Xét xử là nhân danh nhà nước, căn cứ vào pháp luật của nhà nước để
đưa ra các phán quyết về một vụ án cụ thể. Đây không phải là phán quyết của
bản thân một tòa án nào đó, lại càng không phải là phán quyết của cá nhân
trong bộ máy tòa án hay một người có chức, có quyền nào đó mà là phán
quyết thể hiện trực tiếp thái độ của nhà nước đối với các vụ án cụ thể. Như
vậy, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của nhà nước và
cú vai trũ quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người.Vì thế, đòi hỏi xét
xử phải chính xác, công minh trong việc vận dụng và áp dụng pháp luật, thể
hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Các bản án và quyết định xét
xử của tòa án là nhân danh nhà nước, thể hiện hiệu lực của một văn kiện nhà
nước. Vì thế, nhà nước phải chịu trách nhiệm về sự không chính xác hoặc sai
lầm của những bản án hay quyết định đó gây ra. Chất lượng các phán quyết
của Tòa án được đảm bảo hay không phụ thuộc rất nhiều vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa. Trước yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước và thực tiễn
công tác cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền con người ở nước
ta hiện nay đòi hỏi cần phải đổi mới và nâng cao hơn nữa chất lượngxét xử
của tòa án.
Qua việc nghiên cứu luận văn đã giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý
luận và thực tiễn liên quan tới bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
các vụ án theo luật tố tụng hình sự Việt Nam trên các bình diện sau:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về bảo đảm
quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự, để xây dựng nên
khái niệm quyền con người trong xét xử sơ thẩm án hình sự; khái niệm và ý
nghĩa bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự;
nội dung và cơ chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm94
án hình sự; các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt
động xét xử sơ thẩm án hình sự.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng hình sự Việt
Nam trong việc bảo đảm quyền con người của hoạt động xét xử từ sau cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về việc bảo đảm quyền
con người của hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự qua thực tiễn xét xử ở tỉnh
Đắk Nông; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn việc bảo đảm quyền con
người của hoạt động xét xử, cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn
chế đó;
- Xác định rõ vai trò trách nhiệm của Toà án trong việc đảm bảo quyền
con người; nhận diện việc vi phạm quyền con người trong hoạt động xét xử
hình sự, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các
quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải
cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam./.
105 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 744 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự – từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các vụ án hình sự trước hết cần phải có những biện pháp bảo vệ vừa
phòng ngừa những vi phạm pháp luật từ các cơ quan tố tụng và những người
tiến hành tố tụng.
3.1.2. Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự yêu cầu các cơ quan, người tiến hành tố tụng kịp thời khắc phục
hành vi xâm phạm quyền con người của bị cáo và xử lý nghiêm minh đối với
70
các hành vi vi phạm đó; phải đồng bộ, liên tục, luôn được gắn chặt với các
giai đoạn của phiên tòa
Các quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói
chung được ghi nhận trong pháp luật và được bảo đảm bằng các biện pháp
của Nhà nước, thông qua việc cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý tương ứng. Tuy nhiên, bảo đảm
quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự yêu cầu
các cơ quan, người tiến hành tố tụng kịp thời khắc phục hành vi xâm phạm
quyền con người; đồng thời phải có các biện pháp đối với các hành vi vi
phạm pháp luật của người tiến hành tố tụng xâm phạm đến các quyền con
người của bị cáo. Việc áp dụng chế độ trách nhiệm đối với các hành vi này
tùy theo mức độ có thể là áp dụng trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất,
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước, truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng các biện pháp tố
tụng xử lý việc vi phạm quyền con người của bị cáo như thay đổi người tiến
hành tố tụng, hủy bỏ các quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn không
đúng đã xâm phạm các quyền con người của bị cáo... Quá trình xử lý những
hành vi vi phạm các quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự phải tiến hành công khai, khách quan, kịp thời.
Khi tham gia vào quan hệ TTHS, ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự bị cáo có rất nhiều quyền. Tuy nhiên, các quyền con người của bị cáo
không tách biệt mà quan hệ mật thiết với nhau. Ví dụ, bị cáo có quyền nhận
được các quyết định tố tụng, phải biết mình bị truy tố về tội gì, khung hình
phạt bị đề nghị áp dụng. Nếu các quyền này không bảo đảm thì các quyền tiếp
theo không thể thực hiện được như quyền được nhờ người khác bào chữa,
quyền được thay đổi những người tiến hành tố tụng, quyền được đề nghị thay
đổi các biện pháp ngăn chặn. Có một số quyền của bị cáo xuyên suốt quá
71
trình xét xử sơ thẩm như quyền được tham gia phiên tòa hay quyền bào chữa
hay nhờ người khác bào chữa nên bảo đảm quyền con người trong hoạt động
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh phải liên tục. Điều đó
cũng có nghĩa TAND, những người tiến hành tố tụng phải thực hiện trách
nhiệm và phải tạo những điều kiện cần thiết để bị cáo sử dụng, thực hiện
quyền của mình. Tuy nhiên, phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự được
diễn ra theo trình tự, với những thủ tục nghiêm ngặt nên việc bảo đảm quyền
con người của bị cáo cũng phải theo thứ tự hợp lý. Trong từng giai đoạn xét
xử, những người tiến hành tố tụng phải xác định nhiệm vụ của mình để bảo
đảm quyền con người của bị cáo tốt nhất, không xem nhẹ quyền nào.
