Trước những đòi hỏi của xu thế thương mại hoá toàn cầu và trước mắt là việc ra nhập vào tổ chức AFTA, các chính sách thương mại càng trở nên quan trọng và bức thiết. Do những đòi hỏi đó thì việc nghiên cứu những đề tài về chính sách thương mại nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt nam là vấn đề cần phải làm ngay từ lúc này để sẵn sàng trước việc ra nhập vào tổ chức AFTA của Việt Nam.
55 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2473 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các hoạt động nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty DONIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gian này, kết quả hoạt động khác của Công ty đáng được lưu tâm. Từ năm 1996 đến 1999 kết quả hoạt động khác luôn bị âm và đang có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 1996 kết quả hoạt động khác là (-17.856.319) VNĐ, sang năm 1997 con số này là (-1.135.815.038) VNĐ,năm 1998 là (116.164.767) VNĐ và năm 1999 con số này là (-1.485.279.563) VNĐ. Kết quả hoạt động tài chính cũng có biểu hiện thất thường, năm 1996 là 222.057.738 VNĐ nhưng sang năm 1997 hoạt động tài chính không đem lại kết quả, đến năm 1998 con số này là 122.554.824 VNĐ. Qua các kết quả của hoạt động kinh doanh Công ty cần phải xem xét, nghiên cứu kĩ lưỡng để đề ra phương pháp giải quyết vấn đề.
Các kết quả cuối cùng từ lợi nhuận sau thuế đã được trích lập các quỹ Công ty và đang có xu hướng tăng lên qua các năm từ 1997 tới nay. Kết quả này đã giúp cải thiện tình hình vốn của Công ty và cơ sở vật chất kĩ thuật.
a) Bối cảnh.
Hoạt động kinh doanh của Công ty diễn ra trong bối cảnh môi trường kinh doanh có nhiều diễn biến phức tạp.
- Có chế độ, chánh sách của Nhà nước và các ngành có liên quan có nhiều thay đổi và chưa được đầy đủ, toàn dIện.
- Tình hình thị trường, đặc biệt là thị trường tiêu thụ có những biến động bất ngờ. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á nổ ra vào tháng 7/1997 và kéo dài cho đến bây giờ đã ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình hoạt động xuất khẩu của Công ty.
- Sự chuẩn bị các mặt của Công ty còn nhiều lúng túng và bất cập, nhiều vấn đề chưa tháo gỡ được, đặc biệt là vấn đề tổ chức và quản lí khi chuyển từ cơ chế bao cấp sang.
Bên cạnh những khó khăn trên cũng cần nhận thấy những tiềm năng và cơ hội mới một cách đầy đủ và toàn diện nhằm củng cố và phát triển, đó là tình hình môi trướng pháp lý đã được cải thiện hơn, quan hệ thương mại quốc tế của quốc gia được mở rộng. Đội ngũ cán bộ của Công ty qua các năm kinh doanh đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Công ty hoạt động trên địa bàn rộng đã xây dựng được uy tín nhất định đối với nhiều bạn hàng. Hoạt động của Công ty được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các cấp, các ngành, đặc biệt là Sở Thương mại.
b) Kết quả.
Từ bối cảnh trên, Ban lãnh đạo Công ty đã xác định được phương hướng kinh doanh là tiếp tục đổi mới về tổ chức, về phương thức kinh doanh, không ngừng tìm kiếm cơ hội và mở rộng thị trường. Qua đó đã đạt được một số kết quả nhất định.
* Về nhận thức tư tưởng:
Mặc dù, còn mang nặng tính chất kinh doanh theo thời vụ và chưa có kế hoạch kinh doanh ổn định trong dài hạn song tập thể cán bộ công nhân viên cũng như Ban lãnh đạo Công ty đã xác nhận những điều kiện kinh doanh hiện nay là rất khó khăn và phức tạp, Công ty đã nhận thất vấn đề bức xúc là phải đổi mới phương pháp tư duy và hành động trong sản xuất kinh doanh. Từ đó tập thể cán bộ công nhân viên đã không ngừng chủ động và sáng tạo trong kinh doanh, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động, lấy chỉ tiêu kinh tế làm tiêu chí hàng động.
* Về tổ chức:
Trong những năm qua, tổ chức lao động của Công ty đã có nhiều cải cách đáng kể. Một mặt, cùng với việc duy trì và phát triển các cơ sở kinh doanh có hiệu quả, mặt khác là rà soát và giải thể các cơ sở làm ăn kém hiệu quả, Công ty đã thực hiện giảm biên chế và tổ chức lao động theo hướng gọn nhẹ, linh động, với phương châm một nhân viên thực hiện nhiều chức năng. Bên cạnh đó, Công ty chỉ ký hợp đồng ngắn hạn với các nhân viên khác khi công việc yêu cầu. Chính vì vậy, tổ chức lao động của Công ty rất linh hoạt và làm ăn có hiệu quả (ngày càng cao).
Phương pháp quản lí lao động Công ty là tự chủ, sáng tạo, nghĩa là cán bộ lãnh đạo chức năng lập kế hoạch kinh doanh và giao cho các nhân viên cấp dưới tự hoàn thành các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình theo các phương án phù hợp.
* Kết quả kinh doanh:
Những cố gắng về nhận thức cũng như tổ chức đã đưa lại kết quả khả quan cho Công ty như sau:
Bảng 12: Kết quả kinh doanh (1996 - 1999)
Đơn vị:Tỷ VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
1. Lợi nhuận trước thuế
3,010
4,114
4,901
4,609
2.Doanh thu
553,691
507,540
522,028
576,834
3. Vốn hoạt động
15,729
25,436
29.582
32.388
4. Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu (%)
0,5436
0,811
0,93884
0,8
5.Tỷ suất lợi nhuận/vốn (%)
19,14
16,174
16,568
14,231
6. Số vòng quay vốn/năm
35,2
19,954
17,647
17,81
Từ bảng trên cho thấy, mặc dù số vòng quay của vốn giảm dần qua các năm nhưng doanh thu và lợi nhuận của Công ty liên tục tăng từ năm 1997 cho đến 1999. Dù rằng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn chưa dị hẳn. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn trong 3 năm gần đây đã dần dần đi vào ổn định và tăng lên, cũng như vậy, tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng đang từng bước được phục hồi, điều này chứng tỏ Công ty đã nghiên cứu và cân nhắc kĩ các cơ hội kinh doanh, thực hiện tốt các nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả. Mặc dù cơ hội kinh doanh của Công ty không nhiều nhưng hiệu quả của nói là điều đáng mừng. Tuy nhiên số vòng quay vốn có xu hướng giảm, Công ty cần có biện pháp thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, góp phần tăng nhanh vòng quay của vốn hơn.
Nhiệm vụ của nghiệp vụ này là lựa chọn nguồn hàng, thị trường và nhà cung cấp, giao dịch, kí kết hợp đồng và tiến hành vận chuyển, bảo quản hàng hóa.
Trong những năm gần đây, Công ty đã sử dụng các hình thức tạo nguồn hàng sau:
- Mua đứt bán đoạn: đây là hình thức thu mua chủ yếu của Công ty, chiếm gần 80% giá trị hàng hóa thu mua. Sau khi Công ty và người bán đã đạt được thỏa thuận về mặt số lượng, chất lượng mẫu mã, phương thức thanh toán, điều kiện và cơ sở giao hàng ... thì hai bên mới tiến hành kí kết hợp đồng kinh tế. Hợp đồng này là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông thường người kí kết hợp đồng là Giám đốc Công ty hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền.
