Năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
WTO. Đây chính là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, từng bước đưa
nền kinh tế nước ta trở thành bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới. Việc gia nhập
WTO sẽ có sự tác động trực tiếp, toàn diện vào các thị trường hàng hoá, tiền tệ và thị
trường lao động trong nước. Sự tác động này sẽ tạo ra một động lực mới, một không gian
mới cho sự cạnh tranh và phát triển, thúc đẩy nhanh chóng cho mục tiêu đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
68 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2629 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
15.843
3 2005 123.036 99.759 23.277
4 2006 126.752 97.888 28.864
5 2007 129.635 96.317 33.318
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [5]
Bảng 2.3: Tổng hợp kinh phí chi các chế độ BHXH dài hạn
từ năm 2003 đến năm 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT Năm Tổng số NSNNđảm bảo Quỹ BHXH đảm
bảo
1 2003 720.523 574.720 145.803
2 2004 791.008 592.930 198.078
3 2005 1.013.000 711.000 302.000
4 2006 1.255.780 903.600 352.180
5 2007 1.696.000 1.142.000 554.000
Cộng 5.476.311 3.924.250 1.552.061
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [5]
Bên cạnh những thành công đã đạt được, việc quản lý chi các chế độ BHXH dài hạn
còn có những hạn chế, yếu kém, tập trung ở các nội dung sau:
Một là, công tác báo cáo cắt giảm thực hiện chưa tốt. Vẫn còn nhiều đơn vị để đối
tượng hưởng quá thời hạn quy định mà không báo cáo giảm kịp thời, đối tượng đã chết
nhưng thường để từ 01 đến 02 tháng mới báo cắt giảm. Đến 31/12/2007, toàn tỉnh vẫn còn
242 trường hợp đối tượng hưởng trợ cấp mất sức lao động quá thời hạn theo quy định. Số
đối tượng này hiện nay tuổi đã cao (62-65 tuổi).
Hai là, công tác kiểm tra các Ban đại diện chi trả xã, phường còn chưa thường xuyên
nên vẫn còn có tình trạng chậm trễ trong việc cấp phát chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH
cho các đối tượng.
Ba là, công nghệ thông tin chưa được ứng dụng mạnh trong quản lý đối tượng hưởng
chế độ BHXH có thời hạn, do vậy khâu kiểm soát rất khó khăn.
2.2.2. Thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá
2.2.2.1. Thực trạng phân cấp về thẩm quyền quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
* Về phân cấp thẩm quyền quản lý thu BHXH
Hiện nay, BHXH Thanh Hoá thực hiện phân cấp quản lý thu theo đối tượng tham gia
BHXH và theo mức thu BHXH. Việc phân cấp này chưa thực hiện đối với cấp xã, phường.
BHXH tỉnh có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị hành chính, các
tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể của Trung ương hoặc do tỉnh quản lý. Các đơn vị đó
gồm các sở, ban ngành, tổ chức, đoàn thể cấp tỉnh, các đơn vị thuộc ngành dọc do
Trung ương quản lý; một số doanh nghiệp do tỉnh hoặc Trung ương quản lý; các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số lao
động lớn đóng trên địa bàn.
BHXH cấp huyện có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị, tổ chức
khác ngoài các đơn vị, tổ chức đã được BHXH tỉnh quản lý. Những đơn vị, tổ chức sử
dụng lao động đóng trên địa bàn huyện nào thì do BHXH huyện đó quản lý. Đối với
các đơn vị sử dụng lao động có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động trên
địa bàn nhiều huyện thì cơ quan BHXH cấp huyện nơi đơn vị đóng trụ sở chính thực
hiện quản lý
thu BHXH.
Ngoài những đơn vị, tổ chức có số lao động và mức thu lớn do BHXH tỉnh trực tiếp
quản lý thu BHXH, BHXH huyện có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị, tổ
chức có số lao động và mức thu BHXH thấp hơn còn lại. Các tổ chức đó gồm các cơ quan
hành chính sự nghiệp, tổ chức, đoàn thể do cấp huyện trực tiếp quản lý; các doanh nghiệp,
đơn vị ngoài quốc doanh trên địa bàn; các xã, phường, thị trấn; các tổ hợp tác, cá nhân, hộ
sản xuất kinh doanh cá thể.
Số liệu bảng 2.4 và bảng 2.5 cho thấy số lượng đơn vị, số lao động tham gia BHXH
và số thu BHXH được phân cấp cho BHXH tỉnh và BHXH cấp huyện quản lý thu BHXH
từ năm 2003 đến năm 2007.
Bảng 2.4: Phân cấp quản lý đơn vị và đối tượng tham gia BHXH
ở Thanh Hoá từ năm 2003 đến năm 2007
TT Năm
BHXH tỉnh quản
lý
BHXH cấp huyện
quản lý
Tổng số
Đơn vị Lao động Đơn vị
Lao
động
Đơn vị
Lao
động
(Người)
1 2003 184 37.908 3.124 90.489 3.308 128.397
2 2004 165 34.830 3.488 98.436 3.653 133.266
3 2005 189 34.793 3.836 102.934 4.025 137.727
4 2006 239 34.905 4.115 105.052 4.354 139.957
5 2007 242 35.434 4.692 111.736 4.934 147.170
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [2], [3]
Bảng 2.5: Tiền thu BHXH theo phân cấp quản lý thu BHXH
từ năm 2003 đến năm 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT Năm BHXH tỉnh BHXH cấp huyện Tổng số
1 2003 77.837,3 133.343,2 212.180,5
2 2004 63.264,3 154.999,6 218.263,9
3 2005 88.589 175.182 263.771
4 2006 130.579,1 229.373,3 359.952,4
5 2007 166.252 272.505 438.757
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [2], [3]
Các số liệu trên cho thấy số đơn vị, người lao động tham gia BHXH và số tiền thu
BHXH liên tục tăng qua các năm. Trong đó, số đơn vị, người lao động và số tiền thu
BHXH do BHXH tỉnh quản lý thu chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng số của toàn tỉnh.
ở BHXH tỉnh, năm 2007, số tiền thu BHXH chiếm 37,89 %, số lao động tham gia
BHXH chiếm khoảng 24,07 % trong tổng số của cả tỉnh. Mỗi cán bộ chuyên quản thu của
BHXH tỉnh bình quân quản lý 17,28 đơn vị với 2.531 lao động. Điều này cũng dễ hiểu bởi
lẽ các doanh nghiệp do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu BHXH là những doanh nghiệp có
số lao động lớn.
* Về phân cấp thẩm quyền quản lý chi BHXH.
Phân cấp về thẩm quyền quản lý chi BHXH ở Thanh Hoá được quy định như sau:
BHXH tỉnh quản lý việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh quản
lý; trực tiếp chi trả và quyết toán chế độ BHXH ngắn hạn cho người lao động do BHXH
tỉnh trực tiếp quản lý thu.
BHXH cấp huyện quản lý tổ chức chi trả và quyết toán chế độ ngắn hạn cho người
lao động do BHXH cấp huyện trực tiếp quản lý thu; chi trả trợ cấp BHXH dài hạn cho các
đối tượng hưởng BHXH trên địa bàn huyện.
Thực hiện quy định trên, thời gian qua, việc chi trả chế độ BHXH ngắn hạn và dài hạn trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã đạt được những kết quả nhất định.
Đối với chi trả chế độ BHXH ngắn hạn, hàng quý, căn cứ vào hồ sơ, chứng từ do các
đơn vị sử dụng lao động lập theo quy định. BHXH tỉnh, huyện tiến hành thẩm định xét
duyệt quyết toán chi chế độ BHXH ngắn hạn cho các đơn vị trực tiếp quản lý thu BHXH
theo phân cấp quản lý.
Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý ở từng cấp được thể hiện
trên bảng 2.6.
Bảng 2.6: Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý
chi BHXH từ năm 2003 đến 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT Đơn vị Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
1 BHXH tỉnh 5.806 5.195 7.381 10.291 9.208
2 BHXH cấp
huyện
17.532 18.254 21.216 33.848 33.232
Cộng 23.338 23.449 28.597 44.139 42.440
Bảng 2.7: Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý
chi BHXH tại BHXH tỉnh, huyện năm 2007
Số tiền duyệt chi Số tiền BHXH tỉnh
TT Năm 2007 (Triệu đồng) không chấp nhận
thanh toán (Triệu
đồng)
BHXH tỉnh BHXH huyện
1 Quý I 2.270 4.468 253
2 Quý II 869 7.499 108
3 Quý III 2.588 6.903 240
4 Quý IV 3.481 14.362 264
Cộng 9.208 33.232 865
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hoá [5]
Từ số liệu trên, có thể thấy nổi lên một số điểm khá lớn. Kinh phí chi chế độ BHXH
ngắn hạn ở cấp huyện gấp 3,6 lần so với chi ở cấp tỉnh. Số tiền này tăng dần qua từng quý
và qua các năm.
Số tiền không chấp nhận thanh toán cho các đơn vị sử dụng lao động còn chiếm tỷ lệ
khá cao. Tỷ lệ đó ở cấp tỉnh là 9,4%.
Một số đơn vị BHXH cấp huyện còn thanh toán chế độ ốm đau quá số ngày quy định
theo chế độ, hoặc tính toán sai, chứng từ chưa hợp lệ. Việc chi trả các chế độ BHXH chưa
gắn với việc thu nộp BHXH. Có đơn vị BHXH cấp huyện còn thanh toán chế độ BHXH
cho những đơn vị sử dụng lao động nộp chậm, nộp thiếu BHXH. Theo số liệu quyết toán
năm 2007, BHXH tỉnh đã xuất toán 0,439 tỷ đồng trên tổng số 33,671 tỷ đồng (chiếm
khoảng 1,3 %) mà BHXH cấp huyện đã xét duyệt thanh toán cho các đơn vị sử dụng lao
động trực tiếp quản lý thu BHXH (xem phụ lục 3).
Đối với việc chi trả chế độ BHXH dài hạn, ở Thanh Hoá, việc chi trả chế độ BHXH
dài hạn được thực hiện theo quy trình đã định. Hàng tháng, căn cứ vào số đối tượng đang
hưởng và số đối tượng giảm (do hết thời hạn hưởng, do chết hoặc chuyển đi) của từng xã,
phường. BHXH cấp huyện tiến hành lập biểu tổng hợp báo cáo giảm gửi BHXH tỉnh để
lập dự toán kinh phí và lập danh sách chi trả cho từng đơn vị. Sau khi nhận được kinh phí
(bằng uỷ nhiệm chi qua tài khoản Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT) và danh sách chi trả
từ tỉnh, BHXH cấp huyện phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT cấp huyện để lập
kế hoạch rút tiền mặt, phân công cán bộ chi trả trực tiếp hoặc cấp kinh phí và bàn giao
danh sách chi trả cho các Ban đại diện chi trả xã, phường để tổ chức chi trả cho từng đối
tượng. Sau khi cấp phát chi trả, BHXH cấp huyện tiến hành quyết toán với từng Ban đại
diện chi trả xã, phường và tổng hợp báo cáo quyết toán về cấp tỉnh theo đúng quy định.
Thực hiện quy định trên, thời gian qua, BHXH tỉnh đã thực hiện tốt các quy định về
phân cấp thẩm quyền quản lý chi BHXH. BHXH tỉnh đã cấp phát đầy đủ, kịp thời kinh phí
và cung cấp danh sách chi trả cho 634 xã, phường của tỉnh Thanh Hoá có đối tượng đang
hưởng chế độ BHXH dài hạn. BHXH cấp huyện đã phối hợp với hệ thống Ngân hàng
Nông nghiệp &PTNT để lập kế hoạch tiền mặt chi trả cho đối tượng hưởng chế độ BHXH;
phối hợp chặt chẽ với UBND các xã, phường trong việc ký kết hợp đồng chi trả với các
Ban đại diện chi trả.... bảo đảm chi trả kịp thời, đầy đủ, an toàn chế độ BHXH dài hạn tới
đối tượng được hưởng BHXH trên địa bàn (xem phụ lục 4).
Từ thực trạng phân cấp thẩm quyền quản lý thu, chi BHXH ở tỉnh Thanh Hoá, chúng
ta có thể thấy có một số điểm cần quan tâm.
Thứ nhất, theo quy định phân cấp, việc quản lý thu BHXH của khối ngoài quốc
doanh, cán bộ xã, phường, khối mầm non ngoài công lập, tổ hợp tác và hộ sản xuất kinh
doanh cá thể được giao cho BHXH cấp huyện thực hiện. Đây là công việc khó khăn vì các
đầu mối thu này không tập trung, thường xuyên biến động, trong khi đó nhiệm vụ giao cho
BHXH cấp huyện khá nặng nề, biên chế còn ít, các điều kiện vật chất và công nghệ thông
tin còn nhiều hạn chế. Vấn đề này sẽ càng khó khăn hơn khi năm 2008 cơ quan BHXH
tiếp tục tổ chức quản lý thu BHXH của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện theo Luật
BHXH.
Thứ hai, việc phân cấp quản lý thu BHXH chưa gắn chặt với việc phân cấp thực
hiện các chế độ BHXH cho người lao động. Theo quy định hiện nay, BHXH huyện chỉ
được giao thực hiện xét duyệt chế độ BHXH ngắn hạn cho người lao động do huyện trực
tiếp quản lý thu. Các chế độ BHXH dài hạn, cấp sổ BHXH, thẻ đều do BHXH tỉnh thực
hiện. Cơ chế này một mặt chưa tạo ra sự hợp lý trong việc thực hiện nguyên tắc có tham
gia BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH. Mặt khác, nó chưa tạo điều kiện thuận lợi
cho các đơn vị sử dụng lao động khi thực hiện chế độ BHXH.
Thứ ba, việc quản lý xét duyệt thanh toán chế độ BHXH ngắn hạn cũng đã bộc lộ bất
cập do các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu là làm thủ công. Việc ứng dụng công nghệ thông
tin còn hạn chế. Việc phân cấp chi BHXH chưa phù hợp và gây không ít khó khăn cho
những đơn vị ở khá xa trung tâm tỉnh lỵ khi giải quyết chế độ cho người lao động. Chẳng
hạn, Công ty Đường Lam Sơn (Trụ sở chính đóng tại huyện Thọ Xuân, cách tỉnh lỵ 60
km), Công ty Xi măng Bỉm Sơn (Trụ sở chính đóng tại thị xã Bỉm Sơn, cách tỉnh lỵ 40 km,
Công ty Xi măng Nghi Sơn (Trụ sở chính đóng tại huyện Tĩnh Gia, cách tỉnh lỵ 60 km,
Công ty thuốc lá Thanh Hoá (Trụ sở chính đóng tại huyện Hà Trung, cách tỉnh lỵ 30 km).