3.1.3. Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự phải kịp thời và luôn phát huy vào trò trung tâm của Tòa án nhân
dân
Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, ở các giai đoạn TTHS trong
đó có giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đều có thể dẫn đến những nguy cơ
xâm hại các quyền con người của bị cáo. Mặt khác, trong Nhà nước pháp quyền,
tiêu chí về bảo vệ các quyền con người luôn được đề cao. Trong hoạt động
TTHS bảo đảm quyền con người được coi là trục xoay của toàn bộ các hoạt
động TTHS, là tâm điểm chú ý của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, của
cải cách tư pháp. Do vậy, bảo đảm quyền con người của bị cáo trong TTHS nói
chung và trong xét xử vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh nói riêng được đặt ra
như một nhiệm vụ cấp thiết.
Tòa án có chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Nhiệm vụ của Tòa
án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân. Trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự TAND
cấp tỉnh phải phát huy vai trò là trung tâm, bảo đảm pháp luật được áp dụng
72
thống nhất, nghiêm minh, đúng nguyên tắc pháp chế nhưng phải đảm bảo áp
dụng đúng đắn nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo,
nguyên tắc quy đoán vô tội. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt
động xét xử các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh phải góp phần tạo dựng
lòng tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật, pháp chế và bảo
đảm tính công bằng, dân chủ trong hoạt động áp dụng pháp luật của TAND
nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
Để TAND phát huy vai trò trung tâm trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự, Chủ tọa phiên tòa phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối
với mọi hoạt động tố tụng và là người chịu trách nhiệm chính đối với việc bảo
đảm các quyền con người của bị cáo. Đồng thời, Chủ tọa phiên tòa phải điều
hành phiên tòa sao cho KSV và người bào chữa phát huy hết tinh thần, trách
nhiệm của họ trong việc bảo đảm các quyền con người của bị cáo. Điều khiển
hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa cũng như các hoạt động tại phòng
nghị án Chủ tọa phiên tòa phải thể hiện thái độ khách quan, công minh và tôn
trọng bị cáo.
3.1.4. Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự phải nâng cao trình độ nhận thức của các chủ thể tiến hành tố
tụng
Các quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
được bảo đảm tốt khi đội ngũ những người tiến hành tố tụng tụng có ý thức pháp
luật cao, nhận thức được nội dung các quyền con người của bị cáo. Bởi vì, chỉ
khi các chủ thể tiến hành tố tụng tụng am hiểu, có ý thức pháp luật cao họ sẽ
giúp thẩm phán, HTND, KSV đưa ra nhận định chính xác, vận dụng đúng
đắn pháp luật, bảo đảm sự độc lập và khách quan, vô tư trong sáng và công
bằng trong hoạt động xét xử. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh phải nâng cao trình
73
độ nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng tạo ra văn hóa tôn trọng quyền
con người của bị cáo.Việc thi hành các biện pháp ngăn chặn, hay việc ra các
quyết định tố tụng liên quan đến việc hạn chế các quyền con người của bị
cáo phải được cân nhắc kỹ lưỡng và chỉ sử dụng khi thấy thật cần thiết và
nhằm mục đạt mục đích đấu tranh, phòng chống tội phạm. Khi không cần
thiết áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì chủ thể tiến hành tố tụng phải ra
quyết định hủy bỏ.Các chủ thể tiến hành tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh phải ý thức được trách nhiệm của mình
trong việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý để tổ chức cho bị cáo sử dụng các
quyền của mình; đồng thời phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ sự xâm phạm
các quyền của bị cáo từ các chủ thể khác trong hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ
thẩm.
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động
xét xử sơ thẩm các vụ ánhình sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông
3.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật
3.2.1.1. Tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa các
quy định về quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận các quyền con người trong lĩnh vực tư pháp
hình sự như: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định,
công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc
tuyên án phải được công khai. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt
hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong
74
việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho
người khác phải bị xử lý theo pháp luật (Điều 31).
Quán triệt tinh thần Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ
sung, ghi nhận nhiều quyền của bị cáo. Như vậy, để bảo đảm quyền con người
của bị cáo trong xét xử các vụ án hình sự nói chung và bảo đảm quyền con người
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng, phải khẩn
trương rà soát các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật TTHS
năm 2003 để bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới; đề nghị Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan hữu quan bãi bỏ, sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật TTHS
năm 2015. Đồng thời, rà soát các quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm
quyền con người của bị cáo ở các văn bản pháp luật khác nhằm bảo đảm tính
thống nhất và đồng bộ và ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật cụ thể hóa các
quyền con người của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm theo Điều 61 của Bộ Luật
TTHS năm 2015.
Đề bảo đảm các quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự cần phải cụ thể hóa những quy định về trách nhiệm của những người
tiến hành tố tụng như quy định rõ trách nhiệm của thẩm phán, HTND, Chủ tọa
phiên tòa, các thành viên HĐXX, KSV thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động xét xử tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
3.2.1.2. Tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa chế
định về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015
Như đã phân tích, pháp luật hiện hành chưa phân định rõ ràng chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử. Do vậy, trên thực
tế vẫn tồn tại những vụ án oan, sai, xâm phạm nghiệm trong đến quyền con
người của bị cáo. Chẳng hạn, Bộ luật TTHS hiện hành quy định khi phát hiện
75
tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình Tòa án có trách
nhiệm khởi tố vụ án (Điều 13); hay HĐXX ra quyết định khởi tố vụ án hoặc
yêu cầu VKS khởi tố vụ án mà qua việc xét xử tại phiên tòa phát hiện được
tội phạm hoặc người phạm tội mới cần điều tra (Điều 104); Toà án phải chứng
minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi
phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực TNHS hay
không; mục đích, động cơ phạm tội(Điều 63); Toà án có quyền triệu tập
những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có
liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm
và các hoạt động điều tra khác (Điều 65); Khi cần xem xét thêm những chứng
cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được Thẩm
phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung (Điều 179). [22]
Những quy định này một mặt không góp phần phân định rõ ràng chức
năng xét xử của TAND và chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKS; mặt khác, chúng chưa phát huy được nguyên tắc
tranh tụng và dân chủ trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, thậm chí có sự
lẫn lộn về chức năng giữa Tòa án và cơ quan điều tra và VKS. Như vậy, nhiều
quy định trong Bộ luật TTHS năm 2003 hạn chế đến việc bảo vệ quyền con
người của người bị buộc tội trong đó có bị cáo.
