Luận văn Bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở bảo tàng Hồ Chí Minh

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn thể dân tộc Việt Nam đang ra sức phát huy di sản Hồ Chí Minh, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đưa đất nước phát triển theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc này, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ là địa chỉ tin cậy, là điểm hẹn thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là điểm đến của du khách quốc tế khi về thăm Thủ đô Hà Nội. Bảo tàng Hồ Chí Minh - nơi lưu giữ hàng vạn tài liệu, hiện vật về Người, trong những năm qua Bảo tàng đặc biệt coi trong công tác sưu tầm, bảo quản tài liệu, hiện vật bởi nó không chỉ liên quan đến sự tồn tại của Bảo tàng mà toàn bộ khối tài liệu, hiện vật này thuộc loại hình văn hóa vật thể, là loại tài sản không thể tái sinh và không thể thay thế nhưng rất dễ bị biến dạng do tác động của các yếu tố ngoại cảnh như: khí hậu, thời tiết, thiên tai, sự khai thác không có sự kiểm soát chặt chẽ . Chính vì vậy, việc gìn giữ, bảo quản một khối lượng đồ sộ tài liệu, hiện vật đó để giảm thiểu mức thấp nhất những tác động của môi trường, của thời gian là vấn đề đặt ra đối với Bảo tàng Hồ Chí Minh. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, tác giả đã tập trung giải quyết ba nội dung chính như sau: - Khái quát hóa những vấn đề lý luận và chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Trong đó, tác giả đi sâu làm rõ những vấn đề cơ bản về chính sách, di sản văn hóa, tài liệu, hiện vật và chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. - Trên cơ sở hệ thống lý luận, tác giả phân tích thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh từ đó rút ra những đánh giá cơ bản về kết quả đã đạt được, những tồn tại104 hạn chế và nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trong thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng. - Từ những đánh giá trên, luận văn nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đối với công tác bảo quản tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người là di sản văn hóa to lớn của thời đại, là hành trang và điểm tựa để dân tộc ta vững bước trên con đường phát triển. Là nơi nghiên cứu, lưu giữ và phát huy những giá trị vô giá đó, các thế hệ công chức, viên chức và người lao động của Bảo tàng đã, đang và sẽ phấn đấu để Bảo tàng mãi là trường học lớn, là nhịp cầu văn hóa nối quá khứ với hiện tại, là điểm đến của đồng bào, đồng chí và bè bạn quốc tế.

pdf114 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 953 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở bảo tàng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo quản ở kho thì lại cần phải học thêm nhiều kiến thức khác chuyên sâu về bảo quản. Thực tế cho thấy, họ hầu như được đào tạo theo kiểu truyền miệng từ thế hệ trước sang thế hệ sau chứ không có các lớp chuyên môn về bảo quản tài liệu, hiện vật. - Hiện có khoảng 13 vạn tài liệu, hiện vật đang được giữ tại Kho cơ sở của Bảo tàng Hồ Chí Minh. Mặc dù là một trong những bảo tàng đầu hệ trong cả nước nhưng với số lượng tài liệu, hiện vật quá lớn như vậy thì việc bảo quản không hề đơn giản. Hơn nữa, chất liệu của các tài liệu, hiện vật lại phong phú đòi hỏi phương thức bảo quản khác nhau, các tiêu chí kỹ thuật bảo quản cũng khác nhau nên không tránh khỏi tình trạng điều kiện bảo quản không phù hợp với yêu cầu. Việc chia các kho tài liệu, hiện vật như hiện nay đã là một sự cố gắng của Bảo tàng Hồ Chí Minh trong điều kiện cơ sở vật chất đang có nhưng trên thực tế chưa thể đáp ứng yêu cầu hoàn toàn của 13 vạn tài liệu, hiện vật nêu trên về tiêu chuẩn bảo quản. - Bảo tàng Hồ Chí Minh chưa có sự liên kết chặt chẽ với các bảo tàng hiện đại trên thế giới để có thể tận dụng những thành quả về công tác bảo quản tài liệu, hiện vật của các nước tiên tiến trên thế giới. Như chúng ta đã biết ngành bảo tồn bảo tàng đã ra đời hàng trăm năm nay, nhiều bảo tàng hàng đầu thế giới cũng đã mất rất nhiều thời gian, công sức để có thể tích lũy cho mình kiến thức và kinh nghiệm bảo quản tài liệu, hiện vật. Ở Việt Nam, ngành bảo tồn bảo tàng thực sự phát triển mấy chục năm trở lại đây, do đó kiến thức và kinh nghiệm bảo quản chưa có cũng là chuyện đương nhiên. Do vậy, việc các bảo tàng của Việt Nam cần có sự liên kết, giao lưu với các bảo tàng hiện đại trên thế giới là vô cùng cần thiết. - Bảo tàng Hồ Chí Minh là đơn vị sự nghiệp có thu, ngoài nguồn kinh phí sự nghiệp được cấp hằng năm, Bảo tàng còn có nguồn kinh phí từ các 82 dịch vụ phù hợp theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Nguồn kinh phí này một phần dành cho hoạt động sự nghiệp, một phần dành nâng cao đời sống tinh thần cho viên chức và người lao động. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của xã hội thì thu nhập của cán bộ bảo tàng còn rất khiêm tốn. Để đảm bảo cuộc sống, nhiều cán bộ, viên chức và người lao động đã phải làm thêm các công việc khác nhằm tăng thêm thu nhập. Việc này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công việc của họ. Con người nói chung không thể toàn tâm toàn ý cho một công việc không đảm bảo cuộc sống cho họ, việc làm thêm sẽ ảnh hưởng đến thời gian, sức lực và tâm trí của người đó. Chính vì vậy mà ảnh hưởng chung đến kết quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa mà họ đang đảm nhiệm. - Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của cấp trên, của tổ chức, cán bộ chủ chốt các cấp có lúc, có nơi còn buông lỏng, chưa sâu sát. Mặt khác, hiện nay cơ chế để các đoàn thể và nhân dân giám sát, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa còn mang tính hình thức. Công tác đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách chưa được triển khai thường xuyên, chưa chủ động luôn phải chờ ý kiến chỉ đạo của cấp trên, hoạt động tuyên truyền thực hiện chính sách chỉ mới triển khai được giai đoạn đầu sau đó lại rơi vào tình trạng “đầu voi đuôi chuột”. - Việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và thông tin về di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật chưa kịp thời và thường xuyên liên tục. Còn thiếu những cuốn sách cẩm nang về di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật trong Bảo tàng để phục vụ du khách đặc biệt là du khách nước ngoài. * Tiểu kết chƣơng 2 Chương 2 đã khái quát quá trình hình thành, phát triển của Bảo tàng Hồ Chí Minh, khái quát về tài liệu, hiện vật và phân loại tài liệu, hiện vật nhằm cung cấp một cái nhìn tương đối đầy đủ về Bảo tàng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, luận văn văn phân tích thực trạng công tác bảo quản tài liệu, hiện vật và 83 tình hình thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh. Từ đó, luận văn đã đưa ra đánh giá chung về những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém của việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Đồng thời luận văn cũng phân tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó. Đây là cơ sở, tiền đề cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác bảo quản tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh và hoàn thiện việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật nói chung ở chương 3. 84 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA ĐỐI VỚI TÀI LIỆU, HIỆN VẬT Ở BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH 3.1. Mục tiêu, định hƣớng hoàn thiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật Di sản văn hóa là đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, nó được hun đúc, kết tinh từ những giá trị chuẩn mực của văn hóa. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa chính là hoạt động nhằm khơi dậy sức mạnh dân tộc, tạo đã cho sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội hài hòa. Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đã được quan tâm khởi nguồn từ Nghị quyết Đại hội Khóa VII của Đảng và thực sự nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII khi xác định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết dân tộc, là cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc, cơ sở sáng tạo ra giá trị mới và giao lưu văn hóa” [6, tr3]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó nhiệm vụ thứ tư là bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Nghị quyết đã chỉ rõ nội dung của nhiệm vụ này như sau: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại”. Xuyên suốt sau đó tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI, XII đã khẳng định tầm quan trọng của hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa độc hại. Trong sự nghiệp phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, di sản văn hóa 85 đóng vai trò quan trọng hàng đầu và phải kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch. Báo cáo Chính trị trình tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII trình bày: Trong giai đoạn 2016 - 2020 những nhiệm vụ cần phải làm là hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa của dân tộc; gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch bền vững và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bà sâu rộng các giá trị văn hóa trong công chúng. [5, tr3]. Định hướng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong những năm tới bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Xã hội hóa trong công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là đa dạng hoá các chủ thể văn hóa, nhằm thu hút đông đảo lực lượng xã hội, các tập thể và tư nhân đứng ra chăm lo, tổ chức và điều hành các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa theo đúng pháp luật của nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa phải giải quyết vấn đề xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế, đảm bảo tiêu chuẩn cao nhất đối với hiệu quả xã hội, cố gắng đạt được sự thống nhất giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Xã hội hóa các hoạt động bảo tồn di tích lịch sử văn hoá bao gồm: khuyến khích việc đa dạng hoá các nguồn kinh phí để bảo vệ, tôn tạo và phát huy tác dụng các di sản văn hóa, cho phép và tạo điều kiện để vận động tuyên truyền nhân dân tự nguyện đóng góp. Ngành văn hoá đã tiến hành nhiều hình thức tuyên truyền về Luật Di sản văn hoá và các văn bản pháp quy liên quan bằng panô, khẩu hiệu, tài liệu thông qua các cuộc họp của nhân dân... nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân đối với di sản văn hoá. Nhân 86 dân ngày càng quan tâm trân trọng di sản văn hóa, chủ động trong việc sưu tầm, bảo vệ, hiến tặng các di sản văn hóa. - Tăng cường áp dụng tin học hóa, khoa học kỹ thuật công nghệ cao trong công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Trong thời đại ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng, tin học, internet là những sản phẩm tuyệt vời của cách mạng khoa học - công nghệ, tạo nên một môi trường thông tin gắn liền với môi trường công nghệ và môi trường xã hội. Hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa bao gồm kiểm kê, phân loại, giới thiệu, quảng bánên việc áp dụng tin học và các phương tiên thông tin sẽ được phát triển và nâng lên một bước. Công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước đang bước sang một giai đoạn mới với những mục tiêu, yêu cầu cao hơn; tạo ra nhiều cơ hội và cả những thách thức trong quá trình hội nhập và phát triển. Trong bối cảnh đó, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung và hoạt động bảo tàng nói riêng giữ vai trò rất quan trọng. Bảo tàng Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện những chức năng, nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật “là trung tâm nghiên cứu những tư liệu, hiện vật và di tích lịch sử có quan hệ đến đời sống và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của Người và tuyên truyền, giáo dục quần chúng về sự nghiệp tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người thông qua những tư liệu, hiện vật và di tích đó”. Trong những năm tới Bảo tàng Hồ Chí Minh giữ vững quan điểm tiếp tục tăng cường nghiên cứu, sưu tầm, đa dạng hóa hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục, chú trọng đầu tư nghiên cứu để nâng cao hơn nữa chất lượng các hoạt động nghiệp vụ đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tới công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. 