Thứ tư, việc phân cấp quản lý chi chế độ BHXH dài hạn đã tạo điều kiện thuận lợi để
các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH trên địa bàn toàn tỉnh được nhận tiền
một cách nhanh chóng, đồng loạt. Trách nhiệm trong việc quản lý và chi trả các chế độ
BHXH của từng cấp, từng đơn vị được quy định cụ thể rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện phân cấp quản lý chi BHXH dài hạn còn có ba hạn chế. Một là, lượng chi trả
bằng tiền mặt quá lớn và chủ yếu lại giao cho Ban đại diện chi trả các xã, phường thực
hiện, do vậy việc kiểm soát chi đúng đối tượng, kịp thời và đảm bảo an toàn là vấn đề rất
khó khăn. Hai là, công tác lập dự toán chi BHXH còn thiếu chính xác, hiện tượng cắt giảm
nhầm, cắt giảm hai lần, cắt giảm chậm vẫn còn, gây bức xúc cho đối tượng hưởng BHXH
trên địa bàn; Ba là, một số đơn vị BHXH cấp huyện chưa phối hợp tốt với Ngân hàng Nông
nghiệp &PTNT cấp huyện trong việc lập kế hoạch tiền mặt. Điều đó đã dẫn đến việc không có
đủ lượng tiền mặt để chi trả trong cùng một thời điểm và việc chi trả cho các đối tượng kéo
dài.
2.2.2.2. Thực trạng phân cấp kiểm tra, kiểm soát thu, chi bảo hiểm xã hội
Thời gian qua, BHXH tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện nghiêm túc các quy định của
BHXH Việt Nam về phân cấp quản lý đối với công tác kiểm tra, kiểm soát và giải quyết
khiếu nại tố cáo. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện thu, chi BHXH ở tỉnh
Thanh Hóa đã đạt được một số kết quả nhất định. Hàng năm, BHXH tỉnh đều xây dựng kế
hoạch kiểm tra. Từ năm 2003 đến năm 2007, BHXH tỉnh đã thực hiện 196 cuộc kiểm tra
(có 8 cuộc kiểm tra liên ngành). Trong đó, có 44 cuộc kiểm tra tại BHXH cấp huyện; 31
cuộc kiểm tra tại các xã, phường; 89 cuộc kiểm tra tại các đơn vị sử dụng lao động; 32
cuộc kiểm tra tại các cơ sở khám chữa bệnh.
Có thể thấy rằng, hoạt động kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH thời gian qua đã
góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật BHXH của chủ sử dụng lao động, đồng thời giúp cơ quan BHXH nâng cao ý
thức trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, thẩm quyền kiểm tra, kiểm soát của ngành BHXH còn hạn chế. Hoạt động
kiểm tra, kiểm soát chưa được phân cấp cho cấp huyện. Điều đó dẫn tới một số hạn chế
trong kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH ở cấp tỉnh và cấp huyện. Các cuộc kiểm tra còn
ít, nhất là các cuộc kiểm tra liên ngành. Việc xử phạt hành chính các hành vi vi phạm của
các tổ chức, cá nhân, đơn vị theo quy định chưa được thực hiện, do vậy một số vi phạm của
đơn vị sử dụng lao động như: khai báo số lao động tham gia BHXH và quỹ lương đóng
BHXH thấp so với thực tế, nộp chậm BHXH, nợ đọng BHXH, thanh toán chế độ ngắn hạn
chưa đúng quy định....; vi phạm của các Ban đại diện chi trả xã, phường như cắt giảm không
kịp thời.... chưa được xử lý dứt điểm và nghiêm minh.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về thu, chi BHXH cũng được các đơn
vị thực hiện kịp thời, đúng quy định, không có đơn thư tồn đọng. Từ năm 2003 đến năm
2007, toàn ngành BHXH Thanh Hoá đã giải quyết 423 đơn thư khiếu nại, tố cáo của đối
tượng. Trong đó, số đơn thư khiếu nại chiếm tỷ trọng khá lớn, gần 80% so với tổng số.
Thực tế, việc giải quyết đơn thư khiếu nại chủ yếu là ở cấp tỉnh. Hàng năm BHXH cấp
huyện chỉ giải quyết 01 đến 02 đơn. Nội dung đơn thư khiếu nại chủ yếu là của đối tượng
bị cắt trợ cấp mất sức lao động theo quy định. Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
về BHXH ở Thanh Hoá như sau (xem bảng 2.8.)
Bảng 2.8: Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về BHXH
từ năm 2003 đến năm 2007
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Đơn khiếu nại 64 141 64 43 27
Đơn tố cáo 27 26 18 04 09
Cộng 91 167 82 47 36
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [6]
2.2.2.3. Thực trạng phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ bảo hiểm xã hội
Việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ BHXH ở Thanh Hoá được thực hiện
như sau:
Giám đốc BHXH tỉnh trực tiếp phụ trách công tác tổ chức cán bộ của toàn ngành,
điều đó có nghĩa là Giám đốc BHXH tỉnh quản lý công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, điều động, thuyên chuyển và các chính
sách chế độ cho cán bộ, công chức. Giám đốc BHXH tỉnh cũng trực tiếp quản lý đội ngũ
kế toán trưởng BHXH cấp huyện và cán bộ quản lý từ cấp phó trưởng phòng của BHXH
tỉnh, Phó giám đốc BHXH cấp huyện trở lên.
Giám đốc BHXH tỉnh uỷ quyền cho các trưởng phòng chức năng thuộc BHXH tỉnh
được quản lý cán bộ, công chức; phân công phân nhiệm cho các phó trưởng phòng và bố
trí thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cho từng cán bộ, công chức trong phòng. Giám đốc
BHXH tỉnh cũng uỷ quyền cho Giám đốc BHXH cấp huyện quản lý cán bộ, công chức;
phân công, phân nhiệm cho các phó giám đốc và bố trí cán bộ phù hợp để thực hiện các
nhiệm vụ chuyên môn theo từng lĩnh vực: quản lý thu, quản lý chi, chế độ chính sách,
giám định y tế, hồ sơ lưu trữ, thủ quỹ,... theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổng số
biên chế được giao.
Giám đốc BHXH cấp huyện được phân cấp trực tiếp quản lý ngày công, kỷ luật lao
động của cán bộ, công chức trong đơn vị; đánh giá, xếp loại công tác hàng quý, hàng năm
đối với các đối tượng cán bộ công chức còn lại.
Việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ còn được thực hiện trong việc phân
bổ biên chế cán bộ BHXH ở cấp tỉnh và cấp huyện. Hàng năm, căn cứ vào chỉ tiêu biên
chế được giao, căn cứ vào mức độ thu, chi BHXH, căn cứ vào địa hình, địa bàn,....BHXH
tỉnh tiến hành phân bổ biên chế cho BHXH cấp huyện và các phòng chức năng thuộc văn
phòng BHXH tỉnh.
Có thể nói, trong thời gian qua, việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ
BHXH ở Thanh Hoá đã giúp các đơn vị chủ động trong việc bố trí cán bộ, xác định rõ
trách nhiệm của từng chủ thể thuộc tổ chức trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ; góp
phần xây dựng được một hệ thống cán bộ quản lý, công chức, viên chức ở các cấp từ tỉnh
đến huyện với cơ cấu và trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước khá đầy
đủ (xem bảng 2.9 và 2.10). Về cơ bản đội ngũ cán bộ BHXH ở Thanh Hoá đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ ở mỗi cấp. Hiện nay, toàn ngành BHXH Thanh Hoá có 375 cán bộ, công
chức, viên chức. Trong đó có 93 cán bộ, công chức, viên chức thuộc Văn phòng BHXH
tỉnh, 282 cán bộ, công chức, viên chức thuộc BHXH cấp huyện. Bình quân, mỗi cán bộ,
công chức, viên chức quản lý số thu, chi BHXH là 6,17 tỷ đồng (số liệu đến 31/12/2007),
trong tổng số thu, chi BHXH của cả tỉnh là 2.313,77 tỷ đồng (xem phụ lục 5).
