phân loại học viên, báo cáo lãnh đạo trường để có những nhận xét cụ thể, bàn giao cho cơ sở phân công công tác. Nếu trong quá trình học người nào có học lực yếu, kém, trường đề nghị địa phương không bố trí vào cương vị lãnh đạo chủ chốt. Trong điều kiện hiện nay, để đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ công tác của cán bộ cơ sở ngày càng cao thì cần đa dạng hoá các hình thức đào tạo, lấy đào tạo chính quy làm chính đối với cán bộ trẻ có triển vọng, trong diện quy hoạch, duy trì hình thức đào tại chức, bồi dưỡng ngắn hạn đối với cán bộ đương chức nhưng phải đảm bảo chất lượng dạy và học, đặc biệt là phải thường xuyên đào tạo nghiệp vụ quản lý nhà nước, nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Chính từ việc có nghiệp vụ chắc chắn, được trang bị lý luận khoa học sẽ khắc phục đến mức thấp nhất kiểu làm việc theo cảm tính, chủ quan kinh nghiệm của cán bộ. Trường Chính trị tỉnh Cà Mau và các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện trong tỉnh về cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí còn nhiều khó khăn. Hiện nay, ở Cà Mau còn hai huyện chưa có Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị (như huyện Năm Căn và huyện Ngọc Hiển), do đó các cấp lãnh đạo cần chỉ đạo để xây dựng mới hai Trung tâm này, đồng thời sửa chữa, nâng cấp các trung tâm còn lại, đặc biệt là Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị thành phố Cà Mau. Bên cạnh đó, Tỉnh cần tăng cường cơ sở vật chất để đảm bảo thực hiện đồng bộ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và quản lý. Bởi vì, cơ sở vật chất của một trường có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo. Nó là một trong những điều kiện cơ bản để làm căn cứ xây dựng kế hoạch mở lớp, chương trình hoạt động của trường, là phương tiện vật chất cần thiết cho việc đổi mới phương pháp dạy và học. Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX về củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn, Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã quyết định đầu tư nâng cấp, xây dựng thêm mới cho Trường Chính trị tỉnh với tổng vốn đầu tư là 59 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước. Giai đoạn 1 thực hiện 20 tỷ đồng, gồm xây dựng mới hội trường, khu nhà ở học viên và san lấp mặt bằng. Khoảng cuối năm 2008 công trình này hoàn thành và đưa vào sử dụng. Giai đoạn 2 tiếp tục các hạng mục công trình còn lại. Đây là điều đáng mừng của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Với điều kiện cơ sở vật chất ấy sẽ đảm bảo thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ và đảng viên trong tỉnh. Chẳng hạn, Tỉnh có thể mở các lớp trung cấp đồng thời có thể liên kết với các trường, học viện Trung ương mở nhiều loại hình đào tạo cấp học cao hơn, đảm bảo trang bị kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kịp thời khắc phục những hạn chế, yếu kém đã qua, góp phần cùng Đảng bộ đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý ngang tầm với nhiệm vụ mới cả về số lượng và chất lượng. Để xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới, trước hết cần xác định học viên là trung tâm của đối tượng đào tạo, giảng viên là trung tâm của chủ thể đào tạo. “Muốn có trò giỏi thì thầy phải giỏi”. Đây là một thực tế. Đội ngũ giảng viên thiếu và yếu là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến chất lượng đào tạo thấp. Đối tượng đào tạo trung cấp chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ chủ chốt cấp xã do Trường Chính trị tỉnh đảm nhận là chính, nên trước mắt và lâu dài phải đào tạo cho được đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị tỉnh đảm đương được công tác này. Giảng viên của các Trường Chính trị không chỉ là nhà sư phạm mà nhất thiết đồng thời là nhà khoa học lý luận, hoạt động giảng dạy và hoạt động khoa học phải có sự gắn bó, kết hợp chặt chẽ với nhau. Cán bộ giảng dạy không chỉ làm tốt việc truyền đạt kiến thức cơ bản mà còn phải nghiên cứu, tìm tòi phát hiện những cái mới, mở rộng và làm phong phú hơn tri thức của bộ môn mình giảng dạy. Hiện nay, đội ngũ giảng viên ở các Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện, thành phố rất mỏng, hạn chế về chất lượng. Nhiều người chưa được đào tạo chính quy về chuyên môn và nghiệp vụ phạm. Do điều kiện công tác, một số đồng chí ít được cập nhật những kiến thức mới, ít được bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ theo hệ thống ở các Học viện như giảng viên Trường Chính trị tỉnh. Hơn nữa, nhiều giảng viên Trường Chính trị tỉnh và các huyện có trình độ cử nhân chuyên ngành đã lớn tuổi, không có điều kiện để học tiếp, nên chỉ dừng lại ở trình độ ấy. Thế nhưng, trong những năm qua, được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị tỉnh ngày càng lớn mạnh. Nếu như thời gian tách 2 trường Cà Mau và Bạc Liêu (01-7-1997), số lượng cán bộ của Trường chỉ 27 đồng chí, lực lượng giảng viên ở các Khoa, phòng chỉ có 14 đồng chí, chưa có đồng chí nào có học vị thạc sỹ thì đến nay, trường đã có 28 đồng chí (kể cả giảng viên trong Ban lãnh đạo và cán bộ công tác tại các phòng), trong đó có 6 thạc sỹ và 8 người đang học cao học. Với số lượng này vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu đào tạo ngày càng tăng của tỉnh. Vì vậy, trong những năm sắp tới, tỉnh cần tiếp tục đào tạo giảng viên cho các Trung tâm huyện, bởi lẽ hiện nay, số lượng giảng viên ở các huyện vẫn còn thiếu rất nhiều. Nguồn tuyển sinh phải được tuyển chọn chặt chẽ từ học viên các lớp chính quy của trường tốt nghiệp đạt loại giỏi, sinh viên tốt nghiệp các trường Cao đẳng, Đại học có năng khiếu giảng dạy, có phẩm chất