87 3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh 3.2.1. Hoàn thiện việc xây dựng nội quy, quy chế hoạt động nâng cao chất lượng công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật Qua phân tích thực trạng chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở nước ta hiện nay nói chung ở Bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng về cơ bản đã xây dựng được hệ thống chính sách khá đầy đủ nhưng nhìn chung các chính sách này chưa bao quát được hết các loại hình tài liệu, hiện vật hiện nay. Phần lớn các chính sách và văn bản hướng dẫn chỉ thích hợp với loại tài liệu phổ biến hiện nay là tài liệu giấy, còn để bảo quản và khai thác sử dụng tài liệu nghe, nhìn, tài liệu mộc, hiện vật dệt lại chưa được quy định cụ thể trong văn bản nào. Vì vậy, trong thời gian tới yêu cầu ban hành các chính sách về công tác bảo quản và khai thác sử dụng tài liệu, hiện vật là rất quan trọng và cũng là một nhiệm vụ đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, với Bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng giúp Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa trong cả nước. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, căn cứ những chính sách chung của Nhà nước, hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về về gìn giữ và phát huy di sản văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh sẽ tập trung xây dựng, hoàn thiện các văn bản để thực hiện những định hướng đó trong phạm vi hoạt động của mình. Tập trung vào các công việc sau: - Xây dựng quy định thống nhất về trang thiết bị bảo quản tài liệu, hiện vật. Trên thực tế hiện nay chưa có chính sách nào quy định về trang thiết bị bảo quản mà chỉ mới dừng lại ở các văn bản mang tính chất hướng dẫn nghiệp vụ, đó là những biểu mẫu báo cáo thống kê định kỳ hàng năm về hoạt động lưu trữ tài liệu, hiện vật, mẫu số nhập tài liệu, các tiêu chuẩn ngành như: tiêu chuẩn Sổ đăng ký mục lục hồ sơ, cặp đựng tài liệu, giá bảo quản tài liệu lưu trữ, bìa hồ sơ, hộp bảo quản tài liệu . 88 - Xây dựng định mức lao động, định mức kinh tế kỹ thuật trong bảo quản tài liệu, hiện vật. Chỉ có xây dựng được các định mức này chúng ta mới có cơ sở sắp xếp những người làm làm công tác bảo tồn tài liệu, hiện vật đúng với năng lực, trình độ chuyên môn vào từng khâu công việc, tiết kiệm kinh phí mà vẫn nâng cao hiệu quả công việc của công chức, viên chức làm công tác bảo quản tài liệu, hiện vật. Trong những năm qua đã có một số định mức được ban hành như: định mức đơn giá chụp microfilm cho bảo hiểm tài liệu lưu trữ, định mức kinh tế - kỹ thuật “vệ sinh tài liệu lưu trữ nền giấy” và “vệ sinh kho bảo quản tài liệu, hiện vật” những định mức này ra đời là cơ sở để các cơ quan thực hiện các biện pháp nghiệp vụ một cách khoa học và hợp lý. Nhưng còn thiếu rất nhiều định mức mà Nhà nước chưa ban hành như: về tu bổ, phục chế; định mức về lập phông bảo hiểm cho tài liệu hiện vật Những định mức này cần có chính sách quy định để làm cơ sở cho phân phối, bố trí, sắp xếp nguồn nhân lực làm công tác bảo tồn tài liệu, hiện vật phù hợp với trình độ chuyên môn, đồng thời nâng cao hiệu quả lao động trong từng khâu công việc; quy định rõ về chế tài xử phạt đối với công tác bảo tồn tài liệu, hiện vật theo những mức độ cụ thể của những việc làm trái với quy định của Nhà nước. - Xây dựng danh mục tài liệu hạn chế sử dụng và công bố những tài liệu đã giải mật để cho công chúng biết những tài liệu đó có thể khai thác, sử dụng được trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Quy định về tiêu chuẩn xác định tài liệu, hiện vật quý hiếm thuộc diện hạn chế khai thác sử dụng. Hiện nay việc xác định tính chất quý hiếm của tài liệu, hiện vật còn hạn chế theo ý kiến chủ quan của người quản lý. Nhiều nhà quản lý vẫn giữ quan niệm rằng những tài liệu nào có số lượng ít thì là quý hiếm, dẫn đến việc xác định tính chất quý hiếm của tài liệu là không thống nhất [8, tr95]. - Cụ thể hóa các quy định về công tác thi đua khen thưởng trong lĩnh vực bảo vệ, tôn tạo và phát huy các giá trị tài liệu, hiện vật trong Bảo tàng. 89 Đối với các cá nhân có thành tích trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị tài liệu, hiện vật cũng như việc phát hiện di vật, cổ vật, bảo vật mà kịp thời thông báo và tự nguyện giao nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì tùy theo giá trị được xét tặng, truy tặng giấy khen, bằng khen hoặc các hình thức khen thưởng khác theo quy định của pháp luật hiện hành, trong đó cũng cần quy định mức tiền thưởng với từng loại hình. - Quy định cụ thể trong việc ban hành cơ chế phù hợp khuyến khích xã hội hóa công tác khai thác sử dụng tài liệu, hiện vật. - Ngoài ra, để duy trì và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong các hoạt động văn hóa nói chung và bảo vệ phát huy di sản văn hóa nói riêng, đồng thời tạo những cơ sở pháp lý cho việc thúc đẩy quá trình xã hội hóa các hoạt động này cần đẩy mạnh việc đưa Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ hợp thứ 5 vào đời sống. Để làm tốt việc này, ngành tuyên giáo, tư pháp, văn hóa và thông tin các cấp cần phối hợp tổ chức nhiều đợt tập huấn phổ biến, tuyên truyền nội dung Luật Di sản văn hóa. Tích cực tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm cho quy định luật pháp nói chung và Luật Di sản văn hóa nói riêng thẩm sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội, đến với từng người dân ở các vùng miền, vùng sâu xa. 3.2.2. Tăng cường đầu tư tài chính cho hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật - Thực hiện chính sách xã hội hóa, huy động toàn bộ các nguồn lực của xã hội vào bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Trong công ước quốc tế bảo vệ đa dạng văn hóa năm 2003, UNESCO đã khẳng định vai trò quan trọng của cộng đồng trong việc bảo tồn di sản văn hóa và cho rằng “không có văn hóa nếu không có người dân và cộng đồng”. Đồng thời, UNESCO cũng đánh giá cao sự tham gia tích cực và những hiểu biết sâu sắc về các giá trị văn hóa truyền thống trong việc thực hành và truyền dạy, coi đó 90 là nguồn lực quan tọng nhất có tính chất quyết định trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Thực tế cho thấy cả những nước phát triển có tiềm lực kinh tế rất lớn cũng không bao giờ có đủ kinh phí nguồn lực để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa. Chính vì vậy việc ban hành và thực hiện chính sách xã hội hóa - huy động toàn xã hội bổ sung thêm nguồn lực cho nhà nước, bao gồm nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực. Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa vừa giúp Nhà nước giảm bớt gánh nặng tài chính, khai thác được tiềm lực tài chính, khai thác được tiềm lực của toàn xã hội vừa tạo điều kiện để nhà nước đầu tư vào các công trình, dự án bảo tồn di sản trọng điểm. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và tầng lớp nhân dân trong xã hội về chính sách xã hội hóa. Chính sách xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của nước ta nói chung và bảo tồn di sản văn hóa đói với tài liệu, hiện vật trong Bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng là nhằm động viên sức người, sức của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, đồng thời đòi hỏi các cơ quan chủ quản về di sản văn hóa phải làm tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ. Thực tiễn cho thấy, xã hội hóa không đồng nghĩa với tư nhân hóa tự do hóa mọi hoạt động. Trong quá trình này cơ quan chủ quản phải giữ vai trò quan trọng, đó là vai trò quản lý và hướng dẫn theo đúng định hướng và chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong đó các tổ chức, cá nhân được tham gia nhưng phải tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan. Để thực hiện xã hội hóa hoạt động bảo tàng nói chung, bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng, vấn đề đầu tiên cần quan tâm đó là việc công bố quy hoạch xây dựng thiết chế bảo tàng. Bởi các bảo tàng công lập hiện cũng đã bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng cường sưu tầm hiện vật với khả năng bảo quản, trưng bày hiện vật, nói cách khác bảo tàng cũng đã phải “mặc chiếc 91 áo chật chội”. Khi bảo tàng Nhà nước trong tình trạng ngày càng quá tải, liệu có còn giữ mãi được vai trò “nơi tập hợp”, “chỗ dựa” đối với các nhà sưu tập tư nhân, các tổ chức xã hội nữa hay không [9, tr84]. Giải pháp tiếp theo tác giả đề xuất là chuyển các bảo tàng công lập hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ, có đầy đủ quyền tự chủ về tổ chức và quản lý theo tinh thần Nghị quyết 05/2005/NQ-CP. Các bảo tàng công lập nói chung, Bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng thời gian qua tuy đã thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP “Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”, nhưng vẫn chưa thực sự tự chủ về mọi mặt, đặc biệt là về tài chính. Về cơ chế tự chủ, tác giả cho rằng Việt Nam có thể tham khảo kiểu cơ chế quản lý đối với bảo tàng công lập qua các nhà quản lý bảo tàng ở Cộng hòa Pháp. Nhà nước cấp ngân sách hoạt động cho các bảo tàng thông qua từng hợp đồng giữa Nhà nước với bảo tàng. Hàng năm bảo tàng lập kế hoạch gồm có bao nhiêu chương trình hoạt động. Khi các chương trình hoạt động ấy được chấp nhận thì bảo tàng sẽ lập dự án cho từng loại việc, nhà nước sẽ xem xét từng dự án, ký hợp đồng để bảo tàng thực hiện. Chi phí thực hiện dự án bao gồm cả chi phí nhân công (tiền lương, tiền công), điện, văn phòng phẩm, thông tin liên lạc, chi phí quản lý. Như vậy Nhà nước không bao cấp bất kỳ một khoản nào, nhà nước cũng có thể không cấp đầy đủ tiền khi nghiệm thu dự án không đạt yêu cầu. Nhà nước cũng có thể yêu cầu đơn vị công lập thực hiện một công việc nào đó ngoài kế hoạch của bảo tàng, cũng với phương thức ký hợp đồng. Tất nhiên các nguồn thu được từ thực hiện các dự án thì Giám đốc bảo tàng hoàn toàn có quyền tự chủ, chi theo luật định. Tác giả cho rằng, đây là cơ chế quản lý mà các bảo tàng công lập nói chung, Bảo tàng Hồ Chí Minh có thể tham khảo để thử nghiệm mô hình “Bảo tàng công lập theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ, có đầy đủ quyền tự chủ về tổ chức và quản lý”. Vấn đề thu phí ở các bảo tàng công lập nói chung, Bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng cũng cần nghiên cứu thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 05/2006/NQ-CP: “Đổi mới chế độ thu phí đi đôi với việc thực hiện tốt chính 92 sách ưu đãi các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo. Mức phí quy định theo nguyên tắc đủ trang trải các chi phí cần thiết, có tích luỹ để đầu tư phát triển và xoá bỏ mọi khoản thu khác”. Tác giả cho rằng, để đẩy mạnh xã hội hóa, cần thay đổi từ tư duy đến cơ chế để đơn vị dịch vụ công lập hoàn toàn có thể chủ động hợp tác, liên doanh với các cá nhân, tổ chức ngoài công lập nhằm làm phong phú hoạt động dịch vụ của đơn vị, miễn sự hợp tác ấy không làm lệch định hướng hoạt động của đơn vị, không làm thiệt hại cho nhà nước về nguồn thu. Ví dụ, ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh được xây mới, có bố trí một phòng tổ chức trò chơi cho thanh, thiếu niên liên hoàn trong chuỗi phòng trưng bày. Năm 2010, một công ty của Nhật Bản tài trợ để trang bị nơi đây trở thành “Phòng khám phá” nhằm giáo dục thanh - thiếu niên về chủ đề chiến tranh và hòa bình, thiết nghĩ đây là một mô hình tốt có thể tham khảo vận dụng. Tích cực tuyên truyền để nhân dân ngày càng được nâng cao nhận thức về xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, hiểu được ý nghĩa của việc Nhà nước và nhân dân cùng làm và đó là làm cho mình. Tránh tính trạng nhận thức sai lệch làm nảy sinh tư tưởng thụ động coi xã hội hóa là huy động vốn đóng góp của dân, làm giảm trách nhiệm và kinh phí của nhà nước cho hoạt động bảo tồn di sản văn hoa. Tránh tư tưởng cho rằng xã hội hóa là quá trình nhà nước khoản trắng cho xã hội, cho tư nhân hóa, thiếu vai trò của nhà nước. Nhà nước không nên làm thay cộng đồng và cũng không nên khoán trắng cho cộng đồng. Muốn phát huy vai trò của cộng đồng nhà nước cần tăng cường đầu tư và luôn có biện pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về di sản văn hóa để hướng cộng đồng vào những mục tiêu chiến lược đã đặt ra trong những giai đoạn phát triển, chỉ đạo và tạo dựng hành lang pháp lý cho những hành động này. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của người dân trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Giáo dục để nâng cao ý thức tự 93 giác của người dân, khơi dậy ở họ lòng tự hào đối với di sản văn hóa, là công việc có ý nghĩa quan trọng để hướng dẫn người dân chủ động tìm tòi, sưu tầm và bảo tồn các loại hình di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vât. Cần làm rõ và gắn lợi ích của người dân khi tham gia vào các hoạt động bảo tồn tài liệu, hiện vật. Chính sách xã hội hóa cần gắn liền với công tác khen thưởng những tổ chức, cá nhân tham gia tích cực, có hiệu quả trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật trong các bảo tàng. - Ngân sách nhà nước cũng cần hỗ trợ kinh phí kích cầu cho việc bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật gặp khó khăn trong việc xã hội hóa, Thời gian tới ngân sách nhà nước dành cho công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cần được duy trì và gia tăng để tránh tình trạng các di sản này bị xuống cấp. Hoạt động bảo tàng là một loại hình dịch vụ văn hóa phi lợi nhuận. Nhưng mỗi cơ sở hoạt động bảo tàng dù là công lập hay ngoài công lập đều phải tồn tại và phát triển dựa vào những nguồn thu nhất định. Bảo tàng tư nhân chỉ có thể ra đời khi chủ sở hữu an tâm về nguồn thu để nuôi lại hoạt động bảo tàng. Các bảo tàng công lập cần được thay đổi cơ chế quản lý để các bảo tàng hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ theo tinh thần Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP. Khi cả bảo tàng công lập và ngoài công lập cùng song hành hoạt động sẽ góp phần tích cực nâng cao đời sống văn hóa, góp phần đa dạng sản phẩm du lịch cũng chính là con đường xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật Đội ngũ công chức, viên chức có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của hoạt động công vụ. Phần lớn các thất bại của công việc là do những người tham gia vào công việc đã hoặc không có đủ năng lực hoặc không có động cơ làm việc tốt. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức làm công tác quản lý nhà nước và cán bộ khoa học chuyên 94 môn hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý cũng như thực hiện các công việc chuyên môn về tu bổ, tôn tạo và phát huy các giá trị tài liệu, hiện vật. Bảo tồn và phát huy giá trị tài liệu, hiện vật trong bảo tàng là một hoạt động không chỉ mang tính hành chính đơn thuần, tự thân nó là một hoạt động chuyên sâu. Những công việc như nghiên cứu để hiểu các di sản, giám định di vật, cổ vật, nghiên cứu đề xuất các biện pháp bảo quản, tu bổ, phục hồi di sản một cách khoa học, bảo đảm sự toàn vẹn và tính nguyên gốc của tài liệu, hiện vật đòi hỏi phải có những người am hiểu chuyên môn, có kinh nghiệm nghề nghiệp. Do đó, phát triển sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị tài liệu, hiện vật luôn đi kèm với sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực. - Xây dựng chiến lược lâu dài về đào tạo đội ngũ chuyên sâu trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Trên thế giới các nước đều có những chuyên gia rất giỏi về công tác bảo quản tài liệu, hiện vật bởi những người làm công tác này ngoài lĩnh vực chuyên môn công chức, viên chức cần phải có kiến thức tổng hợp về nhiều lĩnh vực và cũng phải biết tiếp cận, sử dụng thành thạo các trang thiết bị hiện đại, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong công tác bảo quản và khai thác sử dụng tài liệu, hiện vật. - Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, xây dựng giáo trình riêng về công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Theo chương trình đào tạo của nước ta hiện nay (ta chủ yếu đào tạo cử nhân bảo tàng, còn đa số chương trình của nước ngoài là đào tạo sau đại học và đào tạo cấp chứng chỉ), hoặc nếu có đào tạo bậc đại học thì họ đào tạo rất chuyên sâu. Vì vậy, chúng ta cần tham khảo tài liệu về chương trình đào tạo bảo quản ở nước ngoài, khảo sát thực tế bảo tàng Việt Nam để xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo bảo quản tài liệu hiện vật cho cán bộ bảo tàng và di tích ở Việt Nam cho phù hợp cả ở hai hình thức, đào tạo cho sinh viên và đào tạo nâng cao cho cán bộ đã qua công tác bảo tàng, di tích. Giáo trình cho sinh 95 viên phải được cập nhập những thông tin tư liệu mới của các nước tiên tiến trên thế giới và trong khu vực. Tăng cường thời gian giảng dạy và nội dung giảng dạy. Cần có lý thuyết sâu hơn và cùng với thực hành như: tổ chức triển lãm tài liệu, hiện vật, phục chế tài liệu, hiện vật . Lĩnh vực bảo tồn tài liệu, hiện vật trong bảo tàng là lĩnh vực có tính liên ngành, vừa mang yếu tố của lịch sử, văn hóa, khảo cổ học, vừa liên quan đến kiến trúc, xây dựng Vì vậy hình thức đào tạo cho các đối tượng này cần nhiều kiến thức của các ngành khoa học và nghệ thuật khác nhau. Trong khâu đào tạo, bồi dưỡng phải hướng đến các yêu cầu đảm bảo cho nhân sự bao gồm: + Về kiến thức: Có kiến thức cơ bản về khoa học xã hội, nhân văn và nghệ thuật đáp ứng việc tiếp thu các kiến thức giáo dục chuyên nghiệp và khả năng học tập ở trình độ cao hơn; có trình độ lý luận về bảo tồn, bảo tàng; có kiến thức tổng quát về bảo tồn phát huy giá trị tài liệu, hiện vật. + Về kỹ năng: Kỹ năng chuyên môn như: kỹ năng thực hiện việc kiểm kê và lập hồ sơ xếp hạng di tích; kỹ năng thực hiện các khâu nghiệp vụ bảo tàng (nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày và tuyên truyền); kỹ năng lập và điều hành các dự án bảo tồn và phát huy di sản tài liệu, hiện vật; kỹ năng xây dựng, tổ chức, điều hành và quản lý các di sản văn hóa. Kỹ năng bổ trợ như kỹ năng giao tiếp xã hội và làm việc nhóm, khả năng tự học và làm việc độc lập, sử dụng thành thạo phần mềm tin học văn phòng và phần mềm ứng dụng trong chuyên ngành... Nâng cao năng lực là một việc làm cần thiết thực hiện trước mắt để có thể đáp ứng được các yêu cầu quản lý tài liệu, hiện vật hiện nay. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cần được coi là ưu tiên nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài liệu, hiện vật. Việc nâng cao năng lực sẽ bao gồm: các khóa đào tạo về quản lý hành chính; các khóa đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý tài liệu hiện vật cũng như kiến thức pháp luật. Nhiệm vụ này có thể triển khai thông qua một số biện pháp sau: - Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng về di sản văn hóa, tổ chức các buổi triển lãm tài liệu, hiện vật trong Bảo tàng. Đối tượng theo học phải là 96 những cán bộ, công chức trực tiếp quản lý, theo dõi các tài liệu, hiện vật này. Hình thức học bồi dưỡng ngắn hạn phải mang tính bắt buộc kết hợp nguồn kinh phí đào tạo của Nhà nước; - Bằng nhiều hình thức thực hiện phổ biến tuyên truyền rộng rãi chủ trương về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật và định hướng quản lý nguồn nội lực đó một cách có hiệu lực, hiệu quả. Các chương trình đào tạo này cần được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu đánh giá nhu cầu của học viên, tập trung vào một số lĩnh vực mà cán bộ các kho lưu trữ của Bảo tàng còn thiếu hụt. Ngoài ra, việc trao đổi, gửi cán bộ tham gia các khóa đào tạo của các tổ chức, viện nghiên cứu có liên quan cũng cần được tăng cường. Do đó, trước mắt có thể ưu tiên tổ chức các lớp bồi dưỡng hoặc các khóa học ngắn hạn, tập trung vào từng nội dung chủ đề cụ thể nhằm kịp thời hỗ trợ cho các cán bộ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động. Kiến thức về pháp luật cũng là một khía cạnh của nội dung đào tạo mà các cán bộ làm công tác quản lý di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật cần phải bổ sung đặc biệt là kiến thức pháp luật về quản lý di sản, quản lý môi trường, quản lý các hoạt động xây dựng đấu thầu. - Nhà nước cần xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh chuyên ngành cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật, khuyến khích và đẩy mạnh phong trào học ngoại ngữ cho công chức, viên chức của Bảo tàng Hồ Chí Minh để qua đó họ có thể tiếp cận ngoại ngữ để phục vụ cho việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến về nghiệp vụ chuyên môn của mình. Việc đào tạo nguồn nhân lực trong công tác quản lý nhà nước đối với các di sản văn hóa tài liệu, hiện vật cũng cần phải gắn liền với việc đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật cao, sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, được thiết lập trên cơ sở nguồn nhân lực sẵn có tại các Bảo tàng. Giai đoạn đầu cần tập trung đào tạo một số nhân viên chuyên trách có 97 đủ kiến thức tổng hợp về di sản để phụ trách hệ thống như xây dựng dữ liệu, mô hình, phân tích và biểu thị. Tổ chức các khóa đào tạo cơ bản và nâng cao đối với nhóm như nhóm chuyên gia, nhóm kỹ thuật viên. - Đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên gia, thợ lành nghề có trình độ chuyên môn cao, đảm bảo cả số lượng và chất lượng đủ đáp ứng yêu cầu quản lý và thực thi nghiệp vụ bảo quản, tu bổ, tôn tạo đối với di sản văn hóa tài liệu, hiện vật, đủ năng lực để nghiên cứu, lập hồ sơ lưu trữ và hoạt động bảo tồn phát huy giá trị của tài liệu, hiện vật là một vấn đề quan trọng cho tương lai. - Xây dựng chính sách đãi ngộ đối với những người làm công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật trong như: Phụ cấp đặc thù cho những người làm công tác này, mở rộng đối tượng được hưởng phụ cấp, nâng hệ số phụ cấp, tăng lương, khen thưởng, khuyến khích và động viên kịp thời Chỉ khi chính sách đãi ngộ của nhà nước hợp lý thì công chức, viên chức mới tâm huyết với nghề hơn, an tâm công tác, phấn đấu vươn lên để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Bởi tính chất công việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật trong các bảo tàng đòi hỏi công chức, viên chức phải cần cù, chịu khó và âm thầm để đảm bảo yêu cầu và kỹ thuật chuyên môn. Trong lao động họ phải trực tiếp tiếp xúc với bụi bẩn, nấm mốc .. trong các kho bảo quản ảnh hưởng đến sức khỏe của người công chức, viên chức từ đó nảy sinh ý định chuyển công tác là không ngoại trừ. - Nghiên cứu, xây dựng chính sách quy định về hệ số tiền lương của những người trực tiếp làm công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật trong kho lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng các bảo tàng nói chung để ngang bằng với ngành nghề khác. 3.2.4. Hoàn thiện chính sách tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật Nhà nước ta cần có chính sách và biện pháp đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc bảo vệ và phát huy giá 98 trị di sản văn hóa trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; góp phần phát huy giá trị di sản văn hóa, tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Củng cố tổ chức bộ phận chuyên sâu về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật trong công tác hợp tác quốc tế của Bảo tàng Hồ Chí Minh. Yêu cầu công chức, viên chức làm việc trong bộ phận này phải thông thạo về ngoại ngữ và có trình độ hiểu biết về cuộc đời và con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, nhất là sau khi nước ta gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), xu thế tăng cường giao lưu, hội nhập về văn hóa của nước ta là tất yếu. Cần có chính sách chủ động đón nhận các cơ hội phát triển cũng như vượt qua các thử thách để giữ gìn những di sản văn hóa của dân tộc; tiếp thu những kiến thức kinh nghiệm bảo tồn tài liệu, hiện vật trong Bảo tàng của các nước cùng với những trang thiết bị chuyên dụng hiện đại, ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cấu hóa đối với văn hóa nước ta. Xây dựng quy chế hợp tác quốc tế của bảo tàng Hồ Chí Minh quy định về: Chế độ báo cáo kết quả của đoàn ra, kết quả hoạt động các đoàn vào; tổ chức hội thảo học tập kinh nghiệm nước ngoài khi mỗi đoàn đi trở về hoặc là chế độ thông tin khoa học nghiệp vụ; chính sách đẩy mạnh hợp tác song phương với các nước đặc biệt là những nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc để tìm kiếm, bảo vệ các tài liệu, hiện vật của Người. Hợp tác quốc tế trong việc ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào công tác bảo tồn tài liệu, hiện vật. Bảo tàng cần tăng cường áp dụng các thành quả khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào công tác bảo tồn tài liệu, hiện vật. Xây dựng ngân hàng dữ liệu về hiện vật, ứng dụng tin học vào kiểm kê tài liệu, hiện vật. 99 Là Bảo tàng đầu hệ (Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 156/2005/QĐ-TTg ngày 23-6-2005 về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể của hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020) đã cùng 13 đơn vị trong Hệ thống các Bảo tàng và Di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước không ngừng được củng cố và phát triển, đã phát huy tốt các giá trị di sản Hồ Chí Minh tới nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Bảo tàng Hồ Chí Minh cần giữ vững và làm tròn vai trò hướng dẫn về nghiệp vụ cho các đơn vị trong hệ thống. Cùng với đó, Bảo