Bảng 2.9: Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức BHXH tỉnh
thời kỳ 2003-2007
Chỉ
tiêu
Năm
Tổng
số
CBCC
Trong đó
Trình độ chuyên
môn
(tỷ lệ %)
Trình độ lý
luận
chính trị
(tỷ lệ %)
Đảng
viên
(tỷ lệ
%)
D.tộc
thiểu
số
(tỷ lệ
%) Nam Nữ ĐH CĐ TH SC
CN
CC
TC SC
2003 86 46 40 66,
3
10,
5
13,
9
9,3 6,9 75,6
2004 83 43 40 67,
5
8,4 15,
7
8,4 8,4 80,7
2005 86 49 37 66,
3
10,
5
15,
1
8,1 8,1 81,4
2006 93 49 44 68,
8
9,7 13,
4
8,1 8,1 1,07 80,6
2007 93 47 46 72,
3
6,4 12,
8
8,5 11,7 79,8
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [6]
Bảng 2.10: Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức BHXH cấp huyện
thời kỳ 2003-2007
Chỉ
tiêu
Năm
Tổng
số
CBCC
Trong đó
Trình độ chuyên
môn
(tỷ lệ %)
Trình độ lý
luận
chính trị
(tỷ lệ %)
Đảng
viên
(tỷ lệ
%)
D.tộc
thiểu
số
(tỷ lệ
%) Nam Nữ ĐH CĐ TH SC
CN
CC
TC SC
2003 232 134 98 49,
1
3,4 43,
7
3,8 1,3 8,2 70,3 9,5
2004 242 139 103 48,
8
3,7 43,
4
4,1 1,2 7,8 68,6 9,1
2005 258 148 110 40 8,1 45,
3
6,6 2,7 2,3 58,9 7,7
2006 281 161 120 49,
8
15,
3
31,
4
3,5 3,2 4,6 49,8 7,1
2007 282 160 122 52,
3
14,
2
30,
3
3,2 3,9 6,1 57,6 7,6
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [6]
Tuy nhiên, việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ BHXH ở Thanh Hoá còn
có một số mặt cần quan tâm.
Một là, việc phân cấp về quản lý bộ máy tổ chức cán bộ của BHXH Việt Nam đối với
BHXH tỉnh ở một số nội dung còn chưa phù hợp, chưa tương đương với các đơn vị cấp sở
trên địa bàn. Chẳng hạn, việc xét chuyển ngạch công chức, nâng bậc lương trước thời hạn
cho cán bộ, công chức, hiện nay vẫn do BHXH Việt Nam trực tiếp thực hiện. Việc điều
động, thuyên chuyển nội bộ đối với cán bộ quản lý cấp phòng, cấp huyện trong ngành chỉ
được phép thực hiện khi có phê duyệt bằng văn bản của BHXH Việt Nam. Điều đó gây
chậm trễ trong bố trí cán bộ. Công tác thi tuyển công chức thường quá chậm. Do vậy, sức
ép về biên chế để thực hiện nhiệm vụ của cấp cơ sở rất lớn trong điều kiện đối tượng tham
gia BHXH ngày càng tăng nhanh.
Hai là, hiện nay, BHXH Việt Nam chưa có quy định thống nhất về mô hình tổ chức
BHXH cấp huyện. Do đó, việc phân công nhiệm vụ cho cán bộ, công chức ở BHXH cấp
huyện chưa được thống nhất trong toàn ngành. Chẳng hạn, có đơn vị, cán bộ làm công tác
giải quyết chế độ chính sách BHXH kiêm nhiệm thủ quỹ; có đơn vị, cán bộ thu BHXH
kiêm nhiệm thủ quỹ......Vấn đề này gây không ít khó khăn trong công tác chỉ đạo chuyên
môn của các phòng chức năng của BHXH tỉnh.
Ba là, việc phân bổ biên chế, cán bộ BHXH ở các cấp chưa hợp lý. Số cán bộ, công
chức phân bổ cho cấp huyện không phù hợp với khối lượng công việc phải giải quyết ở
đây. Điều đó khiến cho khối lượng công việc mà mỗi cán bộ, công chức cấp huyện phải
đảm nhiệm khá nặng nề. Bình quân mỗi cán bộ công chức BHXH toàn tỉnh phải quản lý
6,17 tỷ đồng/người/năm trong khi đó, mỗi cán bộ công chức BHXH ở cấp huyện phải đảm
nhiệm 7,352 tỷ đồng/người/năm.
Bốn là, việc phân bổ biên chế cho BHXH cấp huyện có sự chênh lệch khá lớn ở các
khu vực. ở khu vực đồng bằng, bình quân mỗi biên chế quản lý 9,174 tỷ đồng/năm; con số
đó ở khu vực thị xã, thành phố là 11,174 tỷ đồng/năm; ở khu vực miền núi là 3,053 tỷ
đồng/năm. Việc phân bổ biên chế ở các BHXH cấp huyện trong cùng khu vực cũng chưa
thực sự phù hợp. Chẳng hạn ở khu vực đồng bằng, huyện Nông Cống, có 33 đơn vị hành
chính cấp xã; huyện Triệu Sơn, có 36 đơn vị hành chính cấp xã, đây là hai huyện giáp
nhau, có cùng đặc điểm như nhau về địa hình, địa bàn, nhưng BHXH huyện Nông cống
được bố trí 12 biên chế, bình quân mỗi biên chế quản lý 8,095 tỷ đồng/năm, trong khi đó
BHXH huyện Triệu Sơn chỉ được bố trí 10 biên chế, bình quân mỗi biên chế quản lý
10,908 tỷ đồng/năm.
Năm là, việc phân bổ cán bộ chưa chú ý tới chất lượng, trình độ, chất lượng đội ngũ
cán bộ còn nhiều bất cập, nhất là ở cấp huyện. Số cán bộ có trình độ thạc sỹ, có trình độ
cao cấp lý luận, cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, cán bộ
chuyên môn có trình độ đại học chủ yếu ở cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Thanh Hoá là một tỉnh có
tới 11 huyện miền núi, ngoài dân tộc kinh còn có 7 dân tộc thiểu số cùng sinh sống, song
số cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số chỉ chiếm khoảng 7,8 %.
Những hạn chế, bất cập trên là những vấn đề cần sớm được giải quyết trong thời gian
tới.
2.2.3. Thực trạng hoạt động thu, chi bảo hiểm xã hội tại các xã, phường của tỉnh
Thanh Hoá
Hoạt động thu, chi BHXH tại các xã, phường gồm hoạt động thu của cán bộ xã,
phường được tham gia BHXH và hoạt động chi BHXH cho các đối tượng hưởng chế độ
BHXH dài hạn trên địa bàn từng xã, phường.
2.2.3.1. Thực trạng hoạt động thu bảo hiểm xã hội
Nghị định số 09/1998/NĐ-CP, ngày 23/01/1998 của Chính phủ sửa đổi bổ sung
Nghị định 50/CP, ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã,
phường quy định cán bộ xã, phường cũng được tham gia đóng BHXH. Theo đó, từ ngày
01/01/1998, cán bộ xã, phường được tham gia đóng BHXH theo mức bằng 15 % mức sinh
hoạt phí. Trong đó, cán bộ xã, phường đóng 5%, ngân sách nhà nước đóng 10%. Để thực
hiện Nghị định của Chính phủ, ngày 14/7/1998, BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết định
số 806/BHXH-CĐCS quy định việc thu nộp BHXH của cán bộ xã, phường. Theo quyết
định này, Chủ tịch UBND xã, phường có trách nhiệm đóng mỗi tháng một lần bằng 15%
tổng số sinh hoạt phí của cán bộ xã, phường trong đó 10 % lấy từ nguồn ngân sách nhà nước
cấp, 5% trích từ tiền sinh hoạt phí hàng tháng của cán bộ xã, phường. Việc đóng BHXH do
Chủ tịch UBND xã, phường thực hiện bằng chuyển khoản vào tài khoản thu của cơ quan
BHXH được mở tại Kho bạc Nhà nước hoặc Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT cấp huyện.