- Phương thức ủy thác: Là phương thức mà Công ty dùng danh nghĩa của mình để giao dịch với khách hàng nước ngoài nhằm thỏa thuận với họ về các điều khoản: số lượng, chất lượng, mẫu mã, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng ... và tổ chức bán hộ hàng cho người ủy thác. Phương thức thu mua này chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
- Phương thức đầu tư, liên doanh liên kết sản xuất hàng xuất khẩu. Theo phương thức này, Công ty sẽ bỏ vốn ra đầu tư vào các đơn vị sản xuất chế biến hàng xuất khẩu theo các hợp đồng ngắn hạn, trong đó Công ty chịu trách nhiệm tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra. Thông thường Công ty chỉ ứng vốn trước cho các cơ sở chức không tham gia trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất. Hình thức này chỉ được Công ty áp dụng khi đã kí được hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài mà nguồn hàng trong nước chưa có sẵn.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng của Công ty được thực hiện theo quy trình sau;
- Xác định nhu cầu: Căn cứ vào các đơn đặt hàng của nước ngoài và các hợp đồng đã kí kết.
- Xây dựng đơn hàng: Dựa trên các điều kiện về số lượng, chất lượng, giá cả ... biến đơn hàng nước ngoài thành đơn hàng của mình.
- Lựa chọn khu vực thị trường: Căn cứ vào tính chất yêu cầu của hàng hóa xuất khẩu theo từng hợp đồng. Thông thường, thị trường khai thác hàng của Công ty là các tỉnh phía Nam vì nơi đây tập trung các mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản ... là những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của Công ty.
- Tìm kiếm và lựa chọn người cung cấp: Căn cứ vào khu vực thị trường đã lựa chọn, Công ty tiến hành tìm kiếm người cung cấp. Bước đầu là tập hợp các nhà cung cấp có thể có, sau đó tiến hành phân loại nhà cung cấp theo các chỉ tiêu ưu tiên và dùng phương pháp loại trừ dần để chọn nhà cung cấp có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu của đơn hàng.
- Tiếp cận và đàm phán với nhà cung cấp: Trên cơ sở đã xác định được nhà cung cấp, Công ty tiếp cận đàm phán về các điều kiện của đơn hàng, kí kết hợp đồng thu mua nếu đạt được các thỏa thuận với nhà cung cấp.
- Tổ chức thực hiện hợp đồng mua bán. Trong khâu này vận chuyển là khâu quan trọng nhất. Công ty đã sử dụng các hình thức tiếp nhận, vận chuyển sau:
+ Giao hàng tại cảng xuất khẩu.
+ Giao hàng tại kho của Công ty.
+ Giao hàng lên phương tiệnvận chuyển của Công ty tại kho người bán.
Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà Công ty lựa chọn các điều kiện cơ sở giao hàng phù hợp.
Bảng VI: Mô hình tổ chức công tác thu mua tạo nguồn hàng.
Xác định
nhu cầu
Xây dựng
đơn hàng
Lựa chọn
Thị trường
Tiếp cận, đàm phán, Ký kết hợp đồng
Thanh lý
Hợp đồng
Tổ chức thực hiện hợp đồng
Tìm kiếm
Nhà cung
Cấp
Lựa chọn
Nhà cung
Cấp
Kiểm
Tra
Hàng
Hóa
Tiếp
Nhận
Hàng
Hóa
Vận
Chuyển
Hàng
Hóa
Thanh
Toán
Bảo
Quản
Xử lí tranh chấp
b) Nghiệp vụ giao hàng xuất khẩu. Nghiệp vụ này bao gồm các khâu sau:
- Chuẩn bị hàng: Sau khi Công ty đã đưa hàng về kho thì tiến hành các khâu chuẩn bị như đóng gói hàng hóa, ghi mã kí hiệu để hoàn thiện hàng theo đơn hàng của nước nhập khẩu.
- Thuê tàu và kí kết hợp đồng vận chuyển: Thông thường, Công ty sử dụng điều kiện cơ sở giao hàng theo điều kiện FOB trong Incoterm 1990 với nước ngoài do vậy ở khâu này, Công ty chỉ kí kết hợp đồng vận chuyển với các tổ chức vận tải, thuê các tổ chức này đem phương tiện tới tận kho hàng của Công ty để chuyển hàng hóa ra cảng xuất khẩu, sau đó tiến hành bốc dỡ hàng xuống cảng để hải quan kiểm định hàng hóa.
- Hoàn thiện thu tục giấy tờ: Làm thủ tục giấy phép xuất khẩu Công ty thường phải chuẩn bị các loại giấy tờ sau:
+ Hợp đồng thương mại (bản chính và bản sao).
+ Bản dịch hợp đồng.
+ Hạn ngạch, quota nếu xuất hàng hạn ngạch.
+ Giấy chứng nhận xuất xứ.
+ Giấy kiểm dịch vệ sinh hàng.
+ Các giấy tờ hải quan.
- Tổ chức khai báo và giám định hải quan. Khâu này Công ty có trách nhiệm xuất trình đầy đủ giấy tờ, mở hàng hóa để hải quan kiểm tra.
- Giao hàng lên tàu và lập vận đơn. Thông thường, Công ty ủy thác toàn phần cho hãng vận tải. Sau khi giao hàng lên tàu thì đại diện của Công ty và cơ quan bảo hiểm xác nhận hàng vào biên bản để Công ty tiến hành mua bảo hiểm. Cũng trong khâu này, đại diện của Công ty phải lấy xác nhận thuyền phó và sau đó đổi lấy vận đơn thuyền trưởng.
c) Nghiệp vụ thanh toán bao gồm các khâu vay vốn thanh toán nguồn hàng và nhận tiền thanh toán của bên nhập khẩu:
Đối với thanh toán đầu vào, các phòng hoặc đơn vị thực hiện nhiệm vụ trực tiếp thì được Công ty ủy quyền giao vốn để thanh toán. Sau khi nhận được tiền hàng bên nhập khẩu thanh toán, đơn vị sẽ giao lại Công ty toàn bộ doanh thu và các chi phí hợp lí. Hình thức thanh toán nguồn hàng chủ yếu bằng Tiền mặt. Nguồn vốn để thanh toán đầu vào của Công ty một phần là vốn tự có, nhưng do điều kiện còn rất thiếu vốn nên Công ty thường chủ động vay ngắn hạn Ngân hàng.
Việc thanh toán của đơn vị nhập khẩu là khâu ấn định kết quả cuối cùng cả quá trình nghiệp vụ xuất khẩu hàng hóa. Số tiền thanh toán căn cứ vào trị giá hàng hóa và thời hạn thanh toán đã được quy định trong hợp đồng. Phương thức thanh toán trong xuất khẩu của Công ty rất nhiều, chẳng hạn, thanh toán bằng thư tín dụng (L/C), thanh toán bằng phương thức nhờ thu, thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán trao tay tiền mặt. Ngoại trừ phương pháp mở L/C, còn các phương pháp khác rủi ro là khá lớn, vì vậy, Công ty chủ trương tạo điều kiện để bên đối tác mở L/C.
d) Nghiệp vụ xử lí thông tin thị trường hàng xuất khẩu.
Trên cơ sở thông tin thu thập được qua niên giám thống kê Việt Nam, qua các bản tin nhanh về thị trường, giá cả, Tạp chí Thương mại, qua các cơ quan Nhà nước có liên quan, qua tiếp xúc trực tiếp với bạn hàng trong và ngoài nước ... Cán bộ Phòng Kinh doanh xác định từng thị trường phù hợp với những mặt hàng nào, số lượng, chất lượng, giá cả có thể đáp ứng. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng chủ yếu là thống kê kinh nghiệm.
