Luận văn Bàn về hệ thống lãi suất tín dụng ở Việt Nam hiện nay

Khi có điều kiện sẽ chuyển hẳn sang phương pháp tác động gián tiếp, tự do hoá dần lãi suất thông qua lãi suất tái cấp vốn. Trong khi đang điều hành theo lãi suất cơ bản cũng cần hoàn thiện từng bước lãi suất này, chuyểntừ lãi suất trần ( khống chế bằng lãi suất cho vay) sang lãi suất sàn ( khống chế bằng lãi suất tiền gửi ).

pdf44 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2886 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bàn về hệ thống lãi suất tín dụng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG THỜI GIAN TỚI . I. ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM - ƯU NHƯỢC ĐIỂM VÀ TÁC DỤNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC: Trong quá trình vận hành lãi suất cần tuân thủ những nguyên tắc sau: + Lãi suất thực phải nhỏ hơn hoặc bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân. 14 + Lãi suất danh nghĩa = ( Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát dự kiến ), nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp thời và linh hoạt. + Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát để khuyến khích tiết kiệm, tránh tích luỹ vàng, ngoại tệ. + Lãi suất cho vay trung bình phải cao hơn lãi suất huy động trung bình, khoản chênh lệch chính là lãi suất gộp của ngân hàng để bù đắp chi phí, phí, dự trữ bắt buộc, đề phòng rủi ro và có lãi, đảm bảo hài hoà 3 mặt lợi ích của người gửi tiền, người vay và bản thân ngân hàng. + Lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn. + Lãi suất nội tệ phải tương đương lãi suất ngoại tệ ( đã trừ trượt giá ) . + Lãi suất phải bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Những nguyên tắc trên vận dụng trong điều hành lãi suất ở Việt Nam không phải lúc nào cũng được tuân thủ triệt để. Nguyên nhân là do nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và chuyển đổi cơ chế biến động rất phức tạp. Chẳng hạn như trong thời kỳ lạm phát phi mã thì chúng ta áp dụng chính sách lãi suất rất cao song vẫn không hơn tỷ lệ lạm phát. Trong điều kiện nền kinh tế còn non trẻ thiếu thốn cơ sở vật chất kỹ thuật, để khuyến khích đầu tư dài hạn chúng ta đã để lãi suất cho vay dài hạn thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn v.v... Căn cứ vào các yêu cầu phát triển kinh tế cụ thể của đất nước và sự chỉ đạo hướng dẫn của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã can thiệp điều chỉnh lãi suất tín dụng phù hợp với từng thời kỳ. Việc điều hành lãi suất thực tế diễn ra như thế nào mức độ 15 can thiệp trực tiếp của Nhà nước đối với lãi suất thay đổi ra sao  Lãi suất đã thực sự phát huy được vai trò của mình hay chưa  Trả lời cho những câu hỏi ấy chúng ta cần xem xét cụ thể qua các giai đoạn điều hành lãi suất. Cụ thể chia thành các giai đoạn sau : + Giai đoạn từ trước tháng 3 - 1989. + Giai đoạn từ tháng 3 - 1989 đến tháng 10 - 1993. + Giai đoạn từ tháng 10 - 1993 đến 01 - 01 - 1996. +Giai đoạn từ sau ngày 01-01-1996. 1. Giai đoạn từ trước tháng 3 - 1989: Đây là thời kỳ điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất âm. Trong giai đoạn này tuỳ từng thời gian Ngân hàng Nhà nước có điều chỉnh lãi suất nhưng do lạm phát phi mã ( tỷ lệ lạm phát năm 1986 là 747,7% , năm 1987 là 301,3% ) nên lãi suất luôn ở tình trạng âm: + Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn mức lạm phát . + Lãi suất cho vay thấp hơn mức lãi suất huy động. Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực: + Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền trong lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều. + Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất tạo lợi nhuận giả cho doanh nghiệp. + Ngân hàng bao cấp cho khách hàng qua lãi suất tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng, ngân hàng không thể kinh doanh bình thường, lãi suất hoàn toàn do Nhà nước quyết định theo ý muốn chủ quan. Từ đó hình thành nên các kết quả trái ngược nhau, bất hợp lý giữa người gửi tiền, ngân hàng và người vay vốn. Người ta đã ví việc gửi tiền tiết kiệm 16 như là việc bán một con trâu lấy tiền gửi vào ngân hàng, khi rút tiền ra thì số tiền ấy chẳng mua nổi cái dây thừng. 2. Giai đoạn từ tháng 3 - 1989 đến tháng 10 - 1993: Thời kỳ này Ngân hàng Nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về, kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã nâng lãi suất huy động lên rất cao trong một thời gian ngắn: lãi suất không kỳ hạn là 9% / tháng tức là 108% / năm, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 12% / tháng tức là 144%/năm. Việc làm đó đã thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát. Siêu lạm phát bị chặn đứng nhanh chóng, sau đó xảy hiện tượng giảm lạm phát vào tháng 5 đến tháng 7 / 1989, được ổn định với mức thấp cho tới tháng 6 / 1990. Giá vàng, đôla Mỹ giảm đáng kể chứng tỏ lòng tin của dân cư đối với đồng nội tệ được phục hồi. Chính sách lãi suất trên đã có hiệu quả tức thì nhưng chỉ thích hợp với những bối cảnh lịch sử nhất định vì đây chỉ là biện pháp can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ tương tự như việc ấn định giá bằng các biện pháp hành chính của Nhà nước cho hàng hoá trên thị trường.Từ 20/3/ 1990 đến tháng 11/ 1990 Ngân hàng Nhà nước vẫn để lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 4%, tiền gửi không kỳ hạn là 1,8%/ tháng, lãi suất cho vay các tổ chức kinh tế là 2,4%/ tháng thấp hơn lãi suất tiền gửi là 1,6%/ tháng, do vậy Nhà nước phải bù lỗ cho ngân hàng hơn 400 tỷ đồng. Thực tế lãi suất ở Việt Nam biến động hết sức thất thường và hệ thống thông tin số liệu chưa cho phép dự đoán tỷ lệ lạm phát chính xác, do đó khi lấy lạm phát làm cơ sở quy định mức lãi suất đã làm cho mức lãi suất thực tế dao động mạnh, sự ổn định kinh tế vĩ mô không duy trì được trong thời gian dài. Nửa cuối năm 1990 và đầu năm 1992 lạm phát lại quay trở lại. 17 Trước tình hình đó, tháng 6/ 1992,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có sự điều chỉnh lãi suất theo hướng lãi suất dương và đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng: + Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương tức là lãi suất tiền gửi cao hơn mức lạm phát và lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hoà lợi ích