Thực hiện quy định trên, UBND tỉnh ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện
chế độ chính sách BHXH cho cán bộ xã, phường trên địa bàn tỉnh từ quý III năm 1998.
Theo đó, BHXH cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, đối chiếu việc thu nộp
BHXH của các xã và định kỳ xác nhận số thu của từng người trong danh sách thu BHXH
và xác nhận vào sổ BHXH. Phòng Tài chính và Kho bạc Nhà nước cấp huyện giúp cơ
quan BHXH cấp huyện trong việc thực hiện thu nộp BHXH của các xã, phường bằng cách
yêu cầu các xã, phường phải thực hiện trích nộp 10% tổng quỹ lương trên tài khoản của
ngân sách xã, phường mở tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện để chuyển cho cơ quan BHXH
cấp huyện.
Từ khi có Nghị định 121/2003/NĐ-CP, ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ
chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã thì mức thu nộp BHXH đã có nhiều thay đổi.
Hàng tháng UBND các xã, phường có trách nhiệm đóng đầy đủ 20% tổng quỹ lương của
cán bộ, công chức xã, phường cho cơ quan BHXH trong đó ngân sách xã, phường đóng
15%, cán bộ công chức xã, phường đóng 5% từ tiền lương được hưởng hàng tháng.
Dưới đây là kết quả thu BHXH ở các xã, phường từ năm 2003 đến năm 2007 (xem
bảng 2.11).
Bảng 2.11: Số đối tượng và số tiền thu BHXH của cán bộ xã, phường
từ năm 2003 đến năm 2007
Số
TT
Năm
Số đối tượng
(Người)
Số tiền
(Triệu đồng)
1 2003 11.428 12.943
2 2004 10.836 12.898,2
3 2005 10.784 14.216,2
4 2006 10.876 20.162,4
5 2007 11.237 25.045
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hoá [2], [3]
Như vậy có thể thấy rằng, trong thời gian qua, việc thu BHXH của cán bộ xã,
phường được thực hiện tương đối tốt. Số thu BHXH ở các xã, phường đã tăng liên tục
cùng với sự tăng lên của số lượng cán bộ, công chức xã, phường tham gia BHXH. Số tiền
thu BHXH thường được thu đầy đủ.
Tuy nhiên, hoạt động thu BHXH ở các xã, phường còn một số điểm cần quan tâm.
i) Việc thu BHXH thường chậm, không đúng kỳ hạn hàng tháng. Một số xã, phường
chậm chuyển số tiền BHXH được trích 10% từ ngân sách nhà nước cấp. Điều đó là do có
xã, phường phải tự cân đối ngân sách hoặc do có xã, phường đã sử dụng số tiền BHXH
vào mục đích khác. Chẳng hạn, năm 1999, xã Thuý Sơn và Kiên Thọ thuộc huyện Ngọc
Lặc đã mắc phải sai phạm này. Số tiền BHXH được trích 5% từ sinh hoạt phí hàng tháng
của cán bộ xã, phường cũng thường nộp rất chậm. Thông thường các xã, phường thu nộp
theo quý, cá biệt có đơn vị 6 tháng nộp một lần.
ii) Việc theo dõi biến động số đối tượng tham gia BHXH ở các xã, phường rất phức
tạp và khó khăn. Đối tượng tham gia BHXH ở các xã, phường thường biến động, nhất là
sau những lần bầu cử Hội đồng nhân dân hoặc đại hội Đảng bộ các cấp.
iii) Việc theo dõi quá trình đóng BHXH và bổ sung vào sổ BHXH còn hạn chế.
Phần lớn hồ sơ lý lịch của cán bộ xã, phường còn thiếu các chứng cứ pháp lý có liên quan
đến tuổi đời và thời gian công tác. Nhiều trường hợp đối tượng tham gia BHXH bị thiếu
hoặc mất hồ sơ lý lịch. Thêm vào đó công tác bảo quản và lưu trữ hồ sơ lý lịch tại các xã,
phường trong một thời gian dài chưa được quan tâm đúng mức. Điều đó đã gây nhiều khó
khăn cho công tác cấp phát sổ BHXH.
iv) ở các xã, phường hiện nay chưa có cán bộ chuyên trách đảm nhiệm công tác thu
BHXH. Thực tế ở các xã, phường kế toán ngân sách xã, phường thường kiêm nhiệm công
tác thu BHXH. Nhiều cán bộ chưa am hiểu về chế độ chính sách BHXH hoặc phải đảm
nhiệm quá nhiều việc. Mặt khác, đội ngũ cán bộ này cũng thường thay đổi sau các nhiệm kỳ
đại hội và bản thân họ không phải là đầu mối quản lý trực tiếp của cơ quan BHXH cấp huyện.
Do đó, cơ quan BHXH gặp nhiều khó khăn trong chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thu BHXH.
2.2.3.2. Thực trạng hoạt động chi trả chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn
Ban đại diện chi trả xã, phường là những người do UBND xã, phường giới thiệu. Họ
thực hiện chi BHXH tại các xã, phường trên cơ sở một hợp đồng trách nhiệm ký kết giữa
một bên là Giám đốc BHXH huyện, thị xã, thành phố và một bên là Chủ tịch UBND xã,
phường. Đây là hình thức chi trả đã được ngành Lao động TB&XH và ngành Tài chính áp
dụng thực hiện ở Thanh Hoá từ trước khi chưa thành lập hệ thống BHXH đến nay.
Thời gian qua việc thực hiện chi trả thông qua các Ban đại diện chi trả xã, phường
đã đạt được một số kết quả.
i) Đảm bảo chi trả đồng loạt, đầy đủ cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Năm
2007, số tiền chi trả bình quân hàng tháng trên 141 tỷ đồng.
ii) Ban đại diện chi trả là cầu nối cho sự phối hợp có hiệu quả giữa chính quyền địa
phương và cơ quan BHXH trong việc quản lý đối tượng, kinh phí và xác lập thủ tục hồ sơ
để giải quyết chế độ tử tuất cho đối tượng hưởng BHXH qua đời. Nhờ đó, hạn chế được
tình trạng gian lận của một số đối tượng hưởng chế độ BHXH. Chẳng hạn tình trạng
hưởng BHXH ở hai nơi cư trú, hoặc chuyển hồ sơ hưởng chế độ đến những nơi có hệ số
phụ cấp khu vực cao mặc dù đối tượng không sinh sống ở đó, hoặc chậm kê khai giảm đối
tượng hưởng BHXH.
iii) Ban đại diện chi trả tham gia giải thích chế độ chính sách BHXH đối với các đối
tượng hưởng BHXH ở xã, phường. Điều đó làm giảm đáng kể các trường hợp thắc mắc, khiếu
nại về chính sách BHXH ở các cơ quan BHXH.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, thực tế chi trả và các số liệu điều tra năm 1999 và
năm 2000, cho thấy công tác quản lý cấp phát chi trả BHXH ở các Ban đại diện chi trả xã,
phường thị trấn còn bộc lộ một số hạn chế.
Một là, công tác bảo quản tiền mặt chưa an toàn. Năm 1998, tại huyện Hậu Lộc,
Ban đại diện chi trả của một xã đã để xảy ra việc mất tiền trên đường vận chuyển. Phương
tiện dùng để vận chuyển tiền chủ yếu bằng xe đạp. ở các huyện đồng bằng và ven biển, có
tới 55% số xã vận chuyển tiền bằng xe đạp. Con số đó ở vùng trung du là 72,2% và ở vùng
miền núi là 29,3%. Có 8,6% số xã dùng xe công cộng, 5 % số xã phải đi bộ để vận chuyển
tiền. Tiền mặt sau khi lĩnh về, chỉ có 15% các Ban đại diện chi trả ở các huyện vùng biển;
8,6% Ban đại diện chi trả ở các huyện miền núi để tại UBND xã và tiến hành chi trả, còn
phần lớn các Ban đại diện chi trả mang về nhà riêng, sau đó mới chi trả cho các đối tượng.