Hiến pháp năm 2013 đã phân định rõ chức năng của Tòa án là xét xử và
thực hiện quyền tư pháp. Nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. VKS nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. VKS nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN,bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
76
Quán triệt tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Bộ Luật TTHS năm
2015, cần sớm ban hành quy định chi tiết quy định trình tự, thủ tục tố tụng
liên quan đến hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án hình sự trong
đó có nhiều quy định về quyền bị cáo và bảo đảm quyền của bị cáo được sửa
đổi, bổ sung. Để bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự, cần chú trọng các nội dung sau đây:
Trước khi mở phiên tòa:
Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung quy định về trách nhiệm của Tòa án
trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của KSV và những người tham gia tố tụng
trước khi mở phiên tòa như: yêu cầu cung cấp, bổ sung chứng cứ; yêu cầu triệu
tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa (Điều
279); Bổ sung quy định khi phát hiện quá trình khởi tố, điều tra, truy tố không
bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thì Tòa án không
mở phiên tòa, trả hồ sơ để VKS khắc phục vi phạm (Điều 280).
Trên cơ sở quy định của BLTTHS năm 2015, cần phải có những quy định
cụ thể thời gian, hình thức, thủ tục để tòa án yêu cầu bổ sung chứng cứ, triệu tập
người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa; đồng
thời, có quy định về trách nhiệm của những người, cơ quan mà Tòa án yêu cầu,
đề nghị cung cấp chứng cứ, tài liệu, triệu tập đến tòa khi những chủ thể này
không hợp tác, hoặc trì hoãn thực hiện yêu cầu của Tòa án dẫn đến kéo dài thời
gian giải quyết vụ án. Sớm ban hành các quy chế bảo đảm sự phối hợp giữa Tòa
án và VKS trong trường hợp Tòa án trả hình sự để VKS khắc phục vi phạm.
Về trình tự xét hỏi:
Điều 307, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: HĐXX phải xác định đầy đủ
những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên
tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.
Điểm mới đáng chủ ý so với Bộ luật TTHS năm 2003 theo Bộ luật TTHS năm
77
2015: Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để
Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Có thể khẳng định rằng, bảo đảm quyền con người của bị cáo trước hết
là cần có sự tôn trọng từ những người tiến hành tố tụng đặc biệt là Thẩm phán
và Hội thẩm – những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án. Do
vậy, cần tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao trình
độ, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng và văn hóa pháp đình cho đội ngũ này để
họ loại bỏ tư tưởng phân biệt, kỳ thị đối với bị cáo. Trước mắt, cần tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về các nội dung liên quan đến trách nhiệm, nghĩa
vụ của Thẩm phán và HTND trong Luật Tổ chức TAND năm 2014.
Về hoạt động tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm xét xử các vụ án hình sự:
Thủ tục tố tụng tại phiên toà chưa thể hiện được đầy đủ yêu cầu tranh
tụng theo tinh thần cải cách tư pháp. Các quy định của Bộ luật về tranh luận
giữa KSV với người tham gia tố tụng còn hạn chế như: số lượng KSV có mặt
tại phiên toà tối đa hai người (Điều 189) là không tương xứng với số lượng
lớn bị cáo, luật sư trong nhiều phiên tòa thời gian qua. Không quy định thời
điểm người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội đối với
các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trong thủ tục tranh luận (Điều
217) là chưa phù hợp.
Trên cơ sở Bộ luật TTHS năm 2015, cần phải nghiên cứu, sớm ban hành
văn bản hướng dẫn thực hiện một số nội dung như sau:
- Quy định cụ thể trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa phải bảo đảm để
quyền của bị cáo và người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền
trình bày ý kiến đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với
KSV về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất,
78
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm
tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng,
biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có
ý nghĩa đối với vụ án. Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có
quyền đưa ra đề nghị của mình.
- Cần có quy chế về Phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hình sự để: Chủ toạ
phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho
KSV, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận,
trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ
án và ý kiến lặp lại. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu KSV phải đáp lại những ý kiến
của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa
được KSV tranh luận.
- Cần có quy chế quy định trách nhiệm của HĐXX. Theo đó, HĐXX
phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của KSV, bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự
thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham
gia phiên tòa thì HĐXX phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện
3.2.2.1. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất
đạo đức cho Thẩm phán
Từ thực tế ở tỉnh Đắk Nông cho thấy, đội ngũ thẩm phán còn ít về số
lượng và hạn chế về năng lực, phẩm chất. Vì vậy, ngành Tòa án cần có kế
hoạch để xây dựng đủ số lượng Thẩm phán, đáp ứng đủ nhu cầu công việc đặt
ra. Nếu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán dù có giỏi đến đâu
nhưng số lượng Thẩm phán quá ít sẽ dẫn áp lực, quá tải trong công việc, dẫn
79
đến chất lượng giải quyết các vụ án sẽ không cao, ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền lợi của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
- Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán: Đánh giá chung,
đội ngũ Thẩm phán hiện nay nói riêng và công chức có chức danh tư pháp nói
chung còn " thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ". Trong
một thời gian dài, chúng ta chưa có chiến lược đào tạo, sử dụng đội ngũ Thẩm
phán có hiệu quả. Đa số Thẩm phán được đào tạo chắp vá về chuyên môn,
chưa được đào tạo nghề mà chỉ làm việc theo kinh nghiệm đơn thuần. Xuất
phát từ yêu cầu thực tiễn trên, việc đào tạo nghề nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ Chính trị đã nêu
bật nhiệm vụ: đổi mới công tác đào tạo cán bộ có chức danh tư pháp phải có
trình độ đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề nghiệp tư pháp theo
chức danh. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
Thẩm phán là vô cùng quan trọng.Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đất
nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,
phát triển nền kinh tế thị trường, nhiều tội phạm mới trong các lĩnh vực đã
xuất hiện. Do đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xét xử các vụ án hình
sự trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là các tội phạm tham nhũng,
chứng khoán, công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng Ngoài ra cần
thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức
hội thảo, trao đổi, nghiệp vụ cho Thẩm phán.
