Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển 
kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Thực tiễn đời sống đã chứng minh, bất bình đẳng 
giới không chỉ hạn chế sự phát triển của phụ nữ mà còn cản trở tiến trình phát triển của 
mỗi quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chỉ ra bất bình đẳng giới, sự áp bức của giới này đối 
với giới kia diễn ra trong xã hội loài người là do nhiều yếu tố thuộc về chính trị, kinh tế, 
văn hóa, xã hội và nhận thức quy định.
Ở nước ta hiện nay, vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội được nâng 
lên so với trước. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và Nhà nước ta luôn coi trọng 
việc thực hiện bình đẳng giới, đánh giá cao vai trò, vị trí của phụ nữ trong quá trình dựng 
nước và giữ nước, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật như: Hiến pháp, 
Luật Hôn nhân gia đình, Luật Lao động, Luật Bình đẳng giới đó là những cơ sở quan 
trọng để thúc đẩy bình đẳng giới ở nước ta.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
106 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3945 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 triển giáo dục, nâng cao trình độ học vấn, kiến thức xã hội, kiến thức khoa 
học kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp, kiến thức về quản lý kinh tế, 
kinh doanh trong nông nghiệp, những kinh nghiệm và kỹ năng làm ăn, phổ biến những 
thông tin kinh tế thông qua các hình thức, phương pháp tổ chức sinh động, phù hợp với 
từng nhóm đối tượng sẽ giúp cho phụ nữ nông thôn tiếp cận với tri thức hiện đại của nền 
sản xuất nông nghiệp tiên tiến. 
- Có chương trình dạy nghề và đầu tư phát triển các hình thức, các cơ sở dạy nghề 
ở nông thôn cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh ở từng nơi từng lúc, phù hợp với 
điều kiện, hoàn cảnh của lao động nữ giúp họ có điều kiện học tập, nâng cao tay nghề. Do 
đặc thù của phụ nữ nông thôn Bình Phước, nhất là nữ vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa 
điều kiện kinh tế khó khăn nên rất ít quan tâm đếm sức khỏe của chính bản thân mình, do 
vậy tỉnh cần có chương trình chăm lo cho sức khỏe cho người dân nông thôn nói chung 
và lao động nữ nông thôn nói riêng như chương trình khám chữa bệnh, nước sạch, vệ 
sinh môi trường. 
 - Đồng thời, thực hiện chương trình gắn kết giữa chiến lược phát triển việc làm với 
chiến lược phát triển dân số, như: đẩy mạnh hơn nữa chương trình dân số; đẩy mạnh 
tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình; tăng cường công tác chỉ 
đạo, lãnh đạo chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình; huy động mạnh mẽ các ngành 
chức năng tham gia, tích cực vận động nhân dân thực hiện tốt chương trình dân số - kế 
hoạch hóa gia đình, coi mục tiêu dân số là một trong những mục tiêu phát triển kinh tế - 
xã hội; triển khai tốt chiến lược dân số đến năm 2010 của tỉnh, định hướng những năm 
tiếp theo giảm tỉ lệ sinh. Phấn đấu đạt mức sinh thay thế chậm nhất là năm 2015; Kết hợp 
các chính sách xã hội với chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình như: Xóa đói giảm 
nghèo, giải quyết việc làm. 
3.1.3. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm là trách nhiệm chung 
của toàn xã hội và của cả hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh 
 Quán triệt quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phụ nữ thể hiện 
trong nghị quyết 11 ngày 27/4/2007, cho rằng: “Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của 
phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, 
nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, 
văn hoá, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng 
Việt Nam trong thời kỳ mới” và “trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp còn 
thấp, phụ nữ bị hạn chế hơn nam giới về cơ hội có việc làm và thu nhập”, “công tác 
phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình” [3, 
tr.3]. Do vậy, thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn phải là 
nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn xã hội và cả hệ thống chính trị tỉnh Bình 
Phước. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp, phải có sự phối hợp chặt 
chẽ, cộng đồng trách nhiệm cao của cả xã hội. 
 Lực lượng lao động nữ ở nông thôn tỉnh chiếm tỷ lệ cao, nhưng chưa được hưởng 
sự bình đẳng trong lao động và việc làm với nam giới, việc phát huy khả năng, tiềm lực 
của lực lượng này có ý nghĩa hết sức quan trọng đến sự phát triển của nông thôn Bình 
Phước. Do vậy, thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh 
phải hướng việc xây dựng, thực hiện các chính sách ở nông thôn vào việc giải phóng thực 
sự cho người phụ nữ, huy động tối đa và hiệu quả, phù hợp với sự tham gia của nguồn 
lực này. Như vậy, trước hết đòi hỏi phải có sự lãnh đạo toàn diện của tỉnh Đảng bộ về 
chủ trương phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, trong đó lồng ghép được mục tiêu về giới 
trong lao động và việc làm, tạo cơ hội về mặt quan điểm, chủ trương cho phụ nữ nông 
thôn được tham gia một cách tích cực trong các hoạt động sản xuất và hưởng thụ một 
cách công bằng với nam giới. 
Chính quyền các cấp trong tỉnh cụ thể hóa các chủ trương của tỉnh Đảng bộ, xây 
dựng và ban hành những chính sách sát hợp, nhất quán với chủ trương chung, tạo hành 
lang pháp lý và tạo các điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện bình đẳng giới trong lao 
động và việc làm ở nông thôn. Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ các cấp trong tỉnh phải trên 
cơ sở mục tiêu chung, xây dựng chương trình hành động cụ thể về vấn đề lao động, việc 
làm nhằm đạt tới mục tiêu tiến bộ cho phụ nữ nông thôn. Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp 
trong tỉnh cần chủ động, tích cực trong việc tham mưu cho các cấp ủy Đảng, phối hợp 
chặt chẽ với chính quyền các cấp trong việc tạo những điều kiện tốt nhất, cơ hội nhiều 
nhất cho mục tiêu bình đẳng giới trong lao động và việc làm trong tỉnh nói chung và ở 
nông thôn trong tỉnh nói riêng. 
Ngoài ra, cũng cần có sự quan tâm, tạo điều kiện của toàn xã hội, nhất là các chủ 
sử dụng lao động và sự nỗ lực phấn đấu vươn lên về mọi mặt của lao động nữ. Có như 
vậy, mới có thể thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh 
trong tương lai không xa. 
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 
3.2.1. Thực hiện tốt luật pháp và chính sách vì sự bình đẳng giới trong lao 
động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước 
Mục đích của hệ thống chính sách, pháp luật, cơ chế là tạo ra điều kiện tốt nhất, 
môi trường tốt nhất cho việc mở rộng cơ hội phấn đấu của lao động nữ. Hệ thống luật 
pháp, chính sách về bình đẳng giới sẽ xác định khả năng tiếp cận nguồn lực của nam giới 
và phụ nữ, cơ hội và quyền lực của họ. Chính vì vậy, yếu tố thiết yếu trong việc nâng cao 
bình đẳng giới là phải tạo lập và thực hiện một môi trường bình đẳng cho phụ nữ và nam 
giới. 
Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản nhằm đảm bảo quyền bình đẳng 
cho cả nam và nữ, trong đó gần đây nhất là luật Bình đẳng giới yêu cầu phải: 
Quy định tỷ lệ nam nữ được tuyển dụng; 
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ; 
Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn cho lao động nữ 
làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các 
chất độc hại [36, tr.5] 
Tuy nhiên, các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và bản thân người 
lao động tỉnh Bình Phước trong quá trình thực hiện bình đẳng giới trong lao động, việc 
làm còn nhiều hạn chế. Muốn nâng cao hiệu quả thực hiện hệ thống luật pháp, chính sách 
về bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh 
Bình Phước nói riêng, Đảng bộ, Chính quyền và các Tổ chức đoàn thể trong tỉnh cần thực 
hiện tốt những vấn đề sau: 
Trên cơ sở luật Bình đẳng giới, Hội Liên hiệp phụ nữ, Liên đoàn lao động, Ban Vì 
sự tiến bộ phụ nữ tỉnh tham mưu cho Ban thường vụ Tỉnh ủy tạo điều kiện về vốn, chủ 
trương giúp Sở Lao động thương binh - Xã hội cùng các Trung tâm dạy nghề của tỉnh mở 
rộng, đa dạng hóa các hình thức dạy nghề, trong đó chú ý chính sách cụ thể về đào tạo, 
đào tạo lại, đào tạo nghề dự phòng, dạy nghề và di chuyển nghề cho lao động nữ phù hợp 
với cơ cấu nền kinh tế đang chuyển đổi; đồng thời kiến nghị với Đảng, Nhà nước xem xét 
điều chỉnh thời gian nghỉ hưu sớm hơn so với quy định (khoảng 50 tuổi đối với nữ, 55 
tuổi đối với nam) cho công nhân cao su và các ngành nặng nhọc, độc hại khác. 
Tổ chức công đoàn, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp thực hiện kiểm tra, giám sát chặt 
chẽ các chủ sử dụng lao động nhằm đảm bảo trên thực tế quyền được lao động, quyền bình 
đẳng của lao động nữ trên mọi quan hệ lao động: tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, điều 
kiện lao động. Đảng bộ và chính quyền các cấp trong tỉnh cần thực hiện tốt chính sách xã hội 
trợ giúp cho lao động nữ gặp hoàn cảnh éo le, bất trắc hoặc khó khăn đặc biệt, phụ nữ vùng 
sâu, vùng xa, vùng khó khăn, nhất là phụ nữ dân tộc Stiêng, Mnông, Khơme. Trong đó, đặc 
biệt là chính sách tín dụng cho vay với lãi xuất ưu đãi để tạo việc làm hoặc xóa đói giảm nghèo 
cho các hộ nói trên. Liên đoàn lao động tỉnh, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ tham mưu với Tỉnh ủy 
nhằm thể chế hóa một số chính sách về quan hệ lao động có tính đặc thù của lao động nữ (chế 
độ nghỉ sinh, thời gian làm việc linh hoạt, nghề cấm sử dụng lao động nữ…). Khi phát hiện vi 
phạm cần xử lý nghiêm minh. 
Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ, Hội Liên phụ nữ tỉnh có biện pháp tăng cường lãnh đạo, 
chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hơn nữa sự hiểu biết và ý thức trách 
nhiệm vì bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong lao động và việc làm nói riêng, 
trong đó chú ý tuyên truyền khuyến khích nam giới quan tâm chia sẻ việc gia đình với 
phụ nữ. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cần lồng ghép giới trong hoạch định các chính sách và 
hoạch định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các cấp ủy đảng cũng cần phải 
thường xuyên chỉ đạo hoạt động của các cấp Hội phụ nữ, tạo điều kiện để Hội thực hiện 
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. 
Trong quá trình thực hiện, Hội phụ nữ, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp, các chủ 
sử dụng lao động, các cơ quan có liên quan nếu phát hiện những vấn đề bất hợp lý cần có 
kiến nghị để bổ sung, sửa đổi phù hợp, tránh tình trạng cho rằng luật là đúng, là miễn 
bàn, cứ thế mà làm… Cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa các quy định trong chính sách, 
pháp luật với phong tục, tập quán địa phương vì một số nơi còn quan niệm “phép vua 
thua lệ làng”. 
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cần có những biện pháp khuyến khích người chủ sử 
dụng lao động tăng cường tuyển dụng và sử dụng lao động nữ, ví dụ như: có chính sách 
tín dụng với lãi suất ưu đãi, miễn, giảm trong thời gian đầu mới thành lập doanh 
nghiệp… 
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp với các cơ quan hữu quan thường 
xuyên tổ chức các đợt khuyến nông, trong đó có quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia, tạo 
điều kiện để lao động nữ được tiếp cận các dịch vụ khuyến nông để giúp phụ nữ đầu tư 
cho sản xuất có hiệu quả. 
Ngành Y tế cần đầu tư hơn nữa cho các trạm y tế xã về nâng cao trình độ chuyên 
môn cho cán bộ, đầu tư các trang thiết bị, thường xuyên liên kết với các bệnh viện lớn tổ 
chức các đoàn bác sĩ về nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc để khám bệnh miễn 
phí, mở rộng mạng lưới nữ hộ sinh dân tộc. 
3.2.2. Gắn kết giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn với tích cực 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
nhằm khai thác một cách có hiệu quả, hợp lý nguồn lao động nữ trong tỉnh 
Muốn vậy cần thực hiện tốt các cấn đề sau: 
Thứ nhất, phát huy tiềm năng, lợi thế của kinh tế hộ và kinh tế trang trại, tạo cơ 
hội việc làm cho lao động nữ nông thôn. 
Ở Bình Phước, kinh tế hộ và kinh tế trang trại là nguồn lực quan trọng góp phần 
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy về lâu dài, sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ sẽ 
bị giới hạn bởi sự hạn hẹp về thị trường, sự hạn chế trong nhận thức của chủ hộ và những 
khó khăn trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỷ thuật vào sản xuất…Nhưng trước 
mắt, ít nhất trong vòng 10-15 năm tới đây kinh tế hộ vẫn đóng vai trò vô cùng quan trọng 
trong sự phát triển của nông thôn Bình Phước. Kinh tế hộ đã góp phần khai thác nguồn 
lao động dồi dào nông thôn, vì vậy Sở Khoa học - Công nghệ, sở Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn của tỉnh phải có sự hỗ trợ mạnh hơn đối với kinh tế hộ, đầu tư hỗ trợ 
giống mới, kỹ thuật canh tác, đầu tư vốn, tạo điều kiện về vốn vay tín dụng cho nông dân 
đầu tư sản xuất, chú trọng ưu tiên đến đối tượng là phụ nữ và nhất là phụ nữ nghèo. Các 
cơ quan có thẩm quyền như Uỷ ban nhân dân tỉnh, Ngân hàng mạnh dạn giao quyền quản 
lý các dự án vay tín dụng, tín chấp từ các ngân hàng, các chương trình dự án tín dụng phi 
chính phủ cho Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp nhằm giúp phụ nữ vay vốn sản xuất. Sở 
Khoa học - công nghệ, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh cần hỗ trợ giống 
mới, kỹ thuật canh tác, khuyến khích các nông hộ đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật 
và công nghệ vào sản xuất, tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. 