chính trị tốt, đạo đức trong sáng, thành phần gia đình có truyền thống cách mạng. Số này cần đưa đi đào tạo chính quy tại Học viện, Trung tâm ở Hà Nội để bổ sung giảng viên cho Trường tỉnh và các trung tâm huyện. Trong quá trình đào tạo, nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi để giúp đỡ họ được đứng vào hàng ngũ của Đảng, bởi vì họ là những sinh viên trẻ, học giỏi, được đào tạo chính quy. Và sau khi các đồng chí này tốt nghiệp, nhà trường tiếp tục tạo mọi điều kiện để họ công tác tại cơ sở. Nếu làm được như vậy thì khi được tham gia giảng dạy ở các lớp trung cấp hoặc sơ cấp, họ sẽ vững vàng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Phấn đấu đến 2010, đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị đảm nhận từ 80% đến 85% bài giảng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, chương trình trung cấp về quản lý nhà nước, xây dựng Đảng, dân vận…. Số giảng viên Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị các huyện đảm trách từ 85 đến 90% số bài giảng chương trình sơ cấp. Cần có chính sách khuyến khích, thu hút những cán bộ trẻ có năng lực và chính sách phù hợp với những giảng viên có học hàm, học vị. Hằng năm, nhà trường cần trích một phần kinh phí cho đội ngũ giảng viên đi nghiên cứu thực tế trong tỉnh, trong nước cũng như có điều kiện sẵn sàng cho đi nghiên cứu ở nước ngoài, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao kiến thức cho đội ngũ giảng viên, có thể tham gia cùng các ngành nghiên cứu đề tài khoa học cấp tỉnh. Nhân dịp tổ chức hội nghị hoặc tổng kết của các ngành, các cuộc hội thảo khoa học, lãnh đạo trường và lãnh đạo tỉnh cần tạo điều kiện để cho đội ngũ giảng viên được tham gia, làm cơ sở rút kinh nghiệm tình hình thực tế, để bổ sung tư liệu cho các bài giảng thêm phong phú, sinh động hơn, hấp dẫn hơn. Có thể nói, xây dựng đội ngũ giảng viên ngang tầm với nhiệm vụ mới là vấn đề khó khăn và lâu dài. Ông bà ta có câu: “An cư thì lạc nghiệp”. Thế nhưng, phần lớn giảng viên và cán bộ của Trường Chính trị tỉnh chưa có nhà ở, đất ở, nhất là số đồng chí mới ra trường. Các đồng chí này lương thấp, còn gặp nhiều khó khăn nên tỉnh cần quan tâm ưu tiên về nhà ở để động viên các đồng chí hăng hái tham gia nghiên cứu, giảng dạy, góp phần cùng Đảng bộ tỉnh thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ. Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ giảng viên ngang tầm với nhiệm vụ mới thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý không kém phần quan trọng, bởi vì, muốn đào tạo đạt hiệu quả và chất lượng tốt thì khâu quản lý phải tốt, giữa đào tạo và quản lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quản lý là nhằm điều hành, phối hợp các hoạt động của đối tượng theo một phương hướng nhất định để đạt mục đích, đào tạo là sự kết hợp nhiều mối quan hệ, nhiều bộ phận lấy nhiệm vụ phục vụ đào tạo làm trung tâm. Tất cả các hoạt động trong nhà trường đều xoay quanh nhiệm vụ trọng tâm đó. Quản lý và đào tạo bao gồm nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến quá trình đào tạo như: chương trình, nội dung, kế hoạch, thời gian, địa điểm, nội quy, quy chế v.v… có được nền nếp, quy cũ hay không, trước hết được thông qua công tác quản lý. Đây là nhân tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đào tạo. Yêu cầu của công tác quản lý và đào tạo là phải đảm bảo theo một quy trình chặt chẽ, nghiêm túc. Thực hiện tốt công tác quản lý sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, hỗ trợ đắc lực cho công tác giảng dạy. Có thể khẳng định rằng, công tác quản lý và đào tạo phải được thực hiện như một khoa học vì thế đội ngũ cán bộ làm công tác này cũng phải được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và họ cũng phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, có trình độ và phải có nghệ thuật quản lý, đồng thời họ còn có trách nhiệm rà soát nội dung chương trình, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ để đào tạo cho từng đối tượng, tránh việc chồng chéo, trùng lắp giữa các chương trình trong hệ thống các cơ sở đào tạo và phải thực hiện quản lý đầy đủ các khâu, các bước trong quá trình đào tạo theo nội quy, quy chế đã đề ra. 2.2.3. Thực hiện đồng bộ chính sách cán bộ, dân chủ hoá trong Đảng và trong đời sống xã hội ở cơ sở Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có liên quan trực tiếp để tạo ra động lực cho cán bộ tự học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, năng lực tư duy lý luận nói riêng. Đó là chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và giải quyết thoả đáng các lợi ích vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ. Nhưng thực tế, việc áp dụng đồng bộ các chính sách cán bộ vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, mức độ còn chậm so với yêu cầu. Trong khi những giải pháp có tính chất cơ bản, trọng yếu, giải quyết một cách có hệ thống, đi vào chiều sâu của việc nâng cao năng lực, trình độ tư duy cho cán bộ còn chưa phát huy hết vai trò, tác dụng của nó. Do đó, cần áp dụng đồng thời các biện pháp để đổi mới và thực hiện nhất quán chính sách đối với cán bộ nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng, hướng vào việc tổ chức và giải quyết thoả đáng vấn đề lợi ích, nhằm tạo động lực để cán bộ cơ sở phấn đấu vươn lên ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Qua đó, nhà trường có thể thu hút và tuyển chọn được những cán bộ trẻ có năng lực, có khả năng phát triển năng lực tư duy lý luận, để lãnh đạo, quản lý đạt được hiệu quả cao nhất. Để làm tốt vấn đề này, theo chúng tôi, cần phải có chiến lược quy hoạch cán bộ trước mắt cũng như lâu dài, phải