- Về đạo đức của người Thẩm phán: Đạo đức người Thẩm phán là đạo
đức mang tính cá nhân đồng thời mang những giá trị độc đáo vĩnh hằng, chân
chính và tiến bộ của đạo đức xã hội. Người Thẩm phán với lẽ sống cao đẹp,
luôn phấn đấu để cố gắng làm giảm bớt và tiến tới loại bỏ nỗi đau khổ hoặc
80
bất hạnh ra khỏi đời sống con người, sẽ có khả năng vượt qua khó khăn, sẵn
lòng hy sinh lợi ích cá nhân, khắc phục mất mát trong nghề nghiệp, thì sẽ tất
yếu vươn lên trong cuộc sống, vươn lên trong sự nghiệp và góp phần tạo nên
vẻ đẹp cao quý của người thẩm phán. Nói đến đạo đức người Thẩm phán thì
đầu tiên phải nói đến phẩm chất trung thực, phẩm chất tôn trọng lẽ phải, tôn
trọng sự thật khách quan, tôn trọng chân lý trong cuộc sống. Người Thẩm
phán có trung thực thì mới có dũng cảm để bảo vệ lẽ phải, có trung thực thì
mới không bảo thủ cứng nhắc trong giải quyết công việc được giao.
3.2.2.2. Đảm bảo các điều kiện vật chất, trang thiết bị cho hoạt động
của Thẩm phán và cán bộ tòa án
- Về điều kiện làm việc của Thẩm phán: Hiện nay nhiều địa phương
Thẩm phán làm việc trong điều kiện khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Để
đảm bảo được hoạt động của Thẩm phán, trong thời gian tới cần tăng cường
hơn nữa cơ sở vật chất cho ngành Tòa án. Cụ thể như xây dựng mới, sửa chữa
các trụ sở làm việc đã quá cũ, xuống cấp; đảm bảo phòng làm việc cho Thẩm
phán và các phương tiện phục vụ cho hoạt động của Thẩm phán như máy vi
tính, bàn làm việc... Ngoài ra cần bố trí hội trường xét xử rộng rãi, được trang
trí thể hiện tính trang nghiêm của phiên tòa. Cần có các thiết bị phục vụ cho
việc xét xử tại phiên tòa như loa, đài, micrô, hệ thống ghi âm, ghi hình, truyền
thanh và truyền hình cho đông đảo nhân dân theo dõi.
- Về tiền lương đối với Thẩm phán: Chế độ tiền lương đối với cán bộ,
công chức ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng còn chưa thực sự
tương xứng với tính chất công việc đặc thù của ngành Tòa án. Chế độ tiền
lương đối với Thẩm phán còn thấp nên chưa thể hiện đúng sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xét xử và yêu cầu công tác phòng chống
81
tham nhũng và cải cách tư pháp; chưa có tác dụng khuyến khích, động viên
cán bộ, công chức Tòa án yên tâm công tác, tận tụy với nghề, nâng cao tinh
thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân, phấn đấu rèn luyện tu dưỡng
đạo đức; chưa phải là bảo đảm hữu hiệu để Tòa án thực hiện nguyên tắc "Khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".
Chính vì vậy, việc đổi mới chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối
với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dâncần được
cải tiến nhằm khuyến khích Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án
nhân dân tận tâm, tận lực, yên tâm, gắn bó với ngành và hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tham nhũng.
3.2.2.3. Nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số
lượng Kiểm sát viên, Luật sư
Kiểm sát viên và luật sư là những người góp phần quan trọng vào quá
trình giải quyết vụ án, bảo đảm quyền con người trong quá trình tố tụng nên
trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số lượng Kiểm sát viên, Luật
sư cũng phải được tăng cường.
- Đối với Kiểm sát viên
Trong những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo toàn
ngành tổng kết về lý luận và thực tiễn 50 năm xây dựng và hoạt động của
ngành, rút ra những bài học thiết thực về hoàn thiện tổ chức bộ máy, đào tạo
cán bộ để nâng cao chất lượng thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành.
Trên cơ sở thực trạng về đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên được đã được
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 chỉ ra “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một số bộ
82
phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp”. Để nâng cao chất lượng cán bộ, đòi hỏi:
Cán bộ kiểm sát phải tự học tập nâng cao trình độ năng lực, rèn luyện ý
thức chính trị. Kiểm sát viên phải tinh thông về nghiệp vụ, nắm vững pháp
luật, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống
tội phạm, cũng như những chủ trương, nghị quyết của Đảng liên quan đến
công tác của ngành kiểm sát.
Tăng cường tuyển dụng, bổ sung cán bộ có năng lực, trình độ chuyên
môn về làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Cần có kế hoạch tổng thể về việc sắp xếp, bố trí, luân chuyển, điều
động cán bộ, KSV phù hợp với đặc thù, tính chất, số lượng các vụ án của từng
địa phương.