của người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng. + Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự. Nhờ kiềm chế được lạm phát, giảm được giá đôla, vàng, từ tháng 6 / 1992 Ngân hàng đã giảm dần lãi suất tiết kiệm và từ tháng 8 / 1992 thực hiện lãi suất dương. Tuy vậy trong giai đoạn này còn một số tồn tại: + Đối với từng ngành kinh tế ( công - nông - thương nghiệp ) có mức lãi suất riêng. + Đối với các thành phần kinh tế ( quốc doanh và ngoài quốc doanh ) có phân biệt lãi suất. Chính vì vậy chưa khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh một cách bình đẳng. 3.Giai đoạn từ 01 - 01 - 1993 đến 01 - 01 - 1996: Ngân hàng Nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần cho vay vừa áp dụng lãi suất thoả thuận. a. Lãi suất trần: Lãi suất trần cho vay doanh nghiệp Nhà nước là 1,8%/ tháng , cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/ tháng. b. Lãi suất thoả thuận: Trường hợp các ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2%/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng. 18 Trên thực tế khoảng 30 - 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận và phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5%/ tháng. Với mức lạm phát năm 1993 là 5,2%, lãi suất thực của ta trở nên quá cao ( lãi suất thực tiền gửi tiết kiệm là 11,6%/ năm, lãi suất thực cho vay theo lãi suất trần là 20%/ năm ) lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ta cao gấp 1,1 lần của Hàn Quốc, 3,7 lần của Mỹ, lãi suất cho vay cao gấp 1,5 lần của Đức và 4,2 lần của Mỹ. Vào cuối năm 1995, mức lãi suất trần của Việt Nam là 2,1%/ tháng ( 25,2%/ năm ) sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát 12,7% còn 12,5%/ năm trong khi lợi nhuận bình quân của toàn bộ nền kinh tế chưa vượt mức 6,5%/ năm cho nên nhiều ngân hàng thương mại trở nên thừa vốn, dù nền kinh tế còn rất thiếu vốn nhưng lãi suất cho vay quá cao, vượt quá khả năng thanh toán so với lợi nhuận. Một số ngân hàng thương mại chủ động hạ lãi suất cho vay, chuyển sang đầu tư bất động sản hoặc tài trợ cho thương mại bán hàng trả góp thậm chí đầu tư vào trái phiếu Ngân hàng Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng với lãi suất thấp để ” *tiêu thụ” vốn dưới giá mua vào nhưng an toàn. Nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư đã chuyển vốn sang nhập hàng trả chậm lấy tiền Việt Nam , gửi tiết kiệm lấy lãi cao, ngày càng có xu hướng khuyến khích nhập khẩu, kìm hãm xuất khẩu, doanh số tín dụng ngân hàng đã một phần nhường chỗ cho doanh số tín dụng thương mại trong khi Luật Thương phiếu và Hối phiếu của Việt Nam chưa có, làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị thu hẹp. Với cơ chế lãi suất thoả thuận có thể hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất tương ứng đi đôi với một biên độ dao động nhất định. Tuy nhiên, mức chênh lệch giữa sàn tiền gửi và trần cho vay rất lớn từ 0,7% - 1,0%/ tháng làm cho các ngân hàng thương mại có lợi nhuận quá cao trong khi doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn. 19 Từ thực tế này kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá IX tháng 8/ 1995 cùng với Nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng đã yêu cầu các ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất cho vay huy động và cho vay bình quân là 0,35%/tháng, đây là căn cứ để ra đời cơ chế lãi suất trần và mức khống chế từ 01/ 01/ 1996. 4. Giai đoạn từ sau 01 - 01 - 1996 đến nay: 4.1. Cơ chế quản lý lãi suất tín dụng thông qua mức khống chế 0,35%: Theo quyết định số 381/ QĐ - NH1 ngày 28/ 12/ 1995 từ 01/ 01/ 1996 Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0,35% thay cho việc điều hành theo lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó Về lãi suất trần : do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau nên Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất có phân biệt như sau: + Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: là mức lãi suất thấp nhất, áp dụng cho khu vực thành thị. + Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn: cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một ít do thời hạn dài dễ gặp rủi ro. + Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung - dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị. + Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ bé, chi phí hoạt động cao. Về mức khống chế 0,35%/ tháng đối với chênh lệch bình quân giữa vốn cho vay(đầu ra ) và huy động vốn ( đầu vào ) ở mỗi ngân hàng. Từ đó đã hình thành một hành lang vận động hợp pháp của vốn tín dụng về phương diện giá cả của nó đó là một hành lang mà đường biên cứng là mức lãi suất trần cho 20 vay còn đường biên còn lại thì không đựợc cố định mà được thay thế bằng mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của một chu kỳ kinh doanh tín dụng ở mỗi ngân hàng không được quá 0,35%/ tháng. Tuy vậy kiểm chứng trên thực tế qua hơn một năm thực hiện, việc khống chế trực tiếp đối với ngân hàng thương mại đã bộc lộ nhiều tồn tại, vướng mắc và hạn chế về hiệu lực thi hành. Thứ nhất: Theo tài liệu về tình hình chênh lệch lãi suất năm 1996 và 6 tháng đầu năm 1997 cho thấy phần lớn ngân hàng thương mại có mức chênh lệch thực tế bình quân đạt dưới 0,35%/ tháng là do :chất lượng tín dụng chưa cao, nợ khó đòi phát sinh làm giảm doanh thu, vốn huy động tăng mạnh, nhưng tín dụng tăng trưởng chậm do tỷ lệ nhu cầu vay vốn của tổ chức kinh tế và cá nhân không đủ điều kiện cần thiết cao, ngân hàng thương mại bị ứ đọng vốn tạm thời chi phí tăng mà doanh thu giảm, tiền gửi kỳ hạn 3 tháng chiếm tỷ trọng lớn đã làm tăng số lãi phải trả, dư nợ cho vay tăng khá nhưng lãi suất cho vay giảm, nhiều ngân hàng thương mại cho vay chủ yếu bằng ngoại tệ với mức chênh lệch lãi suất thấp ( 2% - 2,5%/ năm ) chiếm khoảng 30% tổng dư nợ cho vay. Như vậy nội dung kinh tế của chỉ tiêu chênh lệch lãi suất chỉ phản ánh thu nhập thực tế của ngân hàng thương mại, không phản ánh tình hình chi phí và việc khống chế chi phí theo mức chênh lệch lãi suất 0,35%/ tháng. Thứ hai: Để chấp hành đúng mức khống chế 0,35% các ngân hàng phải căn cứ vào cơ cấu nguồn vốn tại thời điểm quyết định cho vay để xác định lãi suất huy động bình quân từ đó mới có thể xác định lãi suất cho vay, việc