có sự chuẩn bị từ khâu tuyển chọn cán bộ dự bị đến cán bộ kế cận, qua đó sàng lọc, lựa chọn, cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở các trường của tỉnh hoặc ở Trung ương với từng chuyên ngành khác nhau. Đây chính là nguồn cơ bản nhất vừa đảm bảo được chất lượng, số lượng và tính cơ cấu trong công tác cán bộ, nghĩa là phải xây dựng kế hoạch tìm nguồn cán bộ ngay tại cơ sở, chọn cán bộ trong quy hoạch theo hai hướng dài hạn và ngắn hạn. Quy hoạch ngắn hạn là những cán bộ ở các ngành, các tổ chức của xã, ấp có triển vọng phát triển, những người được thử thách và trưởng thành từ phong trào lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở. Đó là những người ít nhiều được tích luỹ những kinh nghiệm, vốn sống trong công tác. Trách nhiệm của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và từng tổ chức phải chủ động tìm người thay thế. Đây là một trong những nhiệm vụ bắt buộc, tức là mỗi chức danh phải có từ 3 đối tượng đưa đi đào tạo cơ bản để sẵn sàng thay thế; nguồn quy hoạch đào tạo dài hạn phải chọn chính con em nông dân tại cơ sở đang học ở các trường phổ thông trung học, các trường đại học và cao đẳng,… Đây là nguồn lực lượng đông đảo và cơ bản nhất. Tuy nhiên, họ phải đảm bảo về tiêu chuẩn, về phẩm chất đạo đức và năng lực, đặc biệt là khả năng phát triển năng lực lãnh đạo, quản lý. Khi quy hoạch phải dựa vào tiêu chuẩn quy định cho từng chức danh, đánh giá đúng năng lực, sở trường nghiệp vụ. Khi đã quy hoạch và được thông qua đào tạo, cần phải có quan điểm nhất quán, bố trí đúng người, đúng việc để họ phát huy tối đa năng lực, sở trường của mình, tránh tình trạng đào tạo rồi mà không sử dụng hoặc bố trí sai chuyên môn, chức danh gây lãng phí và làm mất tác dụng khuyến khích, động viên cán bộ học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt. Đối với cán bộ đương chức cần phải tính đến từng đối tượng, chức danh cụ thể, về tuổi đời, về trình độ học vấn, … để lựa chọn các hình thức đào tạo thích hợp. Những người không đủ chuẩn và không còn điều kiện phấn đấu để đạt chuẩn sẽ không đưa vào quy hoạch và cơ cấu cấp uỷ. Quá trình này phải có sự chỉ đạo chặt chẽ từ Tỉnh uỷ, các Huyện uỷ, đồng thời từng cơ sở phải phát huy trí tuệ của tập thể, có sự tham gia rộng rãi, tích cực của cán bộ, đảng viên và quần chúng mới có thể tạo nguồn quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có chất lượng mang lại tác dụng tích cực. Về chính sách đãi ngộ cán bộ ở cơ sở hiện nay còn nhiều bất cập nên rất khó thu hút cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản về xã công tác. Thiết nghĩ, Đảng và Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đãi ngộ cán bộ cấp cơ sở, phù hợp với điều kiện phát triển như hiện nay. Bởi vì, chính sách cán bộ là sự cụ thể hoá đường lối tổ chức của Đảng trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Những quy định cụ thể của chính sách cán bộ làm chuẩn mực cho hoạt động công tác cán bộ. Có chính sách cán bộ đúng và tổ chức thực hiện tốt sẽ là động lực, phát huy sự nỗ lực của cán bộ, khuyến khích, động viên họ vượt qua khó khăn, hăng hái, phấn đấu, đảm bảo cho cán bộ phát huy đầy đủ năng lực, sở trường quyết tâm cống hiến cho sự nghiệp chung. Chính sách cán bộ có nhiều nội dung quan hệ chặt chẽ với nhau từ khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng… cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của cán bộ. Do đó, trước tình hình nhiệm vụ mới đặt ra nhiều vấn đề về chính sách cán bộ, đặc biệt là cán bộ cơ sở phải được Đảng và Nhà nước khẩn trương nghiên cứu giải quyết. Trong xây dựng chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ phải quán triệt quan điểm gắn nghĩa vụ với quyền lợi, lý tưởng với lợi ích, kết hợp giáo dục rèn luyện phẩm chất đạo đức, gương mẫu cống hiến với việc thực hiện chính sách đãi ngộ thỏa đáng, công bằng, coi đây là động lực trực tiếp quyết định đến việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ. Thực tế cho thấy, chính sách đối với cán bộ ở cơ sở còn nhiều bất hợp lý, còn thiếu công bằng, chưa thống nhất một cách đồng bộ. Nghị quyết Trung ương VI khoá X đã mở ra hướng giải quyết sự bất hợp lý này nhưng mới chỉ đối với cán bộ chuyên trách. Còn đối với những đồng chí phó ban tổ chức Đảng uỷ, cán bộ phụ trách văn phòng Đảng uỷ, phó các đoàn thể vẫn còn hưởng sinh hoạt phí. Những người này khi đến tuổi nghỉ công tác không có bất cứ một chế độ chính sách nào, vì vậy, chúng ta chưa khuyến khích được cán bộ về cơ sở công tác, nhất là cán bộ có trình độ, năng lực tốt. Nếu không đổi mới chính sách cán bộ ở cơ sở phù hợp sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực là cán bộ thiếu quyết tâm, hăng hái làm việc, tìm cách chuyển đi nơi khác có chế độ tốt hơn làm cho Đảng và Nhà nước mất dần những cán bộ trụ cột ở cơ sở. Thực hiện đồng bộ chính sách cán bộ ở cơ sở, tức là phải bảo đảm phù hợp các khâu, trong đó lợi ích vật chất là khâu quan trọng nhất, góp phần khắc phục lối sống thực dụng, củng cố khối đoàn kết thống nhất nội bộ, động viên, kích thích sự nhiệt tình, hăng hái, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo động lực để tập hợp, thu hút nhiều loại cán bộ về công tác ở cơ sở, khắc phục tình trạng đã đào tạo xong nhưng họ không chịu về cơ sở công tác. Bên cạnh việc thực hiện chính sách tiền lương, phụ cấp phải tạo mọi điều kiện cho cán bộ xã được đi tham quan, nghiên cứu thực tế hàng năm, học tập những mô hình sản xuất tốt để rút kinh nghiệm chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội cho cơ sở mình, cần có chính sách ưu đãi cho gia đình những cán bộ nghèo vươn lên làm giàu chính đáng. Điều