Trong những năm qua, thị trường thế giới có nhiều biến đổi thất thường, đặc biệt là thị trường hàng nông sản. Trong khi đó, hệ thống cung cấp thông tin của nước ta còn rất kém, chưa kịp thời với xu hướng phát triển của thế giới. Do đó, công tác thu thập và xử lí thông tin của Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ kinh doanh của Công ty chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cần thiết về nghiên cứu thị trường, chưa có các phương án nghiên cứu mang tính hệ thống. Vì vậy, có nhiều trường hợp Công ty đã gặp những lúng túng về định hướng các thị trường trọng điểm để tiến hành giao dịch xuất khẩu. Còn nữa, do yếu kém về dự đoán xu hướng của cung cầu và giá cả trong tương lai nên Công ty chưa xác định được các chiến lược xuất khẩu hợp lí. Nhiều khi giá cả chưa lên cao đã tiến hành bán ồ ạt hàng hóa, khi giá cả đã lên cao rồi thì không còn hàng hóa để bán. Hoặc có tình trạng chọn sai đối tượng buôn bán, họ không đủ khả năng tài chính để thanh toán Tiền hàng hoặc chây ì thực hiện hợp đồng gây ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu và nhiều khi còn dẫn đến thất thu, thua lỗ. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ở nước ta.
Có thể nói nghiệp vụ xử lí thông tin là cực kì quan trọng, nhất là đối với mặt hàng xuất khẩu của Công ty đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng, giá cả. Công ty phải rất linh hoạt và tính toán kịp thời mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu thị trường, đảm bảo làm ăn lâu dài, tránh được lối hoạt động kinh tế theo kiểu "phi vụ" hiện vẫn còn phổ biến ở các doanh nghiệp thương mại của nước ta.
II. TỔNG QUÁT KẾT QUẢ XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY.
1- Tình hình kinh doanh theo mặt hàng.
Bảng 13: Kết quả xuất khẩu theo mặt hàng (1996 - 1999).
Đơn vị:USD
Mặt hàng
1996
1997
1998
1999
Cà phê
16.436.633
14.711.011
16.634.111
17.532.749
Tiêu đen
2.198.222
3.362.961
177.756
2.602.220
Cao su
2.429.000
2.493.754
1.397.000
2.671.000
Ngô
3.136.725
Gốm mỹ nghệ
117.177
40.570
Dụng cụ thể thao
9817
10.723
Phụ tùng máy NN
33.738
44.121
Áo thun
9.312
Áo sơ mi nam
15.252
Đệm bố thắng
27.922
54.847
Qua bảng trên cho thấy, đa số các mặt hàng xuất khẩu của Công ty là hàng nông - lâm - thổ sản. Đặc điểm của mặt hàng này là tình hình sản xuất phù hợp với điều kiện nước ta, có nguồn cung cấp khá dồi dào, được Nhà nước khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên mặt hàng này đang gặp khó khăn trên thị trường thế giới do giá cả biến động thất thường và là mặt hàng tương đồng với hàng hóa các nước trong khu vực. Vì vậy, để đẩy mạnh được kim ngạch xuất khẩu đòi hỏi Công ty phải nỗ lực rất nhiều.
Trong các mặt hàng trên thì mặt hàng chủ lực của Công ty có giá trị xuất khẩu mỗi năm trên 6 triệu USD đó là: cà phê. Mặt hàng này chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Năm 1996, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên chiếm tỉ trọng bằng 61% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Năm 1997 chiếm 83%, năm 1998 chiếm 46,51%, năm 1999 chiếm 45%.Con số này cho thấy mặt hàng cà phê là mặt hàng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Mặc dù vậy, mặt hàng cà phê đang có xu hướng giảm là do trong hai năm gần đây giá cả cà phê trên thị trường thế giới diễn biến thất thường, khách hàng lớn nhất mua cà phê là Mỹ đã giảm nhu cầu vì cà phê dự trữ của Mỹ khá lớn, do đó đã làm cho giá cà phê tụt xuống một cách thảm hại, mặt nữa là sản lượng cà phê của Brazin trong mấy vụ qua luôn đạt sản lượng lớn. Hai nguyên nhân đó dẫn tới cung cà phê tăng nhưng cầu cà phê giảm dẫn đến giảm giá.
Tương tự như cà phê mặt hàng cao su cũng liên tục giảm giá ...
Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, Công ty đã không ngừng mở rộng và tăng cường xuất khẩu các mặt hàng khác. Có thể kể đến một số mặt hàng như trang thiết bị thể thao, quần áo, ngô, đậu, lạc ... Các mặt hàng này tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng nó đã phản ánh được sự cố gắng vươn lên của cán bộ Công ty và đây sẽ là tiền đề của sự phát triển trong các năm sắp tới.
Trong những năm qua, Công ty cũng chú trọng đầu tư phát triển mặt hàng theo chiều sâu, thông qua các hoạt động liên doanh, liên kết, khai thác các nguồn hàng chế biến cao. Tỉ trọng xuất khẩu hàng thô qua các năm đã giảm dần và hàng chế biến tinh đang có xu hướng tăng lên. Năm 1996 tỉ trọng chế biến của các mặt hàng xuất khâu là 30%, năm 1997 là 32%, năm 1998 là 34%, năm 1999 là 35%. Mặt hàng có tỉ trọng chế biến cao nhất phải kể đến là cà phê, năm 1991 và 1992 Công ty chỉ xuất khẩu cà phê thô, các năm 1994 trở đi Công ty chủ yếu xuất khẩu cà phê nhân, cà phê thành phẩm. Đây là hướng kinh doanh rất đúng đắn, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng giá trị hàng xuất khẩu. Để phát huy điều này, Công ty cần thiết phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các nguồn hàng, có phương án kinh doanh rõ ràng, đặc biệt là tăng cường đầu tư, hỗ trợ cho các đơn vị sản xuất, chế biến để nâng cao chất lượng hàng hóa.
2- Tình hình kinh doanh xuất khẩu theo thị trường.
Hòa chung với quá trình đa dạng hóa và đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế của đất nước, trong những năm qua Công ty DONIMEX đã không ngừng mở rộng thị trường xuất khẩu của mình. Có thể nói, thị trường xuất khẩu chủ yếu của DONIMEX là các nước Châu Á và Châu Âu, trong đó năm 1998, các nước Châu Á chiếm thị phần là 2,02%, Châu Âu chiếm 26,25%, còn lại các Châu khác là 71,73%.
Xét thị trường Châu Á, đây là thị trường gần gũi về địa lý, phong tục, tập quán, có mối quan hệ làm ăn lâu dài với Công ty. Trong các nước Châu Á thì Singapore và Trung quốc là bạn hàng tiêu thụ lớn nhất của DONIMEX. Năm 1994, xuất khẩu của DONIMEX sang thị trường Singapore và Trung Quốc đạt 15.429.168,83 USD chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 1997 là 6.235.739 USD chiếm 49,5% tổng kim ngạch...Thị trường Singapore là thị trường trung chuyển hàng hóa của Công ty, hàng hóa được xuất sang đây, qua một số công đoạn chế biến thêm, họ sẽ tái xuất sang nước khác. Đứng sau thị trường Singapore và Trung Quốc là thị trường Mỹ và Thái Lan, Anh, Pháp ... Kim ngạch xuất khẩu sang các nước này thường đạt con số xấp xỉ 1 triệu đô la, tuy tốc độ phát triển chưa cao nhưng tương đối ổn định.