Kỹ thuật và nguồn vốn sẽ giúp cho quá trình đầu tư sản xuất của phụ nữ nông thôn hiệu 
quả hơn, tạo cơ hội việc làm và việc làm có thu nhập cao cho phụ nữ. 
Bên cạnh phát triển kinh tế hộ, phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế trang 
trại trong tỉnh rất cần được quan tâm. Từ năm 1991 trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã 
xuất hiện mô hình kinh tế trang trại, chủ yếu là trồng các loại cây lương thực, thực 
phẩm. Từ những chủ trương, định hướng đúng của Đảng và Nhà nước về kinh tế trang 
trại, sau quá trình phát triển sản xuất, nhiều hộ gia đình đã tích luỹ được vốn và chuyển 
sang trồng các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Đến nay, toàn tỉnh có 4.440 
trang trại với tổng diện tích đất sản xuất 38.835 ha, chủ yếu là trang trại trồng cây lâu 
năm (có 4.242 trang trại). 
Năm 2008 kinh tế trang trại phát triển đã giải quyết việc làm cho 35.507 lao động, 
trong đó có 12.373 lao động nữ, góp phần đáng kể vào việc ổn định đời sống kinh tế cho 
bà con nông dân trong tỉnh. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, các chủ trang trại 
luôn tìm biện pháp cải tiến quản lý đồng thời áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản 
xuất. Đây chính là yếu tố quan trọng tác động mạnh vào quá trình phát triển nông lâm 
nghiệp, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn ở tỉnh. 
Hiện nay, bình quân mỗi trang trại là 8,7 ha. Tuy nhiên, kinh tế trang trại ở Bình 
Phước chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, diện tích đất sản xuất cho kinh tế trang 
trại chiếm 10,6 % so với tổng diện tích của toàn tỉnh, trong khi đó đóng góp GDP hàng 
năm của kinh tế trang trại chỉ có 4% và mức thu nhập bình quân của 1 ha cho sản phẩm 
chỉ đạt 30 triệu đồng/năm. Phát triển nhanh nhưng thiếu bền vững. Với đặc điểm tự nhiên 
khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng phù hợp cho phát triển nhiều loại cây trồng và vật nuôi có 
giá trị kinh tế cao như: Cao su, điều, tiêu, và phát triển chăn nuôi đại gia súc... nên tỉnh 
Bình Phước có nhiều điều kiện để thu hút nhiều nhà đầu tư ở các tỉnh khác đến Bình 
Phước phát triển nhanh kinh tế trang trại. 
Theo kết quả điều tra của sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng vốn đầu tư 
của 4.440 trang trại hiện nay là 2.669 tỷ đồng; bình quân vốn đầu tư cho mỗi trang trại 
chỉ ở mức 600 triệu đồng, trong đó vốn vay chiếm 7,4%; tổng doanh thu của kinh tế trang 
trại năm 2006 là 788,2 tỷ đồng, thu nhập bình quân của một trang trại là 177 triệu 
đồng/năm [39, tr.4]. Người lao động thường xuyên tại trang trại có mức thu nhập bình quân 
chỉ 900 ngàn đồng/tháng và lao động thời vụ có mức thu nhập 1,5 triệu đồng/tháng [39, tr.5]. 
Hiện nay, đất sản xuất bình quân của mỗi trang trại có từ 5 đến 10 ha. Hầu hết, các trang trại 
trong tỉnh chủ yếu trồng cây công nghiệp lâu năm (cao su, điều, tiêu) chiếm tỷ trọng 
khoảng 95%; số còn lại là các trang trại trồng cây ăn trái, trang trại chăn nuôi, trang trại 
trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, trồng cây lâm nghiệp và trang trại kinh doanh 
tổng hợp. 
Hiện các loại hình trang trại này cũng đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng 
tăng số lượng trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm và trang trại chăn nuôi, giảm số 
lượng trang trại trồng cây hàng năm, trang trại trồng cây ăn trái... vì những loại hình này 
hiệu quả thấp và tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn. Kinh tế trang trại ở một số vùng trong 
tỉnh đang gặp không ít khó khăn để phát triển sản xuất liên quan đến đất đai. Phần lớn các 
trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên người dân chưa có điều 
kiện thế chấp vay vốn ngân hàng đầu tư cho sản xuất. Vốn đầu tư của trang trại lớn và 
thời gian cho thu hoạch sản phẩm mất dài ngày nên các trang trại thường thiếu vốn giữa 
chu kỳ sản xuất. Đa số các chủ trang trại đều xuất thân từ nông dân, mức độ am hiểu thị 
trường, nắm bắt khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế... Bên cạnh đó, giá cả nông sản lên 
xuống thất thường, các chủ trang trại thường bị động trong định hướng đầu tư. Do vậy 
tỉnh cần những giải pháp đòn bẩy để kinh tế trang trại phát triển bền vững. Thời gian qua, 
mặc dù kinh tế trang trại trong tỉnh chưa phát huy được hết tiềm năng sẵn có, nhưng cũng 
đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của địa phương (4%/năm), góp phần tích 
cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng và vật nuôi. Bước đầu đã phát huy nội 
lực, khai thác được thêm nguồn vốn trong dân; mở rộng thêm diện tích đất sản xuất, tạo 
việc làm cho lao động nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo... 
Xác định thế mạnh trên của kinh tế trang trại, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Sở Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên – Môi trường Bình Phước cần quan tâm 
thực hiện tốt các giải pháp: Đẩy mạnh việc chỉ đạo giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng 
nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận kinh tế trang trại để các chủ trang trại yên tâm 
đầu tư cho sản xuất và có điều kiện để vay vốn ngân hàng; sớm xây dựng quy hoạch, kế 
hoạch phát triển kinh tế trang trại phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã 
hội, nhất là quy hoạch vùng nguyên liệu chuyên canh, quy hoạch chăn nuôi đại gia súc, nuôi 
trồng thủy sản... Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cần tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ 
tầng như: điện, giao thông, thủy lợi để tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển; đẩy 
mạnh hỗ trợ khoa học - kỹ thuật cho các trang trại, hướng dẫn cho các trang trại áp dụng quy 
trình sản xuất sạch và an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quy định, có như vậy mới nâng cao 
được năng lực canh tranh và tiêu thụ được sản phẩm... Kinh tế trang trại được đầu tư phát 
triển hiệu quả sẽ không chỉ đem lại nguồn lợi cho phát triển kinh tế của tỉnh mà còn góp phần 
quan trọng trong việc tạo việc làm hiệu quả cho lao động trong tỉnh và đương nhiên lực 
lượng lao động nữ nông thôn trong tỉnh cũng sẽ cơ hội tìm kiếm việc làm hơn trước. 