Chú trọng việc giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo
đức, nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ, Kiểm sát viên. Thường xuyên tổ chức học tập bằng cách nghiên cứu các
chuyên đề nghiệp vụ: nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung, nâng
cao chất lượng cáo trạng, kỹ năng xét hỏi, kỹ năng luận tội, kỹ năng tranh
tụng, kỹ năng kháng nghị phúc thẩm... Tiến hành thảo luận, rút kinh nghiệm
từ công tác nghiên cứu và công tác thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công
tác. Thường xuyên tổ chức cuộc thi Kiểm sát viên giỏi tại các VKS địa
phương và chọn những Kiểm sát viên đạt kết quả cao trong cuộc thi tại địa
phương dự thi Kiểm sát viên giỏi trong toàn ngành, tuyển chọn những sát viên
tiêu biểu trong số những Kiểm sát viên giỏi, từ đó tạo động lực cho cán bộ
học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh trong
công tác, làm gương cho cán bộ, Kiểm sát viên khác học tập, làm theo.
83
- Đối với Luật sư: cần tăng về số lượng nhất là những địa bàn vùng
sâu, xa như Đắk Nông, đoàn Luật sư tỉnh chỉ có 17 người thì không thể đáp
ứng được yêu cầu tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm được
quyền của bị can, bị cáo. Đồng thời với việc tăng cường số lượng cần quan
tâm đến chất lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi tuyển phải bảo
đảm các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư; chế độ
miễn cho những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Kiểm sát viên, điều tra
viên và các đối tượng khác) cũng phải có tiêu chí cụ thể chứ không phải ai
cũng được miễn như quy định hiện nay. Cần có quy định bảo vệ Luật sư khi
hành nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi phạm pháp luật và
đạo đức nghề nghiệp.
3.2.2.4. Tăng cường sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên, cơ quan báo chí đối với hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự
Hiến pháp năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015
đã thể chế hóa chủ trương của Đảng nêu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục khắc phục tình
trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân
xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám
sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững
mạnh; Thể thể hóa Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội theo Quyết định số 217-
QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị. Đồng thời cụ thể hóa một số nội
dung trong Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về
84
việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Theo đó, cần tăng cường công tác giám sát của Mặt trận trong lĩnh vực
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sựnói riêng, cụ thể như: tham gia tích cực trong tuyển chọn thẩm phán, giới
thiệu hội thẩm nhân dân; giám sát các hoạt động tố tụng trong suốt quá trình
phát kiện, khởi tố và giải quyết vụ án hình sự như việc bảo lãnh cho bị can, bị
cáo có đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự không?; việc cung cấp,
thu thập chứng cứ, tài liệu có liên quan giải quyết vụ án diễn ra có khách
quan, đảm bảo tuân theo các quy định của BLTTHS không?; việc cử người
tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp cho bị can, bị cáo tại các phiên tòa; việc
tham gia lấy lời khai bị can, bị cáo, nhân chứng, bị hại; nắm tư tưởng, kiểm
tra việc chấp hành pháp luật khi giam, giữ phục vụ điều tra, truy tố, xét xử;
tham gia công tác đặc xá, giáo dục, cảm hóa người phạm tội; giúp đỡ người
đã chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồng; tiếp nhận và đề nghị
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến hoạt động tư pháp, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; kiến nghị Tòa án, Viện
kiểm sát và các cơ quan tiến hành tố tụng khắc phục án tồn đọng và những vụ
điều tra, truy tố, xét xử oan, sai gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.
Mặc khác, thông qua Hiến pháp - đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất
cùng với các văn bản pháp luật chuyên ngành đều quy định việc xét xử của
Tòa án được tiến hành công khai, mọi công dân từ đủ 16 tuổi trở lên đều có
thể tham dự và Tòa án phải công bố tất cả các quyết định được thông qua
trong quá trình xét xử của vụ án. Tòa án xét xử công khai ở trụ sở Tòa án
nhưng trong một số trường hợp cần phát huy mạnh mẽ tác dụng giáo dục và
85
phòng ngừa của công tác xét xử, thì Tòa án có thể tiến hành các phiên tòa xét
xử lưu động tại nơi xảy ra tội phạm. Nguyên tắc xét xử công khai không chỉ
áp dụng đối với hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn đối với cả hoạt động xét xử
phúc thẩm. Cụ thể hóa nguyên tắc này thông qua các hoạt động của Tòa án
qua việc quy định về công khai quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời gian, địa
điểm mở phiên tòa phải được niêm yết công khai trước khi xét xử; tại phiên
tòa công khai các chứng cứ, tài liệu điều tra trong giai đoạn điều tra, bản cáo
trạng sau khi xét xử cần phải tuyên án công khai và bản án đó Tòa án có thể
công bố trên báo chí, đài phát thanh hoặc bằng các phương tiện thông tin đại
chúng khác để mọi người được biết. Vì vậy, cần tăng cường sự tham gia của
các cơ quan báo chí trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là sự thể hiện cụ
thể của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS.
Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế
giới.Đặc biệt, các thế lực phản động và hiếu chiến luôn lấy vấn đề nhân quyền
để kích động nhân dân, chống phá cách mạng. Hiện nay, đất nước ta đang
trong thời kỳ phát triển và hội nhập, song Nhà nước luôn chú ý tới việc phát
huy toàn diện quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm các quyền con
người. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận việc
xét xử công khai (trong đó có vai trò tham gia của cơ quan báo chí) cho bị cáo
và có cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là nhiệm vụ của cơ quan tiến
hành tố tụng qua đó thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước ta. Thông qua
hoạt động của các cơ quan báo chí góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người dân, làm cho mọi người thấy
rằng bất cứ sự việc vi phạm pháp luật nào đều bị xử lí theo pháp luật; và qua
đó góp phần tích cực vào công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
86
3.2.2.5. Xây dựng phương án, kế hoạch cụ thể bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Thứ nhất, đối với thẩm phán và Chủ tọa phiên tòa
Ngay khi có quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ
thẩm, Chủ tọa phiên tòa phân công thư ký tòa án phải tiến hành gửi các quyết
định tố tụng cho bị cáo. Tòa án tiến hành các biện pháp giúp đỡ bị cáo liên lạc
với người thân để liên hệ với Luật sư, hoặc bào chữa viên nhân dân, trợ giúp
pháp lý trước khi bị cáo tham dự phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND cấp tỉnh.