Có thể nói, quan hệ của DONIMEX ở thị trường Châu Á, Châu Âu là rất rộng lớn, có truyền thống lâu dài và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong những năm qua Công ty đã chú trọng tăng cường mối quan hệ hợp tác với các bạn hàng ở thị trường này. Đến nay Công ty đã thiết lập được mối quan hệ hợp tác làm ăn với hơn 100 Công ty nước ngoài tập trung ở gần 40 quốc gia.
Hiện nay, Công ty đang đẩy mạnh việc mở rộng hơn nữa thị trường ở Trung Quốc, đây là thị trường tiêu thụ lớn, gần gũi về địa lí, chi phí vận chuyển thấp và đang hứa hẹn nhiều tiềm năng.
Xét về thị trường Châu Âu. Các bạn hàng lớn ở Tây Âu và Bắc Âu tiêu thụ hàng hóa của Công ty DONIMEX là Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đức ... Từ những năm đầu của thập kỉ 90, Công ty đã vươn ra và thâm nhập thị trường này. Đến nay Công ty đã tạo được những uy tín nhất định và có được chỗ đứng khá vững chắc ở thị trường này. Trong các nước Tây Âu thì Bỉ là bạn hàng tiêu thụ lớn nhất. Năm 1994 hàng của Công ty xuất sang Bỉ trị giá 733.320 USD thì sang năm 1995 là 2.108.385 USD, năm 1997 con số này là 1.194.820 USD. Trong những năm sắp tới con số này có thể sẽ tăng cao hơn nữa. Bên cạnh đó, giá trị hàng xuất khẩu sang thị trường Đức, Pháp, Anh cũng có xu hướng tăng đáng kể ...
Trong các nước Bắc Âu thì Hà Lan là thị trường lớn nhất, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này cũng ở mức tương đối, trong những năm tới thị trường này là cơ hội lớn cho Công ty.
Năm 1997, Công ty đã mở rộng thị trường Đông Âu mà trước đây đã bị gián đoạn như Ba Lan, Cộng hòa Séc ..., ở thị trường Tây Âu và Bắc Âu Công ty mở rộng sang Ý, Tây Ban Nha, Rumania, Pakistan ... Tuy kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này chưa cao, nhưng nó cũng hứa hẹn một triển vọng sáng sủa hơn.
Thị trường Mỹ đặc biệt được Công ty chú trọng. Tuy chỉ mới xâm nhập vào thị trường này trong những năm gần đây, song tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Công ty tăng rất cao. Năm 1996, Công ty xuất được một lô hàng cà phê vào thị trường Mỹ với giá trị 387.185 USD, năm 1997 con số trên đã lên tới 3.066.940 USD, năm 1998 là 1.194.565 USD. Năm 1999 là 2.666.605 USD. Thị trường Mỹ có sức tiêu thụ rất lớn, quan hệ Việt - Mỹ gần đây đã được cải thiện đáng kể, điều đó đang mở ra cho Công ty DONIMEX một triển vọng mới trong kinh doanh. Công ty cần nhanh chóng xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này vì đây là điểm mạnh tương đối của Công ty.
3- Phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng hóa của Công ty.
Để phân tích được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng hóa của Công ty DONIMEX, trước hết ta phải nắm được chỉ tiêu kinh tế kế hoạch và thực hiện mà Công ty đề ra đối với hoạt động xuất khẩu năm 1999.
Bảng 15 : Chỉ tiêu kế hoạch và thực hiện về xuất khẩu năm 1999
Đơn vị : Tỷ VNĐ
CHỈ TIÊU
KẾ HOẠCH
THỰC HIỆN
TỶ LỆ %
1.Tổng doanh thu
557.469,362
576.834
103,474
2.Tổng chi phí (cả thuế)
553,234
572,226
103,433
a.Định phí
11,375246
15,634712
137,443
b.Biến phí
541,858574
556,631288
102,726
3.Tổng vốn kinh doanh
32,388.000
32,388.000
100
a.Vốn cố định
3,478.000
3,478.000
100
b. Vốn lưu động
28,910.000
28,910.000
100
4. Lãi gộp (1-2b)
4,235
4,609
108,831
5. Lãiròng (1-2)
1,9385
2,129638
109,86
Qua các chỉ tiêu trên ta có thể đánh giá được hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở Công ty DONIMEX năm 1999 vừa qua như sau:
a. Lợi nhuận thực tế mà Công ty đạt được qua hoạt động xuất khẩu.
Lợi nhuận thực tế = Tổng doanh thu - Tổng chi phí.
LNTT = TRTT - TCTT = 576,834 – 572,226 = 4,609
Trong khi đó, kế hoạch Công ty phải đạt được mức lợi nhuận là
LNKH = TRKH - TCKH = 4,235
Như vậy Công ty đã đạt vượt mức kế hoạch là:
LNTT
=
4,609-4,235
100% =
8,83112%
LNKH
4,235
b. Hiệu quả xuất khẩu hàng hóa:
HX =
TX
=
576,834
=
1,008
CX
572,226
Như vậy H = 1,008 > 1 nên hoạt động xuất khẩu của Công ty đã đem lại hiệu quả trong kinh doanh. Tuy nhiên, hệ số H còn thấp vì vậy Công ty cần tìm cách nâng cao hệ số H hơn nữa.
c. Tỷ suất doanh lợi (P').
Tỷ suất doanh lợi của hoạt động xuất khẩu
=
Tổng lợi nhuận
Tổng vốn kinh doanh
P'
=
P
=
2,129638
x
100%
=
6,5754%
V
32.388.000
Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng vốn đầu tư vào kinh doanh xuất khẩu thì Công ty sẽ thu được là 0,065754 đồng lợi nhuận. Đây là một mức tỉ suất doanh lợi thấp, Công ty cần phải cố gắng hơn nữa. Nguyên nhân là do tốc độ quay của đồng vốn.
Trong đó:
Mức sinh lợi của vốn cố định
=
Tổng lợi nhuận
Vốn cố định bình quân
=
2,129638
x
100%
=
61,2317%
3,478
Mức sinh lợi của vốn lưu động
=
Tổng lợi nhuận
Vốn lưu động bình quân
=
2,129638
x
100%
=
7,366%
28,91
d. Thời gian hòa vốn (TH)
TH
=
12 tháng x Tổng định phí
=
15,634712
=
11,57 (tháng)
Tổng số lãi gộp cả năm
4,609
Như vậy, trong vòng 11 tháng 17 ngày, Công ty đã đủ thời gian để hòa vốn, tức là doanh thu đủ trang trải mọi chi phí, không lỗ, không lãi, hay nói cách khác, Công ty có mức lãi gộp bằng tổng định phí. Do đó các tháng sau, mọi doanh thu trừ chi phí biến đổi đều trở thành lãi của Công ty.
Qua phân tích trên đây ta thấy rằng, hoạt động kinh doanh của Công ty có kết quả chưa cao, điều này phản ảnh Công ty cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu bằng mọi cách nâng cao tốc độ quay của đồng vốn, tăng doanh thu và giảm bớt các khoản chi phí không cần thiết.
III- NHỮNG THÀNH TỰU, TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XUẨT KHẨU CỦA CÔNG TY.