Thứ hai, có chính sách khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ xã hội ở nông 
thôn nhằm hỗ trợ một cách tốt nhất cho lao động nữ nông thôn. 
Phụ nữ nông thôn không thể phân biệt rõ ràng thời gian giữa công việc sản xuất và 
công việc gia đình như phụ nữ ở thành thị, do tính chất lao động đan xen của hai loại 
công việc này. Công việc gia đình ở nông thôn rất vất vả, chiếm nhiều thời gian và công 
sức, nhưng lại do phụ nữ đảm nhận chính, do vậy, việc phát triển các dịch vụ xã hội ở 
nông thôn, các vùng sâu, vùng xa trong tỉnh là rất cần thiết nhằm giảm bớt gánh nặng cho 
họ. 
Kết cấu hạ tầng của Bình Phước tương đối tốt, đến nay đã có 100% đường ô tô 
xuống trung tâm xã, nhưng còn rất nhiều con đường đi từ xã đến các thôn, xóm, ấp, buôn 
làng còn rất khó khăn, cản trở không ít tới sự phát triển mọi mặt ở nông thôn, trong đó có 
việc phát triển hệ thống dịch vụ. Chính vì vậy, cùng với việc tập trung đầu tư cho xây 
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là đường giao thông, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh 
cần có cơ chế hỗ trợ thích hợp về thuế, về vốn vay đầu tư kinh doanh… đối với các cơ sở 
dịch vụ xã hội ở nông thôn, tăng cường xúc tiến thành lập và đưa các trung tâm thương 
mại vào hoạt động có hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện, cơ hội để các huyện trực tiếp 
được tiếp cận với các chương trình dự án trong và ngoài nước trong việc thu hút đầu tư 
xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. 
Một khi nhận được sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp, các ngành về hỗ trợ 
phát triển các dịch vụ xã hội, thực hiện trợ giá cho những vùng có sự chênh lệch giá cả 
hàng hoá tiêu dùng, sẽ dẫn đến bộ mặt nông thôn được thay đổi tốt hơn, văn minh hơn, 
nhân dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội tiến bộ thuận tiện hơn như bếp ga, điện 
thắp sáng, đường giao thông, nguồn nước sinh hoạt....ngoài ra nếu nhận được sự trợ giá 
của tỉnh sẽ giúp giảm chi tiêu trong gia đình, góp phần giảm bớt đời sống khó khăn của 
nhân dân nông thôn và kéo theo là phụ nữ sẽ được hưởng lợi nhừng những dịch vụ này, 
cuộc sống đỡ vất vả, phụ nữ sẽ cơ hội giao lưu, học hỏi, nâng cao hiểu biết…khắc phục 
khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. 
3.2.3. Lồng ghép giới trong các dự án kinh tế xã hội của tỉnh có liên quan đến 
việc làm, việc làm cho người lao động ở nông thôn. Phổ biến kiến thức giới cho đội 
ngũ cán bộ làm công tác quản lý giáo dục và đào tạo, các ngành, các cơ sở sản xuất 
ở nông thôn trong toàn tỉnh 
Phương pháp tiếp cận lồng ghép giới về bản chất liên quan đến công tác quản lý 
nhà nước, trên cơ sở nhận thức rằng nam giới và phụ nữ có những thực tế trải nghiệm, 
nhu cầu và vấn đề ưu tiên khác nhau, cũng như chịu sự tác động khác nhau bởi các chính 
sách. Để có thể đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, các cơ quan 
nhà nước cần xem xét và giải quyết các vấn đề giới. 
Luật Bình đẳng giới có ghi rõ: Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng 
văn bản quy phạm pháp luật là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, bằng 
cách xác định vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để 
giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật điều 
chỉnh. 
Có thể hiểu Lồng ghép giới nghĩa là thay đổi cách thức làm việc của cơ quan nhà 
nước và các tổ chức sao cho những khía cạnh phức tạp và khác biệt có liên quan đến thực 
tế trãi nghiệm, nhu cầu và ưu tiên của nam giới và phụ nữ đều được coi trọng, xem xét và 
giải quyết một cách tự giác ngay từ ban đầu, ở mọi cấp, mọi ngành và mọi giai đoạn của 
chu trình chính sách. 
Thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm là một trong các mục tiêu cụ 
thể của chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2020, nhằm nâng 
cao địa vị và cải thiện đời sống cho phụ nữ góp phần vào sự phát triển của đất nước. 
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông 
nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả bền 
vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu 
khoa học công nghệ tiên tiến. Với đặc điểm của nông thôn Bình Phước, lực lượng lao 
động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động thủ công, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nhất là 
lao động nữ thấp, điều này gây nên tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm. Nếu không 
sớm khắc phục tình trạng trên thì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp 
nông thôn ở Bình Phước sẽ không có được kết quả mong muốn. 
Để phụ nữ Bình Phước nói chung, phụ nữ vùng nông thôn trong tỉnh nói riêng 
có điều kiện phát triển, có việc làm và có thêm thu nhập, có cơ hội bình đẳng với nam 
giới trong lao động, việc làm thì trong các chương trình tạo việc làm, xóa đói giảm 
nghèo của tỉnh trước hết phải quan tâm đến phụ nữ. Thực tế đó đòi hỏi các cơ quan 
như Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Hội phụ nữ, Sở lao động, Thương binh - Xã hội, Liên 
đoàn lao động tỉnh, Sở Tư pháp và cán bộ công chức toàn tỉnh cần quán triệt quan 
điểm giới trong công việc, tiến hành các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bằng cách 
lồng ghép vào các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm làm giảm sự cách biệt 
giới. 
Sở lao động, thương binh và xã hội, Các Trung tâm dịch vụ việc làm, Hội liên hiệp 
phụ nữ tỉnh cần thực hiện tốt hơn các chương trình quốc gia nhằm đảm bảo việc làm, tăng 
thu nhập và giảm nghèo cho phụ nữ như: chương trình xúc tiến việc làm cho lao động nữ, 
chương trình xóa đói giảm nghèo cho phụ nữ nông thôn trong tỉnh, nhất là phụ nữ dân tộc 
thiểu số; chương trình đào tạo, dạy nghề, chuyển giao công nghệ, hướng dẫn phụ nữ làm 
kinh tế gia đình. 