tàng cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cá nhân và các nhà khoa học ở một số nước như Trung Quốc, Pháp, Thái Lan, Lào, Nga... nghiên cứu, bảo tồn các di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh và sưu tầm các tài liệu, hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người; đồng thời xây dựng quan hệ hợp tác với các cơ quan, tổ chức ở nhiều nước như Trung Quốc, Lào, Pháp, Nga, Hàn Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, Mêhicô, Cuba tổ chức các hội thảo khoa học, triển lãm, đặt tượng... về Hồ Chí Minh. - Chủ động nghiên cứu, đề xuất các đề án, chính sách tôn vinh Bác đối với việc đề cao tư tưởng và hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các địa bàn trên thế giới; từ đó tuyên truyền về đất nước và con người Việt Nam; duy trì tốt việc lưu giữ và bảo vệ những dấu tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc sưu tầm tư liệu, di tích, bảo tồn, tôn tạo và mở rộng, phát triển, làm mới một số khu di tích, tưởng niệm. Xây dựng nội dung cụ thể của Đề án nhằm góp phần làm cho chính quyền, các giới và nhân dân nhiều nước trên thế giới hiểu rõ hơn về tư tưởng, đạo đức, nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh và truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung. Đề cao và phát huy giá trị tư tưởng, đạo đức, nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tăng cường quảng bá hình ảnh, văn hóa, lịch sử, truyền thống và con người Việt Nam trên thế giới qua hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh và góp phần phát triển, làm sâu sắc thêm quan hệ nhiều mặt giữa Việt Nam với nhiều nước trên thế giới. Có chính sách để gắn kết, củng cố và phát triển cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, hướng bà con về quê hương và góp phần sưu tầm, lưu giữ, 100 bảo vệ và phát triển những nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại dấu tích, dưới cả góc độ vật thể và phi vật thể. Thường xuyên tổ chức các cuộc triển lãm một số hình ảnh và hiện vật về các hình thức tôn vinh Bác “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài”. Thông qua hình ảnh “Anh hùng giải phóng dân tộc” Hồ Chí Minh, thế giới sẽ hiểu rõ hơn truyền thống yêu nước và ý chí vì độc lập, tự do, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Thông qua hình ảnh “Người cha của các lực lượng vũ trang Việt Nam,” thế giới hiểu rõ hơn về lịch sử hào hùng dựng nước, giữ nước và nghệ thuật quân sự của nhân dân Việt Nam đây là dịp để khuyến khích và động viên các cơ quan, đoàn thể, cá nhân trong và ngoài nước ủng hộ, giúp đỡ, tài trợ Bảo tàng Hồ Chí Minh trong việc sưu tầm, chuyển giao và trao tặng các tài liệu, ảnh và hiện vật liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và từ đó góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác văn hóa, kinh tế giữa Việt Nam và các nước. 3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật Thanh tra, kiểm tra vừa là công cụ vừa là phương thức tác động hướng đến đích của chủ thể quản lý nhằm xem xét một cách toàn diện các hoạt động quản lý, thanh tra góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước. Để quyết định quản lý Nhà nước được các cơ quan, tổ chức và cá nhân chấp hành một cách chính xác, đầy đủ thì các cơ quan, cá nhân đã ban hành quyết định phải đề ra quy trình thực hiện quyết định. Trong quy trình đó không thể thiếu được hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để đánh giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định quản lý. Thanh tra thực chất góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. 101 Để thực hiện tốt các chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật cần tăng cường hoàn thiện các công cụ quản lý và vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước, nội bộ trong Bảo tàng nhằm hướng tới việc bảo tồn tốt hơn, nâng cao tuổi thọ cho các tài liệu, hiện vật về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xây dựng và hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra và có các chế tài đối với vi phạm trong hoạt động sưu tầm, bảo tồn tài liệu, hiện vật. Đồng thời, kiện toàn các cơ quan chuyên trách thuộc ngành văn hóa, bảo đảm tính độc lập tương đối của các cơ quan này trong hoạt động kiểm tra, giám sát các bảo tàng. Cần bảo đảm kết quả hoạt động thanh tra có chất lượng tốt. Đây là vấn đề cốt lõi trong hoạt động thanh tra. Để làm được điều này, trước hết cần xác định đúng mục đích của hoạt động thanh tra. Tiếp đó, khâu quan trọng nhất cần bảo đảm chất lượng tốt là toàn bộ quá trình tiến hành một cuộc thanh tra theo Đoàn Thanh tra. Đây chính là quá trình hoạt động đưa đến kết quả trực tiếp là các kết luận, kiến nghị. Cần nâng cao hơn nữa nhận thức của xã hội đối với kết quả hoạt động thanh tra. Cụ thể là, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh tra, phân tích rõ vai trò trách nhiệm của cơ quan thanh tra, của thủ trưởng cơ quan và các chủ thể khác có liên quan trong việc tạo ra những kết quả thanh tra tốt, xác định vai trò quyết định của thủ trưởng cơ quan trong việc phát huy kết quả hoạt động thanh tra. Thực hiện triệt để việc công khai, minh bạch các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra theo đúng quy định của pháp luật, tạo dư luận tốt đối với kết quả làm việc của cơ quan thanh tra Bên cạnh việc tăng cường sự giám sát, chỉ đạo chặt chẽ của các cơ quan có liên quan đối với hoạt động sưu tầm, bảo tồn tài liệu, hiện vật trong Bảo tàng Hồ Chí minh cần thiết phải xây dựng cơ chế thưởng phạt rõ ràng. Một nguyên tác cho sự thành công khi thực hiện bất ký công việc nào đó là, phải luôn gắn nghĩa vụ với quyền lợi, trách nhiệm với lợi ích, luôn đảm bảo lợi ích cho người thực hiện thì công việc đó sẽ có khả năng tiến hành tốt và thành 102 công cao. Quy định rõ trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị phải thực hiện sưu tầm, bảo quản tài liệu, hiện vật đạt kết quả ở mức độ nào, nếu đạt được mức độ đó thì phần thưởng tương xứng sẽ là gì, ngược lại nếu không đạt được kết quả đó thì mức phạt và hình thức sẽ là gì? Đề qua đó gắn chặt trách nhiệm với quyền lợi của thủ trưởng cũng như sự quản lý của cơ quan nhà nước đối với công tác sưu tầm, bảo quản tài liệu trong bảo tàng. Thực hiện được các cơ chế đó sẽ có tác dụng tích cực tới việc thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác sưu tầm, bảo quản tài liệu, hiện vật. * Tiểu kết chƣơng 3 Trên cơ sở phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém đã được phân tích ở chương 2, chương 3 của luận văn đã đề ra mục tiêu của việc nâng cao chất lượng công tác thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Từ đó, luận văn đề xuất 05 nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác bảo quản tài liệu, hiện vật tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. 