1. Thành tựu:
Có thể đánh giá thành tựu về hoạt động xuất khẩu của Công ty DONIMEX như sau:
- Trong những năm qua, cán bộ công nhân viên Công ty đã có nhiều cố gắng bám sát thị trường trong và ngoài nước, khai thác được nhiều nguồn hàng xuất khẩu và thực hiện tốt các chỉ tiêu, quy định đề ra.
- Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu, Công ty đã chú trọng, quan tâm đến công tác tiếp thị, khai thác mặt hàng mở rộng thị trường trong và ngoài nước nên đã xuất khẩu được những mặt hàng chính là nông,. lâm, thổ sản và thêm nhiều loại hàng khác như may mặc, dụng cụ thể thao, máy móc ... tận dụng nguyên liệu có sẳn trong nước, gián tiếp giải quyết được nhiều lao động làm ra sản phẩm xuất khẩu nên giá trị xuất khẩu của Công ty ngày một nâng cao.
- Trong quá trình kinh doanh mua bán hàng hóa có sự cạnh tranh gay gắt, Nhà nước mở rộng cơ chế xuất nhập khẩu, cho thành lập nhiều công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn, liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế. Được xuất nhập khẩu trực tiếp, các văn phòng đại diện ở nước ngoài cũng tham gia mua bán trực tiếp đến tận cơ sở thu mua, sản xuất, chế biến nên làm cho giá cả lên xuống thất thường. Sự biến động về tiền tệ trong khu vực và trên thế giới, tỉ giá USD lên xuống cũng ảnh hưởng đến việc tính toán và gây khó khăn trong kinh doanh xuất nhập khẩu nhất là những tháng cuối năm 1997. Trước tình hình như vậy, Công ty đã áp dụng nhiều phương án kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, bán tận gốc (không qua trung gian), tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, giao hàng đúng hạn, đảm bảo chất lượng hàng hóa, thanh toán sòng phẳng, đã thực sự gây được lòng tin, lôi cuốn khách hàng đến hợp tác lâu dài nên vừa tạo được nguồn hàng ổn định vừa có khách hàng tiêu thụ.
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu nhanh chóng, chính xác, đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nộp thuế xuất nhập khẩu đầy đủ, đúng hạn.
- Thực hành tiết kiệm, giảm chi phí trong kinh doanh như: vận tải, bốc dỡ, giám định, bảo quản hàng hóa ...
- Tổ chức lao động, bộ máy quản lí gọn nhẹ, mỗi người đều kiêm nhiệm hai, ba việc nên làm việc có hiệu quả, năng suất lao động cao hơn các năm trước.
- Quan tâm tới việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi học bổ túc thêm ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ ngoại thương, tiếp cận thị trường nước ngoài, tham dự các buổi hội thảo chuyên đề về các mặt quản lí của doanh nghiệp do thành phố, tỉnh và Sở Thương mại tổ chức.
2. Những tồn tại:
Bên cạnh các thành tựu đạt được, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty còn những tồn tại sau:
- Công ty chưa thiết lập được kế hoạch kinh doanh dài hạn, chưa có phương hướng cụ thể đối phó với sự biến động thất thường của thị trường có thể xảy ra. Hoạt động xuất khẩu của Công ty có tăng về kim ngạch nhưng nhìn chung phương thức kinh doanh còn mang tính "phi vụ", "chộp giựt" là chính. Hàng xuất khẩu của Công ty còn manh mún, nhỏ lẻ.
- Chất lượng hàng của Công ty chưa ổn định, tỉ trọng hàng thô vẫn còn chiếm khá lớn.
- Thị trường hàng tiêu thụ của Công ty tuy có được mở rộng song vẫn chưa ổn định. Một số bạn hàng chưa đủ tin cậy để tiến hành làm ăn lớn. Đa số các bạn hàng của Công ty chỉ tiêu thụ theo kiểu mùa vụ.
- Trong hoạt động tạo nguồn hàng, Công ty chưa thiết lập được mối quan hệ với các cơ sở, đơn vị sản xuất kinh doanh. Thu mua hàng của Công ty phần nhiều còn theo kiểu gom hàng từng hộ gia đình, từng cơ sở nhỏ lẻ khi khách hàng có nhu cầu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, Công ty bị động về nguồn hàng hoặc việc tạo hàng không đảm bảo chất lượng.
- Từ trước đến nay, Công ty chưa được đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, Công ty còn phải đi thuê đất, nhà xưởng, kho bãi với giá cả ngày càng tăng thêm nên làm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh.
- Công ty chuyên mua bán kinh doanh xuất nhập khẩu, chưa có cơ sở sản xuất, thu mua, chế biến nên nhiều lúc bị động về nguồn hàng chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, giá cả lên xuống thất thường cũng gặp không ít khó khăn trong việc tính toán kinh doanh.
- Do thiếu vốn, Công ty phải tự cân đối, giữ uy tín với ngân hàng, có vay có trả đầy đủ, sòng phẳng nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn, bị động.
- Trình độ cán bộ, công nhân viên có nghiệp vụ ngoại thương ít, hầu hết trái ngành nghề nên chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường cạnh tranh sôi động hiện nay.
3. Nguyên nhân:
Công ty chưa có bộ phận chuyên trách về marketing riêng biệt mà chỉ ở mức độ tư pháp, chưa đi sâu.
Cơ cấu tổ chức mới đã làm cho cán bộ công nhân viên bị động, chưa thích ứng được với cơ cấu tổ chức, công việc mới đã làm giảm chất lượng của công việc.
Do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Hiện nay trên địa bàn Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu có rất nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu dẫn tới tình trạng phá giá, ép giá ... gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của Công ty.
Công ty chưa có văn phòng đại diện ở nước ngoài, do đó Công ty gặp khó khăn trong việc giao dịch,tiếp xúc, chào hàng với các bạn hàng nước ngoài.
PHẦN III
CÁC BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU.
1.Chính sách xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (cuối 1991) đã khẳn g định "Đa phương hóa quan hệ đối ngoại", "đa dạng hóa hoạt động kinh tế đối ngoại" lấy "Hiệu quả kinh tế đối ngoại" là mục tiêu, là động lực trực tiếp, phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa VIII) đã đề ra một Nghị quyết riêng về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, tạo điều kiện cho đất nước tiếp tục phát triển. Trong bối cảnh này, Trung ương đánh giá vừa là "thời cơ" vừa là "nguy cơ" cho đất nước.
Năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 114/HĐBT ngày 07/4/1992 về quản lý Nhà nước đối với xuất nhập khẩu, đó là một bước sửa đổi các chính sách văn bản trong quản lý xuất nhập khẩu. Ngày 19/4/1994, Thủ tướng Chính Phủ ban hành Nghị định 33/CP về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngày 13/1/1997, Thủ tướng Chính Phủ ra Quyết định số 28/TTg về chính sách mặt hàng và điều hành công tác xuất nhập khẩu.
2. Hệ thống quan điểm cơ bản đổi mới chính sách ngoại thương , đẩy mạnh xuất khẩu ở nước ta.
2.1- Đẩy mạnh xuất khẩu, bao gồm xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về nhập khẩu, về ngoại tệ cần thiết cho kinh tế quốc dân.Thông qua nhập khẩu tranh thủ thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước , đổi mới cơ cấu kinh tế góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng cường khoa học và kỹ thuật của đất nước.
2.2- Phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hàng hoá xuất khẩu, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, góp phần cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế.
2.3- Khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu và nhữnh sản phẩm thay hàng nhập khẩu thiết yếu mà sản xuất trong nước có hiêụ quả hơn nhập khẩu.