đó hết sức phức tạp và không bao giờ đạt được sự chính xác, vì nguồn vốn ngân hàng không ngừng biến đổi hàng ngày, hàng giờ, cho dù ở thời điểm ngân hàng quyết định lãi suất cho vay quy định mức chênh lệch  0,35% thì kết quả cũng chỉ mang tính thời điểm, vì sau đó do sự biến đổi cơ cấu của nguồn 21 vốn, mức chênh lệch này sẽ thay đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng tìn dụng. Thứ ba: Việc quản lý và điều hành chênh lệch lãi suất trực tiếp đối với từng ngân hàng thương mại là không thể làm được. Vì: + Đặc điểm và điều kiện kinh doanh của các loại hình ngân hàng thương mại khác nhau,chênh lệch lãi suất của các ngân hàng thương mại là khác nhau nên quy định một mức chênh lệch chung là không hợp lý. + Cả nước hiện có hơn 9000 ngân hàng thương mại và gần 1000 Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng trung ương làm sao có thể kiểm tra việc chấp hành theo quy định kỳ tháng,quý đồi với từng đơn vị  Vả lại nếu kiểm tra hết thì sẽ tốn kém, mà không kiểm tra thì hiệu lực thi hành rất hạn chế. + Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại có tính kỳ hạn, việc huy động vốn và cho vay việc thu - chi lãi sẽ xảy ra tình trạng ” thu dồn” hoặc ” chi dồn” trong một thời gian ngắn. Chế độ tài chính hiện hành chưa quy định cụ thể về việc trích trước, phân bổ đều đặn và đầy đủ các khoản thu - chi trong năm theo thông lệ quốc tế. Các ngân hàng sẽ có quý lỗ, quý lãi, nên có năm chênh lệch lãi suất nhỏ hơn 0,35%, có năm lớn hơn 0,35% không phụ thuộc hoàn toàn vào nỗ lực chủ quan của mỗi ngân hàng, vì vậy việc khống chế và xử lý chênh lệch là việc làm khó khăn. Thứ tư: Việc khống chế chênh lệch lãi suất 0,35% có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường tiền tệ và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại , biểu hiện là: + Khi lãi suất huy động bình quân bị khống chế cứng nhắc làm giảm sự cạnh tranh trên thị trường tiền tệ, không khuyến khích ngân hàng thương mại đưa ra sản phẩm mới. + Chênh lệch lãi suất = ( Lãi suất cho vay thực tế bình quân - Lãi suất huy động thực tế bình quân ) bị khống chế tối đa là 0,35%, nghĩa là các ngân hàng có chênh lệch lãi suất càng thấp càng tốt sẽ không khuyến khích các ngân 22 hàng cạnh tranh bằng uy tín và hiệu quả kinh doanh mà thay vào đó là nâng cao lãi suất huy động vốn. + Không khuyến khích ngân hàng thương mại tập trung huy động vốn đầu tư mở rộng cho vay trung - dài hạn mà chỉ tập trung cho vay ngắn hạn để tránh rủi ro. Ngân hàng thương mại sẽ giảm thu lãi, tăng chi lãi huy động vốn vào những tháng cuối năm để nhằm khống chế chênh lệch lãi suất dưới 0,35% làm kết quả kinh doanh của ngân hàng không được phản ánh chính xác, luân chuyển vốn tín dụng bị ách tắc. Do vậy hạn chế tính năng động trong hoạt động tín dụng, gây nên tình trạng khó khăn cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Như vậy việc khống chế lãi suất huy động bình quân và cho vay bình quân trong một mức chênh lệch cố định thì vai trò - công dụng về mặt quản lý tài chính rất hạn chế, hiệu lực thi hành không cao, kết quả không đạt như mong muốn, trái lại nó gây tiêu cực đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại . 4.2. Cơ chế điều hành lãi suất trần và không quy định mức chênh lệch lãi suất tín dụng: Tại kỳ họp thứ 2, tháng 12 - 1997 ,Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch lãi suất 0,35%/ tháng đồng thời thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay ở thành thị và nông thôn, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần lãi suất xuống còn 3 trần lãi suất : + Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/ tháng. + Trần lãi suất cho vay trung - dài hạn 1,25%/tháng. + Trần lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1,5%/ tháng. Việc điều hành theo cơ chế lãi suất trần có nhiều ưu điểm như: 23 + Trong phạm vi trần các tổ chức tín dụng được tự do ấn định mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh doanh, tự chủ trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh từng bước tự do hoá lãi suất . + Tạo mặt bằng chung về lãi suất chung trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận vượt quá xa mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định. + Có trần lãi suất sẽ bảo vệ lợi ích người vay tiền. + Đảm bảo vai trò quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất trong giai đoạn đầu mới hình thành của thị trường tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên đây là cách quản lý ”cứng” trong giai đoạn thị trường chưa phát huy hết mặt tích cực, nhạy cảm của nó, lợi dụng mức khống chế ”cứng” này nhiều tổ chức tín dụng cho vay ngay theo mức lãi suất tối đa, đụng trần để đạt lợi nhuận cao. Trần lãi suất kém linh hoạt, khó điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu về vốn và điều kiện khó khăn hay lợi nhuận của từng vùng. Trong giai đoạn khủng hoảng và sau giai đoạn khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh nhiều lần mức lãi suất. Cụ thể là: Theo quyết định số 30/ QĐ - NHNN ngày 17/ 01/ 1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất cho vay nội tệ là 1,2%/ tháng ( ngắn hạn ) và 1,25%/ tháng ( trung và dài hạn). Đặc biệt trong 11 tháng năm 1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( NHNNVN ) đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất, trong đó có 4 lần hạ trần lãi suất. Ngày 29/ 01/ 1999, Thống đốc NHNNVN có chỉ thị số 01/ CT - NHNN1 quy định từ ngày 01/ 02/ 1999 mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị là 1,1%/ tháng ( ngắn hạn ) và hạ còn 1,15%/ tháng ( trung và dài hạn ). Mức lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên vẫn giữ nguyên ở mức 1,5%/ tháng. 