đó vừa làm cho cán bộ thêm yên tâm công tác, tích cực phấn đấu để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, vừa động viên, tuyên truyền tập hợp nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại cơ sở. Cùng với việc thực hiện đồng bộ chính sách cán bộ ở cơ sở, các cấp uỷ đảng, chính quyền phải xây dựng quy định về việc học tập, phấn đấu rèn luyện vươn lên của đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đó từng bước chỉ ra những mặt ưu, khuyết của tư duy kinh nghiệm để khắc phục. Muốn vậy, các chính sách cán bộ phải khuyến khích, động viên, khơi dậy tình cảm và sự hăng hái, lòng nhiệt tình cách mạng cũng như phẩm chất đạo đức họ để họ chủ động, tích cực vượt qua khó khăn rèn luyện, phấn đấu vươn lên nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận. Đạt được yêu cầu này chắc hẳn sẽ có sự đổi mới về tư duy, khắc phục sự mò mẫm, sự vụ, ỷ lại vào thói quen vào kinh nghiệm trong quá trình công tác của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở Cà Mau hiện nay. Bên cạnh việc thực hiện đồng bộ các chính sách về cán bộ ở cơ sở cần phải đẩy mạnh quá trình dân chủ hoá trong Đảng và trong xã hội. Bởi vì, thực hiện dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, tạo ra những điều kiện để con người vươn lên phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, làm cho con người trở thành chủ thể tích cực, phấn đấu vươn lên. Đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, thực hiện dân chủ hoá là tạo điều kiện để họ phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, cả về phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo, quản lý, chủ động phát huy sức sáng tạo của mình, chống lại sự độc đoán, chuyên quyền, nôn nóng thiếu khách quan cũng như sự bảo thủ, trì trệ. Do đó, dân chủ hoá trong Đảng và trong đời sống xã hội vừa tạo động lực bên trong cho mỗi con người vừa hình thành cơ chế xã hội, môi trường, phương thức hoạt động năng động, sáng tạo cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, là cơ sở để cán bộ chủ động đề ra chương trình, kế hoạch hành động và những biện pháp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Đẩy mạnh quá trình dân chủ hoá để phê phán, loại bỏ những trở lực, sức ỳ, cản trở phát triển kinh tế - xã hội, chống lại biểu hiện tự do vô chính phủ, lợi dụng tự do, dân chủ để phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Dân chủ hoá trong đời sống xã hội để khắc phục tình trạng mất dân chủ. Chính quá trình ấy sẽ tạo động lực cho cán bộ, đảng viên suy nghĩ, tìm lời giải đáp, động viên họ rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy biện chứng, chống bệnh chủ quan, duy ý chí, khắc phục tư duy kinh nghiệm, giáo điều. Trên cơ sở đó, cán bộ, đảng viên mới điều chỉnh các quyết định phù hợp với tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân và nhu cầu thực tiễn. Vì vậy, dân chủ hoá trong đời sống xã hội sẽ tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho cán bộ, đảng viên nâng cao năng lực nói chung, năng lực tư duy biện chứng nói riêng, từ đó tư duy kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, … không có cơ sở tồn tại và phát triển. Thực hiện dân chủ hoá trong Đảng và trong đời sống xã hội phải tiến hành đồng bộ, toàn diện và có bước đi phù hợp trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế là nhằm bảo đảm lợi ích của người lao động, làm cho họ thực sự làm chủ tư liệu sản xuất. Dân chủ hoá trên lĩnh vực chính trị nhằm bảo đảm cho nhân dân lao động phát huy quyền làm chủ của mình. Dân chủ hoá trên lĩnh vực văn hoá, tinh thần là bảo đảm cho nhân dân có quyền hưởng thụ và tiếp thu những giá trị văn hoá tiến bộ, … Tất nhiên, phát huy dân chủ phải gắn liền với tăng cường kỷ cương, pháp luật; kiên quyết chống lại dân chủ vô tổ chức, dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức và lợi dụng dân chủ để đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân, chống lại Đảng và Nhà nước ta; thiếu kỷ luật, kỷ cương trong dân chủ sẽ là vô chính phủ. Nhưng để dân chủ được thực hiện trong vòng trật tự chúng ta phải xây dựng Hiến pháp và hệ thống pháp luật phù hợp với thực tế khách quan, củng cố và hoàn thiện các cơ quan pháp luật. Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Các chính sách và pháp luật của Nhà nước phải nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) đồng thời giữ vững kỷ cương xã hội và đạo lý dân tộc” [10, tr.41-42]. Do đó, để quá trình dân chủ hoá được tiến hành thuận lợi, phải hết sức coi trọng vai trò của Nhà nước trong việc thể chế hoá các nguyên tắc dân chủ, quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách pháp luật, quy định thành quyền và nghĩa vụ của công dân, từng bước mở rộng dân chủ phù hợp với trình độ, năng lực làm chủ của nhân dân. Thực hiện dân chủ hoá ở cơ sở là đòi hỏi khách quan của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Muốn vậy, trước hết phải thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng. Không thực hiện điều này sẽ không có dân chủ xã hội. Cho nên, cần nêu cao vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong việc thực hành dân chủ; tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường dân chủ trực tiếp, gắn chặt việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và cá nhân; công khai hoá những vấn đề có liên quan đến lợi ích và đời sống của nhân dân, tạo mọi điều kiện để nhân dân được bàn bạc, thảo luận đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, Chính quyền; tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân trong việc kiểm tra giám sát cán bộ, đảng viên. Để làm tốt công tác này, chúng