2.4- Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, thị trường nhập khẩu phù hợp với cơ chế thị trường trên cơ sở gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa Việt Nam và nước ngoài.
2.5- Mở rộng quyền hoạt động ngoại thương cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đi đôi với sự quản lý thống nhất của Nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương bằng luật pháp và các đòn bẩy kinh tế.
2.6- Xoá bỏ bao cấp và bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu , nhập khẩu kinh doanh phải có hiệu quả (bao gồm hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế- xã hội đồng thời phải thực hiện trách nhiệm xã hội do pháp luật quy định. Khi phục vụ lợi ích chung, trong trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu bị thua thiệt, Nhà nước có chính sách hỗ trợ thích đáng.
Chính sách ngoại thương đã và đang hình thành ở nước ta hoàn toàn xuất phát từ đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Nhà nước Việt Nam, đồng thời có tính đến xu hướng phát triển của thị trường thế giới, khả năng phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/CP cho phép các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu không phải xin giấy phép xuất nhập khẩu khi tham gia các hoạt động xuất khẩu,các doanh nghiệp chỉ cần khai báo mã số hải quan với các cơ quan hải quan. Ngoài ra, Nghị định còn mở rộng thêm các đối tượng tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, bao gồm các cá nhân và các pháp nhân có đăng ký kinh doanh đều được tham gia xuất khẩu các loại hàng hoá nằm trong danh sách các hàng hoá được Nhà nước cho phép xuất khẩu.
3. Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu.
a). Chính sách gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào mục đích khai thác và sản xuất hàng nhập khẩu.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia. Trong những năm trước mắt , khi mà nguồn vốn tích luỹ nội bộ còn hạn hẹp, thì đầu tư trực tiếp chiếm vị trí quan trọng, nó góp phần cải biến dần cơ cấu kinh tế quốc dân. Thông qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chúng ta sẽ tranh thủ vốn , kỹ thuật và công nghệ mới, mở rộng thị trường nước ngoài , tiếp thu các kinh nghiệm tiên tiến, trên cơ sở đó xây dựng những cơ sở kinh tế mới, hiện đại hoá một số cơ sở hiện có nhằm tạo điều kiện việc làm cho người lao động khai thác một phần những tiềm năng sẵn có của đất nước để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng giao lưu với thế giới bên ngoài, góp phần tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thực tế đã chỉ rằng, bất cứ sự hợp tác nào cũng chỉ có thể hình thành và phát triển vững chắc và lâu dài, nếu như lợi ích của các bên liên quan đều được đảm bảo.
Xuất phát từ những quan niệm nói trên, Nhà nước ta cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống Luật (trong đó có Luật đầu tư nước ngoài) nhằm tạo ra những điều kiện, môi trường đầu tư thuận lợi cho các bạn hàng quốc tế tham gia đầu tư, liên doanh liên kết. Đồng thời, họ có thể thực hiện một cách thuận tiện việc chuyển lợi nhuận, chuyển vốn về nước, được tham gia vào quản lý xí nghiệp, được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện sản xuất đưa vào Việt Nam dưới hình thức góp vốn, có ưu đãi nhất định về tài chính ...
b) Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các nhà sản xuất hàng xuất khẩu trong lĩnh vực thuế như.
- Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu.
- Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất khâủ được giảm thuế lợi tức.
- Các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị , vật tư tiêu dùng cho hàng gia công. Tiền gia công hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu.
- Vật tư nhập khẩu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn thuế nhập khẩu đã nộp.
c) Tăng cường sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái tiền tệ trong việc định hướng vĩ mô cho xuất-nhập khẩu. Không nên để tỷ giá đồng Việt Nam và đồng tiền nước ngoài chênh lệch quá xa so với tỷ giá trên thị trường.
Không nên thi hành chính sách tỷ giá thả nổi do thị trường tự do ấn định. Nhà nước cần tìm cách ổn định tỷ giá hối đoái, coi nó như là một công cụ, chính sách.
d) Nhà nước cần trực tiếp tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tham gia các hoạt động xuất khẩu.
Cụ thể là cần đơn giản hoá các điều kiện đối với các doanh nghiệp trong việc xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.Họ được ưu tiên cấp giấy phép ra nước ngoài để tiếp cận thị trường thế giới, tìm hiểu nhu cầu hoặc giới thiệu, quảng cáo mẫu mã hàng hoá. Nhà nước không nên quan niệm "Nhà nước độc quyền ngoại thương" như đã từng có trong nhiều thập niên trước đây, bằng luật pháp, chính sách cơ chế Nhà nước vẫn có thể quản lý chặt chẽ hoạt động ngoại thương mà không cần giữ độc quyền.
e) Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội , vừa là điều kiện , vừa là giải pháp không thể thiếu được của việc khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu ở nước ta hiện nay.
Thực trạng của kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội ở nước ta còn rất thấp kém. Do vậy, nếu thiếu hoặc đầu tư không tương xứng thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường, đến khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế. Trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn có hạn, cần phải sử dụng tổng hợp sức mạnh trong nước và quốc tế thông qua nhiều hình thức liên doanh liên kết khác nhau để nâng cấp, mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và phục vụ các nhu cầu khác của dân cư và thay đổi bộ mặt đất nước.
II. CÁC PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY DONIMEX.
1. Phương hướng phát triển hoạt động xuất khẩu ở Công ty trong thời gian tới.
Trên cơ sở những kết quả hoạt động kinh doanh đã đạt được trong những năm qua.Xuất phát từ thực trạng tổ chức của Công ty cũng như bối cảnh chung của đất nước và thế giới.
Căn cứ vào Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiêp Nhà nước thành Công ty cổ phần.
Căn cứ Thông tư 50-TC/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ Tài chính về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần theo Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 của Chính phủ.
Công ty Xuất nhập khẩu Đồng Nai đang chủ trương tiến hành chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần. Đây là chủ trương lớn phù hợp với tình hình chung của xã hội và cũng phù hợp với mục tiêu đổi mới và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Chuyển sang hình thức Công ty cổ phần hóa, ngoài chức năng kinh doanh xuất khẩu tổng hợp, Công ty sẽ mở rộng thêm lĩnh vực kinh doanh xây dựng dân dụng, công nghiệp địa ốc và tổ chức các cơ sở gia công chế biến hàng xuất khẩu.
Mục tiêu về hoạt động kinh doanh của Công ty trong ba năm 1999, 2000, 2001 được thể hiện bằng các chỉ tiêu cho ở bảng sau:
Bảng 16 : Chỉ tiêu kinh tế 1999 - 2002
Chỉ tiêu năm
Đơn vị tính
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Vốn điều lệ
Tr.đồng
14.160
14.160
14.160
14.160
2. Doanh thu
Tỷ đồng
576,834
590,241
610,769
650,372
3. Tổng chi phí
Tỷ đồng
572,226
594,804
604,696
643,993
4. Lợi nhuận trước thuế
Tỷ đồng
4,609
5,437
6,073
6,379
5. Lợi nhuận sau thuế
Tỷ đồng
2,129638
2,371426
2,542627
2,719324
6. Nộp ngân sách Nhà nước
Tỷ đồng
13,194531
14,728936
16,021579
17,452369
7.Tỷ suất lợi nhuận/vốn điều lệ
%
32,54
38,397
42,888
45,05
Để đạt được những mục tiêu nói trên, Công ty DONIMEX tiếp tục định hướng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các năm qua, khắc phục những khó khăn còn tồn tại. Nhằm đạt được những hiệu quả xuất khẩu cao, Công ty xác định phương hướng phát triển xuất khẩu sau:
* Củng cố và phát triển thị trường tiêu thụ. Tăng cường các mối quan hệ hợp tác cùng với bạn hàng, tạo lập uy tín trong kinh doanh xuất khẩu.