Nâng cao nhận thức về giới trong giáo dục nghề nghiệp và việc làm cũng như 
nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho lao động nữ, giúp họ có nhiều cơ hội kiếm được 
việc làm và việc làm có thu nhập cao, cần thiết phải có những giải pháp tổng thể và sự 
tham gia của các cấp, các ngành, và toàn thể người dân trong tỉnh như đưa chương trình 
giới vào giảng dạy trong các trường học từ cấp phổ thông cho đến trung cấp, cao đẳng, 
đại học…Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ từ cấp tỉnh đến cấp huyện và cơ sở tiếp tục phối 
hợp với cơ quan tư pháp mở các lớp nâng cao nhận thức về giới cho đối tượng là nam 
giới ở các cấp, các ngành, nhất là các lãnh đạo nam. 
Ngoài ra Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp còn phải nâng cao kiến thức về giới 
cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý giáo dục và đào tạo ở các cấp, các cơ sở sản 
xuất trong tỉnh vì đây là tác nhân quan trọng để xóa bỏ những định kiến về khuôn mẫu 
giới và đưa sự bình đẳng giới vào trong các chính sách giáo dục nghề nghiệp và sử dụng 
lao động công bằng và hiệu quả đối với cả lao động nam và lao động nữ. 
3.2.4. Thực hiện tốt công tác giáo dục đào tạo, công tác chăm sóc sức khỏe 
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ nông thôn, đáp ứng yêu cầu sự 
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Bình Phước 
Thứ nhất, đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục phổ thông vùng nông thôn, quan tâm đến 
việc đảm bảo tỷ lệ nữ ở các cấp học, tiếp tục làm tốt công tác bổ túc trình độ văn hóa cho 
phụ nữ nhằm nâng cao trình độ học vấn cho nguồn nhân lực nữ nông thôn. 
Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, năng suất nông nghiệp 
phụ thuộc rất lớn vào trình độ của lực lượng lao động trong khu vực này. Trình độ học 
vấn là cơ sở để người dân nông thôn lĩnh hội kiến thức của chương trình khuyến nông 
một cách thuận lợi hơn, chủ hộ sẽ dễ dàng hơn trong học nghề, nâng cao trình độ chuyên 
môn kỹ thuật để nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhờ đó năng suất lao động nông 
nghiệp tăng lên. 
Phụ nữ chiếm 49% trong lao động nông nghiệp của Bình Phước, vì vậy, quan tâm 
tới việc nâng cao trình độ học vấn cho nguồn nhân lực nữ nông thôn Bình Phước là giải 
pháp có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ tới thành công của quá trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa nông thôn của tỉnh. Trước hết, để khuyến khích trẻ em gái học tập, Bình 
Phước cần quan tâm hơn nữa tới giáo dục ở nông thôn bằng việc tích cực đầu tư xây 
dựng cơ sở trường lớp, trang bị đầy đủ trang thiết bị dạy học. Cùng với các biện pháp 
tuyên truyền vận động các gia đình đối xử bình đẳng giữa con trái và con gái trong việc 
đầu tư cho học tập, nhằm đảm bảo tỷ lệ học sinh gái ở các cấp học phổ thông là việc tăng 
cường mở các lớp bổ túc văn hóa cho người lớn, đối tượng chủ yếu là phụ nữ, với các 
hình thức học tập phù hợp với sự tham gia của chị em, ví dụ: có thể học vào ban đêm, 
tránh thời vụ, địa điểm học thuận lợi…quan tâm công tác xóa mù cho phụ nữ, như vận 
động phụ nữ mù chữ đi học các lớp xóa mù do Hội phụ nữ, các Trung tâm giáo dục 
thường xuyên mở hoặc các lớp do bộ dội biên phòng mở, giúp phụ nữ xóa mù, biết cách 
tính toán làm ăn. 
Thứ hai, chú trọng nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng khoa học kỹ thuật, tạo 
cơ chế thuận lợi để phụ nữ nông thôn nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật. 
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ nông thôn thì cùng với việc nâng cao 
trình độ học vấn phải trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cho họ. 
Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông 
thôn, song nó chỉ được phát huy khi người sử dụng có trình độ cao. 
Phụ nữ nông thôn là một trong những chủ thể quan trọng của nông thôn, vì vậy họ 
cần được trang bị tri thức để đủ năng lực tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ của khoa 
học công nghệ. Để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức khoa học cho phụ 
nữ nông thôn phải tăng cường mở các lớp tập huấn, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về 
kiến thức khoa học kỹ thuật cho phụ nữ nông thôn. Các chương trình tập huấn đối tượng 
tham gia phải là những người trực tiếp làm, bởi với đối tượng là phụ nữ nông thôn, việc 
tham gia học tập là rất khó khăn, dù phần đông họ là người trực tiếp sản xuất nhưng do 
bận nhiều việc, ngại học, và thường hay có tâm lý nhường cho chồng đi hội họp, học tập. 
Thứ ba, tăng cường các hoạt động nhằm chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ nông 
thôn. 
Nâng cao thể lực cho nguồn nhân lực nữ là yêu cầu bức xúc nhằm đáp ứng đòi hỏi 
về chi phí và cường độ lao động ngày càng cao khi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa nông nghiệp, nông thôn đang được đẩy mạnh với sức ép về công việc đối với người 
phụ nữ nông thôn. Chỉ có những người phụ nữ khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần 
mới có thể nâng cao sức mạnh của bản thân, bắt nhịp được với cuộc sống hiện đại, mới 
có khả năng làm việc dẻo dai và tập trung về trí tuệ, có niềm tin và ý chí để làm tốt công 
việc. 
Trước hết, tỉnh cần tập trung đầu tư xây dựng các trạm xá đạt chuẩn quốc gia có bố trí 
bác sĩ và nữ hộ sinh. Ngành Y tế và Hội phụ nữ các cấp, nhất là cấp cơ sở cũng cần đổi mới 
công tác tuyên truyền dưới nhiều hình thức phù hợp với trình độ phụ nữ nông thôn như lồng 
ghép nội dung sinh hoạt các câu lạc bộ hoặc các chi, tổ hội phụ nữ, đưa nội dung công tác 
chăm sóc sức khỏe vào các buổi sinh hoạt nhằm giúp cho phụ nữ thực hiện việc tự chăm sóc 
tốt hơn sức khỏe cho bản thân và gia đình. Đối với lao động nữ trong cơ quan nhà nước hoặc 
các doanh nghiệp, hiện nay chính sách tuy chưa nhiều, song họ cũng đã được hưởng chế độ 
bảo hiểm ốm đau, thai sản. Bộ luật Lao động đã dành riêng một chương để quy định về 
nghĩa vụ, quyền lợi của lao động nữ. Còn đối với phụ nữ nông thôn, hầu như chưa có chính 
sách về chăm sóc sức khỏe cũng như hàng loạt vấn đề khác. Đây là bất cập của chính sách và 
là thiệt thòi lớn cho họ. Trong khi chờ đợi một chính sách chung mang tính toàn diện đối với 
phụ nữ nông thôn, về phía tỉnh cần quan tâm đến vấn đề này bằng việc bổ sung khoản mục 
cần chi cho công tác chăm sóc sức khỏe phụ nữ trong tổng quỹ chung của từng thôn bản 
(nguồn có thể là từ sự hỗ trợ của tỉnh hoặc do dân đóng góp) qua đó thể hiện trách nhiệm của 
cộng đồng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, khắc phục sự ngộ nhận và 
hiểu nhầm trong xã hội cho rằng đây là trách nhiệm của riêng Hội phụ nữ như hiện ở nhiều 
nơi trong tỉnh. 