Số này chiếm 62,5% ở khu vực thành thị; 79,3% ở các huyện miền núi; 85% ở các huyện
đồng bằng và ven biển; 100% ở các huyện vùng trung du. Trong khi đó, hầu hết các Ban
đại diện chi trả của xã, phường đều không có két sắt để bảo quản tiền mặt. Theo kết quả
điều tra năm 1999, trong 20 xã được điều tra chỉ có 01 xã có két sắt. Phương tiện để bảo
quản tiền mặt của các Ban đại diện chi trả xã, phường chủ yếu là tủ gỗ, thùng sắt hoặc các
vật dụng khác. Số này chiếm tới 43,75% ở khu vực thành thị; 75% ở các huyện đồng bằng
và ven biển; 48,3% ở các huyện miền núi.
Hai là, hồ sơ, chứng từ thanh quyết toán chi trả thiếu chặt chẽ, không đảm bảo các
yêu cầu quy định. Thực tế cho thấy, việc chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng ở một số
Ban đại diện chi trả còn qua nhiều khâu trung gian. Từ Ban đại diện chi trả xã, phường,
tiền được chia xuống các tổ rồi từ các tổ mới cấp phát cho đối tượng. Việc chi trả như vậy
gây rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý. Chứng từ chi BHXH lưu trữ qua nhiều
khâu, danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH do cơ quan BHXH lập chi tiết cho
từng đối tượng ký nhận nhưng thực tế trên danh sách lại chủ yếu là các Ban đại diện chi trả
xã, phường hoặc các tổ chi trả ký nhận. Đối tượng hưởng BHXH lại ký nhận vào danh
sách chi trả do các tổ lập ra hoặc Ban đại diện lập cho các tổ và ký vào phiếu lĩnh lương
hưu hoặc trợ cấp BHXH. Tình trạng nhận thay cho đối tượng đi vắng lâu ngày vẫn còn khá
phổ biến.
Ba là, việc thực hiện chế độ báo cáo tăng, giảm số đối tượng hưởng BHXH, thanh
quyết toán kinh phí BHXH giữa các Ban đại diện chi trả với BHXH cấp huyện chưa kịp
thời, thường còn rất chậm. Phần lớn các Ban đại diện chi trả xã, phường thường kết hợp đi
lấy lương hưu, trợ cấp BHXH và tiền trợ cấp người có công của ngành Lao động TBXH để
cấp cho đối tượng cùng một lúc. Do đó, thời gian chi trả cho đối tượng hưởng BHXH bị
kéo dài. Theo đó, công tác thanh quyết toán chi BHXH của các Ban đại diện chi trả xã,
phường với cơ quan BHXH cấp huyện càng chậm hơn. Công tác báo giảm số đối tượng
hưởng BHXH thực hiện chưa tốt. Hiện tại, vẫn còn một vài Ban đại diện chi trả chậm báo
cắt giảm những trường hợp đối tượng hưởng BHXH đã chết do cảm tình cá nhân. Một số
trường hợp đối tượng vắng mặt lâu ngày đã quá thời gian uỷ quyền nhưng Ban đaị diện chi
trả vẫn chi trả cho gia đình.
Bốn là, trình độ nghiệp vụ của những người làm công tác chi trả tại các Ban đại
diện chi trả xã, phường còn nhiều bất cập, không đáp ứng yêu cầu. Những người làm công
tác chi trả tại các Ban đại diện chi trả xã, phường phần lớn không được đào tạo cơ bản về
chuyên môn nghiệp vụ. Theo kết quả điều tra năm 2000, trong số 1383 người làm công tác
chi trả tại 608 Ban đại diện chi trả xã, phường, có đến 56% không được đào tạo cơ bản, chỉ
có 3,9% có trình độ đại học, 35% có trình độ trung cấp các loại, 6,4% có trình độ sơ cấp.
Phần lớn những người làm việc này đã cao tuổi. Có đến 33,8% số người có độ tuổi 50 đến 60;
15,1% số người trên 60 tuổi. Do vậy, phần lớn thao tác nghiệp vụ chậm, báo cáo chậm, sổ
sách biểu mẫu tẩy xoá, sửa chữa không đúng quy định.
Năm là, mức thù lao cho những người làm công tác chi trả ở khu vực miền núi còn
rất thấp vì đối tượng, kinh phí rất ít. Mặc dù BHXH tỉnh đã điều chỉnh tỷ lệ chi lệ phí chi
trả với mức cao nhất, song cũng chưa phù hợp với thực tế khó khăn ở cơ sở, chưa bù đắp
được những chi phí tối thiểu của họ trong quá trình làm nhiệm vụ.
2.3. Đánh giá chung về phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh
Hoá
2.3.1. Những thành công
Việc phân cấp quản lý thu, chi BHXH ở tỉnh Thanh Hoá thời gian qua đã đóng góp
quan trọng trong việc hình thành nguồn quỹ tập trung, thống nhất, ổn định, đảm bảo thực
hiện kịp thời các chế độ chính sách BHXH cho người lao động khi có yêu cầu. Kết quả đó
đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm an sinh xã hội
trên địa bàn. Có bốn thành công chính sau đây:
Một là, phân cấp quản lý đã làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan BHXH
các cấp và các đơn vị sử dụng lao động, người hưởng chế độ, chính sách BHXH, nhất là
các ràng buộc về nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi trong quản lý thu, chi BHXH. Điều đó
tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao
động.
Việc phân cấp quản lý chi BHXH đã phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng
đơn vị trong việc quản lý quỹ BHXH. Trong đó cấp Trung ương có nhiệm vụ ban hành các
quy định quản lý và đảm bảo đủ nguồn kinh phí. Cấp tỉnh, huyện có nhiệm vụ tiếp nhận
kinh phí và phối hợp với các đơn vị có liên quan để tổ chức chi trả. Các Ban đại diện chi
trả xã, phường có nhiệm vụ chi trả đầy đủ, kịp thời lương hưu và trợ cấp BHXH cho các
đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn (gần 13 vạn) trên một địa bàn rộng (634 xã,
phường thuộc 27 huyện, thị xã, thành phố).
Hai là, phân cấp quản lý thu, chi BHXH đã góp phần thực hiện tốt việc cải cách thủ
tục hành chính, cải tiến quy trình công tác ở từng cấp. Việc quản lý đối tượng tham gia
BHXH bằng sổ BHXH và phân cấp việc quản lý sổ BHXH cho các đơn vị gắn với phân
cấp quản lý thu là một biện pháp rất khoa học. Điều đó, giúp cho cơ quan BHXH quản lý
chặt chẽ, tránh được sai sót, nhầm lẫn, kiểm soát được diễn biến tiền lương, ngành nghề,
công việc của người lao động, làm cơ sở cho việc giải quyết các chế độ BHXH. Người lao
động tham gia BHXH được ghi nhận kịp thời quá trình đóng BHXH vào sổ BHXH cũng
rất phấn khởi, thuận lợi khi chuyển địa điểm làm việc hoặc địa bàn công tác.
Ba là, việc phân cấp thẩm quyền quản lý thu, chi BHXH về cơ bản phù hợp với cơ
cấu tổ chức bộ máy quản lý BHXH. Điều đó góp phần nâng cao hiệu lực và năng lực quản
lý, hạn chế được những chồng chéo trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đồng thời
phát huy được hiệu lực trong công tác kiểm tra, kiểm soát và khai thác, quản lý đối tượng
tham gia và hưởng BHXH. Phân cấp quản lý thu, chi BHXH ở Thanh Hoá đảm bảo quản
lý chặt chẽ nguồn thu, chi BHXH, tránh được những sai sót hoặc thất thoát nguồn quỹ
BHXH như trước đây.