* Nâng cao hiệu quả nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng danh mục mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả kinh tế. Cải biến cơ cấu hàng hóa theo hướng tiên tiến.
* Nâng cao hiệu quả của các hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu đặc biệt là nghiệp vụ giao dịch và đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng.
Mục tiêu xuất khẩu năm 2000 phải đạt được chỉ tiêu kế hoạch sau:
- Doanh số bán: 41,6837 triệu USD
- Giá vốn hàng bán: 41,2997 triệu USD.
- Lãi gộp: 0,384 triệu USD.
2. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Công ty trong thời gian tới.
2.1. Hoạt động thị trường:
Theo như điều kiện kinh doanh và mặt hàng của Công ty, trong những năm trước mắt Công ty cần tập trung khai thác các thị trường sau:
- Thị trường ASEAN và Đông Bắc Á. Đây là thị trường rộng lớn có nhiều tiềm năng xuất khẩu. Công ty đã có mối quan hệ lâu dài với các bạn hàng ở nước này. Trong những năm tới, ảnh hưỏng của cuộc khủng hoảng kinh tế nên các bạn có thể gặp nhiều khó khăn, vì vậy phương châm kinh doanh là tiếp tục củng cố và duy trì các mối quan hệ truyền thống này.
- Thị trường Trung Quốc. Đây là thị trường gần gũi của Công ty. Tuy vậy kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này chưa lớn và cũng chưa ổn định, giá cả ở thị trường này biến động thất thường, phương thức giao dịch và thực hiện hợp đồng rất đa dạng, uy tín các bạn hàng không được đảm bảo. Vì thế, phương châm kinh doanh ở thị trường này nên thực hiện theo kiểu cuốn gói, trong đó vấn đề đảm bảo an toàn thanh toán cho Công ty phải được xem xét thật thận trọng.
- Thị trường EU. Đây là thị trường mạnh, dân số đông, sức tiêu thụ lớn. Nhìn chung quan điểm của thị trường này khá cởi mở, thông thoáng. Trong những năm qua quan hệ giữa Công ty và thị trường này đã có những bước tiến tích cực. Mặt khác, do cuộc khủng hoảng kinh tế đã nổ ra ở Châu Á nên Công ty cần tìm cách chuyển hướng sang khai thác thị trường này. Vấn đề quan trọng nhất ở thị trường này là Công ty phải đảm bảo được uy tín về chất lượng, hàng hóa, các yêu cầu về kỹ thuật.
- Thị trường Mỹ: Sức tiêu thụ của thị trường Mỹ rất lớn và rất phong phú. Gần đây Công ty đã xâm nhập một phần vào thị trường này. Trong những năm tới, để phát triển thị trường này Công ty cần xúc tiến mạnh việc giới thiệu sản phẩm thông qua các hình thức khác nhau. Công ty nên cử người trực tiếp đến thị trường này tìm hiểu để có các phương án kinh doanh phù hợp.
2.2. Nâng cao hiệu quả công tác thu mua, tạo nguồn hàng.
Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của hoạt động xuất khẩu là công tác tạo nguồn hàng. Việc tạo nguồn hàng tốt với chất lượng cao, giá rẻ, điều kiện giao hàng nhanh sẽ cho phép Công ty thực hiện hợp đồng xuất khẩu thuận tiện, đảm bảo uy tín đối với khách hàng.
Trong thu mua hàng hóa, vấn đề lựa chọn nguồn hàng đối với Công ty được coi trọng nhất, bởi vì qua đây nó đáp ứng được những yêu cầu về hàng hóa, cách thức mua của Công ty. Để lựa chọn nguồn hàng phù hợp, Công ty cần căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của mình, tình hình thị trường, yêu cầu của hách hàng.
Trong những năm tới, Công ty chủ yếu khai thác ba nguồn hàng chính:
- Nguồn hàng thu mua qua các đại lý.
- Nguồn hàng ở các Công ty, cơ sở xuất chế biến.
- Nguồn hàng liên doanh liên kết.
Nguồn hàng thu mua qua các đại lý có đặc điểm cơ động, phù hợp với việc thực hiện hợp đồng với lô hàng nhỏ. Nguồn hàng này thường được đảm bảo về số lượng, thời hạn giao hàng, giá cả tương đối rẻ. Tuy nhiên, chất lượng hàng hóa thường biến động thất thường.
Nguồn hàng ở các Công ty, cơ sở sản xuất, chế biến có đặc điềmla đảm bảo cả về số lượng, chất lượng. Tuy nhiên giá cả thị trường cao hơn các nguồn hàng đại lý và việc ký kết hợp đồng mua hàng thường gắn với nhiều điều kiện do phía nguồn hàng đưa ra vì thế nó chỉ phù hợp với những hợp đồng có khối lượng lớn, thời hạn giao hàng dài.
Nguồn hàng liên doanh, liên kết có nhiều thuận lợi hơn cả. Do Công ty chủ động đầu tư nên nó vừa đảm bảo cả khối lượng, chất lượng, bao bì, mẫu mã lẫn giá cả, thời hạn giao hàng.
Nhằm tạo điều kiện cho Công ty chủ động có được các nguồn hàng đảm bảo về số lượng, chất lượng mẫu mã, tăng cường khai thác các nguồn hàng có tỷ lệ chế biến cao, hạ thấp hàng chế biến thô, Công ty cần có chính sách đầu tư liên doanh, liên kết với các đơn vị, cơ sở sản xuất chế biến một cách thỏa đáng.
Để nâng cao công tác tạo nguồn hàng, Công ty cần chú trọng mấy vấn đề sau:
- Lựa chọn các nguồn hàng hợp lý, có khả năng về tài chính và năng lực Sản xuất, đảm bảo uy tín thực hiện đầy đủ hợp đồng mua hàng đã được ký kết.
- Thiết lập mạng lưới thu mua hàng cơ động, thuận tiện. Bố trí các kho hàng hợp lý.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác thu mua, đặc biệt cần bổ sung thêm các phương tiện vận chuyển, các thiết bị nhà kho, thiết bị kiểm nghiệm hàng hóa.
- Nâng cao hiệu quả công tác kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa. Muốn vậy cần nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ thu mua, nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho người mua hoàn thành tốt nhiệm vụ.
2.4. Về tổ chức bộ máy kinh doanh:
* Hiện tại, Công ty có 55 cán bộ trong đó chỉ có 30 cán bộ có trình độ đại học. Như vậy đa số cán bộ khác đều chưa có bằng cấp hay bằng cấp thấp. Để làm ăn có hiệu quả với khách hàng nước ngoài, Công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi bởi con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động xuất nhập khẩu. Yêu cầu đối với cán bộ là phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc tư duy tốt, linh hoạt, phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, đọc thông viết thạo và hiểu rõ được những nội dung của thư chào hàng, thư hỏi giá, nội dung hợp đồng, làm hợp đồng, thư chào hàng ... Để nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, Công ty phải có kế hoạch đào tạo lại cán bộ thông qua các hình thức:
- Gửi cán bộ đi học ở các trung tâm đào tạo.
- Mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày.
- Tạo điều kiện cho cán bộ đi tham quan ở nước ngoài.