24 Để kích cầu thêm một bước và tái lập sự bình đẳng giữa thành thị và nông thôn, ngày 29/ 05/ 1999 Thống đốc NHNNVN ban hành quyết định số 189/ 1999/ QĐ - NHNN 1 về việc điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho vay cả ở thành thị, nông thôn đều áp dụng mức lãi suất thống nhất 1,15%/ tháng. Tiếp đến, ngày 30/ 07/ 1999, Thống đốc NHNNVN đã ban hành quyết định số 266/ 1999/ QĐ - NHNN 1 hạ mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,15%/ tháng xuống 1,05%/ tháng. Riêng các Hợp tác xã tín dụng và Quỹ tín dụng nhân dân giữ nguyên trần lãi suất cho vay là 1,5%/ tháng. Ngày 01/ 09/ 1999, Thống đốc NHNNVN ra chỉ thị số 05/1999/CT- NHNN1 hạ mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam xuống mức 0,95%/ tháng ở khu vực thành thị Đồng thời ra Quyết định số 307/1999/QĐ- NHNN1 quy định lãi suất tái cấp vốn là 0,7%/tháng. Tại nhiều ngân hàng thương mại nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh tiền gửi vẫn không ngừng tăng lên nhưng cho vay không hết. Các ngân hàng thương mại quốc doanh phải đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào trái phiếu Kho bạc Nhà nước thời hạn 1 năm và công trái xây dựng Tổ quốc thời hạn 5 năm mặc dù lãi suất thấp. Trước tình hình đó, các ngân hàng thương mại đồng thời hạ lãi suất để chống lỗ với mức độ khác nhau. Đến đầu tháng 10 năm 1999, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn chỉ còn 0,3%/ tháng so với lãi suất 0,5%/tháng đầu năm 1999, tính ra giảm 40%, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng chỉ còn 0,5%/tháng so với 0,75%/ tháng vào đầu năm 1999 đã giảm 34%. Ngày 22/ 10/ 1999, Thống đốc NHNNVN ra quyết định số 383/1999/QĐ- NHNN1 mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam ở khu vực thành thị là 0,85%/ tháng, khu vực nông thôn là 1%/ tháng. Đồng thời ra quyết định số 382/1999/QĐ-NHNN1 điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà 25 nước đối với các tổ chức tín dụng là 0,5%/ tháng có hiệu lực từ ngày 01/11/1999 . Trên cơ sở các mức lãi suất đó các tổ chức tín dụng cũng quyết định điều chỉnh giảm các mức tiền gửi và huy động vốn của mình. Kể từ ngày 25/ 10/ 1999 mức lãi suất tiền gửi của hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam trong toàn quốc điều chỉnh giảm : Không kỳ hạn còn 0,15%/ tháng, kỳ hạn 3 tháng còn 0,3%/ tháng , kỳ hạn 6 tháng là 0,4%/ tháng và kỳ hạn 12 tháng là 0,5%/ tháng. a. Cơ sở điều chỉnh: Việc điều chỉnh lãi suất nhiều lần như vậy không hẳn do ý định chủ quan của Ngân hàng Nhà nước, nó xuất phát từ cơ sở sau: + Năm 1998 tỷ lệ lạm phát đột ngột tăng lên 9,2% làm lãi suất huy động thực giảm còn 2,2%/ năm vẫn cao gấp 2 lần so với thế giới. Trái lại trong 6 tháng đầu năm 1999 lãi suất huy động doanh nghiệp vẫn giữ nguyên ở mức 0,8%/ tháng lãi suất thực trở lại mức 0,5%/ tháng hay 6%/ năm cao gấp 5 lần so với thế giới. Lãi suất huy động cao làm lãi suất cho vay cũng tăng cao, mà lãi suất tăng cao gây nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế, làm đầu tư trì trệ cho nên phải hạ lãi suất . - Hơn nữa lạm phát 9 tháng đầu năm ở mức thấp, 7 tháng gần đây liên tục thiểu phát ở mức: -0,7% ; -0,6% ; -0,4% ; -0,3% và -0,4%. Giảm phát làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại và sức mua của thị trường giảm sút. Các ngành sản xuất vật đang gặp khó khăn về thị trường và vốn để đổi mới kỹ thuật, công nghệ. Vấn đề mất cân đối giữa hàng và tiền thực chất là mất cân đối giữa khối lượng hàng hoá trên thị trường và khả năng thanh toán của nền kinh tế là rất trầm trọng. Vốn trong các ngân hàng thì ứ đọng mà nông dân và các doanh nghiệp lại thiếu vốn cho đầu tư sản xuất, kinh doanh. Do vậy một biện pháp cần thiết để ”kích cầu” là hạ lãi suất . 26 - Tỷ giá hối đoái ổn định từ nhiều tháng nay ( từ tháng 10/ 1998 ) và kể cả việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái tháng 2/ 1999 cũng không gây biến động về tỷ giá. - Tình hình cung - cầu về vốn tín dụng: tốc độ tăng số dư tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng nhanh hơn tiền gửi bằng ngoại tệ, đến giữa tháng 5/ 1999 tốc độ tăng tiền gửi là 9,3% trong khi tốc độ tăng dư nợ cho vay chỉ là 5,2% so với đầu năm 1999. - Tình hình thực hiện lãi suất cho vay và huy động vốn bằng đồng nội tệ của các tổ chức tín dụng: nhìn chung do tình hình vốn ứ đọng nên các tổ chức tín dụng cũng đã giảm lãi suất cho và tiền gửi đảm bảo cân đối về cung - cầu vốn tín dụng. Vào thời điểm tháng 5/ 1999: + Lãi suất cho vay: phổ biến ở mức 1,1%/ tháng ( ngắn hạn ) và 1,15%/ tháng ( trung - dài hạn) ở thành thị ; ở nông thôn cho vay sát trần 1,2% và 1,25%/ tháng nhưng một số tổ chức tín dụng chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh thực hiện giảm 10 - 15% so với lãi suất trên để đẩy mạnh cho vay. Cá biệt có tổ chức tín dụng còn cho vay 0,9%/ tháng, cho vay xuất khẩu: 0,8%/ tháng. + Lãi suất tiền gửi: mặt bằng lãi suất tiền gửi hạ xuống đáng kể từ 0,1 - 0,2%/ tháng so với năm 1998 và quý I/ 1999 nhằm cân đối cung - cầu về vốn. Tiền gửi không kỳ hạn phổ biến ở mức 0,3 - 0,5%/ tháng, kỳ hạn 6 tháng: 0,75 - 0,8%/ tháng, kỳ hạn 12 tháng: 0,9 - 1%/ tháng. Dưới đây là biểu một số lãi suất chính do Ngân hàng Nhà nước quy định trong thời gian gần đây: Đơn vị tính :% 1/ 21/1/19 1/2/19 1/6/19 1/8/19 4/9/19 25/10/1 27 Thời điểm Lãi suất 7/199 7 98 99 99 99 99 999 Ngắn hạn 1,0 1,2 1,1 1,15, 1,05 0,95 0,85 Trung - dài hạn 1,1 1,25 1,15 1,15 1,05 0,95 0,85 Khu vực nông thôn 1,2 1,25 1,25 1,15 1,05 1,05 1,0 Quỹ tín dụng nhân dân 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 Lãi suất tái cấp vốn 1,1 1,1 1,0 0,85 0,85 0,7 0,5 b. Mục đích điều chỉnh lãi suất : + Đảm bảo tính phù hợp giữa mặt bằng lãi suất với tình hình lạm phát. + Giảm bớt khó khăn cho người vay, góp phần kích thích nền kinh tế phát triển, đảm bảo cân đối cung - cầu về vốn tín dụng, đẩy mạnh cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, tạo khuôn khổ đủ rộng để tổ chức tín dụng thuộc các loại hình khác nhau, năng lực tài chính khác nhau, độ rủi ro khác nhau định ra mức lãi suất huy động cho vay và hợp lý. + Giảm bớt các trần lãi suất chuẩn bị điều kiện tiến tới áp dụng cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định. c. Tác động của điều chỉnh lãi suất tín dụng thời gian vừa qua: Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước đã thiết kế một mặt bằng lãi suất áp dụng chung cho cả vay ngắn hạn, trung - dài hạn, tạo sự bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên dư nợ của khu vực nông thôn không lớn trong đó các khoản cho vay chính sách, cho vay theo các chương trình của Chính phủ chiếm phần không nhỏ nên mặc dù có tạo điều kiện giamr chi phí và tăng đầu tư đối với 28 khu vực nông thôn song tác dụng kích thích khu vực nông thôn của việc điều chỉnh lãi suất tới sự bình đẳng như vậy cũng chưa mạnh mẽ. Thêm vào