Bốn là, việc phân cấp quản lý thu BHXH đã thúc đẩy khai thác tối đa đối tượng
người lao động làm việc tại các đơn vị, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế, các lĩnh vực
tham gia BHXH. Theo đó, hình thành được nguồn quỹ tập trung, thống nhất tại cấp Trung
ương, tạo ra nguồn tài chính vững chắc để đảm bảo phục vụ chi trả cho các đối tượng tham
gia BHXH khi có nhu cầu hưởng BHXH. ở Thanh Hoá, mặc dù địa bàn rộng, đối tượng
tham gia BHXH phân tán, nhưng việc thực hiện phân cấp quản lý đã giúp BHXH tỉnh
Thanh Hóa quản lý được hầu hết các đơn vị ở các lĩnh vực hoạt động và quản lý từng
người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Đồng thời, việc phân cấp quản lý
cũng tạo điều kiện cho các đối tượng tự nguyện được tham gia BHXH. Số đơn vị và người lao
động đăng ký tham gia BHXH ngày càng tăng.
2.3.2. Những hạn chế
Bên cạnh những thành công quan trọng, phân cấp quản lý thu, chi BHXH ở Thanh
Hoá trong thời gian qua còn có những hạn chế đáng quan tâm.
Một là, phân cấp quản lý thu, chi BHXH hiện nay ở Thanh Hoá mới được thực hiện
đến cấp huyện. Điều đó đã tạo ra tình trạng quá tải trong quản lý thu, chi BHXH ở cấp
huyện. ở cấp xã, phường hiện chưa có cơ quan quản lý thu, chi BHXH. Quản lý thu BHXH
của các đơn vị, cá nhân trên địa bàn huyện do BHXH huyện thực hiện. Với khối lượng
công việc quá lớn, các đầu mối thu BHXH không tập trung, BHXH huyện rất khó quản lý
chặt chẽ và có hiệu quả. Do đó, tình trạng trốn tránh đóng BHXH và nợ đọng tiền BHXH
của các đơn vị sử dụng lao động vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Số người thuộc diện
tham gia BHXH bắt buộc nhưng chưa được tham gia vẫn còn. Số hộ sản xuất kinh doanh
cá thể tham gia BHXH còn quá thấp so với thực tế. Công tác quản lý thu BHXH đối với
cán bộ xã ở các xã, phường chưa vững chắc. Công tác cấp phát sổ BHXH chưa được quan
tâm, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Công tác quản lý quỹ lương trích nộp BHXH chưa tốt,
công tác chỉ đạo chưa đồng bộ, thống nhất từ tỉnh đến cơ sở.
Hai là, việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng BHXH do Ban đại
diện chi trả xã, phường thực hiện cũng làm cho việc thực hiện chế độ chính sách BHXH
kém hiệu quả. Với số đối tượng hưởng BHXH quá lớn, địa bàn rộng, chi trả bằng tiền mặt,
việc chi trả của Ban đại diện chi trả xã, phường rất khó được thực hiện nhanh chóng, thuận
tiện cho đối tượng hưởng BHXH. Nguy cơ mất an toàn trong quá trình chi trả rất lớn...
Ba là, phân cấp quản lý thu, chi BHXH chưa đảm bảo thẩm quyền kiểm tra, kiểm
soát của cơ quan quản lý. Điều đó hạn chế hiệu quả quản lý thu, chi BHXH ở các cấp. Đây
là một trong những lý do chính dẫn tới tình trạng gian lận, vi phạm chế độ chính sách
BHXH chậm được xử lý và khắc phục.
Bốn là, phân cấp quản lý cán bộ hiện nay còn chưa hợp lý hạn chế đến việc nâng cao
chất lượng, trình độ cán bộ BHXH. Việc phân bổ biên chế còn chưa phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ và đặc điểm về địa giới, địa lý của từng địa phương. Mặt khác, do việc tiếp nhận
bàn giao nguyên trạng đội ngũ cán bộ từ các ngành, đồng thời việc tuyển dụng, đào tạo,
bồi dưỡng, thuyên chuyển cán bộ trong hệ thống BHXH tỉnh do Giám đốc BHXH tỉnh
đảm nhiệm nên việc tuyển chọn, đào tạo khó chính xác, chậm trễ. Các đơn vị BHXH cấp
huyện thường bị động trong khâu bố trí, sử dụng cán bộ.
2.3.3. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế trong phân cấp quản lý
thu, chi bảo hiểm xã hội
* Nguyên nhân của những thành công.
Một là, chế độ chính sách BHXH được Đảng và Nhà nước bổ sung, hoàn thiện phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển về BHXH
của các quốc gia trên thế giới. Đây là yếu tố quan trọng, quyết định để chính sách BHXH
đi vào cuộc sống.
Hai là, trong quá trình tổ chức thực hiện chế độ chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh,
BHXH Thanh Hoá luôn được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền; sự
phối hợp giúp đỡ có hiệu quả của các ban, ngành có liên quan; đặc biệt là sự chỉ đạo, giúp
đỡ thường xuyên và toàn diện của BHXH Việt Nam. Đó là ngoại lực quan trọng để BHXH
Thanh Hoá hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Ba là, BHXH Thanh Hoá đã tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ. Đó là giải pháp tích
cực ứng dụng công nghệ tin học trong các hoạt động nghiệp vụ, tăng cường công tác tuyên
truyền chế độ chính sách BHXH; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
thu, chi BHXH; nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công
tác BHXH. Đây là yếu tố quan trọng để thực hiện có hiệu quả việc phân cấp thu, chi
BHXH.
* Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém.
Một là, nhận thức và tư duy về cơ chế quản lý mới về BHXH của chủ sử dụng lao
động, người lao động chưa theo kịp với sự thay đổi của thực tiễn. Mặt khác, Thanh Hoá có
địa bàn rộng, dân số đông, với 8 dân tộc anh em cùng sinh sống. Đa phần đồng bào dân tộc
sống tập trung ở khu vực miền núi, có nhiều khó khăn, vì vậy nhận thức về BHXH rất hạn
chế. Chính vì vậy, tính tự giác, tích cực và ý thức chấp hành Luật BHXH chưa cao.
Hai là, kinh tế của tỉnh Thanh Hoá phát triển còn chậm so với cả nước. Năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cơ chế mới còn yếu, thu nhập bình quân của người
lao động thấp, sức ép về việc làm quá lớn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh theo mùa vụ như các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp sản xuất hàng
giày da, may mặc, xây dựng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh đang trong giai đoạn
chuyển đổi, sắp xếp lại. Do đó khó có điều kiện để thực hiện chế độ, chính sách BHXH
một cách đầy đủ, nghiêm túc.
Ba là, do địa bàn quá rộng, đối tượng quản lý khá lớn, việc ứng dụng công nghệ
thông tin chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý. Thủ tục hành chính còn rườm rà,
chậm được đổi mới. Nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ chính sách BHXH của các
bộ, ngành có liên quan còn chậm và còn nhiều điểm bất hợp lý.
Bốn là, BHXH tỉnh chưa được chủ động trong việc phân cấp quản lý thu, chi BHXH
trên một số mặt. Chẳng hạn, BHXH tỉnh chưa có quyền phân cấp thẩm quyền giải quyết chế
độ chính sách, phân cấp kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH cho cấp huyện.
Những hạn chế trong phân cấp quản lý thu, chi BHXH với những nguyên nhân đã
được chỉ ra trên đây là những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi
BHXH ở tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới.