Nhằm nâng cao chất lượng của quá trình hạch toán, Công ty thường xuyên đôn đốc, kiểm tra công việc này ở từng bộ phận có trách nhiệm, đồng thời bố trí hợp lý những người có trình độ chuyên môn thực hiện ghi chép đầy đủ, chính xác các nghiệp vụ, báo cáo kịp thời những thay đổi bất thường lên Ban Giám đốc hoặc trưởng phòng kinh doanh để đưa ra các phương án đối phó kịp thời.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC NHẰM KHAI THÁC NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY.
1. Công tác đàm phán, giao dịch và ký kết hợp đồng:
Công tác này rất quan trọng nên cán bộ thực hiện đòi hỏi phải có trình độ nghịệp vụ giỏi, nhất là yêu cầu về ngoại ngữ. Trước khi đàm phán, Công ty phải chuẩn bị đầy đủ các chi tiết có liên quan đến hợp đồng để trả lời những câu hỏi của khách hàng một cách rõ ràng. Mặt khác, phải hiểu rõ về khách hàng để tranh thủ những mặt yếu của họ, từ đó đề ra những quyết định đúng đắn và thích hợp. Trong quá trình ký kết hợp đồng còn quy định nhiều loại chứng từ kèm theo, các loại chứng từ này thường là kết quả xác nhận các bước thực hiện của hợp đồng nên rất có ý nghĩa trong việc thanh toán, giải quyết các loại tranh chấp, khiếu nại ... Công ty phải thận trọng đối với từng loại chứng từ, trong ghi chép yêu cầu phải rõ ràng, không tẩy xóa.
Trong quá trình ký kết các hợp đồng xuất khẩu của Công ty, điều kiện giao hàng thường áp dụng hình thức FOB, tức là hàng giao tại cảng Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh , xuất khẩu theo hình thức này tránh cho người bán khỏi những rủi ro về hàng hóa không được đảm bảo trong khi vận chuyển. Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế như : Công ty không chủ động, giá xuất bán hàng không cao nếu không muốn nói là thấp. Công ty không tham gia vào được các tổ chức bảo hiểm quốc tế nên lợi nhuận thu dược thấp. Thời gian tới Công ty xem xét xuất theo hai hình thức : Với khách hàng ở thị trường xa như ở Châu Âu, Châu Mỹ thì cần tiếp tục xuất theo hình thức FOB. Còn đối với các bạn hàng ở thị trường gần trong khu vực Châu Á thì công ty nên xuất theo điều kiện CIF .
Ngoài ra trong nội dung hợp đồng, Công ty cần chọn phương pháp thanh toán an toàn nhất, đảm bảo cho công ty thu về đủ số Tiền đúng thời hạn. Tốt nhất là lựa chọn hình thức L/C không thể hủy ngang có xác nhận bảo lãnh của Ngân hàng Trung ương .
Bên cạnh đó, Công ty xem xét các hình thức thuê tàu và cước phí vận chuyển nếu xuất theo CIF, thời gian giao hàng ... Cần dự đoán trước những nhu cầu thị trường và xác định chính xác thời điểm ký hợp đồng có lợi nhất, chẳng hạn như khi mặt hàng có giá quốc tế lên cao hoặc tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt nam và ngoại tệ tăng thì nên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu .
Các điều kiện của hợp đồng nên quy định ngắn gọn, chặt chẽ và dễ hiểu.
2. Một số vấn đề trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu .
* Khâu chuẩn bị hàng hóa cần được thực hiện chu đáo và nhanh chóng hơn. Công ty cần biết chính xác ngày giao hàng ra cảng và ngày tàu vào nhận hàng để bến có hàng kịp thời .
* Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện vận tải, đội ngũ cán bộ vận chuyển để thực hiện chuyển hàng hóa từ kho ra cảng một cách kịp thời.
* Thực hiện phân loại rủi ro thị trường, bạn hàng ... để thực hiện mua các loại bảo hiểm phù hợp theo qui đinh như trong hợp đồng .
* Luôn luôn rà soát lại các nghiệp vụ xuất khẩu, phát hiện và có biện pháp sửa chữa kịp thời những sai sót có thể xảy ra .
* Chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ cần thiết để tạo điều kiện làm nhanh thủ tục hải quan. Thực hiện bóc hàng lên tàu an toàn, kịp thời, lấy đầy đủ các chứng từ như trong L/C quy định .
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhất thiết phải tạo điều kiện cho phía bạn hàng nhận hàng thuận tiện, an toàn, đúng như hợp đồng ký kết. Việc đảm bảo uy tín với khách hàng là vấn đề then chốt của quá trình xuất khẩu nhằm duy trì và thúc đẩy các mối quan hệ kinh doanh lâu dài .
KẾT LUẬN
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong cơ chế thị trường diễn ra hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Trong khi đó, môi trường kinh doanh lại luôn luôn biến động và có nhiều bất cập. Chính vì vậy, kinh doanh xuất khẩu đòi hỏi nhà thương mại phải luôn tìm tòi, đổi mới và sáng tạo để đạt được cái đích là lợi nhuận.
Trước những đòi hỏi của xu thế thương mại hoá toàn cầu và trước mắt là việc ra nhập vào tổ chức AFTA, các chính sách thương mại càng trở nên quan trọng và bức thiết. Do những đòi hỏi đó thì việc nghiên cứu những đề tài về chính sách thương mại nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt nam là vấn đề cần phải làm ngay từ lúc này để sẵn sàng trước việc ra nhập vào tổ chức AFTA của Việt Nam.
Qua quá trình thực tập tại Công ty DONIMEX, xuất phát từ bối cảnh trong và ngoài Công ty, tác giả đã trình bày hoạt động xuất khẩu của công ty từ những cái chung nhất và nổi bật nhất, đồng thời cố gắng tiếp cận tính tối đa toàn diện. Những nội dung đã được đề tài làm rõ bao gồm :
1-Các hoạt động nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty
2-Đánh giá kết quả xuất khẩu ở Công ty
3-Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở Công ty DONIMEX.
Trong quá trình nghiên cứu và viết đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của thầy giáo PGS - TS. Nguyễn Duy Bột và các cán bộ, Phòng Ban trong Công ty DONIMEX, đặc biệt là giám đốc Công ty DONIMEX Nguyễn Hữu Nghĩa và chị Phạm Thị Tố Nga Trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Xin chân thành cảm ơn!
Biên Hòa, tháng 7 năm 2000
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Kinh tế thương mại dịch vụ”-NXB Thống Kê, Hà Nội 1997.
2. “Giáo trình thương mại quốc tế”PGS.TS Nguyễn Duy Bột NXB Thống Kê, Hà Nội 1996.
3.”Tình hình kinh tế xã hội năm 1997”-Tổng Cục Thống Kê, Số 38/TCTK-TH.
4. “Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thương mại 1997”-Bộ TMại.
5.”Báo cáo tình hình hoạt động xuất nhập khẩu năm 1998 của thành phố Hà Nội”-Sở TMại Hà Nội, tháng 2/1998.
6.Vũ Phạm Quyết Thắng “Kinh tế đối ngoại Việt Nam -nội dung-giải pháp –hiệu quả” NXB Thống Kê 1994.
7.G.A Schomll” Cẩm nang nghiệp vụ quản lý xuất nhập khẩu”- Trung tâm thương mại Việt Nam 1990.
8. Các tài liệu báo chí có liên quan.
9. Nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu -Trường Đại học ngoại thương.
10. Tạp chí thương mại số ra năm 1998,1999, 2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Các hoạt động nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty DONIMEX.doc