đó, chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn này vẫn còn cao dẫn đến từ lần điều chỉnh lãi suất thứ tư trong năm trở đi, lãi suất trần, áp dụng đối với khu vực nông thôn trở lại cao hơn so với mức lãi suất trần cho vay ở thành thị. Về việc thống nhất trần lãi suất đối với các khoản vay có thời hạn khác nhau trong giai đoạn hiện nay có thể nhận định là nhằm khuyến khích các nhà đầu tư đẩy mạnh đầu tư trung - dài hạn, khuyến khích đầu tư theo chiều sâu, đẩy mạnh phát triển sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội chủ nghĩa. Do mức độ rủi ro thường tăng theo thời hạn của khoản vay nên đây chưa phải là quyết định hợp lý. Nếu như trước kia chúng ta đã từng không phân biệt lãi suất cho vay các thời hạn khác nhau rồi đến quy định lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay dài hạn đã được nhìn nhận là không hợp lý và được sửa đổi bằng việc nâng lãi suất cho vay trung - dài hạn lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn thì việc thống nhất trần lãi suất như hiện nay phải chăng là một bước thụt lùi  Có lẽ đây chỉ là một giải pháp tình thế để đẩy mạnh ” đầu ra” của tín dụng mà thôi, chắc chắn trong tương lai chúng ta sẽ phải trở lại nguyên tắc đúng đắn là ”Lãi suất tín dụng ngắn hạn  Lãi suất tín dụng dài hạn ”. Thứ hai : Việc điều chỉnh lãi suất tín dụng đã gây nên một số ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng : + Biên độ giảm trần lãi suất giữa các lần điều chỉnh quá lớn (0,1%/ tháng; 1,2%/ năm ), khoảng cách giữa hai lần hạ trần lãi suất qua gần nhau liên tiếp đã gây ra các ảnh hưởng sau : + Hoạt động của ngân hàng thương mại chưa kịp ổn định qua việc hạ trần lãi suất lần này đã phải đối phó với việc hạ trần lãi suất lần sau. Các ngân hàng e dè trong huy động vốn nhất là vốn dài hạn vì sợ lãi suất tiếp tục hạ làm ngân hàng lỗ nhiều hơn. 29 + Các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn do địa bàn hoạt khó khăn, cho vay món nhỏ, chi phí lớn, nguồn vốn hạn hẹp hơn các tổ chức tín dụng khác. Từ đó buộc các tổ chức tín dụng này giảm chi phí, tiết kiệm và nâng cao chất lượng phục vụ nông nghiệp và nông thôn với lãi suất thấp. + Khách hàng nảy sinh tâm lý chần chừ trong vay tiền ngân hàng, họ chờ một mức lãi suất thấp hơn nữa. + Lãi suất tái cấp vốn giảm khuyến khích các ngân hàng thương mại vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước. Thứ ba: Hiệu quả của hạ lãi suất với việc ” kích cầu ” nền kinh tế : Kích cầu là một giải pháp kích thích khuyến khích tiêu dùng và mục tiêu cuối cùng là tăng tổng cầu, tổng cung hàng hoá xã hội để thúc đẩy sản xuất phát triển . Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu về vốn rất cao của doanh nghiệp và nông dân với sự dư thừa của nguồn vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, bằng việc hạ lãi suất cho vay Nhà nước muốn khai thông tín dụng từ đó kích thích tiêu dùng ( bao gồm tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho sinh hoạt, đời sống ). Hạ lãi suất có liên quan đến bố trí lại cơ cấu đầu tư, chi tiêu Ngân sách và là một trong hàng loạt các ”kích cầu ” mà Nhà nước đã áp dụng như : giảm khung thuế tiêu thụ đặc biệt, giảm thuế luân chuyển, bỏ thuế sát sinh, giảm một số thuế suất khác, tăng ưu đãi tín dụng, điều chỉnh phụ cấp lương, bảo hiểm xã hội, tài trợ mạnh hơn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. Nhưng có lẽ hạ lãi suất chưa có hiệu quả mạnh mẽ lắm đến việc kích thích nền kinh tế phát triển. Có thể đề cập đến một số nguyên nhân: + Lãi suất giảm nhưng do giảm phát nên ở các công ty, doanh nghiệp hàng hoá tồn kho nhiều. tín dụng đang bí đầu ra, doanh nghiệp cạnh tranh kém, sản xuất trì trệ ( riêng 17 Tổng công ty 90 - 91 đã ứ đọng 6000 tỷ đồng ). Trong 30 điều kiện làm ăn thua lỗ, các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc không dám vay vốn, bản thân ngân hàng thương mại cũng không dám bỏ vốn ra để đầu tư vì vậy chỉ trông chờ hạ lãi suất cũng không mở rộng được tín dụng. + Lãi suất cho vay ở nông thôn vẫn cao hơn lãi suất thị trường mà nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của nông thôn rất cấp bách chỉ riêng việc kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi, đường giao thông nông thôn, phát triển kinh tế trang trại ... đã đặt ra yêu cầu rất lớn về vốn vay. + Lãi suất tiền gửi mặc dù giảm nhưng nguồn vốn huy động vào ngân hàng vẫn tăng cao vì ở thành phố người có tiền cũng không mua sắm gì nhiều mà đầu tư buôn bán thì khó tìm ra lợi nhuận cao nên tốt nhất là gửi ngân hàng kiếm lãi. Cung tín dụng tăng trong khi đầu ra không có do vậy đã hạ lãi suất mà hiệu quả vẫn không đạt như mong muốn. + Lãi suất tín dụng đã hạ thấp nhưng ngân hàng chỉ có thể cho vay nếu khách hàng hội tụ những điều kiện cần thiết, đảm bảo hoàn trả có lãi đúng thời hạn vay. Trên thực tế mặc dù hạ lãi suất cho vay, nới lỏng các điều kiện vay vốn nhưng do không đủ điều kiện để vay nên có thể cần nhưng khách hàng vẫn không vay được vốn. Ngân hàng cho vay tuỳ tiện sẽ tạo ra càng nhiều sự tiềm ẩn về nợ quá hạn gia tăng, khả năng không trả nợ được càng lớn. Như vậy hạ lãi suất chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ để gia tăng tín dụng. Muốn tín dụng thực sự tăng trưởng thì phải tăng sức bật của nền kinh tế, tăng khả năng hấp thụ vốn cũng như độ an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam . Một yếu tố không thể thiếu đó là cần có một hệ thống pháp luật đồng bộ và cởi mở hơn. Hạ lãi suất có ý nghĩa rất lớn đối với chủ trương phát huy nội lực, kích thích phát triển sản xuất và đầu tư, sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực và thế giới, góp 31 phần đưa tín dụng của nước ta tiến tới mức lãi suất của thế giới. Vậy nên mặc dù chưa đạt được những gì như mong đợi từ việc hạ lãi suất nhưng khách quan mà nói thì hạ lãi suất là một chủ trương đúng đắn. II. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ HỆ THỐNG LÃI SUẤT TÍN DỤNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG TRONG THỜI GIAN TỚI: 1. Một số ý kiến về hệ thống lãi suất tín dụng và giải pháp xử lý những bất hợp lý về lãi suất : Thứ nhất: Lãi suất tín dụng ở Việt Nam vẫn ở mức cao so với thế giới. Đến nay Việt Nam đang thi hành một chính sách lãi suất cao có sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước. Trong thời gian qua chúng ta đã nhiều lần thực hiện giảm trần lãi suất cho vay nhưng vẫn chưa xuống tới mức lãi suất trung bình của thế giới. Lãi suất cao gây ra những khó khăn cho nền kinh tế : + Lãi suất thực cao làm doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc không dám vay vốn đầu tư phát triển sản xuất. + Lãi suất cao dẫn đến các hộ gia đình cố gắng cắt giảm tiêu dùng để giành tiền gửi tiết kiệm lấy lãi suất cao. Đầu tư giảm, tiêu dùng hạn chế, nền kinh tế không phát triển mạnh được. Mặt khác cũng phải xét đến mặt tích cực của việc duy trì chính sách lãi suất cao: + Đồng tiền Việt Nam đã từng bị mất giá rất mạnh nên cần có thêm thời gian để khẳng định uy tín và sức mạnh của mình, nếu hạ thấp giá của đồng Việt Nam dễ dẫn tới hiện tượng dân cư đổ dồn vào mua đôla, ngoại tệ khác để tích luỹ. + Theo quy luật tiết kiệm tỷ lệ thuận với thu nhập hiện nay, thu nhập của người dân còn thấp và chủ yếu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nên một mức lãi 32 suất cao sẽ kichs thích người dân kiềm chế những khoản cho vay chưa thật cần thiết để đầu tư sinh lợi. Hướng xử lý lãi suất trong thời gian tới là tiếp tục hạ lãi suất nhưng phải cân nhắc tới khả năng huy động vốn khi lãi suất giảm và chú ý đến biên độ giảm trần. Thứ hai : Sự bất hợp lý khi so sánh lãi suất ở thành thị và nông thôn. Giữa thành thị và nông thôn đến nay vẫn còn có sự khác biệt trong việc quy định mức trần lãi suất. Với lý do địa bàn hoạt động khó khăn, chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng lớn, cho vay món nhỏ nên mức trần lãi suất cao hơn là tất yếu. Tuy vậy chúng ta nên yêu cầu các tổ chức tín dụng này giảm chi phí, tiết kiệm, hơn là để nông dân phải chịu sự bất bình đẳng này. Cũng như hiện tượng bất hợp lý xảy ra trong việc thu thuế nông nghiệp: thuế thu được có khi nhỏ hơn cả chi phí cho việc thu thuế nhưng không vì thế mà bỏ thuế, việc làm cần thiết là giảm những chi phí phục vụ cho việc thu thuế. Thứ ba : Lãi suất cho vay ngắn hạn, trung - dài hạn đồng nhất ở một mức. Thời hạn vay càng lớn thì rủi ro của việc cho vay càng cao nên chăng Ngân hàng Nhà nước cần điều chỉnh để lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn mức lãi suất cho vay dài hạn. Thực tế là ngân hàng huy động vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn ( không kỳ hạn, kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng ) nên vốn vay dài hạn đa phần đượchi phí lấy từ nguồn huy động ngắn hạn. Vậy khi khách hàng rút tiền gửi đồng loạt trong khi các khoản vay dài hạn chưa đến kỳ trả thì ngân hàng sẽ xử lý ra sao Dù ở Việt Nam hay ở bất cứ nước nào các tổ chức tín dụng luôn phải tuân thủ nguyên tắc ” Chỉ được dùng nguồn vốn ngắn hạn cho vay ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn cho vay dài hạn”có như vậy mới đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng và lãi suất mới bao hàm mức độ rủi ro của các khoản vay. 33 Thứ tư : Việc điều hành lãi suất bằng cách Ngân hàng Nhà nước quy định trần lãi suất cho vay. Quản lý trần lãi suất cho vay bộc lộ một số tồn tại: + Không phù hợp với thông lệ quốc tế và còn mang nặng tính hành chính trong điều hành chính sách tiền tệ. + Hạn chế trong chiến lược khách hàng của các tổ chức tín dụng, nhất là các khách hàng có độ rủi ro lớn vẫn được áp dụng như các khách hàng có độ rủi ro thấp hơn hoặc không có rủi ro. + Hiện tượng hạ quá thấp trần lãi suất cho vay của một số ngân hàng thương mại có lãi suất đầu vào thuận lợi đã gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại quốc doanh. + Trần lãi suất cho vay răn đe các tổ chức tín dụng không được cho vay vượt quá mức lãi suất đó như vậy chỉ đảm bảo quyền lợi cho người đi vay mà chưa quan tâm đến lợi ích của tổ chức tín dụng có thể làm cho tổ chức tín dụng ”chết ” trước khi thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều hành theo trần lãi suất có nhiều bất cập như vậy nhưng liệu có nên tự do hoá lãi suất hay không Tự do hoá lãi suất là bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, tức là lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo các lực lượng cung - cầu về vốn trên thị trường, loạ bỏ những áp đặt mang tính hành chính với sự hình thành của lãi suất, cho phép các tổ chức tín dụng tự chủ trong kinh doanh. Khi đó, Ngân hàng trung ương tác động gián tiếp tới lãi suất chủ yếu dựa vào các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất được tư do hoá sẽ linh hoạt hơn so với lãi suất bị kiểm soát và có khả năng linh hoạt điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, tự động tạo ra sự kích thích tăng trưởng tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu đầu tư. Tác dụng chỉ đạt được cùng với một thị trường tài chính hoàn hảo. Theo kinh nghiệm của một số nước Mỹ Latinh thì tự do hoá lãi suất trong môi trường 34 không kiểm soát cùng với một thị trường tài chính không hoàn hảo và độc quyền đã làm cho lãi suất thực tăng lên rất cao, không khuyến khích đầu tư mà còn làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, gây khủng hoảng trong hệ thống tài chính làm trầm trọng hơn tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô. Do vậy phù hợp với điều kiện một nước có thị trường tài chính mới sơ khai, mức độ cạnh tranh kém, công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp chưa hiệu quả và còn thiếu, hạn chế trong năng lực quản lý điều hành như ở Việt Nam thì Nhà nước chưa thể thực hiện tự do hoá lãi suất nhưng nên chuyển từ kiểm soát trực tiếp như hiện nay sang kiểm soát lãi suất cơ bản và quy định một biên độ dao động tối đa. Biên độ ấy có thể dần dần nới rộng và tiến tới loại bỏ khi khả năng kiểm soát của Ngân hàng Trung ương được tăng cường, khi cơ chế phân loại tín dụng và dự phòng được tạo lập và đặc biệt là khi các công cu kiểm soát tiền tệ gián tiếp hữu hiệu được hình thành. Thứ năm : Đánh giá về các quyết định điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Nhà nước . Hiện tại có hai ý kiến trái ngược: Có ý kiến cho rằng việc điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Nhà nước phù hợp với giải pháp kích cầu của Chính phủ, điều chỉnh lãi suất theo tín hiệu thị trường. Ngược lại, có ý kiến cho rằng Ngân hàng Nhà nước đang chạy theo thị trường và hiệu quả với các giải