3.2.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ, tổ chức Hội 
Liên hiệp phụ nữ từ tỉnh đến cơ sở. Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác tuyên 
truyền, giáo dục, vận động xã hội nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận 
thức trong toàn xã hội vì mục tiêu tiến bộ của phụ nữ nói chung, phụ nữ nông thôn 
trong tỉnh nói riêng 
Sự phát triển của phụ nữ là một trong những thước đo sự phát triển toàn diện của 
xã hội, nó đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, người 
lao động mà trực tiếp và quan trọng là vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp. Đây là tổ 
chức quần chúng tập hợp đông đảo các tầng lớp phụ nữ, đồng thời là nơi xây dựng và tổ 
chức thực hiện các chương trình, các phong trào vì sự tiến bộ của phụ nữ. Đối với phụ nữ 
nông thôn, ở nhiều địa phương tổ chức Hội phụ nữ là nơi duy nhất để họ được tham gia 
các hoạt động tập thể, trao đổi kinh nghiệm làm ăn và được hỗ trợ vay vốn phát triển kinh 
tế gia đình, là nơi được thổ lộ tâm tư, tình cảm, chia sẻ hoàn cảnh kinh tế giữa chị em phụ 
nữ với nhau và còn là nơi giới thiệu chị em tham gia học tập nâng cao trình độ, tay nghề, 
là nơi giới thiệu việc làm, tạo việc làm cho chị em. Chính vì vậy, phát huy tốt vai trò, 
chức năng của Hội phụ nữ các cấp, nhất là cấp cơ sở là một trong những giải pháp quan 
trọng để hỗ trợ một cách hiệu quả cũng như khai thác tốt nhất sự tham gia của các tầng 
lớp phụ nữ nông thôn hiện nay, nhằm từng bước giúp chị em có đủ điều kiện tiếp cận với 
việc làm có thu nhập cao mang lại sự bình đẳng giới thực sự trong lao động và việc làm. 
Để Hội phụ nữ làm tốt vai trò, chức năng của mình trong việc thực hiện các mục 
tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ nông thôn, Bình Phước cần tập trung giải quyết những vấn 
đề sau: 
- Quan tâm đầu tư đào tạo cán bộ Hội về mọi mặt, có đủ năng lực và trình độ hoàn 
thành các nhiệm vụ của Hội. Có chính sách thu hút những người có năng lực tham gia 
công tác Hội ở cơ sở, đặc biệt là ở thôn bản - nơi trực tiếp triển khai các chương trình 
hoạt động của Hội đến với các tầng lớp chị em phụ nữ, nhằm khắc phục tình trạng ở cấp 
cơ sở hiện nay đội ngũ cán bộ rất yếu (cán bộ phụ nữ thôn, ấp). 
- Các Ngân hàng, các tổ chức Phi Chính phủ mạnh dạn giao quyền quản lý các dự 
án tín chấp cho Hội phụ nữ, vì thực tế đây là con đường dễ nhất để phụ nữ nông thôn 
được tiếp cận với các nguồn vốn vay. 
- Về phía tổ chức Hội, cần phát huy tính năng động, sáng tạo của mình trong 
việc tổ chức thực hiện các chương trình, nhiệm vụ trọng tâm của Hội như xây dựng 
các mô hình hoạt động có hiệu quả như nuôi heo đất, góp vốn xoay vòng, thực hiện tốt 
phong trào phụ nữ khá giúp phụ nữ khó bằng cho vay không tính lãi, phong trào giúp 
nhau về cây, con, giống, khuyến khích phát triển các nhóm tín chấp của phụ nữ … 
Tiếp tục phát triển đa dạng các hình thức đào tạo nghề như cắt may, uốn tóc, thêu, cạo 
mủ cao su, kỷ thuật viên vi tính …của trung tâm Dịch vụ việc làm Hội phụ nữ tỉnh, 
Trung tâm giáo dục, chữa bệnh, dạy nghề và tạo việc làm cho phụ nữ thuộc đối tượng 
tệ nạn xã hội. Một trong những nội dung quan trọng mà các cấp Hội cần quan tâm để 
tuyên truyền, giáo dục cho hội viên và các tầng lớp phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn 
đó là: nâng cao tính tích cực, chủ động của bản thân trong quá trình phấn đấu vươn 
lên. 
Cùng với đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội phụ nữ là nâng cao 
trách nhiệm của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp trong việc xây dựng và tham mưu thực 
hiện các mục tiêu chương trình vì sự tiến bộ của phụ nữ, trong đó có các mục tiêu và 
nhiệm vụ cụ thể về dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nữ nông thôn 
trong tỉnh. Hiện nay thành viên Ban vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Bình Phước cũng như các 
tỉnh khác đều hoạt động kiêm nhiệm, chưa có cán bộ chuyên trách vì vậy phần lớn các 
nội dung, chương trình của Ban đều do Hội phụ nữ tham mưu là chính, trách nhiệm chủ 
yếu dồn lên vai Hội phụ nữ. Hiện nay Ban vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh tách khỏi Hội phụ nữ, 
chuyển về Sở Lao động, Thương binh - Xã hội nhưng hoạt động chưa ổn định. Việc nâng 
cao chất lượng hoạt động của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp, quan tâm đến quyền và 
lợi ích chính đáng của phụ nữ nông thôn là động lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng 
nông thôn mới. 
Để đạt được bình đẳng giới trong lao động và việc làm cần có sự hiểu biết và đồng 
tình của toàn xã hội, mọi giới, mọi cấp, mọi ngành. Một trong những biện pháp hết sức 
quan trọng là Hội phụ nữ, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ, ngành Tư pháp, Đài Phát thanh 
Truyền hình tỉnh phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức giới và bình 
đẳng giới cho toàn dân. Quán triệt và triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách 
của Đảng, Nhà nước, cụ thể là: Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật về luật Bình 
đẳng giới, luật Phòng chống bạo lực gia đình, luật Lao động, luật Bảo hiểm xã hội, đồng 
thời vận động thuyết phục các chủ sử dụng lao động, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn 
của tỉnh ưu tiên, tạo điều kiện trong tuyển dụng, sử dụng lao động nữ; tỉnh cần quan tâm 
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đã và đang có chính sách ưu tiên sử dụng lao động nữ 
như tạo điều kiện về vay vốn để phát triển sản xuất. 