Chương 3
Phương hướng và giải pháp hoàn thiện phân cấp
quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hóa
3.1. Phương hướng hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội của
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn tới
3.1.1. Mục tiêu và nhiệm vụ quản lý của bảo hiểm xã hội Việt Nam và bảo hiểm
xã hội tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn tới
3.1.1.1. Mục tiêu và nhiệm vụ quản lý của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
WTO. Đây chính là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, từng bước đưa
nền kinh tế nước ta trở thành bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới. Việc gia nhập
WTO sẽ có sự tác động trực tiếp, toàn diện vào các thị trường hàng hoá, tiền tệ và thị
trường lao động trong nước. Sự tác động này sẽ tạo ra một động lực mới, một không gian
mới cho sự cạnh tranh và phát triển, thúc đẩy nhanh chóng cho mục tiêu đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Sự thúc đẩy nhanh chóng quá trình công
nghiệp hoá sẽ kéo theo tác động chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân bố lại lao động dân cư,
thị trường lao động và quan hệ lao động phát triển, số người tham gia vào thị trường lao
động tăng lên, tiền lương và thu nhập bình quân của người lao động cũng tăng lên. Đây
chính là cơ sở để mở rộng thu hút hơn nữa các đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên,
những tác động tiêu cực của quá trình này cũng đồng thời xuất hiện. Sự cạnh tranh sẽ kéo
theo sự thua lỗ, phá sản của một số doanh nghiệp làm cho một bộ phận người lao động bị
thất nghiệp, sức ép và cường độ việc làm ngày càng lớn. Chính vì vậy BHXH trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế lại càng có một vai trò rất quan trọng. Chỉ thị 15-CT/TW, ngày
26/5/1997 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước góp phần đảm bảo đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [19]. Tuy nhiên, sự phát triển của
BHXH phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy, việc xác định mục
tiêu, xây dựng chiến lược phát triển của BHXH Việt Nam phải được dựa trên cơ sở mục
tiêu, chương trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Trong thời kỳ tới, mục tiêu và nhiệm vụ quản lý của ngành BHXH Việt Nam như
sau:
Thứ nhất, thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH theo Luật BHXH áp dụng đối với mọi
người lao động trong các thành phần kinh tế theo chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Thứ hai, mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong phạm vi toàn xã hội theo lộ trình
thực hiện BHXH cho mọi người lao động.
Thứ ba, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện phân cấp mạnh cho
cơ sở.
Thứ tư, tăng nhanh nguồn thu của quỹ BHXH để đảm bảo chi trả lương hưu và
các chế độ trợ cấp đầy đủ, kịp thời, đảm bảo mức sống của người về hưu phù hợp với
tốc độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ năm, tổ chức triển khai mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực
hoạt động và mọi cấp quản lý của ngành, đảm bảo cho việc quản lý điều hành, thống kê,
lưu trữ được chính xác và kịp thời.
3.1.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ quản lý của Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá
Căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ quản lý của BHXH Việt Nam và chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Mục tiêu
và nhiệm vụ quản lý của BHXH tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới như sau:
Một là, tích cực mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và tự nguyện trên địa
bàn.
Hai là, quản lý chặt chẽ nguồn chi BHXH, tránh thất thoát, lãng phí và tổ chức chi
trả kịp thời, an toàn lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng hưởng BHXH trên địa
bàn.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra nội bộ ngành BHXH, nhằm đảm bảo thực hiện
đầy đủ quyền lợi cho người tham gia và hưởng BHXH theo đúng pháp luật về BHXH.
Bốn là, không ngừng hiện đại hoá cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho các
hoạt động BHXH.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi BHXH. Đẩy mạnh việc phân
cấp quản lý cho các đơn vị trực thuộc.
Sáu là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật BHXH dưới
mọi hình thức để mọi người lao động nắm được các văn bản pháp luật hiện hành về chế
độ, chính sách BHXH.
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở
tỉnh Thanh Hóa
Hoạt động quản lý thu, chi BHXH liên quan đến hầu hết mọi hoạt động của toàn
ngành, liên quan đến tất cả mọi cán bộ, công chức, viên chức, liên quan đến các cơ quan,
đơn vị, tổ chức, cá nhân và người lao động trong quá trình thực hiện các chế độ, chính sách
BHXH đối với người lao động. Trong bối cảnh hiện nay, số lượng lao động tham gia
BHXH ngày càng tăng nhanh và có mặt rộng khắp trên mọi vùng miền, mọi thành phần
kinh tế. Các quan hệ lao động ngày càng diễn ra phức tạp. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả
công tác BHXH trong tình hình mới, đòi hỏi phải tiếp tục thực hiện tốt phân cấp quản lý,
quy định cụ thể rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cơ quan, đơn vị, từng
cấp trong việc thực hiện chế độ chính sách BHXH. Việc phân cấp quản lý thu, chi BHXH
trong thời gian tới ở tỉnh Thanh Hoá phải đạt được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, phân cấp quản lý được hoàn thiện theo hướng bảo đảm tạo điều kiện cho
mọi đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn thuận tiện trong việc đóng góp vào nguồn quỹ
BHXH. Các đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH phải được chi trả nhanh chóng, kịp thời,
đầy đủ lương hưu và trợ cấp BHXH khi có nhu cầu hưởng.
Thứ hai, phân cấp quản lý được hoàn thiện theo hướng bảo đảm phát huy được tính
năng động, tự chủ, sáng tạo của từng đơn vị trực thuộc trong việc khai thác và phát triển
nguồn thu BHXH, đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất nguồn quỹ
BHXH tại cấp Trung ương để thực hiện chức năng bảo tồn, tăng trưởng và đảm bảo nguồn
chi cho các đối tượng hưởng BHXH trên cả nước.
Thứ ba, hoàn thiện phân cấp quản lý phải phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương và khả thi trong quá trình thực hiện. Việc phân cấp về chức năng nhiệm vụ phải
gắn chặt với phân cấp về tổ chức biên chế để phát huy hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản
lý.
Thứ tư, phân cấp quản lý theo hướng đảm bảo cho hoạt động quản lý đạt được mục
tiêu công bằng, công khai và dân chủ. Cơ chế này phải được xây dựng trên một hệ thống
các tiêu chí, tiêu thức phản ánh đầy đủ các nội dung quản lý và phải thường xuyên kiểm tra,
giám sát quá trình tổ chức thực hiện, đồng thời phải không ngừng được bổ sung, hoàn thiện
cho phù hợp với thực tiễn.
Thứ năm, phân cấp quản lý theo hướng bảo đảm cho việc kiểm tra, đánh giá được
chính xác, khách quan.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh
Thanh Hoá
3.2.1. Hoàn thiện phân cấp về thẩm quyền quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội của
Bảo hiểm xã hội tỉnh, huyện
3.2.2. Hoàn thiện phân cấp về kiểm tra, kiểm soát thu, chi bảo hiểm xã hội của
Bảo hiểm xã hội tỉnh, huyện
3.2.3. Hoàn thiện phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ quản lý thu, chi
bảo hiểm xã hội ở Bảo hiểm xã hội tỉnh, huyện
3.2.4. Các giải pháp khác
3.2.4.1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý Bảo hiểm xã hội tỉnh, huyện
3.2.4.2. Tăng cường tuyên truyền và giáo dục pháp luật bảo hiểm xã hội để nâng
cao ý thức chấp hành thực hiện Luật bảo hiểm xã hội
3.2.4.3. Tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan chức năng, các đoàn thể
trong tổ chức thực hiện thu, chi bảo hiểm xã hội và kiểm tra kiểm soát, xử lý các vi
phạm về bảo hiểm xã hội
3.2.4.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý thu, chi
bảo hiểm xã hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá.pdf