pháp kích cầu là không đáng kể. Đánh giá một cách khách quan thì các đợt điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Nhà nước là đúng, phù hợp với xu thế của thị trường nhưng trên thực tế thì các quyết định này luôn luôn chậm hơn thị trường, Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay khi thực tế các tổ chức tín dụng đã giảm tỷ lệ lãi suất cho vay rồi. Mức trần lãi suất cho vay do Ngân hàng Nhà nước quy định bằng hoặc cao hơn mức trần lãi suất cho vay mà các tổ chức tín dụng đang áp dụng do vậy mục đích giảm dần lãi suất không đạt được. 35 Vậy mức độ giảm lãi suất là bao nhiêu thời điểm giảm khi nào mới thực sự phát huy được hiệu quả và thực hiện được giải pháp kích cầu của Chính phủ Cho dù lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi giảm nhưng số dư tiền gửi tăng, tín dụng không tìm được đầu ra, vốn vẫn ứ đọng trong hệ thống tín dụng trong khi nền kinh tế còn đang rất ”đói ” vốn. Do đâu mà có tình trạng này Trước hết là mức lãi suất thực cao: những người có lượng tiền tiết kiệm nhỏ vẫn gửi vào ngân hàng với mức lãi suất thấp hơn vẫn có lãi và bảo toàn được vốn ; những người có lượng tiền tiếp kiệm lớn thì không có cơ hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận thấp, rủi ro cao, trong khi gửi ngân hàng thì rủi ro hầu như không có hoặc rất thấp mà lợi nhuận lại cao. Doanh nghiệp không vay vốn vì tỷ suất lợi nhuận của họ chưa chắc đã vượt được mức trần lãi suất cho vay ( hiện nay là 0,85%12 = 10,20%/ năm ). Nông dân thì vẫn có nhu cầu đầu tư cho tư liệu sản xuất nhưng không thể vay được vì thủ tục phức tạp, không có vật cầm cố, thế chấp và cũng gần như không có khả năng trả nợ do tỷ lệ lãi suất cho vay chưa hợp lý. Sự nghèo nàn về chủng loại các sản phẩm đầu tư tài chính dẫn đến người có thừa tiền cũng chẳng biết đầu tư vào đâu nếu không đem gửi ngân hàng. Để giải quyết hiện trạng này Nhà nước nên thực hiện bội chi ngân sách cao hơn, Ngân sách Nhà nước chỉ cấp một phần vốn cho các công trình lớn, còn lại chủ công trình phải tự tìm nguồn vốn từ bên ngoài ( bằng cách vay ngân hàng thương mại ). Bản thân ngành ngân hàng, hệ thống ngân hàng phải tính toán mạnh dạn hơn trong các quyết định về lãi suất, dự báo được diễn biến của thị trường để xác định mức trần lãi suất hợp lý hơn, phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay. Nên giảm lãi suất để làm nản lòng người gửi tiết kiệm để họ thấy rằng đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh và tiêu dùng là có lợi hơn. 36 Thứ sáu : Chênh lệch giữa lãi suất đồng Việt Nam với lãi suất ngoại tệ. Lãi suất ngoại tệ và nội tệ hiện nay còn chênh lệch quá nhiều. Chẳng hạn như vào thời điểm tháng 3/ 1999: lãi suất tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn phổ biến ở mức 2%/ năm; 3 tháng là 4,0%/ năm ; 6 tháng là 4,5%/ năm, 9 tháng là 5%/ năm, 12 tháng là 5,2%/ năm trong khi các mức lãi suất với kỳ hạn tương ứng của tiền gửi bằng đồng Việt Nam là 0,5%/tháng ; 0,75%/ tháng ; 0,85%/ tháng và 0,9%/ tháng. Đến những thời điểm sau đó Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ, gần đây nhất là quyết định 306/ 1999/ QĐ - NHNN 1 quy định mức lãi suất tiền gửi bằng đôla Mỹ tối đa: không kỳ hạn là 0,5%/ năm; có kỳ hạn đến 6 tháng là 2,5%/năm ; trên 6 tháng là 3%/ năm. Với lãi suất thấp như vậy các ngân hàng khó lòng thu hút ngoại tệ và người ta sẽ bán ngoại tệ ra thị trường để lấy tiền Việt Nam gửi vào ngân hàng hưởng lãi suất cao hơn làm tỷ giá VNĐ so với USD tăng, hạn chế xuất khẩu. Ngân hàng Nhà nước cần giải quyết theo hướng nâng lãi suất ngoại tệ lên sao cho mức chênh lệch với lãi suất nội tệ không quá lớn. Thứ bảy : Các ngân hàng thương mại còn đảm nhiệm cả việc thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước. Hiện nay ngân hàng thương mại còn đảm nhận cho vay ưu đãi đối với các vùng biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc Khơ-me, sinh viên nghèo ở các trường Đại học ... với lãi suất rất thấp và khả năng trả nợ thì rất mong manh không đảm bảo mang lại lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thực hiện chính sách lãi suất trong khi các ngân hàng thương mại phải tự bù đắp chi phí để tồn tại và phát triển. Đồng thời tạo ra một biểu lãi suất có quá nhiều mức lãi suất không thuận lợi cho hoạt động quản lý các khoản vay của khách hàng. 37 Để các ngân hàng thương mại thực sự là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng Nhà nước cần có kiến nghị lên Chính phủ về việc thành lập riêng Ngân hàng chính sách hay Quỹ hỗ trợ đầu tư để thực hiện cho vay đối với các đối tượng chính sách xã hội hoặc phải có sự bù đắp hợp lý cho các ngân hàng thương mại khi thực hiện các khoản cho vay với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thông thường. 2. Định hướng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam thời gian tới: Lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định là công cụ quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô, tác động trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. Đặc điểm sử dụng công cụ lãi suất Ngân hàng Nhà nước mang tính trực tiếp theo yêu cầu tăng cường khả năng đầu tư phát triển kinh tế và thực hiện một số chính sách xã hội là một giải pháp tất yếu khi nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi những tiền đề của nền kinh tế thị trường chưa sẵn sàng để vận dụng chính sách lãi suất gián tiếp. Tuy nhiên, cùng với sự biến chuyển của nền kinh tế, lãi suất của Ngân hàng Nhà nước từng bước được điều chỉnh theo hướng giảm dần tác động trực tiếp, tăng dần khả năng vận dụng linh hoạt của các ngân hàng thương mại . Năm 1997 Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời đã đánh dấu một giai đoạn mới trong hoạt động tín dụng - ngân hàng ở nước ta. Điều 18 Luật Ngân hàng Nhà nước ghi : ”Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”. Điều 9 của Luật này giải thích ”Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh ” và ”Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi tái cấp vốn ” trong đó lãi suất tái chiết khấu được áp dụng khi Ngân hàng 38 Nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngăns hạn khác cho các tổ chức tín dụng. Quy định thì rất dễ hiểu nhưng vận dụng vào thực tiễn quả là không đơn giản do vậy chúng ta nên phân