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam 
đến năm 2010 là: nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ, tạo mọi 
điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền cơ bản của phụ nữ để họ tham gia và thụ 
hưởng đầy đủ và bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã 
hội. 
Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ bao gồm 6 mục tiêu chính với các 
chỉ tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực đến năm 2010 như sau: 
Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động và việc làm. 
Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục. 
Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. 
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, 
kinh tế, văn hóa, xã hội để tăng số phụ nữ được giới thiệu và bầu tham gia lãnh đạo các 
cấp, các ngành. 
Tăng cường năng lực hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. 
Trên cơ sở đó, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp trong tỉnh 
cần tiếp tục xây dựng chương trình hành động cụ thể cho từng năm nhằm triển khai thực 
hiện tốt Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ và Chiến lược quốc gia Vì sự tiến 
bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, thực hiện phối hợp hành động giữa các cơ quan, 
tổ chức có liên quan để triển khai, tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện, 
bồi dưỡng, nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ giảng viên tập huấn về giới, tăng 
cường mở các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức giới, xây dựng kế hoạch cụ thể về tập 
huấn giới cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành trong tỉnh và tuyên truyền về 
bình đẳng giới, bình đẳng giới trong lao động và việc làm cho các chủ sử dụng lao động 
trong tỉnh. Tỉnh cần có sự đầu tư nhiều hơn cho việc tuyên truyền, thông tin và phổ biến 
kiến thức giới dưới mọi hình thức truyền thông như báo, đài, tờ rơi…trong toàn tỉnh để 
thay đổi định kiến giới trong phân công lao động thấm nhuần đến từng thành viên trong 
tỉnh và xây dựng các hình thức tuyên truyền phong phú, sinh động, phù hợp với trình độ 
văn hóa của người dân, nhằm đạt được và duy trì mục tiêu bình đẳng giới nói chung, 
bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn ở Bình Phước nói riêng. 
3.2.6. Thúc đẩy bình đẳng giới trong các gia đình, đặc biệt là các gia đình 
nông thôn, đồng thời bản thân người phụ nữ nông thôn tỉnh Bình Phước cũng phải 
nỗ lực vươn lên về mọi mặt 
Gia đình là hạt nhân của xã hội. Xã hội có tốt đẹp và phát triển phồn vinh hay 
không phụ thuộc rất nhiều vào các hạt nhân này. Trong mỗi gia đình đều có phân công 
lao động giữa các thành viên, mỗi thành viên trong gia đình có trách nhiệm đóng góp sức 
mình cho sự phát triển của gia đình và xã hội. Vì vậy để tăng cường bình đẳng giới trong 
gia đình, bản thân các thành viên trong gia đình cần chủ động thực hiện các công việc 
sau: 
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của công việc gia đình, dù là công việc lặt vặt 
nhưng rất mất thời gian và công sức của người thực hiện nó (thường là phụ nữ), xét cho 
cùng thì đây là công việc tiết kiệm chi tiêu trong gia đình, có thể quy đổi ra tiền (nếu thuê 
người giúp việc), do vậy cần có sự phân công một cách khoa học và hợp lý công việc gia 
đình giữa các thành viên trong gia đình, nhất là giữa vợ và chồng, giữa trẻ em trai và trẻ 
em gái, nhằm giảm nhẹ cường độ lao động, thời gian làm việc của phụ nữ, tăng sự phụ 
giúp của nam giới trong công việc gia đình, tạo điều kiện giúp phụ nữ hưởng thụ văn hóa, 
nghỉ ngơi để tái tạo sức lao động. Các bậc cha mẹ cần tạo điều kiện để trẻ em trai và trẻ 
em gái được tiếp cận giáo dục, các lĩnh vực khác. Các thành viên trong gia đình và xã hội 
cần thay đổi định kiến việc nội trợ là việc của đàn bà. 
Trong vấn đề tạo việc làm cho nam và nữ, nguyên tắc bình đẳng và công bằng cần 
được thực hiện trong sự gắn bó chặt chẽ. Quan tâm tạo việc làm cho cả hai giới là bình 
đẳng, nhưng phụ nữ có những điều kiện, hoàn cảnh đặc thù, khó khăn hơn nam giới (do 
chức năng sinh đẻ, nuôi con nhỏ) thì sự công bằng đòi hỏi cho họ những điều kiện tốt 
hơn, dễ dàng tiếp cận hơn để họ có việc làm bình đẳng với nam giới. Nhưng bình đẳng 
giữa nam và nữ lại không có nghĩa là đối xử với nam và nữ trong việc làm, trong học tập, 
trong gia đình như nhau khi điều kiện, hoàn cảnh, cơ hội của mỗi giới lại khác nhau và họ 
ở những điểm xuất phát khác nhau. Nếu máy móc đối xử như nhau lại là không công 
bằng. 
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, cần phát huy hơn nữa vai trò của phụ 
nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Song vấn đề này còn nhiều hạn chế, trong đó có 
hạn chế từ phía chủ quan của phụ nữ. Do ảnh hưởng của tư tưởng từ xưa để lại, chính 
trong bản thân mỗi người phụ nữ vẫn còn tư tưởng tự ti an phận, cam chịu và thụ động, 
ảnh hưởng đến hạn chế sự độc lập suy nghĩ sáng tạo, khả năng cống hiến của chính phụ 
nữ, là lực cản bên trong kìm hãm họ. Để xóa bỏ bất bình đẳng giới, ngoài sự tác động của 
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, sự quan tâm của xã hội thì bản 
thân người phụ nữ phải tự vươn lên khẳng định mình, dám đấu tranh chống lại những hủ 
tục lạc hậu, sự áp bức, coi thường, trói buộc phụ nữ. Đồng thời phụ nữ cũng phải chiến 
thắng chính bản thân mình bằng sự tự tin và phấn đấu vươn lên trong cuộc sống, vượt qua 
những thành kiến và suy nghĩ lạc hậu, từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong 
gia đình và ngoài xã hội. 
Sự chịu thương, chịu khó, hy sinh vì chồng con, lòng nhân hậu, vị tha là những 
phẩm chất cao đẹp của phụ nữ. Song phải kết hợp hài hòa với tính tự chủ sáng tạo. Trong 
điều kiện hiện nay, người phụ nữ phải có đủ phẩm chất, năng lực và bản lĩnh mới có thể 
thực hiện tốt vai trò của mình. Trước hết với tư cách là người lao động, để đáp ứng yêu 
cầu ngày càng cao của thị trường lao động, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
nông nghiệp, nông thôn lao động nữ không chỉ biết cần cù, chịu khó, mà phải tháo vát, 
dám nghĩ, dám làm, nhạy bén với cái mới, chịu khó học tập để năng động, xử trí kịp thời, 
có hiệu quả các tình huống xảy ra trong thực tế. Phải quyết tâm nâng cao năng lực bản 
thân, tranh thủ cơ hội, học đủ, học có kết quả. Thường ngày cố gắng đọc sách báo, cập 
nhật thông tin, kiên quyết gạt bỏ những lý do chưa cần thiết, chưa vội, cản trở việc học 
tập đều đặn và khắc phục khó khăn. 