103 KẾT LUẬN Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn thể dân tộc Việt Nam đang ra sức phát huy di sản Hồ Chí Minh, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đưa đất nước phát triển theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc này, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ là địa chỉ tin cậy, là điểm hẹn thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là điểm đến của du khách quốc tế khi về thăm Thủ đô Hà Nội. Bảo tàng Hồ Chí Minh - nơi lưu giữ hàng vạn tài liệu, hiện vật về Người, trong những năm qua Bảo tàng đặc biệt coi trong công tác sưu tầm, bảo quản tài liệu, hiện vật bởi nó không chỉ liên quan đến sự tồn tại của Bảo tàng mà toàn bộ khối tài liệu, hiện vật này thuộc loại hình văn hóa vật thể, là loại tài sản không thể tái sinh và không thể thay thế nhưng rất dễ bị biến dạng do tác động của các yếu tố ngoại cảnh như: khí hậu, thời tiết, thiên tai, sự khai thác không có sự kiểm soát chặt chẽ. Chính vì vậy, việc gìn giữ, bảo quản một khối lượng đồ sộ tài liệu, hiện vật đó để giảm thiểu mức thấp nhất những tác động của môi trường, của thời gian là vấn đề đặt ra đối với Bảo tàng Hồ Chí Minh. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, tác giả đã tập trung giải quyết ba nội dung chính như sau: - Khái quát hóa những vấn đề lý luận và chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Trong đó, tác giả đi sâu làm rõ những vấn đề cơ bản về chính sách, di sản văn hóa, tài liệu, hiện vật và chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. - Trên cơ sở hệ thống lý luận, tác giả phân tích thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh từ đó rút ra những đánh giá cơ bản về kết quả đã đạt được, những tồn tại 104 hạn chế và nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trong thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng. - Từ những đánh giá trên, luận văn nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đối với công tác bảo quản tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người là di sản văn hóa to lớn của thời đại, là hành trang và điểm tựa để dân tộc ta vững bước trên con đường phát triển. Là nơi nghiên cứu, lưu giữ và phát huy những giá trị vô giá đó, các thế hệ công chức, viên chức và người lao động của Bảo tàng đã, đang và sẽ phấn đấu để Bảo tàng mãi là trường học lớn, là nhịp cầu văn hóa nối quá khứ với hiện tại, là điểm đến của đồng bào, đồng chí và bè bạn quốc tế. 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá, Huế. 2. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Báo cáo Tổng kết năm. 3. Cục Bảo tồn bảo tàng, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (1996), 50 năm bảo tồn văn hóa dân tộc. 4. Cục Bảo tồn bảo tàng (2015), Báo cáo kết quả hoạt động của Bảo tàng Hồ Chí Minh kỷ niệm 45 năm ngày thành lập. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị trình tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Nguyễn Hữu Hải (2014), Chính sách công những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Phạm Mai Hùng (2003), Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa thể thao, Hà Nội. 9. Phan Khanh (1998), Bảo tàng và sự đổi mới bảo tàng (Đổi mới các hoạt động bảo tàng, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Hà Nội. 10. Luật di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. 11. Luật lưu trữ số 01/2011/QH13, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 11 tháng 11 năm 2011. 12. Lê Chi Mai (2001), Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 13. Nghị định 76/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 7 năm 2013. 106 14. Nghị định số 98/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, Chính phủ ban hành ngày 21 tháng 9 năm 2010. 15. Nicolas Wanery, Làm thức dậy những trang sách cổ - ngày24 tháng9 năm 2007. 16. Vương Hoằng Quân (1999), Cơ sở Bảo tàng học Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 17. Quyết định số 70/2006/QĐ-BVHTT về việc ban hành Quy chế kiểm kê, bảo tồn hiện vật bảo tàng, Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2006. 18. Quyết định số 437/QĐ-BVHTTDL quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành ngày 03 tháng 3 năm 2014. 19. Thủ tướng Chính phủ (1993), Quyết định số 25-TTg về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa nghệ thuật. 20. Thủ tướng Chính Phủ (2005), Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020. 21. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1211/QĐ-Ttg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2015. 22. Lưu Trần Tiêu (2007), Con đường tiếp cận di sản văn hóa, Tạp chí Khoa học xã hội. 23. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 24. Từ điển Tiếng Anh (Oxford English Dictionary) (1989), Nxb Đại học Oxford, Anh. 25. UNESCO (2003), “Công ước bảo vệ di sản văn hóa”, Thông báo khoa học Viện Văn hóa - Thông tin. 26. UNESCO (2004), “Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể”, Thông báo khoa học Viện Văn hóa - Thông tin. 27. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 107 28. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Hà nội. 29. Nguyễn Thị Nữ Y (2011), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Luận văn thạc sỹ Văn hóa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 30. Michael Hill: The Policy Process in the Mordern State, Third Edition, Prentice, 1977, p7. 31. Michael Howlett and M. Ramesh: Studying Public Policy: Policy Cycles and Policy Subsystems, Oxford University Press, 1995, p4. 32. Michael Howlett and M. Ramesh: Studying Public Policy: Policy Cycles and Policy Subsystems, Ibid, p5.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_bao_ton_di_san_van_hoa_doi_voi_tai_lieu_hien_vat_o.pdf
Luận văn liên quan