định rõ lãi suất cơ bản là gì  có thể chọn lãi suất nào là lãi suất cơ bản và điều hành nó như thế nào  2.1. Các quan điểm về lãi suất cơ bản: Quan điểm thứ nhất cho rằng nên lấy lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước làm lãi suất cơ bản nếu như thế chẳng hoá ra nội dung của điều 18 là không chuẩn khi tách ra lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với các khoản tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước là người thực hiện cho vay cuối cùng trong 3 trường hợp sau: + Ngân hàng Nhà nước cho vay chiết khấu và tái chiết khấu đối với các thương phiếu của ngân hàng thương mại. + Ngân hàng Nhà nước cho vay đối với giá trị các hợp đồng tín dụng chưa đến hạn của ngân hàng thương mại. + Ngân hàng Nhà nước cho vay cầm cố bất động sản, thế chấp các chứng từ có giá khác của ngân hàng thương mại. Lãi suất tái cấp vốn có thể thấp hơn, bằng hoặc cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại. Đối với nước ta hình thức cho vay chiết khấu và tái chiết khấu chưa xuất hiện. Do vậy lãi suất tái cấp vốn chưa thể chi phối lãi suất tín dụng của ngân hàng thương mại và không thể đồng nhất với lãi suất tín dụng. Quan điểm thứ hai cho rằng lãi suất cơ bản là: + Lãi suất cho vay do Ngân hàng trung ương quyết định có thể là lãi suất cho vay tối đa hoặc lãi suất cho vay tối thiểu. 39 + Lãi suất tiền gửi do Ngân hàng trung ương quy định có thể là lãi suất tiền gửi tối thiểu hoặc lãi suất tiền gửi tối đa. Quan điểm thứ ba cho rằng lãi suất cơ bản là lãi suất thị trường ví dụ như lãi suất trên thị trường liên ngân hàng của nước ta. Quan điểm này không được chấp nhận vì lãi suất này chỉ có tính chất cung cấp thông tin tham khảo, không có ý nghĩa là khung lãi suất phải tuân thủ. Các quan điểm rất khác nhau nên việc thống nhất một cách hiểu về lãi suất cơ bản là rất khó, song chúng ta cần hiểu rõ bản chất, chức năng và đặc thù của lãi suất cơ bản phải là: Về bản chất và chức năng: Lãi suất cơ bản có hai chức năng : + Là công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Qua lãi suất cơ bản Ngân hàng Nhà nước tác động vào thị trương tiền tệ, thúc đẩy mở rộng hay thu hẹp tín dụng và tổng các phương tiện thanh toán, giữ mức tương quan cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, đảm bảo ổn định giá cả và tiền tệ. + Là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cơ sở để hình thành lãi suất thị trường tức là lãi suất kinh doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hoà một cách tự nhiên lợi ích người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng. Về đặc thù của lãi suất cơ bản: + Lãi suất cơ bản là lãi suất được điều hành và tác động trực tiếp lên lãi suất thị trường. + Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố, không phải tự hình thành trên thị trường tiền tệ . + Lãi suất cơ bản có ý nghĩa bắt buộc các tổ chức tín dụng phải chấp hành vô điều kiện. 40 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua đã điều hành lãi suất cơ bản theo hệ thống lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa. 2.2. Định hướng điều hành lãi suất : Theo luật Ngân hàng Nhà nước, định hướng điều hành lãi suất cần được hoàn thiện từng bước, chuyển dịch lãi suất từ trực tiếp thông qua việc khống chế kiểu áp đặt hành chính ( lãi suất cơ bản ) qua tự do hoá lãi suất có điều tiết của Ngân hàng Nhà nước ( lãi suất tái cấp vốn ). Trong những năm tới vẫn cần duy trì cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thông qua việc xác định và công bố lãi suất trần ( sàn ) làm lãi suất cơ bản đi đôi với lãi suất tái cấp vốn mà tác dụng còn hạn chế. Khi có điều kiện sẽ chuyển hẳn sang phương pháp tác động gián tiếp, tự do hoá dần lãi suất thông qua lãi suất tái cấp vốn. Trong khi đang điều hành theo lãi suất cơ bản cũng cần hoàn thiện từng bước lãi suất này, chuyển từ lãi suất trần ( khống chế bằng lãi suất cho vay) sang lãi suất sàn ( khống chế bằng lãi suất tiền gửi ). Trước mắt nên tiếp tục xác định và công bố lãi suất trần cho vay tối đa làm lãi suất cơ bản vừa phục vụ yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ vừa có sự quan tâm đến người vay tiền và người gửi tiền. Để phù hợp với thông lệ quốc tế và có một sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn trong hệ thống Ngân hàng chúng ta cần chuyển sang cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản. Lãi suất tiền gửi = Mức lạm phát + Lãi suất thực tối đa dự kiến của người gửi tiền Từ đó các tổ chức tín dụng được tự xác định lãi suất cho vay cụ thể, tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. 41 KẾT LUẬN Đánh giá về lãi suất tín dụng ở Việt Nam một cách khách quan chúng ta không thể phủ nhận rằng lãi suất đã có tác dụng to lớn trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế và xã hội khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát lên tới ba con số. Tuy nhiên mục tiêu của chúng ta không chỉ dừng ở mức ổn định mà là tăng trưởng đặc biệt trong giai đoạn sản xuất - tiêu dùng trì trệ như hiện nay thì tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa rất tích cực nhưng dường như công cụ lãi suất lại kém hiệu quả không phát huy được vai trò của mình. Nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đang đứng trước một nghịch lý là trong khi vốn thực sự là một nguồn lực khan hiếm bậc nhất thì một lượng không nhỏ tiền tiết kiệm lại ứ đọng trong các ngân hàng thương mại mà một trong những nguyên nhân của nó là do những bất cập trong hệ thống lãi suất và điều hành hệ thống lãi suất. 42 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 43 1. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ. Chủ biên : PTS . PGS Vũ Văn Hoá. 2.Công nghệ Ngân hàng và thị trường tiền tệ. Tác giả : Nguyễn Công Nghiệp. 3. Những vấn đề cơ bản về tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng trong bước đầu đổi mới ở Việt Nam. Tác giả : Cao Sỹ Kiêm. 4. Đổi mới kinh tế Việt Nam thực trạng và triển vọng. Tác giả : Đặng Đức Đạm. 5. Báo : Thời báo Ngân hàng các số : 19, 20, 21, 78, 79, 80 / 1999. 6. Tạp chí Ngân hàng các số : 6,7,8, 13, 14 / 1999. 7. Tạp chí Tài chính số : 7, 9, 10 / 1999. 44

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Bàn về hệ thống lãi suất tín dụng ở Việt Nam hiện nay..pdf
Luận văn liên quan