Trong việc học tập phụ nữ cần khắc phục bệnh tự ti về năng lực bằng cách chịu 
khó tìm tòi, học hỏi, nâng cao hiểu biết, đề từ đó có đủ bản lĩnh, tự tin, ý chí tự lực tự 
cường, quyết tâm phấn đấu tích cực rèn luyện khắc phục và vượt qua mặc cảm, định kiến, 
những khó khăn của gia đình, có đủ phẩm chất và năng lực, tự tạo ra các cơ hội để trưởng 
thành. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi lao động 
nữ nông thôn phải biết tiếp thu, ứng dụng và làm chủ các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, giỏi 
một nghề và biết nhiều nghề, có như vậy mới có khả năng cạnh tranh với nam giới trên 
thị trường lao động. 
KẾT LUẬN 
 Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển 
kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Thực tiễn đời sống đã chứng minh, bất bình đẳng 
giới không chỉ hạn chế sự phát triển của phụ nữ mà còn cản trở tiến trình phát triển của 
mỗi quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. 
Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chỉ ra bất bình đẳng giới, sự áp bức của giới này đối 
với giới kia diễn ra trong xã hội loài người là do nhiều yếu tố thuộc về chính trị, kinh tế, 
văn hóa, xã hội và nhận thức quy định. 
Ở nước ta hiện nay, vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội được nâng 
lên so với trước. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và Nhà nước ta luôn coi trọng 
việc thực hiện bình đẳng giới, đánh giá cao vai trò, vị trí của phụ nữ trong quá trình dựng 
nước và giữ nước, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật như: Hiến pháp, 
Luật Hôn nhân gia đình, Luật Lao động, Luật Bình đẳng giới…đó là những cơ sở quan 
trọng để thúc đẩy bình đẳng giới ở nước ta. 
Chiến lược phấn đấu cho sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và thực hiện bình đẳng 
giới đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, bình đẳng giới vẫn cần được quan tâm đặc 
biệt trong thời gian dài, vì đây là cuộc đấu tranh trên nhiều lĩnh vực, là cuộc đấu tranh 
giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu, là cuộc đấu tranh còn nhiều khó khăn, 
thử thách, bởi tàn dư của tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của 
một bộ phận dân chúng. 
Bình Phước là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, là tỉnh có nhiều 
tiềm năng phát triển kinh tế, trong mỗi bước đi, mỗi thành công của công của công cuộc 
xây dựng nông thôn mới của tỉnh đều in đậm công lao của những người phụ nữ trong 
tỉnh. Địa vị của người phụ nữ nông thôn được cải thiện hơn rất nhiều bởi những đóng góp 
của họ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Song cũng chính quá trình 
tham gia vào công cuộc đó, sự biến đổi của nông thôn ngày nay đang đặt người phụ nữ 
Bình Phước trước hàng loạt những vấn đề như trình độ văn hóa và chuyên môn, nghiệp 
vụ của phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn còn nhiều bất cập, phần lớn là phụ nữ nông thôn 
của tỉnh chưa được đào tạo nghề, chiếm chủ yếu trong lao động giản đơn, thiếu ổn định, 
thu nhập thấp, sự phân biệt trong việc trả công, trong việc tuyển dụng giữa lao động nữ 
và lao động nam ở nhiều chủ doanh nghiệp, cơ hội việc làm của lao động nữ. 
Để thực hiện tốt bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình 
Phước là một quá trình khó khăn, lâu dài, đòi hỏi sự cộng đồng trách nhiệm của cả xã hội 
và sự nổ lực vươn lên của bản thân người phụ nữ nông thôn. 
Các giải pháp không có tính tuyệt đối và lại càng không có tính đơn lẻ, nó chỉ phát 
huy tác dụng trong hệ thống các giải pháp, tức là để thực hiện tốt bình đẳng giới trong lao 
động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước là một quá trình giải quyết đồng bộ các 
vấn đề đặt ra, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực cần được đầu tư nghiên cứu và 
tổ chức thức hiện một cách toàn diện, lâu dài. 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban Dân tộc Tỉnh ủy Bình Phước (2007), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 
Trung ương 7 khóa IX về công tác dân tộc. 
2. Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Bình Phước (2005-2008), Báo cáo tổng kết công tác vì 
sự tiến bộ phụ nữ tỉnh. 
3. Bộ Chính trị (2007), Nghị quyết 11/NQ-TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. 
4. Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
9. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bình Phước (2008), Thống kê số liệu vay vốn từ các 
nguồn do Hội phụ nữ và hội nông dân cho vay. 
10. Kết quả điều tra của tác giả (5/2009), Tình hình thực hiện bình đẳng giới trong lao 
động việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước. 
11. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
12. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
13. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
14. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
15. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 32, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
16. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
17. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
18. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
19. Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước (2008), Tổng hợp số liệu công nhân lao động. 
20. Liên Hiệp quốc (2008), Báo cáo về chỉ số phát triển của Việt Nam. 
21. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
22. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
23. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
24. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
25. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
26. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, 
27. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
28. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
29. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
30. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
31. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
32. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
33. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
34. Hồ Chí Minh (2000) toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
35. Ngân hàng Thế giới (2000) Tổng quan đưa vấn đề giới vào phát triển, Hà Nội. 
36. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Bình đẳng giới, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
37. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Hiến pháp 1946, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
38. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Bình Phước (2008), Báo cáo công tác lao 
động - thương binh xã hội. 
39. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Phước (2008), Báo cáo tình hình 
thực hiện nhiệm vụ. 
40. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Phước (2008), Báo cáo vấn đề 
nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Bình Phước. 
41. Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh Bình Phước (2009): Báo cáo tổng kết năm học 2008-
2009. 
42. Sở y tế tỉnh (2008): Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 
2005-2010. 
43. Tỉnh ủy Bình Phước (2000-2008), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của 
tỉnh. 
44. Tỉnh ủy Bình Phước (2009): Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Phước thời kỳ đổi mới 
45. Phan Thanh Khôi (2008), Giới trong lĩnh vực kinh tế - lao động, trong sách Khoa học 
giới, những vấn đề lý luận và thực tiễn, do Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch (chủ 
biên), Nxb Chính trị - hành chính, Hà Nội. 
46. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 19 (2002), Phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự 
tiến bộ của phụ nữ Việt Nam 2001-2010. 
47. Từ điển kinh tế (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội. 
48. Trung tâm Bà mẹ, trẻ em tỉnh (2008, 2009): số liệu thống kê về bệnh phụ khoa, thực hiện 
các biện pháp tránh thai. 
49. Ủy ban Quốc gia VSTBPNVN (2004), Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định 
và thực thi chính sách, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 
50. Ủy ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2002), Số liệu thống kê về 
giới ở Việt Nam. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
5_3589.pdf