Cần lưu ý, tại điều 286 Bộ luật TTHS năm 2015 có quy định mới về
việc giao, gửi quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, Chủ tọa phiên tòa phải
quán triệt, tổ chức bảo đảm quyền cho bị cáo trong việc gửi các quyết định tố
tụng đúng thời gian quy định:
- Quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho bị cáo hoặc người đại
diện của họ; gửi cho người bào chữa, bị hại, đương sự chậm nhất là 10 ngày
trước khi mở phiên tòa.
- Trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử
được giao cho người bào chữa hoặc người đại diện của bị cáo; quyết định đưa
vụ án ra xét xử còn phải được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú cuối cùng hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm
việc, học tập cuối cùng của bị cáo.
- Quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định phục
hồi vụ án của Tòa án được giao cho bị can, bị cáo, bị hại hoặc người đại diện
của họ và gửi cho người tham gia tố tụng khác trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày ra quyết định.
- Quyết định phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết định
đưa vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ, quyết định
87
phục hồi vụ án phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 02 ngày kể
từ ngày ra quyết định. Quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ vụ án
phải gửi cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp trong thời hạn 02 ngày kể từ
ngày ra quyết định.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế được giao cho bị can, bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ sở giam
giữ nơi bị can, bị cáo đang bị tạm giam trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
quyết định.
Chủ tọa phiên tòa phải quán triệt điều 279 Bộ luật TTHS năm 2015 về
việc giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa, trong đó lưu ý quyền
của bị cáo khi bị cáo đề nghị của bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người
bào chữa về việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Nếu xét thấy yêu cầu, đề nghị có căn cứ thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải
quyết theo thẩm quyền hoặc thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết
theo quy định và thông báo cho người đã yêu cầu, đề nghị biết; nếu không
chấp nhận thì thông báo cho họ bằng văn bản nêu rõ lý do. Trước khi mở
phiên tòa, và trong thời gian tiến hành phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa phải bảo
đảm quyền bị cáo chữa cho bị cáo.
Lưu ý một số điểm mới trong Bộ luật TTHS năm 2015 về quyền bào chữa
của bị cáo và quyền của người bào chữa cho bị cáo. Theo đó, Người bào chữa
phải có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa.
Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Trường hợp người
bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách
quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng
mặt người bào chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng
hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
88
Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định mà người bào chữa vắng
mặt thì HĐXX phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện
của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Khi bắt đầu phiên tòa, lưu ý, so với Bộ luật TTHS năm 2003, Điều 301
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định cụ thể về phần khai mạc phiên tòa và đọc
quyết định đưa vụ án ra xét xử, Chủ tọa phiên tòa phải tiến hành đúng các
bước theo quy định và phổ biến quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia
tố tụng trong đó có bị cáo: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa
và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thư ký Tòa án báo cáo HĐXX về sự
có mặt, vắng mặt của những người được Tòa án triệu tập và lý do vắng mặt.
Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người có mặt tại phiên tòa
theo giấy triệu tập của Tòa án và kiểm tra lý lịch, phổ biến quyền và nghĩa vụ
của họ.
Chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của bị cáo, tìm hiểu nhân thân của
bị cáo và giải thích các quyền cho bị cáo, Chủ tọa phiên tòa lưu ý một số
quyền của bị cáo (mới được bổ sung theo Bộ luật TTHS năm 2015) để bảo
đảm quyền lợi cho họ.
Tại phần xét hỏi của phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Chủ tọa
phiên tòa tạo điều kiện để thực hiện quyền trình bày ý kiến, quan điểm của
mình về vụ án. Nếu bị cáo có đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham
gia tố tụng về những vấn đề liên quan đến vụ án mà mình quan tâm thì đồng ý
để cho bị cáo hỏi. Tại phần tranh luận của phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND cấp tỉnh, Chủ tọa phiên tòa có tạo điều kiện cho bị cáo và
người bị cáo cho bị cáo được tranh luận không hạn chế về thời gian tranh
luận.
89
Chủ tọa phiên tòa tạo điều kiện để cho được nói lời sau cùng trước khi
HĐXX nghị án, bảo đảm không có người nào hỏi, ngắt lời bị cáo khi bị cáo nói lời
sau cùng.
Sau khi kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, các bị cáo
được xem biên bản phiên tòa có yêu cầu Tòa án ghi những sửa đổi, bổ sung
vào biên bản phiên tòavà ký xác nhận.
Tóm tại, ngay khi bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa phải giải thích cho
bị cáo hiểu các quyền của mình khi tham gia phiên tòa. Tòa án và Viện kiểm sát
phải tạo điều kiện hơn nữa khi cho bị cáo được gặp người bào chữa để trình
bày ý kiến; để cho bị cáo trình bày ý kiến về đồ vật, tài liệu; để cho bị cáo
trình bày ý kiến về chứng cứ. TAND cần tạo điều kiện cho các cơ quan báo
chí thông tin hoạt động xét xử.
Thứ hai, đối với Kiểm sát viên
- Tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng cho KSV về kỹ năng bảo đảm
quyền con người của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
TAND.
- Trước khi mở phiên tòa, khi nhận được quyết định phân công thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử, KSV thu xếp thời gian gặp gỡ bị
cáo, tìm hiểu nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo cũng như tâm tư, nguyện
vọng của bị cáo.
- KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án (bao gồm những chứng cứ buộc
tội và chứng cứ gỡ tội cho bị cáo) trước khi phiên tòa tiến hành.
- KSV cần nắm chắc toàn bộ tiến trình điều tra vụ án và những tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Việc chuẩn bị tốt cho việc tranh tụng tại phiên
tòa có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực hành
quyền công tố của KSV. Khi có đủ các chứng cứ, tài liệu cho thấy bị cáo có
90
yếu tố giảm nhẹ TNHS thì KSV có quyền quyết định việc rút một phần (hoặc
toàn bộ cáo trạng) hoặc kết luận về một tội khác nhẹ hơn tại phiên tòa.
- Ngành Kiểm sát và các cơ quan có liên quan cần quan tâm hơn chế độ
đãi ngộ cho KSV thực hiện nhiệm vụ tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND cấp tỉnh để KSV yên tâm làm nhiệm vụ, bảo đảm sự vô tư,
khách quan.
Thứ ba, đối với Hội thẩm nhân dân
- Khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử và phân công tham gia
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND, HTND phải thu xếp thời để
đánh giá hết các chứng cứ trong hồ sơ để có quyết định đúng đắn về vụ án,
nhất là đối với những vụ án sơ thẩm hình sự cấp tỉnh có nhiều tình tiết phức
tạp.
- HTND không nên trông chờ vào quyết định của thẩm phán, mà phải
có tư duy độc lập trong hoạt động xét xử. Các quyết định của HTND phải thể
hiện trách nhiệm, vai trò là người thay mặt nhân dân giám sát hoạt động của
TAND; đồng thời, HTND phải tích cực bảo vệ quyền con người của bị cáo.
- Trong quá trình nghị án và biểu quyết về nội dung của vụ án, để bảo vệ
quyền con người của bị cáo khi thấy có lý do chính đáng, có chứng cứ và tài liệu,
căn cứ để bị cáo được giảm nhẹ TNHS nhưng ý kiến của HTND không giống như
ý kiến của đa số thành viên HĐXX thì HTND có thể thực hiện quyền bảo lưu ý
kiến của mình, yêu cầu thẩm phán lập biên bản và lưu trong hồ sơ vụ án.
Thứ tư, đối với Luật sư
- Khi nhận được quyết định chỉ định tham gia bào chữa cho bị cáo hay
khi nhận lời đề nghị bào chữa từ phía bị cáo hoặc gia đình bị cáo, để bảo vệ
tốt quyền của thân chủ của mình, luật sư thu xếp thời gian gặp gỡ bị cáo để
tìm hiểu về yêu cầu, nguyện vọng của bị cáo cũng như hoàn cảnh gia đình,
nhân thân của bị cáo.
91
- Tích cực liên hệ với Tòa án và VKS để thực hiện các thủ tục thực hiện
nhiệm vụ bào chữa như yêu cầu được nhận các quyết định tố tụng nếu chưa
nhận được, yêu cầu tiếp cận và nghiên cứu hồ sơ vụ án, các đồ vật, tài liệu có
liên quan đến việc gỡ tội cho bị cáo.
- Luật sư xây dựng chi tiết bản thảo đề cương và luận cứ bảo vệ quyền
con người của bị cáo, tập hợp những giấy tờ về nhân thân giấy tờ chứng nhận
bị cáo thuộc diện chính sách ưu tiên, gia đình có công với cách mạng; các
giấy tờ chứng nhận về sức khoẻ và hoàn cảnh gia đình của bị cáo
- Trước khi mở phiên tòa, luật sư có thể đại diện cho bị cáo hoặc tự
mình thực hiện một số yêu cầu theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền
cho bị cáo như thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; đề
nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế cho bị cáo.
- Nếu bị cáo chưa nhận được bản cáo trạng hoặc quyết định đưa vụ án ra
xét xử thì Luật sư phải yêu cầu HĐXX hoãn phiên toà. Nếu bị cáo được chủ toạ
giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà hoặc không hỏi họ có đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch hay
không thì Luật sư phải đề nghị HĐXX cho họ được thực hiện các quyền đó
theo quy định của pháp luật.
- Để nắm được các tình tiết của vụ án, bảo vệ tốt các quyền của bị cáo,
luật sư phải theo dõi mọi diễn biến tại phiên toà, lắng nghe các câu hỏi của
HĐXX, KSV, Luật sư đồng nghiệp và các câu trả lời của những người bị hỏi.
Kết hợp với việc nghe, Luật sư cần ghi chép những điểm quan trọng có liên quan
đến việc bảo vệ cho bị cáo.
92
- Khi chủ tọa dành cho quyền hỏi, luật sư phải đặt những câu hỏi sắc
bén, ngắn gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án nhưng chưa
được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho người mà
mình bảo vệ.
- Khi tranh luận, luật sư cần chốt lại những vấn đề quan trọng nhất đã
được phân tích làm rõ kiến nghị để HĐXX xem xét quyết định.
93
KẾT LUẬN
Xét xử là nhân danh nhà nước, căn cứ vào pháp luật của nhà nước để
đưa ra các phán quyết về một vụ án cụ thể. Đây không phải là phán quyết của
bản thân một tòa án nào đó, lại càng không phải là phán quyết của cá nhân
trong bộ máy tòa án hay một người có chức, có quyền nào đó mà là phán
quyết thể hiện trực tiếp thái độ của nhà nước đối với các vụ án cụ thể. Như
vậy, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của nhà nước và
cú vai trũ quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người.Vì thế, đòi hỏi xét
xử phải chính xác, công minh trong việc vận dụng và áp dụng pháp luật, thể
hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Các bản án và quyết định xét
xử của tòa án là nhân danh nhà nước, thể hiện hiệu lực của một văn kiện nhà
nước. Vì thế, nhà nước phải chịu trách nhiệm về sự không chính xác hoặc sai
lầm của những bản án hay quyết định đó gây ra. Chất lượng các phán quyết
của Tòa án được đảm bảo hay không phụ thuộc rất nhiều vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa. Trước yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước và thực tiễn
công tác cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền con người ở nước
ta hiện nay đòi hỏi cần phải đổi mới và nâng cao hơn nữa chất lượngxét xử
của tòa án.