ta phải đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở làm cho nó thật sự là công cụ, là chỗ dựa pháp lý quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, các cấp uỷ Đảng phải xây dựng quy chế, tiếp nhận, xử lý kiến nghị của nhân dân; có chính sách động viên, khuyến khích những cá nhân và tập thể tích cực tham gia kiểm tra, giám sát, phát hiện những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện dân chủ đồng thời cũng là biện pháp khắc phục tình trạng “bao cấp” về tư duy, tư tưởng tự ti, ỷ lại của cán bộ trong hoạt động nhận thức lý luận cũng như khắc phục tư duy kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ cấp cơ sở Cà Mau nói riêng, do đó cần phải tăng cường cung cấp thông tin về cơ sở một cách chính xác, kịp thời làm cơ sở để cán bộ lãnh đạo, quản lý phân tích một cách khoa học, tổng hợp, khái quát, rút ra được những tri thức, quan điểm lý luận mới. Từ đó, Đảng, Chính quyền hình thành chủ trương, giải pháp phù hợp trong lãnh đạo tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục,… 2.2.4. Thường xuyên nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm tổ chức thực tiễn cho đội ngũ đảng viên ở cơ sở Tổng kết thực tiễn là một phương thức cơ bản để thực hiện sự thống nhất lý luận và thực tiễn. Chỉ thông qua tổng kết thực tiễn một cách thường xuyên chúng ta mới có thể khái quát thành lý luận, không ngừng bổ sung, phát triển lý luận đã có, đồng thời có cơ sở để xem xét lại và kịp thời điều chỉnh, sửa chữa những gì không còn phù hợp. Cũng thông qua tổng kết thực tiễn giúp cho chúng ta rèn luyện, mài sắc năng lực tư duy biện chứng và sự sáng tạo của con người. Nhờ tổng kết thực tiễn thường xuyên, kịp thời mà Đảng ta ngày càng nâng cao trình độ tư duy lý luận của mình; cũng nhờ coi trọng tổng kết thực tiễn cách mạng và sáng tạo trong việc tham khảo kinh nghiệm của các nước mà thời gian qua, mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, khoa học hơn, sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực chất của quá trình tổng kết thực tiễn là dùng tư duy biện chứng để phân tích, đánh giá thực tiễn, rút ra các kết luận nhằm điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn tiếp theo, bao gồm việc điều chỉnh, bổ sung các quyết định đã có; xây dựng các quyết định mới và tổ chức thực hiện các quyết định này. Từ tổng kết thực tiễn rút ra các bài học kinh nghiệm. Điều này giúp cán bộ, đảng viên thấy được những thành tựu cũng như những khuyết điểm, hạn chế trong việc vận dụng lý luận vào tổ chức thực hiện các quyết định, từ đó, giúp họ vận dụng linh hoạt, mềm dẻo lý luận từ điều kiện thực tiễn. Tổng kết thực tiễn nghiêm túc, chính xác sẽ bổ sung cho kinh nghiệm và cả lý luận. Càng tổng kết thực tiễn thường xuyên thì cán bộ, đảng viên càng có cơ hội, điều kiện để rèn luyện, trau dồi năng lực khái quát hoá, trừu tượng hoá, năng lực phát hiện vấn đề để xử lý kịp thời, chính xác. Hơn nữa, trong quá trình tổng kết thực tiễn, tư duy biện chứng của cán bộ, đảng viên được trau dồi, rèn luyện, nâng cao. Điều này sẽ trực tiếp góp phần khắc phục tư duy kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí, nâng cao năng lực tư duy biện chứng. Chính vì thế, phải xem hoạt động tổng kết thực tiễn luôn luôn gắn liền với việc nâng cao năng lực tư duy, nó bảo đảm cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận, tuân thủ một cách triệt để nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tổng kết thực tiễn không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc tìm ra quy luật của sự phát triển, phát hiện bản chất của sự vật mà tổng kết thực tiễn còn để có những quyết sách phù hợp với yêu cầu khách quan, phát triển hiện thực sinh động của cuộc sống, bổ sung vào kho tàng lý luận và tiếp tục vận dụng lý luận đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn tiếp theo. Mục đích của việc tổng kết thực tiễn là nhằm nâng cao nhận thức và năng lực chỉ đạo thực tiễn, do đó trong quá trình tổng kết thực tiễn phải đảm bảo tính khách quan, trung thực. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, chúng ta mới thấy được những ưu điểm của kinh nghiệm cũng như những hạn chế của nó, từ đó mới có cơ sở để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm. Qua đó, chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm để sửa sai và bổ sung cho chủ trương, đường lối ngày càng hoàn chỉnh hơn, khoa học hơn, tạo ra sự phát triển của lý luận phù hợp với thực tiễn, khắc phục những hạn chế của tư duy kinh nghiệm, loại bỏ bệnh kinh nghiệm và các biểu hiện tiêu cực khác trong chỉ đạo và hoạt động thực tiễn. Như chúng ta biết, khả năng tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên ở cơ sở Cà Mau hiện nay còn nhiều hạn chế và bất cập, chưa theo kịp với tình hình phát triển của sự nghiệp đổi mới. Họ còn bị ảnh hưởng bởi nhiều những nhân tố khác nhau, trong đó những nhân tố chủ quan là cơ bản nhất, trực tiếp nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của quá trình tổng kết thực tiễn. Để tổng kết thực tiễn đạt hiệu quả cao đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở phải nâng cao năng lực tư duy biện chứng và lựa chọn các vấn đề đang cần tổng kết, tập hợp và xử lý nhiều thông tin có liên quan đến vấn đề đó một cách nhạy bén, chính xác. Những thông tin đó không chỉ trong thực tiễn ở địa phương, cơ sở mà cả những thông tin từ các địa phương khác, tránh tình trạng không biết nghiên cứu kinh nghiệm đến tận gốc để giải quyết và sửa chữa kịp thời. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh căn dặn: “Từ nay, công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khoá phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới” [33, tr.243]. Nếu bảo đảm những hoạt động ấy thì những kết luận được rút ra từ tổng kết thực tiễn sẽ có tính khách quan, tính khái quát và có giá trị bổ sung, phát triển lý luận, chỉ đạo thực tiễn. Bởi vì, hoạt động tổng kết thực tiễn là hoạt động kiểm tra lại mức độ đúng, sai của chủ trương, đường lối cũng như chương trình, kế hoạch quyết định đã đề ra. Do đó, khi tổng kết thực tiễn đòi hỏi cán bộ, đảng viên cơ sở phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Giá trị của các kết luận qua tổng kết thực tiễn bắt nguồn từ những thông tin, không chỉ phản ánh tình hình cụ thể với những dữ liệu phong phú mà còn phản ánh những nét phổ biến của thực tiễn, vạch ra phương hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Nắm được thông tin từ nhiều chiều sẽ giúp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý tránh được những sai lầm khi đánh giá tình hình trong quá trình tổng kết và tổ chức hoạt động thực tiễn. Cho nên, trước khi tổng kết thực tiễn, trên cơ sở vận động của thực tiễn mà tổng kết, khái quát về mặt lý luận bằng phương pháp tư duy khoa học để tổng kết những điển hình tiên tiến, đánh giá tính đúng đắn, vai trò và ý nghĩa của chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước để chỉ đạo thực hiện một cách có hiệu quả. Tổng kết thực tiễn đạt hiệu quả đến đâu, cao hay thấp, có rút ra được những kết luận có tính khái quát cao, tính điển hình và những bài học được rút ra từ tổng kết thực tiễn có trở thành cơ sở lý luận cho việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn tiếp theo hay không, điều đó phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của chủ thể tiến hành. Do đó, ngoài năng lực và trình độ của mình thì cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn phải phát huy tốt vai trò của tập thể đơn vị, biết phát huy trí tuệ của tập thể mới có thể tránh được những hạn chế, thiếu sót qua những kết luận được rút ra. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở, việc tổng kết rút kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực tiễn đóng vai trò hết sức quan trọng để khắc phục tư duy kinh nghiệm, bởi vì thông qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cán bộ chủ chốt cơ sở mới có điều kiện so sánh, phân tích, tổng hợp, phát hiện ra những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, những thất bại cũng như thành công, từ đó trong tổ chức thực tiễn tiếp theo sẽ khắc phục được sự mò mẫm, sự vụ, tuỳ tiện, … Tuy nhiên, qúa trình tổng kết rút kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực tiễn đòi hỏi cán bộ chủ chốt phải biết vận dụng tổng hợp những tri thức, vốn hiểu biết, kinh nghiệm bản thân để phân tích, đánh giá, khái quát những vấn đề thực tiễn ở cơ sở, do đó, buộc họ phải động não, suy nghĩ, so sánh giữa lý luận và thực tế cuộc sống, tìm ra hướng đi mới, cách làm mới, bằng các quyết định, chủ trương mang tính khái quát cao. Đây là một biện pháp quan trọng để trau dồi, rèn luyện tư duy khi được tiếp thu lý luận khoa học để vận dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn. Thực tế cho thấy, năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Cà Mau còn nhiều hạn chế về nhiều mặt, nên việc tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ này là rất khó khăn. Bởi vì, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đòi hỏi phải có năng lực tư duy khoa học kết hợp phương pháp duy vật biện chứng làm nền tảng. Cho nên, để khắc phục tình trạng này, trước hết cần phải có những quy định, chính sách cụ thể đề giúp họ thấy rõ những hạn chế, khó khăn của tư duy kinh nghiệm; làm cho để họ nhận thức đầy đủ hơn giá trị của lý luận khoa học, từ đó họ sẽ không bị trói buộc vào thực tiễn cụ thể hay vào những tình huống cá biệt với những cách thức phương pháp hành động cũ. Qua đó, có thể thấy, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn có tác dụng to lớn như thế nào trong việc khắc phục tư duy kinh nghiệm, giáo điều vốn đã tồn tại ở một bộ phận không nhỏ đối với cán bộ, đảng viên ở cơ sở hiện nay. Theo chúng tôi, nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm tổ chức thực tiễn cho cán bộ, đảng viên cấp cơ sở Cà Mau hiện nay cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau: Thứ nhất, phải có tính định hướng đúng đắn của Đảng, phải hiểu đây không phải là việc riêng của cấp uỷ, của chủ tịch hay bí thư mà là công việc thường xuyên của các tổ chức cơ sở đảng đối với việc lựa chọn vấn đề, xác định mục đích, phạm vi tổng kết. Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên chi phối toàn bộ quá trình tổng kết thực tiễn. Nếu xác định không đúng vấn đề tổng kết thực tiễn sẽ dẫn đến tình trạng dàn trải, không đi vào trọng tâm, trọng điểm, do đó, khó có thể đạt yêu cầu, hiệu quả về mặt lý luận cũng như giúp cho công tác chỉ đạo thực tiễn. Chọn vấn đề đúng và trúng thì mới bảo đảm được tính mục đích, tính thực tiễn của vấn đề tổng kết. Chẳng hạn, chúng ta phải hướng vào những vấn đề cấp bách mà thực tiễn đặt ra hiện nay như: vấn đề quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đền bù, giải toả, tranh chấp đất đai, tệ nạn xã hội v.v… Cần căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà giải đáp, giải quyết đúng đắn kịp thời các vấn đề đó. Thứ hai, xây dựng chương trình, kế hoach, tổ chức lực lượng, tiến hành từng bước đảm bảo tính khách quan, khoa học, chặt chẽ từng khâu, tránh rơi vào tuỳ tiện, qua loa, đại khái, bởi lẽ, kết quả của việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phải được dùng làm căn cứ cho việc thực hiện các bước, các công đoạn tiếp theo. Nếu tổng kết thiếu khách quan, hời hợt, thiếu tính hệ thống thì việc xây dựng chương trình hành động hoặc cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cuối cùng chỉ dừng lại ở những kinh nghiệm, chủ quan không mang tính thực tiễn sâu sắc, tạo sự tách rời giữa lý luận và thực tiễn. Như chúng ta biết, kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, lý luận được khái quát từ kinh nghiệm, giữa kinh nghiệm và lý luận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không ngừng bổ sung cho nhau. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn không chỉ là một biện pháp mà còn là phương hướng cơ bản, một nguyên tắc trong việc phát triển tư duy lý luận, khắc phục hạn chế của tư duy kinh nghiệm. Thứ ba, vận dụng những kinh nghiệm được rút ra qua tổng kết thực tiễn để triển khai, tổ chức hoạt động thực tiễn. Điều này đòi hỏi mỗi cấp uỷ cơ sở Đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của mình, đồng thời phải hình thành thái độ khoa học đối với công tác này. Bởi lẽ, tổng kết không phải là để có tổng kết mà phải coi việc tổng kết là một công tác rất quan trọng, là nhiệm vụ tất yếu không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Tổng kết phải rút ra cho được những bài học kinh nghiệm của vấn đề tổng kết, để tổ chức hướng dẫn cán bộ và nhân dân vận dụng, thực hiện có hiệu quả những kinh nghiệm đó trong quá trình thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Khả năng vận dụng những bài học kinh nghiệm vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn có trở thành hiện thực hay không còn đòi hòi mỗi cán bộ chủ chốt phải quán triệt tốt và nắm chắc những yêu cầu của quy trình tổng kết thực tiễn, thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, đảm bảo các công đoạn của quá trình tổng kết một cách chặt chẽ, khoa học. Muốn đạt được yêu cầu đó cần phải thường xuyên trau dồi năng lực tư duy lý luận, quán triệt quan điểm “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”, nâng cao trình độ mọi mặt để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước phải đổi mới cơ chế, chính sách đối với cán bộ cơ sở để nhằm huy động, khuyến khích, lôi cuốn đội ngũ cán bộ cơ sở vào công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tạo ra sự liên kết, phối hợp giữa cán bộ có trình độ lý luận và cán bộ hoạt động thực tiễn, giữa các cấp, các ngành, các tổ chức trong hệ thống chính trị, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong quá trình tổng kết thực tiễn, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổng kết chủ trương, nghị quyết,… của Đảng và Nhà nước từ cơ sở. Có như vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Cà Mau sẽ ngày được nâng cao trình độ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tóm lại, những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Cà Mau trên đây là có tính chất quan trọng. Các giải pháp này cần được tiến hành một cách đồng bộ, nhất quán nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. KẾT LUẬN Nghiên cứu sự ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Cà Mau là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trước yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay. Qua thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Cà Mau những năm qua và quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn cho thấy, đội ngũ cán bộ này ngày càng bộc lộ những hạn chế, yếu kém về trình độ tư duy lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chính vì chỉ bằng kinh nghiệm nên trước nhiều vấn đề mới, phức tạp đã và đang đặt ra trong quá trình đổi mới hiện nay họ không có đầy đủ năng lực và trình độ để giải quyết thấu đáo trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở cơ sở. Để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ mới, tình hình mới, khắc phục những mặt hạn chế của tư duy kinh nghiệm, nâng tầm tư duy lý luận khoa học, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Cà Mau phải không ngừng học tập, rèn luyện, phấn đấu nâng cao trình độ về mọi mặt, đặc biệt là năng lực tư duy lý luận. Bởi vì, tri thức lý luận càng cao thì tầm nhìn của con người càng rộng, hoạt động của con người càng sáng tạo, linh hoạt và càng đạt được kết qủa cao. Do đó, việc nâng cao chất lượng hoạt động lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới cho đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa là công việc thường xuyên, liên tục, lâu dài của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên. Muốn vậy, chúng ta phải thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải pháp về nâng cao trình độ nhận thức lý luận, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, trình độ học vấn, thường xuyên nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm tổ chức thực tiễn cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở, trong đó, tiếp tục đổi mới và thực hiện đồng bộ chính sách cán bộ ở cơ sở là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định. Việc khắc phục sự ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm phải được tiến hành một cách thường xuyên và liên tục trong quá trình đổi mới, phải gắn việc nâng cao tư duy lý luận với việc đấu tranh khắc phục để xoá bỏ mọi tàn dư, tập quán lạc hậu, lối suy nghĩ giản đơn, bảo thủ, trì trệ, thói ỷ lại, bệnh lười học trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, quán triệt sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện dân chủ hoá trong Đảng và trong xã hội, nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ cơ sở, quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng nhất để khắc phục tư duy kinh nghiệm, thiếu cơ sở khoa học, chỉ ra con đường biện chứng của nhận thức trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp cơ sở tỉnh Cà Mau. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 1. Đỗ Thanh Hiệp (2005), “Góp phần xây dựng và hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo trung cấp chính trị”, Thông tin Trao đổi Trường Chính trị tỉnh Cà Mau. 2. Đỗ Thanh Hiệp (2005), “Đổi mới một số khâu trong quá đào tạo các lớp trung cấp chính trị hệ chính quy tại Trường Chính trị tỉnh Cà Mau” Thông tin Trao đổi Trường Chính trị tỉnh Cà Mau. 3. Đỗ Thanh Hiệp (2007), “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với công tác tự phê bình và phê bình”, Báo Cà Mau, (số 1315). 4. Đỗ Thanh Hiệp (2007), “Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Xây dựng Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng” Thông tin Trao đổi Trường Chính trị tỉnh Cà Mau. 5. Đỗ Thanh Hiệp (2008), “Đấu tranh phòng chống quan liêu, tham ô, lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Báo Cà Mau, (số 1404). DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ph.Ăngghen (1971), Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội. 2. Hoàng Chí Bảo (2003), "Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động tuyên truyền của Bác Hồ", Tạp chí Triết học, (số 5), tr.20-25. 3. Nguyễn Trọng Chuẩn (1999), "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán - Tác phẩm bất hủ của triết học Mác xít", Tạp chí Triết học, (số 2), tr.12- 16. 4. Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 5. Đảng bộ tỉnh Cà Mau (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Trần Bạch Đằng (1986), Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 12. Tô Duy Hợp - Nguyễn Ngọc Long - Nguyễn Duy Quý (1988), "Hội nghị bàn tròn về đổi mới tư duy", Tạp chí Cộng sản, (số 8), tr.54-57. 13. Nguyễn Văn Khiết (2000), Những biểu hiện đặc thù của tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 14. Bùi Văn Khoa (chủ biên) (2000), Triết học Mác-Lênin - Trích tác phẩm kinh điển, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 15. Nguyễn Thế Kiệt (2001), Thực trạng tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện nay, trong sách: "Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 17. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 18. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 19. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 20. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 21. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 22. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật, Hà Nội. 23. Nguyễn Ngọc Long (1998), Chống chủ nghĩa duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận, trong sách: "Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 24. Bùi Đình Luận (1992), "Về ranh giới giữa kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn", Tạp chí Triết học, (số 2), tr.29-34. 25. C.Mác - Ph.Ăngghen (1981), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 26. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Hà Thúc Minh (2004), "Đặc tính con người Đồng bằng sông Cửu Long", Xưa và nay, (số 226) tr.10-12. 30. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, Tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội. 33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Lê Hữu Nghĩa (1988), "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta", Tạp chí Triết học, (số 2), tr.21-23. 37. Lê Hữu Nghĩa (1993), "Đảng Cầm quyền - bản chất và những vấn đề đặt ra", Thông tin chuyên đề tháng 1. 38. Trần Văn Phòng (1994), Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án Phó Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội. 39. Trần Văn Phòng (2002), "Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ quản lý cấp tỉnh", Tạp chí Lý luận chính trị (số 3), tr.49-52. 40. Nguyễn Duy Quý (1998), "Đổi mới tư duy trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước", Tạp chí Triết học, (số 4), tr.5-7. 41. Tô Huy Rứa - Hoàng Chí Bảo - Trần Khắc Việt - Lê Ngọc Tòng (2005) Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, Tập I, II, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 42. Trần Xuân Sầm (1988), "Bệnh chủ quan duy ý chí - nguyên nhân và con đường khắc phục", Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 5), tr.13-16. 43. Trần Xuân Sầm (2000), "Tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (số 6), tr.51-53. 44. Lê Doãn Tá (2003), Một số vấn đề Triết học Mác-Lênin, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Phạm Văn Thạch (1995), Khắc phục “bệnh” giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án Phó Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 46. Trần Thành (2001), "Tư duy lý luận đối với người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn", Tạp chí Lý luận chính trị, (số 2), tr.43-47. 47. Trần Thành (2006), Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Trần Thành (2007) Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy Triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Ngô Văn Thắng (2004), "Đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong thời kỳ mới", Tạp chí Lý luận chính trị, (số 8), tr.27-35. 50. Tỉnh uỷ Cà Mau (2008), Chương trình số 21-CTr/TU về hành động của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu (khoá X). 51. Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 53. Ngô Đình Xây (2002), "Ph.Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư duy lý luận", Tạp chí Triết học, (số 1), tr.28-31.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau.pdf
Luận văn liên quan