Qua việc nghiên cứu luận văn đã giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý
luận và thực tiễn liên quan tới bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
các vụ án theo luật tố tụng hình sự Việt Nam trên các bình diện sau:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về bảo đảm
quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự, để xây dựng nên
khái niệm quyền con người trong xét xử sơ thẩm án hình sự; khái niệm và ý
nghĩa bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự;
nội dung và cơ chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm
94
án hình sự; các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt
động xét xử sơ thẩm án hình sự.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng hình sự Việt
Nam trong việc bảo đảm quyền con người của hoạt động xét xử từ sau cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về việc bảo đảm quyền
con người của hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự qua thực tiễn xét xử ở tỉnh
Đắk Nông; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn việc bảo đảm quyền con
người của hoạt động xét xử, cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn
chế đó;
- Xác định rõ vai trò trách nhiệm của Toà án trong việc đảm bảo quyền
con người; nhận diện việc vi phạm quyền con người trong hoạt động xét xử
hình sự, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các
quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải
cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam./.
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;Nguyễn
Ngọc Hòa (chủ biên) (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
5. Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia, Hà Nội.
6. Vũ Công Giao (2014) Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến
pháp năm 2013, trong sách Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam năm 2013, của Viện Chính sách công và pháp luật, liên hiệp
các khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Khôn (1960), Hán – Việt từ điển, Nxb. Nhà sách Khai Trí,
Sài Gòn.
8. Nguyễn Sơn Hà (2014), “Hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền của bị can, bị cáo đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 20/2014.
96
9. Nguyễn Sơn Hà, (2015) Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
quyền của bị can, bị cáo. Luận án tiến sĩ luật học. Đại học luật Hà Nội, Hà Nội.
10. Trương Thị Hồng Hà (2012), Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
của Nhật Bản, đăng trên 20-09-2012.
11. Nguyễn Đức Hạnh (2015), Nguyên tắc bình đẳng trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận án tiến sĩ luật học, Học viện
KHXH Việt Nam, Hà Nội.
12. Hoàng Hùng Hải (2012), Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trong xét xử
hình sự ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chinh
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13. Nguyễn Quang Hiền (2015), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện KHXH Việt Nam, Hà Nội.
14. Nguyễn Quang Hiền (2009), Sự cần thiết sửa đổi Điều 49 và Điều 50 của Bộ
luật tố tụng hình sự để đảm bảo quyền của người bị buộc tội, tạp chí Tòa án
nhân dân, tháng 6 năm 2009, Hà Nội.
15. Nguyễn Thu Hiền (2012), Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Nguyễn Huy Hoàn (2005), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư
pháp, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
17. Tô Văn Hòa (2014), Góc nhìn về đổi mới tòa án và tố tụng hình sự,
truy cập ngày 22/08/2014.
18. Nguyễn Đình Huề (2007), Một số vấn đề về yêu cầu cử người bào chữa
cho bị cáo theo khoản 2 điều 57 bộ luật tố tụng hình sự, tạp chí Tòa án
nhân dân, số 7 năm 2007.
97
19. Đỗ Thị Hường (2011), Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật, Khoa Luật,Đại học quốc
gia, Hà Nội.
20. Phạm Văn Hùng (2014), Hiến pháp năm 2013 với chế định bảo đảm quyền con
người về tư pháp hình sự, trong sách Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam – nền tảng chính trị pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
trong thời kỳ mới. Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội.
21. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb Lao động, Hà Nội.
22. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Lao động, Hà
Nội.
23. Hoàng Thị Huyền Trang (2016), Những điểm mới của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 trong việc góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa, Website Tạp chí dân chủ và pháp luật
(
24. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Nông (2010),
Địa chí Đăk Nông, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
25. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông (2013, 2014, 2015, 2016), Báo cáo về
việc rút kinh nghiệm xét xử án, Gia Nghĩa.
26. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông (2012, 2013, 2014, 2015, 2016), Báo cáo
công tác giải quyết xét xử, Gia Nghĩa.
27. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông (2016), Báo cáo tình hình tổ chức bộ máy
và cán bộ của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, Gia Nghĩa.
28. Vụ Phổ biến, Giáo dục pháp luật – Bộ Tư pháp (2016), Đề cương giới
thiệu Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Website về phổ biến giáo dục pháp
luật – Bộ Tư pháp (
98
29. Website cơ sở dữ liệu quốc về văn bản pháp luật ( truy cập:
Hiến pháp 1946; Hiến pháp 1959; Hiến pháp 1980; Hiến pháp 1992, sđ
2001;Bộ luật Tố tụng hình sự 1988; Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, 2015.
30. Website Thư viện pháp luật (thuvienphapluat.vn), truy cập: Hiến chương
Liên Hợp quốc 1945; Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948), (UDHR);
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), (ICCPR); Tập
hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị giam hay cầm tù dưới
bất kỳ hình thức nào, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng
Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988; Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo
vệ người chưa thành niên bị tước tự do, được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990; Tuyên ngôn độc lập
của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (1776)...
31. Website trường Đại học kiểm sát Hà Nội (tks.edu.vn), truy cập bài viết:
Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật bảo vệ quốc tế./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_bao_dam_quyen_con_nguoi_trong_hoat_dong_xet_xu_so_t.pdf